Thứ Ba, 27 tháng 1, 2015

Vài nét chân dung Hàn Mặc Tử, Nhà thơ thiên tài của Việt Nam

Vài nét chân dung Hàn Mặc Tử, 
Nhà thơ thiên tài của Việt Nam


1. TÌNH YÊU, ÁNH SÁNG, TIẾNG THẦM TRONG THƠ
Có nhiều thi sĩ đưa địa danh vào thơ: 
Thôi Hiệu với "Hoàng Hạc Lâu". 
Bà Huyện Thanh Quan "Qua Đèo Ngang" 
Nguyễn Nhược Pháp với "Chùa Hương" 
Hoàng Cầm "Bên kia sông Đuống" 
Nguyên Sa "Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông..." 
Cung Trầm Tưởng "Trời mùa Đông Paris, Suốt đời làm chia ly..." 
Du Tử Lê "Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn" 
Hàn Mặc Tử (HMT) "Đây Thôn Vỹ Dạ": 
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc... 
Qua bài thơ trên, tên tuổi HMT gắn liền với thôn Vỹ, thôn Vỹ gắn liền với Cố Đô, tất cả gắn liền làm một. Tôi yêu bài thơ từ lúc còn ở mái trường Trần Bình Trọng, Ninh Hòa. Có một quãng thời gian dài tôi cứ tưởng HMT là người Huế. 
Nguyễn Du tả nhan sắc Thúy Kiều qua Thúy Vân: 
Vân xem trang trọng khác vời 
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang... 
Thúy Vân đẹp thế, nhưng: 
Kiều càng sắc sảo mặn mà 
So bề tài sắc lại là phần hơn 
Hàn Mặc Tử tả "Huế đẹp Huế thơ" qua thôn Vỹ Dạ. Dưới ngòi bút của ông Vỹ Dạ trở nên đẹp đẽ thơ mộng lạ thường. Vỹ Dạ, một địa danh bình thường nằm lặng lẽ bên bờ Hương Giang mà đã đẹp như thế thì những thắng cảnh khác của Huế như cung vàng điện ngọc, đền miếu lăng tẩm của một thời vang bóng sẽ còn đẹp đẽ cao sang đến bậc nào? 
Hesiod viết: "Một nửa tốt hơn toàn thể". Ở đây, HMT không viết một nửa hay toàn thể... nhưng ông viết một nét, một góc rất nhỏ của Huế: "Đây Thôn Vỹ Dạ!" Nhưng từ một nét, một góc rất nhỏ HMT đã nói rất nhiều (về Huế). Thiên tài là ở chỗ đó! 
Thôn Vỹ giống như trăm nghìn thôn khác trên quê hương VN, cũng có "thuyền ai đậu bến, lá trúc, hàng cau " nhưng thuyền ai, khóm trúc, hoa bắp, hàng cau, bến nước, sông trăng của thôn Vỹ trong thơ HMT đẹp quá! Đẹp một cách mượt mà óng ả mê ly tình tứ... đẹp như một cảnh "Địa đàng mơ ước" ở trần gian. Dưới cái nhìn của HMT cảnh vật dù có tầm thường nhỏ bé đến đâu cũng trở nên có hồn, sinh động, lớn lao mang sắc hương diệu kỳ như một phép lạ, đẹp và thơ mộng đến nỗi ai cũng muốn về thăm một lần. 
Sao anh không về chơi thôn Vỹ? 
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên! 
Mở đầu bài thơ, tác giã đã nói bằng trái tim thiết tha mời gọi: Sao anh không về? Ai không xuyến xao khi nghe những lời êm ái mặn mà? Hình như trong chúng ta ai cũng có một Thiên Đàng để tưởng nhớ. Từ khi con người đánh mất Thiên Đàng bơ vơ giữa trần gian thì nỗi nhớ nhung hoài vọng một ngày trở về càng thêm tha thiết. Qua hình ảnh tuyệt vời Đây Thôn Vỹ Dạ, HMT muốn dựng lại nơi Đế Đô vàng son (từng là trung tâm điểm của dãi giang sơn gấm vóc có tên là Việt Nam hình cong chữ S nằm soi mình bên Thái Bình Dương chạy dài đến tận miền Lục Chân Lạp tiếp giáp với Vịnh Thái Lan) một cảnh Địa Đàng tràn ngập tình yêu, ánh sáng và tiếng thầm. Ánh sáng chứa chan rạng rỡ niềm hy vọng, một thứ ánh sáng mới mẻ tinh khiết diệu kỳ long lanh như thủy tinh và đẹp như ngọc: 
Nhìn nắng hàng cau nắng mới kên 
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. 
Ánh sáng mềm mại êm ái tưởng như dát bạc nạm vàng giữa dòng sông trăng huyền ảo mà con đò là mối tình đầu vừa chớm nở, có khi đó là thứ ánh sáng tâm tưởng thoạt tan thọat biến trong giấc mơ của kẻ cô đơn trông ngóng được gặp lại người tình: 
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó 
Có chở trăng về kịp tối nay? 
Mơ khách đường xa khách đường xa 
Áo em trắng quá nhìn không ra. 
Tình yêu nơi khu vườn Vỹ Dạ là một thứ tình yêu thôi thúc mãnh liệt nhưng cũng rất lãng mạn sương khói mơ hồ: 
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh 
Ai biết tình ai có đậm đà? 
Nỗi cô đơn, niềm trông ngóng và sự nôn nao khao khát đợi chờ của một trái tim rực lửa yêu đương đã lên tới tột độ tột cùng tưởng như không thể nào đợi chờ lâu hơn được nữa: 
Có chở trăng về kịp tối nay? 
Chữ "kịp?" đặt trong thể nghi vấn ở đây là một "chữ thần" có khả năng diễn tả trọn vẹn tâm trạng bồn chồn của kẻ đang yêu, đang khao khát tình yêu mãnh liệt. Suốt hằng ngàn năm trong thơ ca VN lần đầu tiên xuất hiện Hồ Xuân Hương, rồi HMT, hai thi sĩ chân thành can đảm đã dám vượt qua bức tường luân lý đạo đức kìm hãm, để nói lên tiếng nói của trái tim mà lý trí đã bao đời nguyền rủa, những điều rất thật nhưng úy kỵ của con người đã hiện hữu từ thời Adam/Eva đến nay, đó là: Tính Dục. 
Trái tim yêu đương đang độ lên men nồng cháy như một thứ trái cây rục rĩu chín mềm trong thơ Hồ Xuân Hương: "Một trái trăng thu chín mõm mòm" nay trở nên đắm đuối dục tình trong một bài thơ khác của HMT: 
"Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu 
Đợi gió đông về để lả lơi (...) 
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng lắm! 
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe. (Bẽn lẽn) 
Nếu tính dục thoáng hiện bóng bẩy trong thơ Hồ Xuân Hương đã làm mới mẻ tăng thêm sức sống cho dòng thơ ca cổ điển, thì tính dục hối hả trong thơ HMT cũng làm cho dòng thơ ca tiền chiến thêm quyến rũ ngất ngây. 
Nguồn ánh sáng lung linh trong Đây Thôn Vỹ Dạ trở nên rực rỡ trong Mùa Xuân Chín: 
"Chị ấy năm nay còn gánh thóc, 
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang" 
và trở thành chói lọi hào quang trong thế giới tâm linh kỳ bí của Xuân Như Ý: 
Như song lộc triều nguyên: ơn phước cả 
Dâng dâng cao thần nhạc sáng hơn trăng 
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên đàng... (Ave Maria) 
Những tiếng thì thầm "Sao anh không về?", "Có chở trăng về kip tối nay?" đã được lặp lại nhân lên thành trăm thứ tiếng lòng trong bài Bẽn Lẽn: 
Trong khóm vi lau rào rạt mãi: 
Tiếng lòng ai nói sao im đi? 
Đây Thôn Vỹ Dạ đầy ngập tình yêu, ánh sáng và tiếng thầm, hay nói một cách khác, tình yêu ánh sáng và tiếng thầm đã phối hợp với nhau để làm nên sự kỳ diệu cho Đây Thôn Vỹ Dạ cũng như cho toàn bộ tác phẩm của HMT về mặt bút pháp. Từ Gái Quê thơ HMT như con chim Phượng Hoàng soãi cánh bay vào thế giới siêu hình siêu thực qua những Thơ Điên, Xuân Như Ý, Thượng Thanh Khí, Cẩm Châu Duyên: 
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu 
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu 
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang 
Tình yêu được thăng hoa thành tình yêu Thiên Chúa, ánh sáng được thăng hoa thành ánh sáng Triều Thiên và tiếng thầm được thăng hoa thành muôn tiếng Kinh Cầu: 
Vì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho 
Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo 
Ta chắp hai tay lạy quỳ hoan hảo 
Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian 
Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân 
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế 
(Đêm Xuân Cầu Nguyện) 
Tình yêu, ánh sáng, và tiếng thầm lúc bấy giờ đã hoàn toàn "xuất thế gian" để hòa nhập vào thế giới diệu kỳ bất khả tư nghị. Đó là cõi Thánh nữ, Thiên đàng, cũng là cõi Thơ Mầu nhiệm: 
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú 
Người có nghe náo động cả muôn trời? 
