Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014
Đi tìm đường bay ưu việt của thi ca
Qua những nguồn tài liệu sưu
tập tham khảo từ những quyển sách Thi Nhân Việt Nam của Hoài Chân Hoài
Thanh_Thi Ca Việt Nam Hiện Đại của Trần Tuấn Kiệt-Tổng Quan Văn Học Miền Nam
của nhà văn Võ Phiến-Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến do Trần Hoài Thư chủ
trương...Những bài viết của các nhà văn, nhà thơ, trên các tạp chí Văn học
trong nước và hải ngoại. Tác Giả Việt Nam, sưu tập của Luân Hoán. Chúng ta chỉ
tính từ thời điểm khi bài thơ Tình Già của Phan Khôi được xem như một tuyên
ngôn khai sinh thơ mới hiện đại Việt Nam xuất hiện đầu tiên trên Phụ Nữ Tân Văn
Số 132 vào ngày 10 tháng 3 năm 1932_Saigon.
Trong khoảng thời gian gần nửa thế kỷ nếu tính từ năm 1932 đến năm 1975 căn cứ
theo những nguồn tài liệu nêu trên chúng ta có thể ước tính số lượng thi sỹ có
những bài thơ được tuyển chọn lên đến vài trăm người được đánh giá "trăm
hoa đua nở" vì thế với thời lượng quy định của ban tổ chức yêu cầu quả
thật khó khăn để chọn một số bài thơ hay của ba miền đất nước thân yêu. Tuy
nhiên, chúng tôi sẽ cố gắng nêu lên vài nhà thơ tiêu biểu qua hai điều kiện đã
được đãi lọc thử thách qua thời gian cũng như sự thẩm định yêu thích của đa số
quần chúng một cách khách quan và tương đối. Trước khi bước vào sự việc thẩm
định thế nào là một bài thơ hay? Và địa vị của thơ trong Văn Học Việt Nam.
Chúng tôi xin đan cử một vài kinh nghiệm về thơ của nhà giáo Nguyễn Sỹ Tế: "Thơ
là một ngành nghệ thuật ngôn ngữ khó khăn vào bậc nhất. Thơ dễ vào mà khó ra.
Làm thơ thật là dễ, nhưng làm thơ cho hay lại là thật khó. Thơ là một siêu nghệ
thuật về ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một cái thiên tài sáng tạo của một dân tộc. Ngôn
ngữ của thi ca là một thứ ngôn ngữ siêu đẳng xôn xao âm hưởng và ấm áp sâu đậm
sắc màu. Nắm được con ngựa thần bất kham chúng ta đã có điều kiện căn bản để
trở thành một bài thơ hay rồi vậy!".
Trong tiến trình văn học Việt Nam chưa bao giờ dân tộc lại sản sinh ra nhiều
nhà thơ như trong thời điểm vài ba thập niên vừa qua cũng như hiện nay từ trong
nước đến hải ngoại. Chúng ta bị ảnh hưởng sâu xa về phát biểu của Ngô Thời
Nhậm: "Việt Nam đáng hãnh diện là một nước thơ. Và mỗi
người Việt nam là một thi sĩ...". Chỉ có thể đúng một phần qua
nhận định ở lớp bình dân sáng tạo những giòng văn học mang tính nhân gian trong
sinh hoạt của đời sống thường nhật. Hay vì tâm lý muốn được người đời gọi mình
là thi sỹ. Chính từ những tư duy thiếu khiêm tốn nên rất khó đồng thuận hợp nhất
tiêu chuẩn đi tìm đường bay tuyệt đỉnh của thi ca. Trong cuốn Thi Nhân Việt Nam
của Hoài Chân_Hoài Thanh cũng chưa phải là một nhà phê bình hoàn hảo đáng tin
cậy mặc dù hai ông được giới trí thức đánh giá nhiều ưu điểm giới thiệu trên 40
nhà thơ với mấy trăm bài thơ đính kèm. Tuy nhiên Hoài Chân_Hoài Thanh vẫn không
thoát ra những thành kiến khắt khe đối với thi sĩ Đinh Hùng, Nguyễn Bính, Vũ
Hân, một số nhà thơ khác và nhóm Xuân Thu Nhã Tập....mặc dù cho đến nay đã hơn
nửa thế kỷ qua ở hải ngoại vẫn có nhiều người còn thuộc thơ Nguyễn Bính yêu thơ
Đinh Hùng...Từ suy nghiệm này chúng tôi đề cập đến trường hợp vua Tự Đức sáng
tác rất nhiều thi phẩm nhưng chỉ được nhân gian nhắc đến bài thơ "Khóc
Bằng Phi" với hai câu cuối cùng: "Đập cổ kính ra tìm lấy bóng/Xếp
tàn y lại để dành hơi...".
Quá tuyệt vời và tôn vinh ông là một nhà thơ lẫy lừng trong thi đàn Việt
Nam. Một trường hợp điển hình khác chúng tôi muốn đan cử đến bài thơ "Cáo
Tật Thị Chúng" của thiền sư Mãn Giác với hai câu cuối bài:
"Mạc vị xuân tàn hoa
lạc tận/Đình tiền tạc dạ nhất chi mai/... Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết.../Đêm
qua sân trước một cành mai..."
Hai câu cuối đã vượt trội xuất sắc, mang tư tưởng nhân sinh quan hiện thực,
tăng giá trị bài thơ và được thẩm định là một bài thơ hay vượt qua thời gian.
Cũng như trường hợp chỉ mấy câu thơ của dũng tướng Lý Thường Kiệt trước quân
nhà Tống phương Bắc cũng đủ nói lên ý chí của người quân tử nước Nam:"Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư/Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư/Như Hà nghịch lỗ lai xâm phạm/Nhử đẳng hành khan
thủ bại hư....Sông Núi nước Nam vua Nam ở/Rành rành định phận tại sách Trời/Cớ
sao lũ giặc sang xâm phạm/Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.." đã trở thành một bài thơ tuyệt tác lưu
truyền cả ngàn năm trong lịch sử. Những nhà phê bình thi ca chưa hẳn có một
thần trí siêu việt dễ thấu triệt những ẩn ý sâu xa bài thơ của mỗi thi sĩ như
sự nhạy cảm tuyệt vời giữa Bá Nha với Chung Tử Kỳ nên đôi khi cảm nhận bài thơ
có thể lạc hướng về cái nhìn chủ quan. Qua tài liệu của Hoàng Duy Từ
"Đường Thi Tuyển Dịch" chúng tôi khám phá câu chuyện lý thú về thi
ca. Nhân vật tiêu biểu đại thi hào Tô Đông Pha đã dám cậy tài làm thơ sửa thơ
Tể Tướng Vương An Thạch cũng là một nhà thơ lừng lẫy vào đời nhà Tống bên Trung
Hoa. Có một ngày đẹp trời Tô Đông Pha ghé đến thư phòng của Vương An Thạch nhìn
lên vách thấy có hai câu thơ:
"Minh Nguyệt sơn đầu
khiếu/Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm"
Tô Đông Pha chê là vô lý bởi vì:
"Trăng sáng sao lại
hót ở đầu núi?/Chó vàng sao lại nằm giữa lòng hoa?"
nên lấy bút sửa lại:
"Minh nguyệt sơn đầu
chiếu/Hoàng khuyển ngọa hoa âm"
với ý nghĩa: "Trăng chiếu ở đầu núi"/
"Chó vàng nằm dưới hoa".
