Một.
Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi
Tình yêu mật đắng, mật đắng trong đời
Tình yêu như biển, biển rộng hai vai, biển rộng hai vai …
Tình yêu như biển, biển hẹp tay người, biển hẹp tay người lạc lối
Em đi về nơi ấy, nơi đâu nơi đâu, sông cạn đá mòn
Trăng treo đầu con sóng, tan theo tan theo, chút tình xa vắng
Làm sao ru được tình vơi?
À ơi, nỗi đau này người
Tình yêu vô tội, để lại cho ai
Buồn như giọt máu, lặng lẽ nơi này
Trời cao đất rộng, một mình tôi đi, một mình tôi đi
Đời như vô tận, một mình tôi về, một mình tôi về … với tôi.
(Trịnh Công Sơn – Lặng Lẽ Nơi Này)
Hai.
Thưởng thức một bức hoạ và thưởng thức một bài nhạc có nhiều điểm tương đồng,
và cũng có nhiều điểm dị biệt. Đứng trước một bức hoạ tuyệt đẹp, bạn cảm thấy
choáng ngập vì mọi cá tính của bức hoạ hiện ra ngay trước mắt bạn, mọi cảm xúc
về bức hoạ ấy trong một khoảnh khắc gây ngay một dấu ấn trong trí óc của bạn.
Thưởng thức nhạc thì khác hẳn, người nhạc sĩ không thể nào gây một ấn tượng ở
bạn chỉ trong một vài giây, mà bạn phải nghe hết bài mới có thể ít ra cảm nhận
được cái hay của nó. Do vậy, nhạc sĩ phải dùng hết mọi vật liệu trong tay: lời
ca, ý nhạc, tiết tấu, tưong phản, bố cục, v.v. để tạo dựng bài nhạc nhằm chuyển
đạt tâm tình của họ đến bạn. Trong tiểu luận ngắn này, và trong sự giới hạn về
ngôn ngữ và hiểu biết của mình, người viết cũng hy vọng sẽ phác hoạ cho bạn đọc
một cảm nhận riêng về nhạc phẩm “Lặng Lẽ Nơi Này” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
(TCS).
Ba.
Như đã dẫn nhập ở phần trên, thưởng thức nhạc có cái hay riêng của nó. Nghe
nhạc, bạn được chính nhạc sĩ dìu dắt bạn theo dòng nhạc, ông bắt ta dừng, ta
phải dừng, ông bắt ta đi nhanh, ta phải đi nhanh. Ta không được quyền chọn lựa
cách ngắt câu hay đổi chữ. Nghe nhạc với tờ giấy in bài nhạc trước mặt, bạn
thấy hiển hiện tất cả những yếu tố đã làm nên thành công hay thất bại của bản
nhạc đó. Nghe nhạc, bạn bước đi lại từ đầu với nhạc sĩ, cùng sống lại tâm tưởng
hào hùng hay bi thương của nhạc sĩ ngay khi nhạc phẩm chào đời. Phân tích một
bài nhạc, do đó, phần nào cũng là đi tìm chủ đề của bài hát, cùng nơi chốn nào
đã tạo nguồn hứng khởi cho tác giả, làm cho người ấy không còn cách nào khác
hơn là ngồi xuống và ghi chép lại âm hưởng đó, khung cảnh đó, nỗi niềm nhung
nhớ khôn nguôi đó.
Bạn hãy cùng tôi tưởng tượng ra một bãi biển nào đó, khi trời đã về khuya và
không một bóng người, ngoài nhân vật chính là “ta” trong bài hát. Nhân vật
chính của chúng ta hoặc ngồi, hoặc đi dạo lang thang một mình, chỉ có tiếng
sóng biển từng cơn, từng cơn đập vào bờ, rồi lại rút về biển cả. Biển mênh mông
không cùng, chẳng thấy đâu là bờ. Trời về khuya tối đen, chỉ có ánh trăng ở xa
treo trên đầu con sóng, xa đến nỗi tưởng như một ngọn sóng thôi cũng đủ làm nó
tan theo với dòng nước, cùng với mối tình đã chết của “ta”. Tôi không có khiếu
làm văn sĩ, nhưng tôi hy vọng đã dựng được sơ khởi cái khung cảnh (setting) của
bài nhạc này.
Năm.