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời 
Để ca tụng bằng hương hoa sáng láng, 
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng 
Một đêm xuân là rất đỗi anh linh? 
(Ave Maria) 
Đêm-Xuân-Rất-Đỗi-Anh-Linh chỉ có trong Mùa Xuân Vĩnh Cửu mà người trần tục không thể nào biết được: 
-Chàng ơi! Chàng ơi!, sự lạ đêm qua! 
Mùa xuân tới, mà không ai biết cả... 
(Ra đời) 
Vì Sự-Lạ-Đêm-Qua, mà phải cần đến những Thi-sĩ-Thần-Linh để làm nhiệm vụ Thiên sứ báo tin mừng đến muôn người: 
Một chiều xanh- một chiều xanh huyền hoặc 
Sáng bao la vây lút cõi thiên không 
HMT đã tự nhận mình không phải là thi sĩ trần gian mình trần mắt thịt: 
Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ 
Ngọc Như Ý vô tri còn biết cả 
Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh 
Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh. 
Khởi đi từ Tình Quê, Bẽn Lẽn, Đây Thôn Vỹ Dạ... nguồn thơ HMT phong phú như dòng sông mở ra đại dương mênh mông bát ngát, càng ngày càng xa bờ hiện thực, bến lãng mạn... để tiến vào thế giới tượng trưng, trừu tượng, siêu thực, mà người thơ là một thứ Sứ giả mang Thông điệp Tình yêu của Thượng Đế đến với nhân loại. Những thi tập Hương Thơm, Mật Đắng, Máu Cuồng Và Hồn Điên, Xuân Như Ý, Thượng Thanh Khí, khi ra đời, người đương thời không hiểu đã buông lời nguyền rủa: "Thơ với thẩn gì! toàn nói nhảm." Nhưng rồi thời gian đã công nhận đó là những hạt trân châu quý hiếm trong Thơ ca Tiền chiến, đúng như khi xưa Chế Lan Viên đã hùng hồn khẳng định, và ngày nay Phạm Duy đã phổ thành Trường ca. 
HMT là một hiện tượng lạï lùng trong Thơ Tiền Chiến. Ông làm thơ từ năm 16 tuổi, lúc mất chỉ vừa tròn 28. Bắt đầu sự nghiệp bằng thể thơ Đường luật, vốn là thể thơ vô vàn khó khăn về luật tắc, nhưng dưới tay HMT vẫn mượt mà tươi mới như thường: 
Nằm gắng đã không thành mộng được 
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi 
Vì thế, được chí sĩ Phan Bội Châu, vốn xuất thân Nho học từng đỗ Đầu Xứ đã nhiệt liệt khen ngợi: "Từ ngày về nước đến nay tôi chưa gặp được bài nào hay đến thế..." Sau này gia nhập Phong trào Thơ Mới với một nguồn thơ đầy sáng tạo, HMT cũng được Hoài Thanh hết lời ngợi khen: "Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng". Hoài Thanh đã bỏ ra 1 tháng trời để nghiên cứu toàn bộ thơ HMT đến "mệt lã", và công nhận "Vườn thơ Hàn rộng rinh không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh." đúng như HMT đã viết trong lời tựa cho tập "Thơ Điên" của mình. Hoài Thanh đã dành cho HMT 21 trang nhận định và trích dẫn thơ, đó là số trang cao nhất trong sách của ông, cao hơn cả các nhà thơ lừng danh hàng đầu lúc bấy giờ (Lưu trọng Lư và Xuân Diệu có số trang ngang nhau 19 trang, Thế Lữ 15 trang, Huy Cận 13 trang, Chế Lan Viên 11 trang, Quách Tấn 6 trang) vậy mà ông cho biết "còn muốn trích ít bài nữa". 
Người đầu tiên khám phá thiên tài HMT là Chế Lan Viên, đăng trên báo Người Mới số 5, ra ngày 23-11-1940: 
"Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử." 
Một năm sau, trong cuốn "Hàn Mặc Tư" xuất bản (1941), tác giả Trần Thanh Mại cũng tỏ ra thán phục HMT, cho rằng thơ HMT có nhiều ý tưởng và hình ảnh mới lạ, ảnh hưởng sâu đậm trường phái tượng trưng của Mallarmé bên Pháp quan niệm thơ phải đạt tới cái mức thuần túy, bí hiểm, phi thường, khó hiểu, bằng cách đổi cả mẹo luật, tiếng nói cũ, thành những dấu hiệu, những nhạc điệu kỳ dị. 
Trong ngày giỗ lần thứ 50 của HMT tổ chức tại Paris ngày 11-11-1990, học giả Thái Văn Kiểm nhận xét: 
"Nhà thơ của chúng ta bẩm thụ được cái thiên tư cao quý là nhìn thấy được cái hư ảo, cảm được cái vô lượng và nghe được sự yên lặng của vô thủy vô chung. Nơi đây vang dội những lời cầu nguyện, những hương lạ mê ly, những âm thanh kỳ diệu, tất cả chìm ngập trong bể hào quang và trong tinh hoa của thi vị. Vì theo Hàn Mặc Tử , thi ca là một sáng tạo thuần túy của Thượng Đế, và để báo đáp công ơn đó, thi sĩ phải là kẻ xướng Thánh ca, cảm thông với Thượng Đế, ca ngợi chân thành sự nghiệp thiêng liêng và vinh quang bất diệt của Người. Thi sĩ là gạch nối , là trung gian ưu tú giữa Hóa Công và nhân loại." 
Năm 1994, "Trường Ca Hàn Mặc Tử" của Phạm Duy ra đời phổ từ thơ HMT (gồm các bài: Tình quê, Đây Thôn Vỹ Dạ, Đà Lạt Trăng Mờ, Trăng Sao Rớt Rụng, Hồn Là Ai, Trút Linh hồn, Lạy Bà Là Đấng Tinh Tuyền Thánh Vẹn, Ôi Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel, Phượng Trì Ôi Phượng Trì). Khi trình làng Phạm Duy đã thú nhận: "phổ thơ Hàn Mặc Tử khó vô kể, một năm trời vật lộn với thơ." Một năm trời vật lộn của ông có khác gì một tháng mệt lã của Hoài Thanh trước kia. 
Tóm lại, thời gian đã minh chứng cho nhận xét đánh giá của Chế Lan Viên, Hoài Thanh về thơ HMT là đúng. Hàn Mặc Tử là một thiên tài trong nền thơ ca VN và thế giới. Mặc dầu mắc bệnh nan y, bao năm nằm trên giường bệnh nhìn thân xác, linh hồn từ từ tan rã... bao ngày sống trong tận cùng nỗi đau thương tuyệt vọng, quằn quại đau đớn... nhưng nhà thơ vẫn không ngừng sáng tạo ra những vần thơ để gởi đến bè bạn, người thân, cuộc đời, những lúc đó có ai tin rằng những bài thơ tuyệt tác? Ôi, thật là cảm động và thán phục biết chừng nào!
2. VÀI NÉT TIỂU SỬ
Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, mất năm 1940, mới 28 tuổi. 
Quê Mỹ Lệ, Đồng Hới, Quảng Bình. Tổ tiên họ Phạm, ông cố Phạm Nhương, ông nội Phạm Bồi, vì liên can quốc sự trốn vào Thừa Thiên đổi ra họ Nguyễn. Cha Nguyễn văn Toản, mẹ Nguyễn Thị Duy, anh Nguyễn Bá Nhân, 2 chị Như Nghĩa, Như Lễ, và 2 em Nguyễn Bá Tín, Nguyễn Bá Hiếu. 
Trí học tiểu học ở Quãng Ngãi, khi cha chết, mẹ dọn về Qui Nhơn, ở đây Trí tập làm thơ Đường luật lúc 16 tuổi lấy bút hiệu là Minh Duệ Thị. Học trường Qui Nhơn đến năm thứ ba, Mẹ Trí gởi Trí ra Huế học tại trường dòng Pellerin, chính đất Thần Kinh non nước hữu tình có truyền thống thơ phú, nơi quy tụ nhiều nhân tài đã ảnh hưởng và mở cánh cửa tư duy trí tuệ tài hoa thúc đẩy Trí trở thành thi nhân. Trí đăng thơ trên báo Phụ Nữ Tân Văn, Sài Gòn với bút hiệu Phong Trần. Thời gian này Đông Dương khủng hoảng kinh tế, gia đình sa sút, không còn điều kiện Trí phải nghỉ học đi làm Sở Đạc Điền một độ, bị đau rồi mất việc. Vào Nam làm báo ít lâu lại trở về Qui Nhơn, kế đó mắc bệnh hủi... vào Nhà thương Quy Hòa và mất tại đó. 
Khi vào Sài Gòn làm báo Trí lấy bút hiệu Lệ Thanh (tên làng Mỹ Lệ, chánh quán Tân Thanh ghép lại). Trí chiếm giải nhất cuộc thi thơ của một câu lạc bộ thơ, bút hiệu Lệ Thanh nổi tiếng từ đó. Trí cộng tác với báo Trong Khuê Phòng, Đông Dương Tuần Báo, Người Mới. Năm 1936 khi chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Sài Gòn, Trí mới đổi là Hàn Mạc Tử. Hàn Mạc nghĩa là "Rèm Lạnh". Bạn Trí là Quách Tấn góp ý: 
"Tránh kiếp Phong Trần làm khách Hồng Nhan (Lệ Thanh) lại núp sau Rèm Lạnh (Hàn Mạc)... Đã có Rèm Lạnh thì nên có thêm một bóng nguyệt nữa mới thật nên thơ." 