Sửa xong Tô Đông Pha cảm thấy đắc ý và cảm nghĩ cho dù Vương An Thạch tuy là tể
tướng nhưng chưa chắc tài làm thơ hơn mình. Sau đó một thời gian Tô Đông Pha có
tội với triều đình nên bị đày ải đến nơi rừng thiêng nước độc. Một hôm vào mùa
xuân dạo trong rừng nghe tiếng chim hót rất hay mới hỏi dân địa phương cho biết
"Tiếng chim hót hay đó có tên là Minh Nguyệt và loài sâu chuyên tìm ăn
ngụy hoa có tên là Hoàng Khuyển..." Tô Đông Pha giật mình tỉnh ngộ và ân
hận về sự thiếu hiểu biết và sự ngạo mạn lố bịch của mình.
Xuyên qua sự kiện vừa dẫn chứng chúng ta nên suy ngẫm về sự thẩm định đánh giá
một bài thơ hay có tính cách chủ quan không hiểu sâu nghĩa lý là một sự lầm lỡ
đáng tiếc.
TIÊU CHUẨN VỀ MỘT BÀI THƠ HAY
Bởi vậy, chúng ta rất khó phân biệt để cùng đồng ý MỘT BÀI THƠ NHƯ THẾ NÀO CHO
LÀ HAY và MỨC ĐỘ HAY CỦA MỘT BÀI THƠ? Chúng tôi xin trích dẫn qua một số nhà
thơ, phát biểu chân thật về nguyên nhân sáng tạo nên những tác phẩm thi ca của
họ. Đó cũng là ý niệm tốt để giúp cho chúng ta thẩm định giá trị một bài thơ
hay.
1. Nhà thơ Nguyên Sa
...Làm thơ, với tôi, bao giờ cũng cần có cảm hứng, có cảm hứng mới làm được bài
thơ đắc ý, không có cảm hứng thì chịu thua. Cảm hứng đưa tôi vào thơ, thời gian
này, cũng như hơn bốn thập niên, luôn luôn đến từ sự xúc động chân thực. Có
rung động thực và rung động giả, cho nên có cảm hứng thực vả cảm hứng giả. Lúc
hai mươi tuổi, đam mê tình ái mang thơ lại cho tôi. Tôi nghĩ thơ tình thời học
trò mà tôi nói chuyện suy tư về hữu thể và hư vô là xúc động giả, sâu xa giả,
thơ làm dáng không phải thơ. Khi tuổi già đã tới, không còn đam mê tình ái,
cánh cửa của tuổi đời sắp khép lại. Những xúc động của những ngày tháng đối
diện với sự thật của kiếp người, một cuộc tình hồi tưởng lại, một cuộc tình mơ
ước, giọt sương mai mong manh, cơn mưa đến muộn, buổi hoàng hôi,
người bạn thâm niên ...là nguồn cảm hứng thật hôm nay của tôi.
2. Nhà thơ Đỗ Quý Toàn
Nếu phải xếp hạng thứ thơ nào tôi thích hơn, thì tôi sẽ xếp theo thứ tự như
sau:
1/Thơ hay tự nhiên là thứ nhất
2/Thơ hay và khéo cũng tốt
3/Thơ hay mà không khéo thì dễ thương
4/Thơ khéo không thôi thì hơi thường
5/Thơ khéo mà không hay xin miễn
Nói xếp hạng cho vui, chứ mỗi người sẽ nhận diện cái khéo và cái hay một cách
khác nhau. Có những câu thơ nghe rất tự nhiên nhưng chỉ người làm thơ mới biết
đã mất bao lần gọt giũa mới thành. Độc giả không cùng một kinh nghiệm thẩm mỹ,
không được đào luyện trong các lò ngôn ngữ như nhau, thì cách thưởng thức sẽ
khác nhau. Có những lời tự nhiên thanh thoát ở đời này, sang đời khác lại có vẻ
cầu kỳ, không thích hợp.
Tôi đề nghị chúng ta nên đọc thơ như thể mình đang sáng tạo. Vừa đọc vừa mở ra
một thế giới, trong đó lời và cảm thọ do lời gây ra được tự do phát triển. Ta
đọc lại như đọc lần đầu, khám phá bài thơ một lần nữa để tìm cảm xúc mới.
Thơ hay chính là thơ mới. Theo tôi nghĩ nên làm mới thi ca, nhưng làm mới như
thế nào, ra sao thì tôi đang dọ dẫm thí nghiệm, chưa đạt được kết quả nào. Điều
cần thiết là phải làm cách nào để cho cái mới đó có hồn, có vía đàng hoàng, phổ
biến được đón nhận rộng rãi. Tuy nhiên kỹ thuật và hình thức là những điểm tất
yếu phải có của một bài thơ. Nhưng nếu chú trọng quá đáng, có lẽ loãng bớt nội
dung, đó là chưa kể nếu quá màu mè, bài thơ lại dễ biến ra một họa phẩm siêu
thực...
4. Nhà thơ Tô Thùy Yên
Đối với tôi thực sự làm thơ không khó, làm thơ hay mới là chuyện khó, rất khó.
Khó đến độ nhiều khi từ cái ý muốn khởi đầu cho đến khi hoàn tất bài thơ, không
tưởng tượng mình có thể đạt tới được ngoài trí lực của mình. Nói chung làm bất
cứ việc gì trong bất cứ lĩnh vực nào mà làm cho tốt làm cho hay thật là khó,
rất khó, chớ làm lơ mơ, bất kể, được chăng hay chớ thì ai làm chẳng được. Một
bài thơ có hồn mới chuyển đạt xúc cảm đến người khác...
5. Nhà thơ Yên Thao
Tác giả bài thơ "Nhà Tôi" nổi tiếng.
Hiện nay rất nhiều người làm thơ nhưng thơ hay thì hiếm. Thơ tình yêu lạm phát.