Như đã tường trình trong tiểu luận “Thử phân tích nhạc phẩm Phôi Pha của nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn”, bài hát nào cũng phải có một ý nhạc hay thì mới đủ để người
nghe nhớ về nó như một căn cước riêng biệt, không giống các bài khác. Trong bài
này, căn cước đó là dòng nhạc có hình dạng răng cưa (zíc zắc), thể hiện qua câu
nhạc đầu tiên “Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi”, và các phát triển tiếp
theo của ý nhạc trên. Cũng như phần lớn các bài nhạc khác, TCS sử dụng âm giai
thứ hoà điệu (harmonic minor) ở cung La thứ. Cũng giống như bài trước, nhạc
phẩm được viết theo nhịp ¾, và cũng giống như nhiều bài khác, nhạc phẩm này lặp
đi lặp lại nhiều từ (Ouch!). Vậy nhạc phẩm này hay ở chỗ nào???
“Lặng lẽ nơi này” được viết theo thể loại ABA, phân đoạn A (verse A) từ đầu đến
“tay người lạc lối”, phần chuyển tiếp B (bridge B) từ “Em” đến “nỗi đau này
người”, và phân đoạn A’ (verse A’) là dòng nhạc nhắc lại, nhưng với phần lời
khác hẳn so với đoạn A.
Sự lặp đi lặp lại của ca từ có một chủ đích hẳn hoi mà người viết sẽ “bật mí” sau
với bạn, còn bây giờ thì ta hãy thử phân tích xem nó lặp đi lặp lại ra sao.
Trước tiên là lặp nhau về chữ kép: “mật ngọt” -> “mật ngọt”, “mật đắng”
-> “mật đắng”; rồi thì lặp lại về hai câu nhưng với giai điệu câu sau là
biến thể câu trước “ Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi” -> “tình yêu mật
đắng, mật đắng trong đời”; và sau cùng là một sự lặp lại (có tính toán, tất
nhiên :) của hai cặp bốn chữ “biển rộng hai vai” -> “biển rộng hai vai”.
Khác với bài viết trước, trong bài này người viết sẽ đi sâu hơn về mặt ngôn ngữ
để qua đó giải thích bố cục của bài nhạc cùng ngôn ngữ âm nhạc đã minh họa rõ
nét ý thơ ra sao. Trước hết, TCS đưa ra hai so sánh–định nghĩa về tình yêu:
Tình yêu là mật ngọt, và tình yêu cũng đồng thời là mật đắng. Mật ngọt là những
khi “uống môi em ngọt”, còn mật đắng thì ảnh hưởng dài hơn nhiều, là nỗi sầu
muộn cả đời người! Tại sao vậy, là tại vì “ta” đã định nghĩa “Em” là “tình
yêu”. Bạn hỏi tại sao ư? Thì rõ quá rồi còn gì nữa, tác giả nói về biển, mà
biển chỉ rộng có hai vai thôi, nếu không phải là “vai em gầy guộc nhỏ” thì “còn
ai trồng khoai đất này”???
Vì “Biển” là “Em” nên biển mới có tay, biển chỉ hẹp bằng hai tay thôi, và một
khi biển đã buông tay “ta” ra rồi thì “ta” chơi vơi và ta lạc lối, chẳng trách
tại sao TCS phải cảm khái những câu khác như “Không còn ai, dường về ôi quá
dài, những đêm xa người” …
Về phần nhạc thuật của Đoạn A, ngoài việc sử dụng các từ lặp nhuần nhuyễn như
trên, và phần nào dùng cung nhạc lên xuống để mô tả tiếng sóng đập vào bờ rồi
lại rút về, điều là mtôi thích thú nhất là cách bố cục câu của ông. Ta thấy từ
“Tình yêu mật ngọt” đến “biển rộng hai vai”, cả đoạn nhạc đó có thể coi là hoàn
chỉnh, và ta có thể yên chí tạo ra một verse khác cũng dựa trên nền nhạc đó.
Nhưng đây là dấu vết (clue) mà tôi đoán rằng TCS đã đặt lời đi trước bản nhạc,
do đó ông đã đi thẳng ngay vào “Tình yêu như biển, biển hẹp tay người, lạc lối”
So sánh về bố cục đoạn nhạc như vậy để thấy nó toàn hảo trong sự không cân
bằng, và sự trở về hợp âm La thứ đã làm cân bằng đoạn đó lại.