Trí đồng ý ngay, cầm bút vạch thêm một vành trăng non trên chữ Mạc, từ đó có bút hiệu Hàn Mặc Tử. Mặc Tử không còn nghĩa "Rèm Lạnh" nữa, mà có nghĩa là "Bút Mực" (Hàn: Bút, Mặc: Mực) hiểu theo nghĩa bóng là "Văn Chương". Như vậy, ba chữ Hàn Mặc Tử có nghĩa là "Khách Văn Chương". 
Tập thơ Đường luật mang tên "Lệ Thanh Thi Tập" có 3 bài Thức Khuya, Chùa Hoang, Gái Ở Chùa được Phan Sào Nam họa vận lại. Năm 1936 tập thơ Gái Quê xuất bản là một chuyển hướng sang Thơ Mới (Năm 1932 bài Tình Già của Phan Khôi mở màn cho phong trào Thơ Mới.). 
Cuối năm 1936, Trí đi chơi Huế, Đà Nẳng, Nha Trang, Phan Thiết rồi định vào Sài Gòn tiếp tục làm báo bỗng có dấu hiệu mắc bệnh hủi. Người nhà cho rằng Trí bị bệnh là do lúc đi làm ở sở Đạc Điền Qui Nhơn phải băng qua nhiều bãi tha ma lúc mưa giông bị nhiểm khí độc từ mồ mả bốc lên. Cũng có người cho rằng Trí ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm dẫn nhau lên Lầu Ông Hoàng chơi, mắc mưa vào trú trong một ngôi mộ mới xây bị nhiểm hơi người chết bốc lên nên bị bệnh. Khi mắc bệnh, Trí thuê một chòi tranh ở Gò Bồi cách Qui Nhơn 15 km để ở và bắt đầu tuyệt giao với bạn bè. 
Cuối năm 1937 gom góp khoảng 50 bài thơ làm trên giường bệnh được HMT gọi là Thơ Điên (gồm 3 tập Hương Thơm, Mật Đắng, Máu Cuồng Và Hồn Điên) mang chung một nhan đề: Đau Thương để tặng thân mẫu (một số bài nói về trăng, một số nói về cõi hồn, một số thuộc các đề tài khác). Tiếp đến là Xuân Như Ý (gom góp năm1939), Thượng Thanh Khí (gom góp năm 1940). 
Mùa hạ 1938, thấy bệnh tình khó qua khỏi, gia cảnh càng sa sút, HMT sau nhiều lần do dự đã quyết định vào bệnh viện phong cùi Qui Hòa chữa miễn phí để tránh gánh nặng cho gia đình. Theo họ hàng thì khi vào đây HMT chỉ mới chớm nổi vài mụn đỏ nho nhỏ trên mặt, bàn tay bắt đầu cứng khó cầm bút.
3. TÌNH YÊU, TÌNH BẠN
Trong đời tình cảm, những người đẹp gây những dấu ấn cho HMT là Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình và Thương Thương. Hoàng Cúc chỉ là một mở đầu của tiếng gọi con tim, chưa quen thân, chưa hò hẹn gì. Mộng Cầm gần gũi nhất, sâu đậm nhất, nhưng khi nghe HMT vướng bệnh thì nàng vội vả lên xe hoa đã làm cho HMT đau khổ xót xa. Mai Đình, người con gái nhân hậu đã xin được làm vợ để săn sóc, dù HMT từ chối, nàng vẫn ở bên cạnh lo thuốc thang... Mãi lâu sau khi HMT mất, gia đình hết lời khuyên nhủ, nàng mới chịu đi lấy chồng, nhưng vẫn xin chồng cho nàng được lập bàn thờ, treo ảnh HMT mãi cho đến khi nàng mất năm 1999 tại Sài Gòn. Thương Thương chỉ là cái bóng bé nhỏ dịu dàng từ xa, nhưng đã cho HMT nhiều ý thơ rất đẹp trong Cẩm Châu Duyên. Ngoài ra, theo Quách Tấn, HMT còn có Lê Thị Ngọc Sương, chị ruột Bích Khê, nhưng mối tình này chỉ như làn sương mỏng. 
Thời tiền chiến, trong làng thơ có nhiều đôi bạn tri kỷ tuyệt vời như Xuân Diệu- Huy Cận, Huy Thông- Nguyễn Nhược Pháp, và Nhóm Thơ Bình Định gồm: Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Yến Lan, Chế Lan Viên. Bộ ngủ này rất tâm đắc cùng nổi tiếng, cùng có tên trong sách Thi Nhân Việt Nam, đã có tác phẩm xuất bản, chỉ trừ Yến Lan ghi có 1 tác phẩm sẽ xuất bản. Quách Tấn lớn tuổi nhất, nên được cả nhóm xem là đại ca. Tình bạn giữa Quách Tấn và HMT rất gần gũi thân thiết. Chính QT đề nghị HMT đổi chữ Mạc ra chữ Mặc... Và sau này cũng chính QT đứng ra xây mộ HMT tại Ghềnh Ráng còn lưu đến ngày nay và xuất bản toàn bộ tác phẩm của HMT. Quách Tấn là một thi sĩ nổi tiếng ngồi một mình một chiếu trong khuynh hướng thơ cổ điển, được Hoài Thanh nể phục, về sau (thập niên 60) được Phạm Công Thiện đề cao là một con chim Phượng Hoàng ở phương Đông. Ngoài 3 thi tập, 2 cuốn sưu khảo, ông còn trên 50 đầu sách chưa xuất bản. Năm 1940 ông có làm bài thơ "Mộng Thấy Hàn Mặc Tử" in trong thi tập Mùa Cổ Điển, bài thơ này nói lên tình cảm thắm thiết của ông đối với người bạn thơ: 
Ơi Lệ Thanh! Ơi Lệ Thanh! 
Một giấc trưa nay lại gặp mình . 
Nhan sắc châu pha màu phú quý, 
Tài hoa bút trổ nét tinh anh. 
Rượu tràn thú cũ say sưa chuyện, 
Hương tạ trời cao bát ngát tình. 
Tôi khóc tôi cười vang cả mộng... 
Nhớ thương đưa lạc gió qua mành. 
Người bạn thân khác của HMT là Bích Khê, một thi sĩ tài hoa mệnh bạc thuộc trường phái Thơ tượng trưng, mà Hoài Thanh đã phê bình: "Tôi đã gặp trong "Tinh Huyết" những câu thơ hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam". Tinh Huyết là một thi tập của BK. Bài Tỳ Bà được Phạm Duy phổ nhạc năm 1969. Đề tựa cho thi tập Tinh Huyết, HMT đã viết như sau: 
"Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu... Ở "Tranh Lõa Thể" sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết." 
Người bạn khác của HMT là Yến Lan, có bài Bến My Lăng nổi tiếng trích trong thi tập Bến My Lăng được Hoài Thanh bình phẩm: "Không khí lạ lạ nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích". 
Một người bạn khác của HMT là Chế Lan Viên, người đã từng hết lời ca ngợi thơ HMT.Mới 17 tuổi CLV đã xuất bản thi tập "Điêu Tàn" được Hoài Thanh đánh giá: "Vong linh đau khổ của nòi giống họ (Chiêm Thành) đã nhập vào Chế Lan Viên, cho nên dù không phải là người họ Chế, Chế Lan Viên vẫn là một nhà thơ Chiêm thành. Quyển Điêu Tàn đã đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt nam như một niềm kinh dị." 
Tóm lại, năm thi tài gặp nhau, mỗi người mỗi vẻ, mỗi người đều có một chỗ đứng riêng biệt sáng chói trên thi đàn. Sự xuất hiện và kết hợp giữa họ với nhau từng gây nên một hiện tượng thơ ca vang dội và độc đáo nhất lúc bấy giờ.
4. KẾT LUẬN
Bài này viết ra nhầm phác họa một vài nét chân dung Hàn Mặc Tử từ đời thường cho đến tác phẩm, để chúng ta có một cái nhìn bao quát về một nhà thơ thiên tài VN, hầu tránh những ngộ nhận, những nhầm lẫn... có thể xảy ra về HMT. 
Với 8 tập thơ, 1 vở kịch thơ, cùng nhiều bài tiểu luận văn chương của HMTcòn để lại, thật vô cùng quý giá. Những ý thơ cao siêu, những ngôn ngữ thơ mới lạ mà cả Hoài Thanh lẫn Phạm Duy đều phải bỏ nhiều thì giờ để nghiên cứu "mệt lã", "khó vô kể" cho thấy HMT có trình độ hiểu biết uyên thâm, có cái nhìn mới lạ, có cảm nhận siêu phàm mà người thường khó thể hiểu được.
Đến đây, tôi xin trích một câu trong bài viết "Kinh Vật Lộn và Phép Vượt Qua Trường Ca Hàn Mặc Tử của Phạm Duy" của Linh mục Trần Cao Tường sau đây để thay cho phần kết luận bài này: 
"Hàn Mặc Tử, tên thật là Phanxicô Nguyễn Trọng Trí, một nhà thơ Thiên tài trong nền Văn học Việt Nam và là một nhà thần bí theo đạo Chúa , diễn được những huyền nhiệm vượt qua ngôn ngữ loài người." 