Không nên nghĩ tình yêu là tất cả của thơ và thơ chỉ viết về tình yêu lứa đôi.
Thơ là tinh hoa của tiếng nói, tiếc có những bài thơ từ ngữ quá trần truồng,
thô kệch, song lại được các báo chí đăng tải như một cái gì mới mẻ, dám nghĩ
dám viết(?!!).
Gom từng hạt bụi phấn
góp từng phân tử đường
con ong làm nên mật
cho cuộc đời lên hương
người làm thơ chúng ta
hơn con ong cần mẫn
càng phải biết chọn hoa
đừng làm ra mật đắng!
6. Nhà thơ Hoàng Hương Trang
Thơ hiện nay nhiều người làm, số lượng thi sĩ đông đảo hơn bao giờ hết, số
lượng thơ cũng rất nhiều. Nhưng những bài thơ đi sâu vào lòng người, gây ấn
tượng mạnh, làm người đọc yêu và nhớ thì quả thật rất ít, không bằng được những
bài thơ gọi là "thơ tiền chiến". Vì sao? Theo tôi, thơ bây giờ dùng
ngôn ngữ quá xa lạ với người đọc, làm cho người đọc không thể hiểu nổi tác giả
nói gì, có nhiều bài đọc lên tôi cứ tưởng không phải thơ Việt! Bí hiểm, khổ
độc, ẩn dụ, làm dáng thời thượng, khoe chữ, đánh đố...đó là những yếu tố làm
thơ xa người đọc, có đọc cũng chẳng nhớ lâu nổi. Tôi thích loại thơ "để
nhớ suốt đời" như "Chiều" của Hồ Dzếnh, "Hai Sắc Hoa Ti
Gôn" của T.T. Kh, như "Lỡ Bước Sang Ngang" của Nguyễn Bính, như
"Nhớ Rừng" của Thế Lữ, như "Đây Thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử
v.v.. hay xa hơn nữa, như thơ Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương,
Đoàn Thị Điểm. Ước mong thế hệ chúng ta sẽ để lại nhiều bài thơ "nhớ suốt
đời" cho thế hệ sau như chính chúng ta đã được thừa hưởng những áng thơ
tuyệt tác của các thế hệ trước.
Chính nhờ vào bản chất truyền thống văn hóa dân tộc hiền hòa nhân ái nên
ngay trong thời gian hai miền Nam Bắc đối nghịch nhau về ý thức hệ, nhưng trong
giới sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật, trí thức, sinh viên học sinh ở Miền Nam đều
có thiện cảm say mê những tác phẩm thi ca của các thi sĩ Xuân Diệu, Huy Cận,
Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Anh Thơ, Vũ Đình Liên,
Thâm Tâm...của thời tiền chiến trữ tình lãng mạn, khởi sắc thăng hoa, dĩ nhiên
có nhiều bài thơ hay đến bây giờ vẫn còn được yêu thích. Đại khái như: Lưu
Trọng Lư: "Em không nghe mùa thu/Lá thu
kêu xào xạc/Con nai vàng ngơ ngác/Đạp trên lá vàng khô...".
Hay Hồ Dzếnh: "Tình chỉ đẹp khi còn là dang
dở/Đời mất vui khi đã vẹn câu thề/Thơ viết đừng xong thuyền trôi chớ đỗ/Cho
nghìn sau lơ lửng với nghìn xưa." Xuân Diệu với câu thơ ai cũng nhớ:"Yêu là chết trong lòng một
ít/Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?/Cho thật nhiều mà nhận chẳng bao
nhiêu." Với
bài thơ Ngậm Ngùi nhẹ nhàng quyến rũ mãnh liệt của Huy Cận:
Nắng chia nửa bãi; chiều
rồi...
Vườn hoang trinh nữ xếp
đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giang
mau;
Em ơi hãy ngủ...anh hầu
quạt này;
Trăm con chim mộng về bay
đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình
thường!
Ru em sẵn tiếng thùy dương
mấy bờ..
Cây dài bóng xế ngẩn
ngơ...
Hồn em đã chín mấy mùa
thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu
rụng rơi...
Theo thiển ý và kinh nghiệm riêng của chúng tôi khi một bài thơ đạt những tiêu
chuẩn như sau:
1. Cảm hứng xuất thần khi sáng tác (hồn thơ)
2. Thể hiện sự chân thật và tự nhiên
3. Tư tưởng chuyển đạt cảm xúc
4. Cấu trúc ngôn ngữ để tạo sự dễ nhớ
Hy vọng sẽ được đa số quần chúng và giới phê bình văn học đánh giá là một bài
thơ hay.
Với tiêu chuẩn vừa nêu trên, chúng tôi xin mạn phép đóng vai trò người phu già
vực lên trong tro than của quá khứ để tìm những viên ngọc quý không bị hủy hoại
của lửa phần thư và không bị thời gian làm phai mờ trong tiềm thức của chúng
ta. Đó là những tác phẩm Văn Học dân tộc tuyệt vời trân quý của một thời rạng
rỡ tinh hoa của những tên tuổi được yêu thích như Đinh Hùng, Thanh Tâm Tuyền,
Cung Trầm Tưởng, Trần Dạ Từ, Lê huy Oanh, Du Tử Lê, Hoàng Trúc Ly, Hoài Khanh,
Viên Linh, Cao Tiêu, Thanh Nam, Tô Thùy Yên, Trần Hoài Thư, Hoàng Anh Tuấn, Tuệ
Nga, Kim Tuấn, Nguyễn Tất Nhiên, Vũ Hữu Định, Huy Phương, Diên Nghị, Cao Mỵ
Nhân, Song Nhị, Hà Thượng Nhân, Nguyễn Bắc Sơn, Hoàng Lộc, Hà Thúc Sinh, Thành
Tôn, Tạ Ký, Lâm Hảo Dũng, Lữ Quỳnh..v.v..
Trong thời lượng ngắn ngủi này, chúng tôi chỉ mạo muội đan cử một vài tác phẩm
thi ca tâm đắc theo sở thích riêng tư, kính mong quý vị niệm tình thông cảm. Đó
là những bài Tình Già của Phan Khôi, Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, Đây Thôn Vĩ
Dạ của Hàn Mặc Tử, Chào Nguyên Xuân của Bùi Giáng, Áo Lụa Hà Đông của Nguyên
Sa, Tiếng Chuông Thiên Mụ của Nhã Ca, Đôi Mắt Người Sơn Tây của Quang Dũng và
Nguyện Cầu của Vũ Hoàng Chương.
Phan Khôi.
"Hai mươi bốn năm
xưa,
Một đêm vừa gió lại vừa
mưa.