Trong hội hoạ, sự mất cân đối này có thể được minh hoạ bằng tác phẩm sau của
Gustav Klimt “Cái chết và Sự sống”. Nhìn thoáng qua với sự sống chiếm chỗ nhiều
và làm ta tưởng như bức tranh mất cân đối, nhưng thần chết với màu tối hơn
nhiều đã làm bức tranh này cân bằng trong sự bất đối xứng (asymmetrical
balance.) Cái nhìn soi mói của thần chết đối lại với sự e dè của cô gái như hỏi
thầm “Ông gọi tôi ?” đã nối kết hai phần của bức tranh với nhau, còn trong bài
nhạc thì TCS đã làm được việc liên kết này bằng cách lặp lại “tình yêu như
biển” cũng như phát triển ý nhạc dựa theo ý nhạc chính ở đầu đoạn.
Bảy.
Bây giờ ta hãy bước sang phân tích đoạn B (bridge). Trước hết, nếu để ý kỹ, ta
thấy đoạn đầu TCS có chủ đích là không hề nhắc đến chữ “ta” và “em”. Đây là một
sáng tạo nghệ thuật đặc trưng thông qua cách hành văn ẩn dụ, và là “trade mark”
(nhãn hiệu) của TCS. Liền lạc trong đoạn đầu này là ý tưởng Ta <-> Em
<-> Tình Yêu, đan kết với nhau vô hình bằng những so sánh, do vậy nhân
vật “em” ở đây đã bàng bạc xuất hiện rồi. Thành thử ra, nếu ai chưa quen với
lối viết ẩn dụ này của TCS sẽ cảm thấy ngôn từ của ông có vẻ gì bí hiểm. Nhân
tiện đây, người viết cũng xin thú thật là, có lẽ cũng như nhiều người khác, khi
ở độ tuổi mới vào đời đã bị lôi cuốn bởi giai điệu của nhạc TCS nhiều hơn là ca
từ. Nhưng có lẽ chính phần ca từ mới làm người nghe nghe hoài không chán, với
lối nói chung chung (không cụ thể) và đầy tính ẩn dụ, do vậy rất phù hợp với
tâm trạng của nhiều người. Ngôn ngữ TCS thật ra vẫn còn rất bí hiểm với người
viết, nhưng có lẽ vì vậy mới là cái thú để tạo động lực tìm hiểu thêm.
Trờ lại với chữ “Em”, tác giả đã khéo léo cho chữ em đứng lại một chút (một
nhịp rưỡi) để nhấn mạnh chủ thể của câu nhạc, và cũng để làm rõ hơn câu hỏi
chất chứa “nơi đâu nơi đâu”. Sở dĩ tôi nói vậy là vì câu “em/đi/về/nơi/ấy” bạn
có thể lấy bất kỳ 3 chữ đầu mà phổ nhạc: chẳng hạn “em đi … về nơi ấy”, hay “em
đi về … nơi ấy”, nhưng chữ “em” đứng một mình đắt giá hơn. Chữ “em” này cũng
khéo léo lồng vào để làm điệp khúc không bị trùng lắp như đoạn 1. Cặp chữ “nơi
đâu nơi đâu” được lồng vào rất thích hợp vì nó nhấn mạnh câu hỏi quắt quay của
“tôi” về hình bóng em. Vả lại, khi ta nhớ nhung về một người nào đó, ta đâu có
nhớ em ở “nơi đâu” một lần thôi, rồi quay sang suy nghĩ chuyện khác? Ta nhớ đi,
nhớ lại, nhớ tới, nhớ lui, lăng xăng trong tâm tưởng.
Trong điệp khúc này, “em” đã được ẩn dụ bằng “trăng”, vì nếu so sánh hai câu
đầu thì ta thấy rõ ngay là Em = Trăng. (Chẳng phải trong một bài khác, TCS đã
bật mí “từ khi em là Nguyệt” rồi sao?) Một lần nữa, với lối hành văn ẩn dụ,
người nghe nhạc tha hồ phiêu lãng theo nỗi nhớ riêng của họ về một người tình
cũ đã trở thành một phần ký ức của cuộc đời.
Tám.
“Làm sao ru được tình vơi?