Theo http://timtailieu.vn/

Ngôi nhà cuối cùng của Trịnh

 Ngôi nhà cuối cùng của Trịnh 
 (Viết nhân 10 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4(2001-2011) 
Đó là Hội quán Hội Ngộ, ở Làng du lịch Bình Quới, quận Bình Thạnh, đã được chính nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chọn và là nơi họp mặt thường xuyên của giới nhạc sĩ, ca sĩ, họa sĩ và những người yêu âm nhạc, mỹ thuật. Đến nay, Hội Quán có tới gần 1.000 hội viên, bao gồm những người yêu nhạc Trịnh và có tấm lòng thể hiện sự tri ân với người nhạc sĩ tài hoa đã để lại cho đời những tác phẩm âm nhạc bất hủ. 
Mười năm trôi qua, từ khi Trịnh trở về với cát bụi, với bao kỷ niệm cùng Hội quán Hội Ngộ, nay đã thành Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn, hàng chục ngàn người yêu nhạc Trịnh đã đến đây lắng nghe những giai điệu về thân phận đời người, khắc khoải bao nỗi niềm của tâm hồn Trịnh. 
Nhân dịp này, vào ngày 4/4/2011, mọi người sẽ tổ chức tại đây một Liveshow, với chủ đề “Huế-Sài Gòn- Hà Nội”; hát những bài hát của ông để tưởng nhớ và đón ông về… nhà. 
Sinh thời, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nguyện mình là kẻ hát rong, thì đâu còn chốn riêng tư cho mình. Nay đây mai đó, ở trọ với đời và mỗi ngày ông chọn một niềm vui. Hẳn thế người đời đã hát của ông: Tôi nay ở trọ trần gian/ Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời...” 
Nhưng dù ở cõi tạm trăm năm, ông sống với tình yêu lớn lao với nhân gian. Về không gian ngỡ như nơi trú ngụ hữu hạn, nhưng về thời gian không chỉ có chốn xa xăm cuối trời kia, mà ông đã sống bằng hàng triệu cuộc đời và tình nghĩa lại không cùng. Cái vô hạn của tình yêu cuộc sống ấy đã đem lại những niềm xúc động lớn lao cho người đời. 
Chính những nỗi đam mê trong tình yêu của ông đã bao trùm sự sống và tạo nên những mỹ cảm trác tuyệt trong bi kịch của số phận. “Mỗi ngày, tôi chọn một niềm vui”, dù là “Biển nhớ” hay “Cỏ xót xa đưa”...Tất cả đều trở về với quán trọ tình yêu trong ông. Những nỗi buồn trong con tim ông đã đập theo một nhịp điệu khác lạ, nó lung linh hơi thở của nắng, nó reo vui theo khúc ca của biển cả, nó lắng đọng theo cánh diều tuổi thơ và nỗi buồn ấy đã trở thành một thánh địa ca tụng tình yêu. 
Cái quán trọ trần gian này không chỉ còn là hình ảnh đơn lẻ khiêm nhường mà chính là bầu trời và đất mẹ đã nuôi dưỡng ông với nguồn sống bất tử, qua những giá trị tinh thần của một dân tộc, bền vững trong cuộc đấu tranh giành lấy độc lập, tự do và bác ái. Và thật kỳ diệu thay, chính từ cái quán trọ tình yêu ấy ông đã viết tiếp những ca khúc để trả nợ đời như một sự dâng hiến trọn vẹn. 
Có thể nói niềm hân hoan về cuộc sống mới đã reo ngân trong những lời ca giàu sức truyền cảm qua “Chiều trên quê hương tôi”, “Quỳnh hương”, “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, “Em còn nhớ hay em đã quên?”, “Đời gọi em biết bao lần”, “Huyền thoại mẹ”, “Nhớ mùa thu Hà Nội”... Và đặc biệt ca khúc “Đồng dao 2000” đánh dấu một điểm chói sáng về niềm vui và tình yêu của ông đối với dân tộc. 
Ở nơi quán trọ tình yêu của mình, ông luôn luôn thành thật với mọi chiều tâm tưởng và luôn luôn ngợi ca cuộc sống bằng sự gắng gỏi vượt lên số phận và bằng những giai điệu lạc quan của tâm hồn. Có người nói nỗi buồn của ông là nỗi buồn thánh (Lời buồn thánh) bởi lẽ nó xuất phát từ niềm lạc quan từ bên trong nhịp đập của con tim người nghệ sĩ. Sự ám ảnh của niềm yêu thương lãng mạn qua các ca khúc có sức sống vượt thời gian như: Hạ trắng”, “Lời buồn thánh, Nắng thuỷ tinh”, “Diễm xưa”, “Một cõi đi về”, “Dấu chân địa đàng”... 
Chính từ những bản tình ca xen lẫn hương vị huyền thoại và triết lý ấy đã mở đầu cho kho tàng âm nhạc của Trịnh Công Sơn với những khát vọng về hoà bình cho quê hương và ông đã nguyện sống trọn kiếp ở trọ trần gian từ đó. Tình yêu của người đời ở các quán trọ trần gian đối với ông thật cũng vô bờ bến, ngoài kỷ lục 2 triệu đĩa năm 1972 phát hành tại Nhật thì tính cho đến nay, ông cũng là người giữ kỷ lục được nhiều người yêu thích nhất từ trước đến nay.

 “Bóng núi”- đêm nhạc nhớ Trịnh Công Sơn. Ảnh: TL
Từ ngày 1/4/2001, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bay trên ngọn gió vô thường, đến nay Hội quán đã tổ chức tới 50 chương trình nhạc Trịnh, với các chủ đề như “Nối vòng tay lớn”, “Vết lăn trầm”, “Diễm xưa”, “Tuổi đời mênh mông”, “Hãy yêu nhau đi”, “Người về bỗng nhớ”... và mới đây là “Phúc âm buồn”. Đặc biệt nhiều đêm thu hút tới năm, sáu ngàn người đến nghe. Cùng với các đêm hoạt động âm nhạc tưởng nhớ nhạc Trịnh, nơi đây còn thực hiện nhiều chương trình của các nhạc sĩ khác như Phan Huỳnh Điểu, Bảo Phúc, Trần Mạnh Tuấn, Đỗ Lộc... 
Đáng chú ý là toàn bộ hội viên và người yêu nhạc Trịnh đến đây đều không phải mua vé trong những đêm ca nhạc. Điều này đã có sức thu hút ngày càng đông người nghe và tạo điều kiện cho những ca sĩ chuyên hoặc không chuyên đều có thể đóng góp xây dựng các chương trình nhạc Trịnh ngày một có chất lượng cao hơn. 
Nhà thơ Đỗ Trung Quân, người thường rất có duyên khi dẫn chương trình đêm nhạc Trịnh Công Sơn, đã tâm sự: “Những đêm nhạc Trịnh tại Hội quán Hội Ngộ thực sự được anh em chúng tôi dành nhiều tình cảm, tâm huyết để xây dựng chương trình, các ca sĩ cũng không lấy cát- xê và hát hết mình cho những ca khúc Trịnh Công Sơn, nên chương trình được công chúng rất mến mộ”. 
Người xem vẫn còn nhớ, mỗi người nghe nhạc Trịnh theo cách riêng của mình, người thì thắp nến, người lại ngồi nhắm mắt trên thảm cỏ, hoặc có người nhẩm hát theo từng lời bài hát một cách nhỏ nhẹ, da diết...Thậm chí có những người làm chương trình đã bỏ tiền túi ra thuê dàn âm thanh, ánh sáng với chất lượng cao để giọng hát và kỹ thuật biểu diễn của ca sĩ truyền cảm nhất đến với người nghe. 
Hầu hết những chương trình tưởng niệm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, các nhà tổ chức thường hướng khán giả nghiêng về phần nghe nhiều hơn phần nhìn. Nhiều chương trình thể hiện rất mộc nhưng lại độc đáo và có sức truyền cảm sâu sắc. Người nghe chìm đắm trong từng ca từ, từng nốt nhạc. 

Họ ngồi bên nhau, lắng nghe nhau, những nhịp đập của con tim, như một sự sẻ chia trong tâm cảm muôn nỗi cùng cõi thiền của Trịnh Công Sơn. Đúng với nghĩa tâm linh mà chính nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã tự nhận mình chỉ là người hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về sự sống và con người. 
Ở đây nhiều bạn hữu của ông đã trao tặng khá nhiều kỷ vật gắn bó với sự nghiệp hơn 45 hoạt động âm nhạc của Trịnh Công Sơn. Ngoài những pho tượng chân dung và nhiếp ảnh ghi lại những thời kỳ hoạt động đặc biệt của nhạc sĩ, nhà lưu niệm còn lưu trữ số lượng tư liệu lớn và hàng chục loại ấn phẩm CD, VCD, DVD với nhiều giọng hát, qua nhiều giai đoạn khác nhau khi trình bày ca khúc của Trịnh Công Sơn. Đáng chú ý có hai bộ CD, một của Khánh Ly và một nữa của giọng hát Trịnh thời còn xuân sắc trẻ trung trước 1975, ắt sẽ làm người nghe ngạc nhiên, yêu mến và cảm động. 
Tại nhà lưu niệm còn có cuốn sách của nhà xuất bản Văn nghệ TP.HCM phát hành tháng 11/2001, đã lưu lại những tình cảm xúc động, thương mến và kính trọng của gia đình, bạn bè và khán giả đối với người nhạc sĩ mà mình mến mộ đã sớm rũ bụi đường dài, về cõi hư vô. Sách có chương “Suy tưởng” độc đáo và những bút tích thơ, họa của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. 
Những tâm sự thật lòng của ông làm xúc động trái tim hàng triệu người đọc với những lời bộc bạch tự sâu thẳm con tim, trong bài phác thảo chân dung mình: “Nhìn lại quãng đường mình đã đi, tôi cảm thấy không có gì phải ân hận. Tôi vẫn là đứa trẻ thơ trong nghệ thuật, lòng còn tràn đầy cảm hứng. Tôi vẫn còn ham mê học hỏi quanh mình và còn đủ hào hứng mở ra những cuộc đối thoại, độc thoại với cây cỏ thiên nhiên, với con người, qua ca khúc dưới ánh sáng hiền hòa nhân hậu của những ngày tôi đang sống”. 
Năm nay, với kỷ niệm “10 năm nhớ Trịnh Công Sơn”, có 7 liveshow lớn sẽ được tổ chức tại những thành phố lớn trên toàn quốc, công bố nhiều tư liệu quý về những kỷ niệm của ông với bạn bè, đồng nghiệp. Và, cũng tại ngôi nhà cuối cùng này của ông, người đẹp Dao Ánh, em gái của “Diễm xưa”, một mối tình thao thiết ngày nào của Trịnh, sẽ cho công bố 300 bức thư tình mà mình đã đón nhận từ người nhạc sĩ tài hoa này. Số là vào năm 1962, Trịnh Công Sơn ngó mắt tới người đẹp Ngô Thị Bích Diễm, mỗi khi đi qua nhà mình ở đầu cầu Phú Cam. 
Cô nữ sinh này có dáng cao, nét mặt trong sáng thông minh, nhìn rất đài các và hấp dẫn, với bước đi khoan thai nhẹ nhàng trên đường phố Huế. Nhưng mối quan hệ này bị gia đình nhà Diễm phản ứng, bởi hình ảnh cậu học trò Trịnh Công Sơn hay rong chơi với giới xướng ca vô loài ấy sẽ chẳng có tương lai. Thế là “Diễm xưa” ra đời trong cuộc tình đắm say một phía của anh chàng họ Trịnh. Nhưng rồi trong những lần lén đến nhà Diễm chơi, Trịnh Công Sơn bất ngờ bị một tình yêu sét đánh khác, làm anh thẫn thờ, đó là sự xuất hiện của Dao Ánh, em gái Bích Diễm.

Tình chị chưa tới, thì tình em lại hút hồn người nhạc sĩ đa tình này. Khác với nét đẹp quý phái của chị, Dao Ánh lại huyền diệu bởi sự dịu dàng, đoan trang, với ánh mắt mơ mộng, hồn nhiên. Để tỏ tình một cách sâu kín nhất không gì bằng âm nhạc, Trịnh Công Sơn đã rung động mạnh với tình yêu của mình qua những ca khúc như “Mưa hồng”, “Tiếng hát dạ lan”, “Mặt trời ngủ yên”. Mối tình này còn vương vấn tới hai mươi năm sau, khi gặp lại Dao Ánh, nhạc sĩ vẫn còn viết tặng người đẹp ca khúc “Xin trả nợ đời”. 
Tuy mối tình không đi tới hồi kết, nhưng hai người vẫn trao gửi thư từ với nhau, khi người đẹp Dao Ánh ra nước ngoài sinh sống với gia đình. Mối tình qua những cánh thư đẹp và lãng mạn biết bao. Nhà thơ Nguyễn Duy, người được gia đình nhạc sĩ trao quyền biên tập và xuất bản, đã tâm sự: “Cách viết thư tình của Trịnh Công Sơn rất hay, rất xúc động. Chắc chắn cuốn sách này sẽ gây nhiều bất ngờ. Bởi trong đó, không chỉ có câu chuyện tình yêu giữa hai người mà còn cho người đọc thấy được nhiều thăng trầm của thời cuộc. Tôi nghĩ đây là một biểu tượng của tình yêu”. 
Mười năm! Không, chẳng kể mười năm mà một ngày nào đó, mệt mỏi và có những nỗi niềm cần chia sẻ, bạn đến đây, với Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn, bao giờ cũng có thể nghe một bản nhạc ru chậm rãi vang lên, vỗ về an ủi bạn. Bởi nhạc của ông như một con đò chuyên chở nắng mưa, hoa quả, buồn vui... đúng như ông tâm sự, từ bến bờ này đến bến bờ khác, từ người này đến người khác chia sẻ mọi cung bậc tình yêu... 
Vương Tâm
                                      

Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng trong thơ mới

Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng trong thơ mới 
    Vào những năm 60-70 của thế kỷ XIX văn học Pháp bàng hoàng trước sự xuất hiện của trào lưu thơ tượng trưng gây nên cơn địa chấn làm lay động thi đàn. Những thi tài như Charles Baudelaire, Paul Varlaire, Arthur Rimbaud,…đã tập hợp một lực lượng nhà thơ trẻ cùng giương cao ngọn cờ tượng trưng chủ nghĩa. Chủ nghĩa tượng trưng không chỉ gieo mầm, nở hoa kết trái trên mảnh đất văn học mà còn mở rộng địa hạt sang các lĩnh vực như sân khấu, hội họa, âm nhạc, trở thành hiện tượng văn hóa trên toàn Châu Âu. Bước sang thế kỷ XX, chủ nghĩa tượng trưng đã lan tỏa, tìm được một vị thế của mình trong thơ ca hiện đại phương Đông trong đó có Việt Nam.
Ảnh hưởng là một quy luật phổ biến trong giao lưu văn hóa. Trong văn học, việc tiếp nhận và tiếp biến những yếu tố bên ngoài là điều không thể thiếu để phát triển. Bằng một cuộc cách mạng, Thơ mới Việt Nam (1932-1945) đã đi vào quỹ đạo hiện đại, làm bừng nở một vườn thơ dậy cả sắc hương. Nơi đây, hội tụ những tinh hoa văn hóa Đông - Tây trong cốt cách, tâm hồn việt. Đó là những thành quả của những năm tháng cách tân, vun trồng không nghỉ và sáng tạo của người nghệ sĩ. Chưa bao giờ thấy thi ca nở rộ nhiều khuynh hướng như: trường thơ loạn của Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, trường thơ tượng trưng của Bích Khê…Trong quá trình tiếp biến chủ nghĩa tượng trưng, Thơ mới có những phát triển vượt bậc về nghệ thuật. Chỉ hơn 10 năm, phong trào Thơ mới đã “trình chánh giữa làng thơ” một dàn hợp xướng mang phong cách hiện đại: Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Huy Cận, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương, Đoàn Phú Tứ…
Với những vấn đề trên chúng tôi đã chọn đề tài “Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong Thơ mới Việt Nam 1932-1945” với mục đích tìm hiểu nghệ thuật Thơ mới trong sự tiếp biến chủ nghĩa tương trưng.
Đi tìm ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đối với phong trào Thơ mới Việt Nam, TS. Trần Huyền Sâm phát hiện: “Mỗi nhà thơ ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng ở mỗi phương diện khác nhau, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của mình. Và ngay trong mỗi nhà thơ, tính chất lãng mạng và tượng trưng luôn giao thoa cùng nhau. Xuân Diệu tìm thấy ở chủ nghĩa tượng trưng một bản nhạc huyền diệu giữa ánh sáng, hương thơm và màu sắc. Vũ Hoàng Chương và Bích Khê tìm thấy một thế giới âm nhạc mênh mông, hư ảo. Hàn Mạc Tử tìm trong thế giới vô thức, siêu thực, bí ẩn – cái siêu thăng của tâm hồn”.

       Chủ nghĩa tượng trưng đã ngự trị ở phương Tây gần nữa thế kỷ và chịu ảnh hưởng sâu sắc đến các nước phương Đông, đặc biệt là trào lưu Thơ mới Việt Nam 1932-1945. Bằng quan niệm mới về nghệ thuật, chủ nghĩa tượng trưng “mở ra một thế giới cho tư duy thơ”, giúp chúng ta đi sâu vào cõi vô tận, khám phá những gì mơ hồ, huyền bí nhất trong thiên nhiên, tạo vật và lòng người.
 Chủ nghĩa tượng trưng có gì khác so với chủ nghĩa lãng mạng trong quan niệm sáng tác nghệ thuật?
Chủ nghĩa tượng trưng cho rằng, bản thân thế giới là “không rõ ràng”, người nghệ sĩ phải biết “tìm thấy trong cuộc phiêu lưu của thơ ca cách thức khám phá ra cái điều chưa được biết tới”. Người nghệ sĩ không chỉ cảm thấu thế giới bên ngoài, mà còn nhận biết thế giới bên trong; không chỉ nắm bắt cái hiện hữu, mà còn nghe thấy, cảm thấy cái vô hình, cái bí ẩn, mơ hồ nằm trong một màn sương dày đặc. Để tìm ra một sợi dây liên hệ giữa thế giới vô thức và thế giới hữu thức, người nghệ sĩ phải có một cái nhìn “thấu thị” xuyên suốt các sự vật để có thể “chọc thủng” màn sương bí ẩn, mơ hồ đó, nhằm tìm ra chân lý đích thực của nghệ thuật. Nói như nhà thơ tượng trưng Bỉ Vecharen: “Tượng trưng là sự thăng hoa của tri giác và cảm giác, nó không chứng minh gì, mà làm nảy sinh một trạng thái ý thức, nó phá vỡ mọi ngẫu nhiên, nó là biểu hiện cao nhất tinh thần mà nghệ thuật có thể được”. Các nhà tượng trưng cho rằng, tính chất cảm xúc, trữ tình của chủ nghĩa lãng mạng không thể giúp họ hoàn thành thiên chức của người nghệ sĩ, họ phải cần đến “sự tổng hòa các giác quan”. Phát huy tối đa sự cộng hưởng giữa các giác quan ấy, nó có thể mang lại cho chúng ta một bản nhạc huyền diệu trong sự giao thoa giữa các âm thanh, màu sắc, ánh sáng và hương thơm.
Đây là một đặc điểm vượt xa thi pháp lãng mạn, tiến đến một phương pháp mới trong nhận thức thực tại: không giải bày tình cảm một cách trực tiếp, không miêu tả, giải thích sự vật một cách lồ lộ, rõ nghĩa. Ở đây, “ý nghĩa được gợi nên bởi sự tượng trưng hoàn toàn không tồn tại trong chính ý tưởng đó; nó được nảy sinh từ sự xích lại gần nhau của những cảm giác và những thực tế cụ thể thường là tách biệt với nhau”.
Chủ nghĩa lãng mạng thường thiên về cảm xúc, tính trữ tình; chủ nghĩa tượng trưng thiên về cảm giác, về tính biểu tượng, về sự tương hợp giữa các giác quan nhằm tạo ra “một mạng lưới các ý tưởng” mơ hồ, bí ẩn: “Với chủ nghĩa lãng mạng, ngôn từ thơ là ngôn từ diễn cảm; với chủ nghĩa tượng trưng, ngôn từ thơ là ngôn từ của sự tương hợp, của những mối quan hệ con người và sự vật…nó khai thác giấc mơ vô thức. Nó biểu đạt cái tâm hiện đại bằng ngôn từ hiện đại, hay những phiêu lưu của ngôn từ, những nhịp thơ siêu tự nhiên, những lặng im tạo âm vang, những câu thơ đứt, nối, không ăn khớp, những duyên dáng tế nhị”.
Đặc biệt các nhà thơ tượng trưng rất chú trọng đến quan niệm tương ứng các giác quan. Quan niệm này đã trở thành một nguyên tắc thẩm mỹ trong sáng tạo thơ ca của chủ nghĩa tượng trưng Valery đưa ra một định nghĩa về thơ gắn với nguyên tắc tương hợp: “Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa”. Verlaine quan niện thơ như một bản nhạc mong manh, hư ảo, huyền hồ. Rimbaud lại cho rằng, người nghệ sĩ phải đến với thơ ca bằng con đường thấu thị của một kẻ có thiên nhãn: “Thi sĩ phải làm cho mình thành người có thiên nhãn bằng sự rối loạn lâu dài, rộng khắp và có sự suy tính tất cả các giác quan,…bởi lẽ các giác quan gắn bó ta với thực tại, trở thành tấm màn chắn ngăn ta chẳng thấy được gì xa hơn…Nhà thơ có thiên nhãn cần tìm cho mình một ngôn ngữ thích hợp. Ngôn ngữ này sẽ là của tâm hồn nói với tâm hồn, thâu tóm tất cả mùi hương, âm thanh, màu sắc của tư duy bám riết lấy tư duy và lôi kéo…”. Với quan niệm này, Rimbaud để “sự buông thả vô độ cho các giác quan”, giúp cho nhà thơ nhìn thấu suốt mọi tâm hồn và sự vật.
Nhưng có lẽ quan niệm “tương ứng các giác quan” được thể hiện rõ nhất trong sáng tác của Baudelaire. Trong bài tương ứng, nhà thơ đã tìm thấy mối dây liên hệ siêu việt, vô hình giữa vũ trụ, con người và tạo vật:
Vũ trụ là một ngôi đền mà trụ cột thiên nhiên
Thỉnh thoảng nói lên những lời mơ hồ, bí ẩn
Con người đi qua, cả một rừng biểu tượng
Nhìn chúng ta với những con mắt thân quen
Như những tiếng vọng dài, từ rất xa hòa xướng
Trong một âm thanh duy nhất, sâu thẳm tối đen
Mênh mông như ánh sáng, mênh mông như bóng đêm
Hương sắc và âm thanh trong không gian tương ứng
Quả thật, bằng “cảm quan về cuộc sống sâu xa của tinh thần” Baudelaire đã đánh thức vùng vô thức ngủ yên trong con người trở nên linh động, tỏa sáng soi rọi vào cái đẹp huyền diệu, tiềm ẩn đằng sau sự vật, hiện tượng. Baudelaire cho rằng “Cái đẹp bao giờ cũng lạ lùng…cái bất ngờ trong cuộc sống bên ngoài, cuộc sống bên trong, ở những trường hợp giữa hai cuộc sống ấy”. Nhà thơ tượng trưng không chỉ miêu tả hiện thực khách quan, không diễn giải, phơi bày tình cảm mà khám phá, nắm bắt lòng người, tạo vật thông qua biểu tượng bằng phép loại suy. Đây là một nguyên tắc mĩ học của thơ tượng trưng vượt qua thi pháp lãng mạng, làm nảy sinh ra một lối tư duy mới trong nhận thức thế giới.
Để mở cánh cửa của một cõi vô tận đó, Baudelaire đã phát huy tối đa phương thức kết hợp tượng trưng: “Ông táo bạo kết hợp những hình ảnh cụ thể hay những cảm giác, chăm chút những phép tỉnh lược và tạo ra như vậy những liên kết có chất nhạc và ngữ nghĩa mới. Từ đó nảy sinh một quan hệ mới với thế giới mà trong đó có cảm giác lẫn lộn với nhau và những mâu thuẫn đớn đau biến mất. Tâm hồn có thể “uống ừng ực hương thơm, âm thanh và màu sắc”.
Tóm lại, thơ tượng trưng là một trào lưu văn học hiện đại. Trong quá trình sinh thành, phát triển nó gặp không ít cản trở, phản ứng từ nhiều phía. Nhưng vượt qua mọi thử thách, chủ nghĩa tượng trưng đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình đoạn tuyệt hẳn với nền văn học truyền thống mở ra một nền văn học mới, hiện đại.
 Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong phong trào Thơ mới
 Nằm trong dòng chảy của quá trình hiện đại hóa văn học trong nửa đầu thế kỷ XX thơ ca Việt Nam không ngừng vận động và phát triển tạo nên những cú nhảy ngoạn mục, đem đến nhiều biến chuyển sâu sắc, rộng lớn cả chất lẫn lượng. Đặc biệt, phong trào Thơ mới đã làm nên cuộc cách mạng trong lịch sử thơ ca dân tộc, đánh thức “bình minh thơ ca văn học hiện đại”. Phong trào thơ mới quy tụ một lực lượng trí thức Tây học trẻ, táo bạo, có tâm huyết muốn cách tân đem lại những cấu trúc hiện đại phương Tây vào thi ca Việt Nam. Trong sự va chạm với tiếng nói văn hóa phương Tây trước hết là “cuộc gặp gỡ với văn học Pháp và nhất là thơ ca pháp mang lại (…) một dòng máu mới của tâm hồn” tạo nên “Cái vẻ đẹp riêng huy hoàng của buổi bình minh thơ văn học hiện đại, đa giọng điệu, nhiều trường phái lắm phong cách”.
Phong trào Thơ mới là nơi gặp gỡ, kết tinh văn hóa Đông - Tây. Các nhà thơ thông qua trường học, sách báo, dịch thuật đã tiếp xúc, làm quen với các trào lưu văn học hiện đại vốn đã phát triển hoàn chỉnh ở phương Tây. Vì thế, trong lúc phôi thai cho đến khi những đứa con tinh thần của họ chào đời, mầm sống ấy được nuôi dưỡng bằng nhiều nguồn dưỡng chất. Theo GS. Hoàng Nhân, nó “không phải chỉ chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạng Pháp đầu thế kỷ XIX mà còn chịu ảnh hưởng tổng hợp của các khuynh hướng văn học cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX như chủ nghĩa tượng trưng, nghệ thuật vị nghệ thuật, chủ nghĩa ấn tượng, chủ nghĩa siêu thực. Như vậy chỉ hơn một thập kỷ, Thơ mới đã đi trọn con đường hơn một trăm năm thơ Pháp.
Đến với miền tóc vàng tuyết trắng, thơ tượng trưng nhanh chóng tìm được tiếng nói đồng cảm ở tầng lớp trí thức trẻ. Đặc biệt, những bông hoa áctạo ra một sức hấp dẫn lạ thường. Hầu hết họ bị ám ảnh bởi tính chất hiện đại của thơ Baudelaire. Xuân Diệu, Huy Cận, Đoàn Phú Tứ học được ở Baudelaire “nghệ thuật tinh vi”, cách sáng tạo những bản nhạc huyền diệu bằng sự liên tưởng tinh tế, sự hòa hợp tương giao giữa âm thanh, màu sắc hương vị. Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, “cặp song sinh” của trường thơ loạn đã viết nên những vần thơ kỳ ảo, kinh dị, ma quái từ cái siêu thăng của tâm hồn. Lưu Trọng Lư , Bích Khê tìm thấy giai điệu dịu dàng, trong sáng, mênh mông, hư ảo, huyền hồ trong thơ Verlaine. Đặc biệt là Xuân Thu nhã tập, nâng thơ lên thành Đạo thiêng liêng, cao quý. Họ xem thơ như là cái gì thanh khiết, cao siêu vì thơ khởi phát từ “cái rung động siêu việt, trong trẻo nhịp nhàng của bản nhạc vô cùng”.
Xuân Diệu, một trong những nhà thơ sớm ảnh hưởng của Baudelaire. Trong bài diễn thuyết tại trường Sorbonne, ông nói: “Với Baudelaire, tôi đi toàn vẹn vào tính chất hiện đại của thơ”. Trong quan niệm sống và yêu “cùng với Baudelaire, Rimbaud, Verlaine… Xuân Diệu của chúng ta hăng hái, say mê đi tìm ảo ảnh trong mộng để an ủi hồn mình, muốn đến với cả hoan lạc thân xác cho lịm đi những khoắc khoải giữa đời thường”
Trăng, vú mộng đã muôn đời thi sĩ
Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy
(Ca tụng – Xuân Diệu)
Xuân Diệu nói đến thân xác nhưng không gợi cảm giác sa đọa, trụy lạc, chán chường. Đến “Trường thơ loạn” cái mực thước, thanh tao, trang nhã của thơ truyền thống không còn chỗ đứng. Cái đẹp giờ đây mở rộng biên độ nội hàm, tiếp nhận những yếu tố quái dị, tính dục. Trong lời tựa cho tập “Điêu tàn”, Chế Lan Viên viết:
Trong thơ ta dân Chàm luôn sống mãi
Trong thơ ta xương máu khóc không trôi
Để phục sinh một thời vàng son của dân tộc Chăm - Pa, nhà thơ quay ngược cổ máy thời gian về quá khứ. Ông tìm thấy những rung cảm trong sự tuyệt vọng, hãi hùng, kinh dị điên cuồng với muôn vàng âm thanh man rợ: “Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt đầu, nó khóc trào máu mắt, nó cười tràn cả tủy là tủy”.Chúng có sức thu hút ghê gớm và trở thành biểu trưng nghệ thuật đầy cám dỗ. Các nhà thơ loạn truy tầm cái đẹp từ trong cái chết, trong trạng thái “máu cuồng và hồn điên”.Chính Hàn Mạc Tử thừa nhận khi sáng tác, thi sĩ ở trạng thái “mê sảng”, “chiêm bao”, “mất trí” tức là dựa vào tìm thức, trực giác nảy sinh tức thời không có sự can thiệp của lý trí:
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da
(Rướm máu – Hàn Mạc Tử)
Nói đến dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng trong Thơ mới, chúng ta không thể bỏ qua quan niệm “tương ứng cảm quan” của Baudelaire. Các nhà thơ mới đã phối ứng lại thế giới tự nhiên theo những chiều kích thước khác nhau. Bích Khê tận hưởng trong điệu nhạc cái hương vị “mát như xuân và ngọt tợ hương” hay ngây ngất đê mê trong không gian ảo, trộn hòa muôn hương sắc, nó dẫn dắt hồn thi sĩ lạc vào vùng mộng tuyết bến xa khơi. Huy Cận Đi giữa đường thơm đã cảm thấu “trong không khí…hương với màu hòa hợp”. Cái nhìn thế giới trong tính thống nhất “tối tăm và sâu thẳm”, “thiên nhân hợp nhất” giúp họ phát huy tối đa sức mạnh giao thoa, mở rộng tâm hồn, thăng hoa cảm xúc. Hàn Mạc Tử khi tan biến vào ánh trăng định mệnh đã ngửi thấy mùi hương. Vọng nghe tiếng nhạc: “Trăng là ánh sáng nhất là giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm và nếu người cho thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều tiếng nhạc say say gió xé rách lả tả”(Chơi giữa mùa trăng).
Hơn ai hết Xuân Diệu đã vận dụng thuần thục lời thầm chú của Baudelaire để mở ra cánh cửa huyền diệu cho thi ca:
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn
Như hương thấm tận qua xương tủy
Âm điệu thần tiên thấm tận hồn
Bài thơ là một bản hợp tấu của hương thơm, màu sắc, âm thanh. Chúng được nhà thơ cảm thấy, nghe thấy, nhìn thấy, ngửi thấy, nếm thấy…khó lòng mà nói hết khả năng cảm quan tương ứng của Xuân Diệu, song cũng phải thừa nhận hồn thơ thi nhân như một cung đàn đã lên đúng tông độ chỉ cần một làn gió thoảng qua, một mùi hương đưa lại hay một rung động khẽ càng khiến nó ngân lên muôn vàng giai điệu giao hòa.
Trong đau thương, Hàn Mạc Tử chết lịm, mê man với hồn, với máu, trăng. Chúng bao bọc, vắt kiệt tinh lực nhà thơ vì ở đâu cũng đầy trăng, đầy máu, đầy hồn nhưng chúng cũng là nguồn cảm hứng sáng tạo vô biên:
Không gian dày đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng
(Huyền ảo-Hàn Mạc Tử)
Gió rít từng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
(Say trăng-Hàn Mạc Tử)
Trăng trong thơ Hàn Mạc Tử không đem lại cảm giác thanh bình, tĩnh lặng như trong thơ thiền hay làm chứng nhân cho lời thề nguyền, hẹn ước của đôi tình nhân Kim - Kiều trong “Truyện Kiều”: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Đinh ninh hai miệng, một lời song song”. Nó là bầu khí quyển bao quanh mọi cảm giác, suy tưởng có khi nó lẫn vào thân xác, tan biến trong linh hồn để rồi thi sĩ mửa ra toàn là máu, toàn trăng, toàn hồn. Ba biểu tượng ấy biến hóa vô cùng: khi hữu hình, khi vô hình, khi mê hoặc, khi kinh hoàng, khi trần tục, khi thiêng liêng. Song chúng thể hiện sự nhất quán trong sáng tạo nghệ thuật bởi thi nhân muốn làm người “khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo” và hát vang “âm điệu thiêng liêng khi máu cuộn rền vang dưới ngòi bút”. Do đó không có gì lạ khi ta bắt gặp trong thơ Hàn Mạc Tử một thế giới tràn ngập ánh sáng của trăng, một điềm ác mộng của hồn, một niềm đau thương, nhiệm màu của máu và ẩn sau đó là lòng yêu cuộc đời. Lòng yêu ấy lại ẩn dấu trong những ý thơ lạ ngỡ như điên rồ.
Bích Khê cũng tìm đến với sọ người nhưng nó không đem lại cảm giác ghê rợn, chết chóc điên cuồng như Chế Lan Viên. Tác giả không mô tả trực tiếp mà chỉ đưa ra những gợi ý liên tưởng, loại suy nên sọ người trong mắt thi nhân hóa thành “bình vàng”, “chén ngọc”, “hồ nguyệt” có sức ám thị người đọc. Theo Đỗ Lai Thúy: “Từ Bích Khê trở về sau, ưa dùng những biểu tượng trùng phức và gợi ý”. Bởi lúc này, cái nhìn thế giới của nhà thơ không còn đơn tuyến mà đa diện, không chỉ hữu thức mà cả vô thức, nên “thơ là sự giăng mắt đi về giữa hai thế giới. Biểu tượng thi ca, bởi vậy phải chuyển từ đơn sang phức”. Cho nên đối diện với cái sọ người, Bích Khê liên hệ tới “tiền thân” của nó. Từ đó, cái sọ người liên tục chuyển kênh tạo ra những hình ảnh kì ảo, lạ lẫm:
Ôi khối mộng của hồn thơ chếch choáng!
Ôi buồn xuân hơ hớ cánh đào sương!
Ôi bình vàng! Ôi chén ngọc đầy hương!
Ôi thân tình! Người chứa một trời thương.
Nhìn chung biểu tượng trong thơ Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê mang tính chất tâm linh. Vì thế mật mã để độc giả đối thoại với “rừng biểu tượng” này chính là thiên nhãn, linh cảm về cái siêu nhiên, huyền bí của vũ trụ lòng người.
Một đặc điểm nữa là Thơ mới in dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng “là để thể nghiệm thế giới tiên nghiệm, thế giới chiêm bao và tiềm thức” cần phải “mang tinh thần âm nhạc” vào thơ ca. Thơ mới đã nhấn mạnh thêm một bước trên con đường chinh phục âm nhạc hiện đại cho thơ. Đó cũng là nguyên nhân dẫn dến sự bùng nổ và thắng thế của Thơ mới. Nói như thế không có nghĩa là thơ cổ điển không chú ý đến nhạc điệu. Trái lại các nhà thơ xưa có hẳn một tiêu chí “thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc” nhưng “tính nhạc của thơ được tạo ra bằng âm thanh những từ được lựa chọn, sắp đặt cốt sao khuôn theo những thi điệu có sẵn (miễn là đúng niêm luật), thành ra trong thơ cũ, âm thanh và ý nghĩa bị tách ra, mỗi thứ một đường. Vì từ được sử dụng với nghĩa thông thường, có sẵn nên nội dung thơ “tầm thường”, vì âm thanh của từ được khuôn vào thi điệu có sẵn nên nhạc điệu thơ trống rỗng”. Còn trong Thơ mới, âm nhạc là vị cứu tinh giúp thơ đạt tới quyền lực siêu nhiên, đi sâu khám phá bản chất của tạo vật và nội tâm. Đồng thời, nhạc điệu Thơ mới ngân lên từ điệu tâm hồn của chủ thể không bị gò ép, uốn nắn cho hợp thể nên giữ được tính độc lập, đa dạng, tinh tế. Đỗ Đức Hiểu cho rằng: “Tính nhạc trong Thơ mới, luôn biến đổi, nó phối hợp hòa âm với nghịch âm, tính nhạc hòa trộn với tâm trạng thi nhân chuyển động từng giây, từng phút”. Vì vậy, nhạc không tách rời ý nghĩa, nói như Valery: “Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa”. Nhạc ở đây được cất lên một cách tự nhiên từ cõi lòng sâu thẳm của nhà thơ. Luật bằng trắc bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Tính nhạc được vang lên từ điệu thơ, mà cội nguồn sâu thẳm của nó là cảm xúc của thi nhân. Bởi vậy, trong thơ hiện đại phương Tây cũng như Thơ mới Việt Nam, có những bài thơ không vần nhưng vẫn mang nhạc tính cao. Chẳng hạn trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu, tuy không phụ thuộc vào niêm luật chặt chẽ như trong thơ cổ điển nhưng vẫn mang tính nhạc cao:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạc mất
Tôi muốn buột gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Tất nhiên, vần bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng trong thơ, nhưng đến Thơ mới, vần không còn là một yếu tố mà nghệ sĩ phải “nô lệ” chúng. Vần bị lôi kéo bởi nhạc lòng, bởi cảm hứng êm dịu hoặc cuồng nhiệt của nhà thơ. Bởi vậy mà âm nhạc trong thơ được thể hiện muôn hình vạn trạng như thế giới tâm hồn đa dạng của thi nhân. Đây  là một cách tân lớn trong sự thể hiện cảm xúc và quan niệm thẩm mỹ của thơ ca Việt Nam.
Âm nhạc đã mê hoặc, dẫn dắt thi sĩ bước đi như người mộng du vào thế giới thực hư, huyền ảo của miền quá khứ trong cảm xúc bồng bềnh, chơi vơi:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lên lòng chơi vơi
(Nhị hồ-Xuân Diệu)
Nếu Xuân Diệu học tập thơ tượng trưng Pháp cách tạo nhạc cho thơ ở bước thể nghiệm thì đến Bích Khê, Xuân Thu nhã tập được triển khai trên bình diện rộng với những phá cách táo bạo…Bích Khê có hẳn một bản nhạc đàn được phối kết từ nhiều thanh âm: Mộng cầm ca, Tỳ bà, Tiếng đàn mưa... Với nhạc thi sĩ thể hiện cách thẩm âm độc đáo, lạ lẫm, không bằng thính giác mà bằng cõi lòng, bằng tâm hồn siêu thăng trong trạng thái ngưng động đặc biệt:
Thơ bay! Thơ bay vô bàn tay ngà.
Thơ ngà ngà say! Thơ ngà ngà say!
Nàng ơi! Đừng động… có nhạc trong giây!
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trong mây
Nhạc vô cung hường, nhạc vô đào động
Ôi nàng tiên nương! Hớp nhạc đầy sương…
Hàn Mạc Tử cho rằng: “Thi sĩ Bích Khê có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế, thì sự thực sẽ trở thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu”. Nhạc chính là thế giới huyền diệu đó - một thế giới thăng hoa được kết tụ bằng hương thơm, màu sắc và ánh sáng. Một thế giới huyền diệu được cảm nhận trong niềm hoan lạc vô biên. Bích Khê đã chạm đến những cõi đã tưởng chừng như hoàn toàn vô hình, mờ ảo, hoa mộng, đào động, nàng tiên nương…nhưng chúng vẫn hiển linh; bởi tất cả những hình ảnh đó đều biến ảo, lùi xa vào cõi mơ hồ, nhường cho âm thanh của thế giới huyền diệu ấy vang lên, ngân lên, dội vào sâu thẳm của lòng người.
Theo Hoài Thanh, bài thơ Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ là “ một lối thơ rất tinh tế và kín đáo…hình ảnh mờ quá…Có khi ý nghĩa của bài thơ cũng không hiểu rõ”. Hình tượng có tính triết học Màu Thời gian biểu tượng cho một tình yêu vĩnh cửu. Tình yêu đó không dễ lộ rõ, nó chỉ hiện ra trong sự hòa phối giữa không gian lẫn hương sắc, thanh âm.
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
Một tình yêu không thể cắt nghĩa bằng những ngôn từ thuần túy, những tư duy lôgic, nó vượt lên trên thế giới thực tại, tràn sang bờ hư vô và chiếm lĩnh người đọc một cách “tức khắc, hoàn toàn, tất nhiên”. Biểu tượng Màu thời gian đã có sức ám gợi ghê gớm, nó làm cho tâm trí ta chìm hẳn trong quá khứ để tái hiện những gì đã qua nhưng không dễ mất đi.
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ có thể xem là một bài thơ trong trẻo, gợi cảm, đáng yêu nhất của Xuân Thu nhã tập. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã “chuyển hóa” bài thơ thành một bản nhạc huyền diệu.
Tóm lại, Thơ mới có những cuộc bứt  phá ngoạn mục, nhanh chóng bắt kịp nhịp độ phát triển và hòa vào dòng chảy của thi ca hiện đại thế giới. Đến nay, chúng ta vẫn còn ngỡ ngàng, thán phục trước sự sáng tạo vô biên của các thi sĩ thời bấy giờ. Chỉ hơn một thập kỷ đón cơn gió ngược từ phương Tây thổi lại mà cánh diều Thơ mới đã vụt bay cao. Đặc biệt, là sự gặp gỡ thơ tượng trưng Pháp là tâm điểm thu hút các nhà thơ trẻ, giúp họ tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa thơ ca dân tộc.Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu: Thơ mới Việt Nam chưa thể hình thành một chủ nghĩa tượng trưng như ở phương Tây. Song không thể phủ nhận chủ nghĩa tượng trưng đã in dấu ấn rõ nét và góp phần làm nên giá tri của Thơ mới.  
      Chủ nghĩa tượng trưng đã ngự trị ở phương Tây gần nửa thế kỷ và ảnh hưởng sâu sắc đến các nước phương Đông, đặc biệt là trào lưu Thơ mới Việt Nam. Bằng quan niệm mới về nghệ thuật, chủ nghĩa tượng trưng có khả năng “mở ra một thế giới cho tư duy thơ”, giúp chúng ta đi sâu vào cõi vô tận, khám phá những gì mơ hồ, huyền bí nhất trong thiên nhiên, tạo vật và lòng người. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, phong trào Thơ mới (vào giai đoạn cuối) thực chất là một cuộc hôn phối siêu đẳng giữa tinh hoa thơ tượng trưng Pháp, tinh hoa thơ Đường với tinh hoa của thơ cổ điển Việt Nam. Chủ nghĩa tượng trưng tuy có những nét cảm quan của chủ nghĩa suy đồi nhưng tiềm ẩn trong đó có một sức mạnh diệu kỳ có khả năng cải tạo cuộc đời, tác động tinh thần con người, thậm chí như một hệ nhãn quan, một hoạt động kêu gọi đổi mới xã hội, chống lại thực tại tư sản - một thực tại thù địch với nghệ thuật và các lý tưởng tinh thần. Chính vì thế, chủ nghĩa tượng trưng đã tìm được tiếng đồng vọng ở cả bốn phương và ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của nghệ thuật ở thế kỷ XX. Chủ nghĩa tượng trưng xâm thực vào Thơ mới Việt Nam để lại những dấu ấn đậm nhạt khác nhau ở mỗi nhà thơ, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển, hiện đại hóa thơ ca dân tộc. Hơn nữa các nhà thơ mới đã bắt được nhịp cầu khi “tìm đến trường thơ tượng trưng của Pháp như là tìm đến nơi hội ngộ tuyệt vời giữa tư duy thơ truyền thống nghìn xưa của phương Đông với tư duy hiện đại của phương Tây làm nên diện mạo cho “một thời đại thi ca” Việt Nam.
                                                              Theo http://van.hoctainha.vn/  
                                                              





































Chê vợ - Truyện ngắn Chinh Văn

Chê vợ - Truyện ngắn Chinh Văn Lê từng bước nặng nhọc trên đường, Sen đi như kẻ mộng du. Ngày trước, đi trên con đường nầy lòng cô vui khấ...