Dưới ngọn đèn mờ, trong
gian nhà nhỏ,
Hai mái đầu xanh kề nhau
than thở.
"Ôi! đôi ta tình
thương nhau thì vẫn nặng,
Mà lấy nhau hẳn là không
đặng.
Để đến rồi tình trước phụ
sau;
Chi cho bằng sớm liệu mà
buông nhau!"
Hay! nói mới bạc làm sao
chớ!
Buông nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay
chừng nấy,
Chẳng qua ông trời bắt đôi
ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi đâu có
phải vợ chồng mà tính việc thủy chung?
Hai mươi bốn năm sau,
Tình cờ nơi đất khách gặp
nhau!
Đôi cái đầu đều bạc.
Nếu chẳng quen lung đố có
nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi.
Liếc đưa nhau đi rồi!
Con mắt có đuôi".
Thâm Tâm
Đưa người ta không đưa
sang sông,
Sao có tiếng sóng ở trong
lòng?
Bóng chiều không thắm,
không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong
mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người
ấy
Một giã gia đình, một dửng
dưng...
-Ly khách! Ly khách! Con
đường nhỏ.
Chí lớn chưa về bàn tay
không
Thì không bao giờ nói trở
lại
Ba năm, mẹ già cũng đừng
mong.
Ta biết người buồn chiều
hôm trước,
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cùng như
sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ
sót.
Ta biết người buồn sáng
hôm nay:
Trời chưa mùa thu, tươi
thắm thay,
Em nhỏ thơ ngây đôi mắt
biếc
Gói tròn thương nhớ chiếc
khăn tay...
Người đi? Ừ nhỉ, người đi
thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá
bay.
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu
say.
Hàn Mặc Tử.
Sao anh không về chơi thôn
Vĩ,
Nhìn nắng hàng cau, nắng
mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như
ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ
điền
Gió theo lối gió mây đường
mây
Giòng nước buồn thiu hoa
bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông
trăng đó
Có chở trăng về kịp tối
nay
Mơ khách đường xa khách
đường xa
Áo em trắng quá nhìn không
ra
Ở đây sương khói mờ nhân
ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.
Bùi Giáng.
Xin chào nhau giữa con
đường
Mùa xuân phía trước miên
trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau
hẹn rằng
Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây
cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên
người
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày
ngón con
Thưa rằng: những ngón thon
thon
Chào nhau một bận sẽ còn
nhớ nhau
Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời
chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin
kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm
cỏ cây
Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây
nghiêng đầu
Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu
quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm
dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai
đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm
bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón
nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương
màu Nguyên Xuân.
Nguyên Sa.
Nắng Sài Gòn anh đi mà
chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà
Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô
cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên
lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây,
tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung
quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ
chân dung
Bày vội vã vào trong hồn
mở cửa
Gặp một bữa anh đã mừng
một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỉ
của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại
thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành
chất rượu
Em không nói đã nghe lừng
giai điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng
trời xanh
Anh đã trông lên bằng đôi
mắt chung tình
Với tay trắng em vào thơ
diễm tuyệt
Em chợt đến, chợt đi, anh
vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng
chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo
gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn
vọng lại
Để anh giận mắt anh nhìn
vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng
nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy
trên môi
Những ngày tháng trên vai
buồn bỗng nặng
Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc
ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà
Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô
cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình
lụa trắng
Nhã Ca.
Tôi lớn lên bên này sông
Hương
Con sông chẻ đời ra những
vùng thương nhớ
Cây trái Kim Long, sắt
thép cầu
Bạch Hổ Cửa từ bi vồn vã
bước chân sông
Mặt nước xanh trong suốt
tuổi thơ hồng
Tháp cổ chuông xưa sông
hiền sóng mọn
Những đêm tối bao la những
ngày tháng lớn
Những sáng chim chiều dế
canh gà
Tiếng chuông buồn vui dợn
thấu trong da
Người với chuông như chiều
với tối
Tôi bỏ nhà ra đi năm mười
chín tuổi
Đêm trước ngày đi nằm đợi
tiếng chuông
Cuối cơn điên đầu giấc ngủ
đau buồn
Tiếng chuông đến dịu dàng
lay tôi dậy
Tiếng chuông đến và đi chỉ
mình tôi thấy
Chỉ mình tôi nhìn thấy
tiếng chuông tan
Tiếng chuông tan đều như
hơi thở anh em
Tiếng chuông tan rời như
lệ mẹ hiền
Tiếng chuông tan lâu như
mưa ngoài phố
Tiếng chuông tan dài như
đêm không ngủ
Tiếng chuông tan tành như
tiếng vỡ trong tôi
Từ dạo xa chuông khôn lớn
giữa đời
Đổi họ thay tên viết văn
làm báo
Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói
láo
Cửa từ bi xưa mất dấu đứa
con hư
Tháp cổ chuông xưa, sông
nhỏ sương mù
Dòng nước cũ trong mắt
nhìn ẩm đục
Con đường cũ trong hồn
nghe cỏ mọc
Chuông cũ giờ đây bằn bặt
trong da
Tuổi hồng sa chân chết
đuối bao giờ
Ngày tháng cũ cầm bằng như
nước lũ
Nhưng sao chiều nay bỗng
bàng hoàng nhớ
Tiếng chuông xưa bừng sống
lại trong tôi
Tiếng chuông xưa kìa tuổi
dại ta ơi
Chuông òa vỡ trong tôi
nghìn tiếng nói
Những mảnh đồng đen như da
đêm tối
Những mảnh đồng đen như
tiếng cựa mình
Những mảnh đồng đen như
máu phục sinh
Những mảnh đồng đen kề
nhau bước tới
Tôi thức dậy rồi đây
chuông ơi chuông hỡi
Tôi thức dậy đây tôi thức
dậy rồi
Thức dậy thực sự rồi
Thức dậy cùng dông bão,
thức dậy cùng tan vỡ
Thức dậy cùng lịch sử
Mẹ hiền ơi thành phố cũ
chiều nay
Có tiếng chuông nào rơi
như lệ trên tay
Trên mặt nước trên mặt
người mặt lộ
Cho con trở về đừng mê
sảng ngó.
Quang Dũng.
Em ở thành Sơn chạy giặc
về
Tôi từ chinh chiến cũng ra
đi
Cách biệt bao ngày quê Bất
bạt
Chiều xanh không thấy bóng
Ba Vì
Vừng trán em vương trời
quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây
Phương
Tôi thấy xứ Đoài mây trắng
lắm
Em có bao giờ em nhớ
thương.
Từ độ thu về hoang bóng
giặc
Điêu tàn thôi lại nối điêu
tàn
Đất đá ong khô nhiều ngấn
lệ
Em có bao giờ lệ chứa
chan?
Mẹ tôi em có gặp đâu
không?
Những xác già nua ngập
cách đồng
Tôi cũng có thằng con bé
dại
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi
sông
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây...
Em mơ cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương
Đường hoa khô ráo lệ
Bao giờ trở lại đồng Bương
Cấn
Về núi Sài Sơn ngắm lúa
vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh
Phủ quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi
đêm trăng
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở
hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến
cũ
Em có bao giờ nhớ đến ta.
Vũ Hoàng Chương.
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông
cát bồi...
Lang thang từ độ luân hồi,
U minh nẻo trước, xa xôi
dặm về.
Trông ra bến Hoặc bờ Mê,
Ngàn thu nửa chớp, bốn bề
một phương.
Ta van cát bụi trên đường
Dù nhơ dù sạch, đừng vương
gót này.
Để ta tròn một kiếp say,
Cao xanh liều một cánh tay
níu trời.
Thơ ta chẳng viết cho đời,
Không vang nhịp khóc dây
cười nào đâu!
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó
thôi,
Đêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi
thế gian
Một phen đã nín cung đàn,
Nghĩ chi còn mất hơi tàn
thanh âm.
(Hà Nội 1950)
Chúng ta ai cũng hiểu, thời gian rồi sẽ qua đi, tất cả mọi hiện tượng vật chất
rồi sẽ tan biến vào cõi vô thường. Chúng ta hãy nhận thức
vai trò và bổn phận cao quý hơn nữa là phải quyết tâm bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa cội nguồn của Dân Tộc, chuyển đạt đến các thế hệ mai sau niềm tự
hào là người Việt Nam chúng ta cũng có một nền Văn Hóa đầy Tình Tự Quê Hương,
Nhân Bản và Sáng Tạo bằng trái tim từ ái ưu viễn tôn vinh tình người, thăng hoa
hướng tới Chân Thiện Mỹ của nhân loại.
Theo http://www.ptgdn.com/
Leonardo Da Vinci (1452 – 1519), biểu tượng của tinh thần Phục Hưng
Leonardo Da Vinci (1452 – 1519), biểu tượng của tinh thần Phục
Hưng
Leonardo da Vinci là một
thiên tài lỗi lạc về mọi phương diện. Ông khảo cứu mọi vấn đề, thấu triệt tất
cả rồi nghĩ ra nhiều dụng cụ, máy móc và nhiều sáng kiến của ông đã đi trước
nền Khoa Học thời bấy giờ khiến cho vào thời đại của ông, người ta chưa thể
thực hiện được những sáng kiến đó. Leonardo da Vinci vừa là họa sĩ, vừa là nhà
điêu khắc, kiến trúc sư, kỹ sư, nhà địa chất, nhà cơ thể học, nhà phát minh và
nhà bác học, nói tóm lại ông là một nghệ sĩ lừng danh, một nhà tiền phong trong
nhiều lãnh vực Khoa Học và Nghệ Thuật của thời kỳ Phục Hưng (the Renaissance),
tức là một phong trào văn hóa bắt đầu tại nước Ý vào các năm 1300. Hai tác phẩm
hội họa “Mona Lisa” và “Bữa Tiệc Cuối Cùng” (The Last Super) của Leonard da
Vinci được xếp vào các bức danh họa tuyệt vời của thế giới.
1/ Thuở thiếu thời.
Leonardo da
Vinci chào đời vào năm 1452 trong một ngôi nhà đổ nát bên ngoài ngôi làng
Vinci, gần thành phố Florence thuộc miền trung của nước Ý. Thiên tài này đã sớm
mang lấy số phận hẩm hiu của một đứa con đẻ hoang do một người đàn bà tầm thường
có tên là Caterina. Người cha của Leonardo là ông Ser Piero da Vinci, một chưởng
khế miền Florence, đã không nhìn nhận đứa con rơi này để lấy một thiếu nữ giàu
có, nhưng vì người vợ chính thức này không có con, ông ta đã bắt Leonardo về
nuôi khi đứa bé lên 5 tuổi.
Hàng rào xã hội đã ngăn cách mãi mãi Leonardo với người mẹ đẻ và vì thiếu tình mẫu tử, cậu bé này chỉ còn biết sống cô độc để suy nghĩ một mình. Vì người cha đối xử với Leonardo một cách hờ hững, có thể nói vì bổn phận, nên cậu bé được tự do lang thang trên các sườn đồi, sống giữa cảnh thiên nhiên mà tự tìm lấy nguồn an ủi. Cậu bé Leonardo tha thẩn cả ngày vào việc góp nhặt rất nhiều viên đá cuội đẹp, các cây cỏ hiếm thấy hay tự làm ra các đồ chơi để giải buồn.
Tuy còn ít tuổi, Leonardo đã có những thiên khiếu đặc biệt, những tài vặt và cậu có thể viết chữ ngược cũng như viết xuôi, bằng tay phải cũng như tay trái. Những tập sách dùng tiếng La Tinh khó khăn và buồn tẻ đã không hấp dẫn được cậu bé, Leonardo chỉ thích tự tìm hiểu thiên nhiên, cũng vì thế mà tới tuổi 15, Leonardo vẫn còn mù chữ.
Hàng rào xã hội đã ngăn cách mãi mãi Leonardo với người mẹ đẻ và vì thiếu tình mẫu tử, cậu bé này chỉ còn biết sống cô độc để suy nghĩ một mình. Vì người cha đối xử với Leonardo một cách hờ hững, có thể nói vì bổn phận, nên cậu bé được tự do lang thang trên các sườn đồi, sống giữa cảnh thiên nhiên mà tự tìm lấy nguồn an ủi. Cậu bé Leonardo tha thẩn cả ngày vào việc góp nhặt rất nhiều viên đá cuội đẹp, các cây cỏ hiếm thấy hay tự làm ra các đồ chơi để giải buồn.
Tuy còn ít tuổi, Leonardo đã có những thiên khiếu đặc biệt, những tài vặt và cậu có thể viết chữ ngược cũng như viết xuôi, bằng tay phải cũng như tay trái. Những tập sách dùng tiếng La Tinh khó khăn và buồn tẻ đã không hấp dẫn được cậu bé, Leonardo chỉ thích tự tìm hiểu thiên nhiên, cũng vì thế mà tới tuổi 15, Leonardo vẫn còn mù chữ.
Leonardo quả thực có tài vặt ngay từ khi còn ít tuổi.
Một người quen biếu cha cậu một cái mộc bằng gỗ cây vả. Leonardo xin cha cho
mình được phép trang trí cái mộc này. Cha cậu bằng lòng. Leonardo bí mật giam
mình trong phòng luôn 8 ngày, cậu vẽ trên tấm mộc hình một con quỷ rất hung dữ
đang phun lửa. Vào lúc chập tối, giữa đống xác rắn rết, Leonardo đưa trình tác
phẩm cho cha coi. Bức hình trông rất ghê sợ, lại ở trong một khung cảnh gớm ghiếc,
đã làm cho người cha phải giật mình, lùi bước. Leonardo thích thú, cậu coi đây
là sự thành công. Cha Leonardo liền đem chiếc mộc của con bán cho một tiệm kim
hoàn lấy 10 ducats và người này bán lại cho Hầu Tước miền Milan lấy 300 ducats.
Sau lần khám phá thấy tài năng của con, cha
Leonardo nghĩ rằng thằng nhỏ có thể kiếm ra tiền được. Ông ta liền cho cậu vào
học nghề tại xưởng của một người thợ kim hoàn xứ Florence tên là Andrea del
Verrocchio. Verrocchio là một bậc thầy về thủ công nghệ. Ông ta chuyên đúc đồng,
nặn tượng, chạm chổ kim loại. Khi được theo học Verrocchio, Leonardo mới cảm thấy
mình dốt nát và hối tiếc những thời gian lãng phí trước kia. Nhưng nhờ có thiên
tài, cậu không những học được nghề mà còn phát minh ra nhiều thứ khác, chẳng hạn
như chiếc đồng hồ chạy bằng nước, chiếc máy dát mỏng kim loại hay những cây đàn
Luthe chế tạo bằng xương cá và xương xọ của các con vật. Leonardo cũng tìm hiểu
thêm về thiên văn và toán học.
Ngoài tài khéo tay đã làm cho các bạn của cậu phải
khâm phục, Leonardo còn có một khuôn mặt đẹp đẽ, một thân hình cường tráng và một
sức mạnh đáng kể cho phép cậu bẻ cong một móng ngựa bằng sắt hay giữ chặt một
con ngựa đang lồng lộn. Để thay đổi lối giải trí, Leonardo học thêm về hội họa.
Vào một buổi chiều trong khoảng năm 1472, ông Verrocchio mắc bận, phải để dang
dở bức họa “Lễ Rửa Tội của Chúa” (The Baptism of Christ). Trong khi thầy vắng
nhà, Leonardo liền lấy cọ và sơn màu, hoàn thành bức tranh bằng hình ảnh một
thiên thần đang quỳ gối. Lúc trở về, Verrocchio đã ngắm nghía tác phẩm rồi vì
quá cảm phục Leonardo, ông ta liền từ bỏ giá vẽ.
Thời gian học nghề chấm dứt, các học viên đã thành
tài đều trở về quê để mở các tiệm thủ công. Riêng Leonardo lúc này là chàng
thanh niên 21 tuổi, vì không có vốn, nên đành ở lại làm công cho ông
Verrocchio. Trong thời gian làm thợ, Leonardo được các tu sĩ Scopetto đặt vẽ
tác phẩm “Lễ Dâng của các người kính Chúa Hài Đồng” (Adoration des Mages). Do
tìm hiểu quá nhiều phương diện, mọi công việc không thể làm xong nhanh chóng được
khiến cho các tu sĩ phải hối thúc chàng họa sĩ nhiều lần, Leonardo mới hoàn
thành tác phẩm. Quá cảm phục trước những nét vẽ tuyệt vời, các tu sĩ Scopetto
bèn thưởng thêm cho Leonardo một thùng rượu chát.
Sau đó ít lâu, một cuộc âm mưu đã tố cáo chàng họa
sĩ vi phạm thuần phong mỹ tục. Vụ án kéo dài trong 2 năm rồi chàng được tha bổng.
Sự việc này đã khiến Leonardo cảm thấy cay đắng khi phải giao tiếp với những
người khác. Thêm vào đó, các rối loạn chính trị khiến chàng quan tâm cả về kỹ
thuật quân sự. Leonardo đã nghĩ ra cách chế tạo nào thứ đại bác mới, nào xe có
3 bánh để chở súng, nào dụng cụ gạt đổ thang của địch quân tựa lên tường
thành... Nhưng không ai đặt làm những phát minh này khiến chàng buồn bã và phải
từ bỏ quê hương, đi tìm thời vận.
Leonardo liền tìm tới Hầu Tước miền Milan là
Ludovico Sforza, là người có thể cần tới các sáng kiến quân sự để chống nhau với
người Pháp. Hầu Tước Ludovico là con người xảo quyệt, đã tiếm đoạt quyền hành bằng
nhiều thủ đoạn trong khi đó dân chúng lầm than, đói khổ vì sưu cao, thuế nặng.
Leonardo đã phải sống im lìm giữa bầu không khí ngột ngạt, đầy những âm mưu bè
phái, đầy các phản bội và thù hận trong suốt 8 năm trường, vì lúc bấy giờ chiến
tranh chưa xẩy ra nên Hầu Tước Ludovico chưa quan tâm tới các phát minh khoa học
của ông. Các sáng kiến của Leonardo đã đi trước thời đại nhiều thế kỷ. Leonardo
đã phác họa ra chiến xa, xe hơi, lựu đạn, súng phun lửa, hơi ngạt... và những dụng
cụ chiến tranh này được trình bày bằng những đường nét mỹ thuật cổ xưa nhưng
cũng nói lên sự nhìn xa, biết rộng của Leonardo da Vinci và chứng tỏ rằng ông
là một nhà phát minh dồi dào các tư tưởng cải tiến.
Năm 1490, bệnh dịch hạch lan tràn tới miền Milan.
Hầu Tước Ludovico chạy khỏi thành phố sau khi đã trao việc cứu chữa cho các nhà
chiêm tinh. Nhân dịp này, Leonardo đã đề nghị những giải pháp vệ sinh và ông
nghiên cứu một kế hoạch chỉnh trang đô thị. Theo ông, nên phân tán các thành phố
lớn thành nhiều nhóm thị trấn chứa độ 30 ngàn người, và đường phố phải rộng bằng
chiều cao của các tòa nhà. Ông còn trù liệu hệ thống cống rãnh để thoát nước và
những phương pháp làm thoáng khí. Việc khảo sát ngành kiến trúc đã khiến ông
nghiên cứu luật phối cảnh và môn quang học. Ông là người đầu tiên tìm ra thủy
tinh thể khi khảo sát con mắt. Ông đã cải tiến rất nhiều máy móc, tiên liệu về
máy may và trù tính cả sự thay thế nhân công bằng người máy. Nhưng tất cả óc
sáng kiến lẫn tài ba lỗi lạc về ngành Hội Họa của Leonardo da Vinci đều không
được Hầu Tước Ludovico quan tâm tới, Hầu Tước chỉ sai Leonardo thực hiện các
công việc viển vông.
Trong khi Leonardo đang do dự sẽ từ bỏ nghề hội họa
thì tu viện Santa Maria delle Grazie tại Milan, đặt ông vẽ bức họa “Bữa Tiệc Cuối
Cùng” (The Last Super). Nhưng ông đã không vẽ xong sớm khiến cho vị tu sĩ quản
đốc thúc dục. Bực mình, ông liền trả lời vì còn đang tìm kiếm một người mẫu để
vẽ nhân vật Judas, và nếu vị tu sĩ bằng lòng ngồi làm mẫu thì bức họa mới mau
hoàn thành. Từ đó không ai dám thúc dục Leonardo nữa. Khi được vẽ xong, bức họa
này đã mang lại danh vọng vô bờ cho Leonardo da Vinci.
Sau đó ít lâu, Hầu Tước Ludovico đặt Da Vinci đắp
một bức tượng cha mình đang cưỡi ngựa, một công việc khiến cho ông phải nghiên
cứu tỉ mỉ cơ thể của loài ngựa và nhân dịp này, ông lại vẽ ra các kiểu chuồng
ngựa mới rất tiện lợi và tối tân hơn.
Khi đã nghiên cứu về cơ thể loài ngựa xong, Da
Vinci phác họa xây đắp một con ngựa dài 7 thước đang phi nước kiệu và đè chết một
địch quân. Nhưng mẫu hình này không làm cho Hầu Tước Ludovico vừa ý và Hầu Tước
dự tính dùng một nhà điêu khắc khác thực hiện. Da Vinci quá chán nản về thất bại
này. Thế rồi một sự việc đã cứu vãn hoàn cảnh của ông. Vào tháng 1 năm 1491,
Ludovico sẽ thành hôn với nàng Beatrice d’Este. Da Vinci được giao phó công việc
vẽ các kiểu áo và trang hoàng các lâu đài và đại hí viện. Nhờ tài năng về máy
móc, Da Vinci đã thành công rực rỡ trong một màn trình bày các thiên thần giáng
phàm để ca ngợi Beatrice. Cả nước Ý nói về thành quả này. Da Vinci nhờ vậy được
phép thực hiện lại bức tượng. Sau hơn hai năm trường, tấm màn phủ mẫu hình bằng
đất được mở ra để công chúng ngắm coi vào năm 1493. Tất cả mọi người đều phải
trầm trồ ngợi khen tác phẩm điêu khắc này và sau đó, Leonardo da Vinci đã trở
thành một nhà tiên trị về một trường phái mỹ thuật mới. Nghệ sĩ tại khắp bốn
phương đều bắt chước quan niệm mỹ thuật của Da Vinci. Thật là mỉa mai khi một
nhà danh họa phải nhờ tài đạo diễn của mình mới trở nên nổi tiếng.
Nhờ thành công về điêu khắc, Da Vinci được Hầu Tước
Ludovico quý trọng hơn. Ông được tăng thêm tiền trợ cấp nhờ đó có thể nghiên cứu
thêm về hội họa, và sự học hỏi về cơ thể con người khiến ông giải phẫu các xác
chết để tìm hiểu tường tận từng thớ thịt. Các bức họa thực hiện trong thời kỳ sống
tại Milan đã khiến cho Da Vinci nổi danh và mọi người phải kính phục ông. Những
tác phẩm của ông đã ảnh hưởng tới một số họa sĩ trẻ, kể cả Sandro Botticelli và
Piero di Cosimo. Những nghệ sĩ này trở nên các nhà lãnh đạo của các họa sĩ thuộc
thế hệ mới của miền Florence, rồi sau khi trở về nơi này lần thứ hai, các họa
phẩm của Leonardo da Vinci còn ảnh hưởng tới một thế hệ họa sĩ trẻ khác bao gồm
Andrea del Sarto, Michelangelo và Raphael.
Khi quân lính Pháp tràn qua dãy núi Alpes vào năm
1499, Ludovico Sforza thua trận và bị cầm tù. Vì không có ngươi che chở, Da
Vinco đành từ bỏ Milan, sang thành phố Mantua, tại nơi đây ông đã vẽ một bức họa
danh tiếng cho bà vợ của Hầu Tước Mantua tên là Isabella d’Este. Khi sống tại
Venice, Da Vinci đã dâng hiến các phát minh về quân sự. Ông đã thực hiện cho Hầu
Tước Cesar Borgia các áo lặn và người nhái để bảo vệ hải cảng. Ông còn nghiên cứu
phép vẽ bản đồ, cách đào kênh và cách chế tạo tầu ngầm, nhưng phát minh lợi hại
này đã khiến ông suy nghĩ và dấu kín.
Sau khi sống tại Venice một thời gian, Da Vinci trở
về Florence vào năm 1500 và ông nghiên cứu máy bay. Người dân tỉnh này đã tưởng
ông điên khùng khi ông mua rất nhiều chim rồi thả cho chúng bay đi, có ai biết
rằng ông đang khảo sát cách đập cánh của loài chim. Rất tiếc rằng sức mạnh do
chân và tay của con người không đủ mạnh và phát minh về máy bay do người đập
cánh của ông đã không thành công.
Trong các năm từ 1513 tới 1516, Leonardo da Vinci
sống tại Rome do lời mời của Hồng Y Giuliano de Medici, người anh em của Giáo
Hoàng Leo X. Vào thời gian này, các nghệ sĩ lừng danh đang làm việc tại Rome
như Donato Bramante trông coi xây dựng Giáo Đường St. Peter’s Basilica,
Michelangelo lo việc nặn tượng và kiến trúc tại ngôi mộ của Giáo Hoàng Julius,
và Raphael thực hiện các bức danh họa trong các căn phòng của Giáo Hoàng.
Leonardo được mời vẽ các bản đồ và lo cải tạo vùng sình lầy Pontine gần Rome.
Từ thời kỳ Phục Hưng, các vua chúa đều mong muốn tập
trung trong triều đình các nghệ sĩ và các học giả. Vào năm 1516, Leonardo da
Vinci được Vua Francis I của nước Pháp mời qua Pháp làm việc. Ông đã cư ngụ
trong lâu đài Cloux tại Amboise, gần Tours, trong 3 năm và được tặng danh hiệu
là “nhà hoạ sĩ, kiến trúc sư và nhà cơ khí số một của nhà vua”. Ông được tự do
khảo sát bộ môn nào ưa thích. Chính trong thời gian này, Leonardo đã phác thảo
rất nhiều bản vẽ kiến trúc như xây dựng lâu đài, vườn hoa, nghiên cứu khoa học,
cơ thể học, không thể học (aerology), thủy tĩnh học (hydrology)...
Leonardo da Vinci qua đời tại Cloux vào ngày 2
tháng 5 năm 1519 và được chôn cất trong phần đất nhà thờ của lâu đài này. Về
sau trong cuộc Cách Mạng Pháp, nhà thờ Cloux cùng với các kỷ niệm quốc gia khác
đã bị tàn phá và người ta không còn biết nắm xương tàn của nhà danh họa và bác
học này ở đâu.
3/ Vài tác phẩm danh tiếng của Leonardo da Vinci.
Ngày nay, tác phẩm hội họa được nhiều người biết tới
nhất của Leonardo da Vinci là bức “La Gioconda”, hay thường được gọi bằng tên
“Mona Lisa”. Có lẽ đây là bức chân dung danh tiếng nhất từ xưa tới nay. Mona
Lisa có lẽ là người vợ trẻ của một nhà buôn lụa xứ Florence, tên là Francesco
del Giocondo. Mona Lisa là tên gọi tắt của Madonna Lisa (qúy bà Lisa) còn tên
La Gioconda có nghĩa là bà Giocondo. Tác phẩm với món tiền thù lao cao nhất của
Da Vinci là bức họa lớn dang dở có tên là “Trận Chiến Anghiari” (the Battle of
Anghiari) vẽ trên tường trong phòng của tòa Đô Sảnh Florence, mô tả một trận
đánh bằng kỵ binh với các chiến binh hung hãn trên lưng ngựa và các đám bụi mù,
đây là cảnh đạo quân Florence đã đánh bại đạo quân Milan vào năm 1440.
The Last Supper 1498
Fresco, 460 x 880 cm (15 x 29 ft); Convent of Santa Maria delle Grazie (Refectory), Milan
Fresco, 460 x 880 cm (15 x 29 ft); Convent of Santa Maria delle Grazie (Refectory), Milan
Nhiều người cũng ca tụng tuyệt tác phẩm “Bữa Tiệc
Cuối Cùng” (The Last Super) vẽ trên tường của phòng ăn nơi tu viện Santa Maria
tại Milan, nước Ý. Đây là cảnh bữa ăn cuối cùng của Chúa Jesus và 12 tông đồ,
và Chúa mới cho biết có một người trong nhóm này sẽ phản lại Chúa.
Một tác phẩm điêu khắc còn dang dở của Leonardo da Vinci là bức tượng khổng lồ một nhân vật cưỡi ngựa, được dựng lên để vinh danh Francesco Sforza, nhà sáng lập của triều đại Sforza. Nhà danh họa Da Vinci đã bỏ ra 12 năm trường để trù liệu bức tượng này. Sự chính xác về cơ thể của người và ngựa, các tỉ lệ chính xác và nét chuyển động khéo léo của bức tượng đã là mẫu mực của ngành điêu khắc trong thế kỷ 17.
Virgin and Child with St. AnneMột tác phẩm điêu khắc còn dang dở của Leonardo da Vinci là bức tượng khổng lồ một nhân vật cưỡi ngựa, được dựng lên để vinh danh Francesco Sforza, nhà sáng lập của triều đại Sforza. Nhà danh họa Da Vinci đã bỏ ra 12 năm trường để trù liệu bức tượng này. Sự chính xác về cơ thể của người và ngựa, các tỉ lệ chính xác và nét chuyển động khéo léo của bức tượng đã là mẫu mực của ngành điêu khắc trong thế kỷ 17.
Các sáng kiến, tài năng đa dạng và tầm hiểu biết rộng
lớn của Leonardo da Vinci đã khiến cho người
đời sau coi ông là một biểu tượng của tinh thần Phục Hưng.
Leonard da Vinci là cha đẻ của
ôtô?
Minh Thi
Họa sĩ lừng danh thời Phục hưng
đồng thời là một kỹ sư tài ba, nhưng ít ai biết rằng ông còn là cha đẻ của
những chiếc xe hơi ngày nay. Hôm qua, Bảo tàng Khoa học Lịch sử ở Florence,
Italy, đã trình làng chiếc ôtô đầu tiên, được chế tạo dựa trên những phác hoạ
trong sổ tay của da Vinci.
"Đây thực sự là một công
việc mạo hiểm, nhưng cũng giúp chúng tôi mang đến cho mọi người cái nhìn sâu
hơn về trình độ am hiểu xe hơi của Leonardo", Paolo Galluzzi,
Giám đốc bảo tàng, phát biểu.
Cỗ máy kỳ cục có bộ dạng giống
xe kéo này chạy bằng lò xo thay vì xăng, và có thể được cố ý để phát ra những
âm thanh đặc biệt tại các sự kiện sang trọng, nhưng nó vẫn là phương tiện tự
đẩy đầu tiên trên thế giới, các chuyên gia nhận định.
Chiếc xe không phải là sáng chế
đầu tiên được phát hiện trong những bản thảo bí ẩn của da Vinci, bao gồm cỗ máy
biết bay, trực thăng, tàu ngầm, xe tăng quân sự và xe đạp.
Sinh tại Florence vào năm 1452,
da Vinci được coi là "Người đàn ông thời Phục Hưng" - một danh hoạ,
một nhà điêu khắc, kỹ sư và nhạc sĩ. Rất nhiều sáng kiến của ông được ghi lại
trong những sổ tay hiện được lưu trữ tại bảo tàng và thu hút sự quan tâm của
đông đảo người hâm mộ cũng như giới khoa học.
Năm 1905, Girolamo Calvi, một
trong những người đầu tiên nghiên cứu về da Vinci, đã tìm ra mối liên hệ giữa
những bản vẽ của nhà khoa học với những chiếc ôtô đầu tiên xuất hiện trên đường
phố.
Năm 1936, Calvi đã gọi một trong
những phác hoạ của da Vinci là "Fiat của Leonardo", nhưng chỉ đến gần
đây các nhà khoa học mới giải nghĩa chính xác bản phác hoạ đó, và những mô hình
hiện được trưng bày tại Florence là công trình tái hiện đầu tiên.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Ernest Hemingway và chiều kích thứ năm Việc nghiên cứu phong cách văn xuôi của Hemingway phần lớn đã hoàn thành từ lâu. Phong cách nầy q...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Một vài cảm nhận về tập truyện "Chuyện hoa, chuyện quả" của nhà văn Phạm Hổ Đặc sắc nhất trong sáng tác văn xuôi dành cho...