À ơi, nỗi đau này người”
Một lần nữa, TCS sử dụng cách đặt câu rất nghệ thuật để kết thúc đoạn B. Trước
tiên ông chuyển hoà điệu từ các hợp âm đầy tính cao trào (dominant) như Dm và
E7, và chuyển sang các hợp âm bình thản hơn (tonic) là Am và G, rất phù hợp với
lời nhạc. Ta tưởng chừng như sẽ đi cho trọn vòng quãng 5 (như trong bài Hello
của Lionel Richie), và lời ru “à ơi” cũng đã bắt đầu gióng lên, chuẩn bị tư
tưởng cho việc nghe thêm các phát triển khác về ý nhạc, thì TCS “cắt cái rụp”
và chuyển nhanh về lại chủ âm la thứ. Chính ở điểm này đã làm cho đoạn Bridge
bị mất cân đối, nhưng đã tạo nên được một cảm giác hụt hẫng ở người nghe, minh
hoạ cho nỗi đau trống vắng của nhân vật “tôi”.
Chín.
Đoạn 2 của bài hát tiếp tục cho chúng ta thấy những hình ảnh và sự tương phản
mà nhân vật “tôi” cảm nhận, như so sánh mình với một giọt máu đã lìa khỏi xác
người, hoàn toàn vô dụng. Tiếp theo, TCS đã mô tả những không gian thật rộng
lớn, vô tận và tương phản với nó bằng hình ảnh lặp lại của “tôi” bé nhỏ, với
những bước chân đơn điệu và cô độc. Cuối cùng, tác giả đưa ra một kết luận tuy
bất ngờ những cũng đã có thể thấy trước, đó là “tôi về … với tôi”. Một kết luận
đơn giản, cam chịu, và rất hiển nhiên. Sau những sự lặp đi lặp lại của những
chữ đôi, cặp đôi, câu nhăc đôi, cái gì cũng có đôi hết, ta thấy cái “tôi”cũng
có đôi vậy, là “tôi với tôi”. Bạn tưởng tượng đem hết các từ câu lặp trong bài
này về môt phía của bàn cân, rồi bỏ câu “tôi về với tôi” này qua phía kia bàn
cân, mới cảm nhận được cái cô độc của nhân vật “tôi”.
Người viết cảm ơn đọc giả đã bỏ thì giờ cùng tôi tìm hiểu bài nhạc “Lặng Lẽ Nơi
Này”. Tôi cảm thấy trên mạng lưới toàn cầu cũng như trong sách báo, người ta
viết về TCS quá nhiều về nghệ thuật ca từ của ông, về nhân sinh quan của ông,
thậm chí còn tôn sùng ông là một nhà tư tưởng lớn hay là một thiên tài. Tôi
không có định nghĩa riêng về thiên tài, ngoài việc xác nhận Trịnh Công Sơn là
một nhạc sĩ có tên tuổi trong làng âm nhạc Việt Nam hậu thế kỷ 20, đã tạo được
một “đột phá” (breakthrough) trong cách đặt lời ca, có một số lượng nhạc phẩm
được yêu thích rất đáng kể; và chắc chắn nhạc của ông đã có ảnh hưởng rất nhiều
đến các nhạc sĩ khác cùng thời cũng như các thế hệ nhạc sĩ sau này. Tôi cũng
cảm thấy bàn chung về ca từ và nhân sinh quan của ông, dầu rất bổ ích, nếu có
quá nhiều bài vở tương tự như vậy sẽ dễ trở thành nhàm chán – biết rồi, khổ
lắm, nói mãi. Trịnh Công Sơn trước tiên và trên hết là một nhạc sĩ, và không có
gì thiết thực hơn là đánh giá từng nhạc phẩm của ông, từng bài, từng bài, một
cách cặn kẽ để có thể cùng người đọc nhận ra công phu căn bản cùng tài năng
sáng tạo trong nhạc thuật của ông. Một nhạc phẩm hay không nhất thiết phải có
những biến đổi âm giai hay những hành âm phức tạp cầu kỳ. Nều viết nhạc với lời
ca phụ họa, thì bản nhạc phải nâng ca từ lên, và ca từ cũng phải làm cho hành
âm hoặc trơn tru, hoặc gãy cạnh tương xứng. Tôi tin TCS đã làm được việc này.
Tôi xin phép lập lại ý trong bài viết trước là để đạt được sự đơn giản như
trong “Lặng Lẽ Nơi Này”, TCS cũng phải mang nặng đẻ đau chứ cũng chẳng phải
“lấy nó dễ như từ trong túi” như nhiều người đã lầm tưởng.
Sau cùng, người viết hy vọng sẽ có nhiều người khác cũng viết lên những cảm
nhận riêng về từng bài ca của TCS, để chúng ta cùng nhau chia xẻ những thành
công về nhạc thuật của ông.
Phụ lục: Nhạc bản "Lặng Lẽ Nơi Này"
<Nguồn:
dactrung.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét