Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2015

Bài văn đạt điểm 10 trong kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ 2005

Bài văn đạt điểm 10 trong kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ 2005
TTO - Cảm nhận đầu tiên của nhiều người khi đọc bài văn này, đó là tác giả đã có một “bút lực” rất đáng nể: 15 trang. Đó là chưa kể thí sinh còn có kiến thức chắc chắn đến mức ngạc nhiên. Và còn gì nữa?. Hãy xem các nhà giáo, nhà nghiên cứu và giảng dạy văn học đánh giá, nhận định về bài thi này...
Hôm nay, 19-8, ĐH Huế đã công bố bài văn đạt điểm 10 của thí sinh Nguyễn Thị Thu Trang dự thi vào khối D ngành tài chính - kế toán Trường ĐH Kinh tế thuộc ĐH Huế. Tất nhiên trong bối cảnh không thiếu những bài văn “dựng tóc gáy” ở lứa tuổi “cô tú cậu tú”, đây quả là một bài thi vượt trội và đặc biệt là sự vững vàng về kiến thức.
Đáp ứng nguyện vọng của đông đảo bạn đọc, Tuổi Trẻ Online xin đăng nguyên văn bài thi này:
Câu 1:
Xuân Diệu (1916 - 1985) - một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác thật lớn lao và rất có giá trị. Hơn 50 năm lao động miệt mài trong thế giới nghệ thuật ấy, con người và thơ văn của Xuân Diệu đã có sự chuyển biến rõ nét từ một nhà thơ lãng mạn thành nhà thơ cách mạng.
“Tôi nghĩ rằng nếu bây giờ làm lại bài văn này, có lẽ tôi chỉ làm được 70% số điểm là cùng, chứ không hay hơn như vậy đâu. Bởi vì khi làm bài thi, có nhiều áp lực buộc mình phải tập trung huy động tối đa mọi nguồn kiến thức; mặt khác, lúc đó cũng có một chút “thăng hoa” nên mới làm bài được như vậy.
Tuy nhiên, sau khi thi xong, ngồi kiểm tra lại, tôi thấy câu 3 chưa thật sự như ý muốn của mình, bởi vì lúc đó đã sắp hết giờ; nếu cho thêm 30 phút nữa, tôi sẽ viết hoàn hảo hơn.
Riêng câu 2, tôi thật sự rất hài lòng, vì vốn rất thích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân và đã học rất kỹ bài giảng tác phẩm này.
Hiện nay tôi đang theo ngành tài chính - kế toán nên phải dồn sức theo học bên đó đã. Tuy nhiên, cho dù có là ngành gì đi nữa thì tôi vẫn xem văn chương như món ăn hằng ngày. Đọc văn, tâm hồn mình trở nên phong phú và cuộc đời sẽ đẹp hơn rất nhiều”.
Đó là bước chuyển tất yếu của một trí thức yêu nước, một tài năng nghệ sĩ. Thơ văn Xuân Diệu có đóng góp lớn vào quá trình phát triển của văn học VN. Có thể tìm hiểu sự nghiệp văn học của nhà thơ qua thơ và văn xuôi.
Về lĩnh vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính: trước và sau Cách mạng Tháng 8 (CMT8).
Trước CMT8, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. Các tác phẩm chính: tập thơ “Thơ thơ”(1938) và “Gửi hương cho gió” (1945). Nội dung của thơ Xuân Diệu trong thời kỳ này là:
Niềm say mê ngoại giới, khát khao giao cảm trực tiếp, cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời (“Vội vàng”, “Giục giã”).
Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái tôi bé nhỏ giữa dòng thời gian vô biên, giữa không gian vô tận (“Đời kỹ nữ”).
Nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà thơ nảy sinh một triết lý về nhân sinh: lẽ sống vội vàng (“Vội vàng”).
Nỗi khát khao đến cháy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa cuộc đời đầy hương sắc và thể hiện nỗi đau đớn, xót xa trước khát vọng bị lãng quên thật phũ phàng trước cuộc đời (“Dại khờ”, “Nước đổ lá khoai”).
Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ “cái tôi bé nhỏ đến cái ta chung của mọi người” (P.Eluya). Xuân Diệu giờ đây đã trở thành một nhà thơ cách mạng say mê, hăng say hoạt động và ông đã có thơ hay ngay trong giai đoạn đầu. Xuân Diệu chào mừng Cách mạng với “Ngọn quốc kỳ” (1945) và “Hội nghị non sông” (1946) với tấm lòng tràn đầy hân hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển trong tâm hồn và thơ ca. Ý thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, một trí thức yêu nước trước thực tế cuộc sống Đất nước đã đem đến cho ông những nguồn mạch mới trong cảm hứng sáng tác. Nhà thơ hăng say viết về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ quốc VN, về quá trình xây dựng CNXH miền Bắc và công cuộc thống nhất nước nhà. Các tác phẩm tiêu biểu: tập “Riêng chung” (1960), “Hai đợt sóng” (1967), tập “Hồn tôi đôi cánh” (1976)…
Từ những năm 60 trở đi, Xuân Diệu tiếp tục viết thơ tình. Thơ tình Xuân Diệu lúc này không vơi cạn mà lại có những nguồn mạch, cảm hứng mới. Trước Cách mạng, tình yêu trong thơ ông hầu hết là những cuộc tình xa cách, cô đơn, chia lìa, tan vỡ… nhưng sau Cách mạng, tình yêu của hai con người ấy không còn là hai vũ trụ bé nhỏ nữa mà đã có sự hòa điệu cùng mọi người. Tình cảm lứa đôi đã quyện cùng tình yêu Tổ quốc. Xuân Diệu nhắc nhiều đến tình cảm thủy chung gắn bó, hạnh phúc, sum vầy chứ không lẻ loi, đơn côi nữa (“Dấu nằm”, “Biển”, “Giọng nói”, “Đứng chờ em”).
Về lĩnh vực văn xuôi, có thể nói Xuân Diệu quả thực tài tình. Bên cạnh tố chất thơ ca bẩm sinh như thế, Xuân Diệu còn rất thành công trong lĩnh vực văn xuôi. Các tác phẩm chính: “Trường ca” (1939) và “Phấn thông vàng” (1945). Các tác phẩm này được viết theo bút pháp lãng mạn nhưng đôi khi ngòi bút lại hướng sang chủ nghĩa hiện thực (“Cái hỏa lò”, “Tỏa nhị Kiều”).
Ngoài ra, Xuân Diệu còn rất tài tình trong việc phê bình văn học, dịch thuật thơ nước ngoài. Các tác phẩm tiêu biểu: “Kí sự thăm nước Hung”, “Triều lên”, “Các nhà thơ cổ điển VN”, “Dao có mài mới sắc”.
Dù ở phương diện nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp rất to lớn với sự nghiệp văn học VN. Vũ Ngọc Phan từng nhận xét: “Xuân Diệu là người đem nhiều cái mới nhất cho thơ ca hiện đại VN”. Sự đóng góp của Xuân Diệu diễn ra đều đặn và trọn vẹn trong các thể loại và các giai đoạn lịch sử của dân tộc. Chính vì thế có thể nói rằng, Xuân Diệu xứng đáng là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn.
Câu 2:
Đề thi môn Văn, khối D
(Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề)
Câu 1: (2 điểm)
Anh/chị hãy trình bày những nét chính trong sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu.
Câu 2: (5 điểm)
Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân).
Câu 3: (3 điểm)
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Kính gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng người!
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực, có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thủy” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Khi hòa bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời.
Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.
Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian nạn đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống, người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ.
Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành, nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phất phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bòng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ.
PGS Trần Hữu Tá:
Có chỗ non yếu, nhưng vẫn đáng điểm 10
Về mặt nội dung, kiến thức văn học sử của TS rất chắc chắn. Sự chắc chắn ấy thể hiện rõ ở phần trả lời hai câu đầu. Mặc dù TS cũng có sơ suất: viết dài dòng, viết những điều người ta không hỏi (như câu 1 TS phân tích khá chi tiết những tập thơ trước và sau cách mạng, theo tôi không cần thiết lắm).
Nhưng câu 1 cũng chứng tỏ TS hiểu thấu đáo sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu.
Ở câu 2 TS không những thể hiện khả năng am hiểu tác phẩm mà còn hiểu động cơ sáng tác của tác giả, ý kiến nhận định của giới nghiên cứu cũng như những điều tác giả tâm sự về tác phẩm của mình. Nó thể hiện sự học hỏi, nghiên cứu công phu của TS.
Thêm nữa, TS còn trích dẫn rất chính xác những câu văn trong tác phẩm Vợ nhặt, chứng tỏ sức nhớ khá tốt và đáng khen.
Một ưu điểm nữa là TS có cảm thụ tinh: biết nhấn đến chi tiết nghệ thuật, đắt giá, có khả năng tổng hợp, khái quát khá tốt.
Ví dụ câu số 2 có thể có hai cách làm: cách thứ nhất sẽ đi vào từng nhân vật. Cách này “thật thà”, an toàn nhưng dễ bị lặp lại, thiếu sức hấp dẫn. Ở đây, TS đã chọn cách thứ hai: phân tích chung, trình bày mang tính tổng hợp với cái nhìn khái quát.
Đặc biệt, TS có cách diễn đạt lưu loát và không có ý lặp lại về kết cấu, đi ngay vào hai yêu cầu cụ thể của đề tuy chưa cân đối lắm (phân tích kỹ về tình người nhưng chưa có sự kỹ lưỡng tương xứng khi đề cập đến niềm hi vọng vào cuộc sống của ba nhân vật).
Nhưng việc chọn phương pháp thứ hai đã thể hiện bản lĩnh, khả năng làm chủ ngòi bút của TS, thể hiện sự tự tin trong việc cảm và hiểu tác phẩm.
Ta cũng nhận ra ngay phần trả lời câu hỏi số 3 non hơn hai câu đầu. Ý tứ chưa đầy đủ, bình giảng thiếu chặt chẽ, hệ thống, diễn đạt đôi chỗ vướng vấp. Tuy nhiên, tôi cho rằng bài văn đáng được điểm 10.
Thầy Mai Văn Hoan (giáo viên văn Trường THPT Quốc Học - Huế):
Tôi vừa vui vừa lo
Đọc bài văn điểm 10 này, tôi vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa buồn. Mừng và vui vì lâu lắm rồi mới có một điểm 10 môn văn trong kỳ thi đại học.
Càng mừng và vui hơn vì trong tình trạng hiện nay rất hiếm học sinh say mê với môn văn, lại có một học sinh chịu khó học, chịu khó đọc, đặc biệt là có một sức viết rất dồi dào. Trong khoảng 180 phút mà viết được 15 trang như thế quả thật đáng nể!
Nhưng tôi lại cảm thấy lo và buồn. Điều đáng lo nhất, qua bài văn này, đó là cách trình bày vấn đề: đủ ý, nhưng dài dòng quá.
Câu 1, theo tôi, lẽ ra em chỉ cần viết một trang là đủ; nhưng em kéo đến ba trang, và có nhiều chỗ trình bày những kiến thức không cần thiết. Về cách diễn đạt, bài viết còn đôi chỗ vụng và hơi sáo. Và đây cũng là tình trạng chung của học sinh hiện nay.
Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở các nhân vật như anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đồng”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa.
Một anh thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch, thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời mình phía trước ra sao. Tràng thật là liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng.
Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phờ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính.
Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ “ấm áp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “Trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua”.
Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp lôgich. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không phải là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một con người có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, “Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa.
Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên.
Từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là cả một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt quyền sống con người.
Thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo đã rách bợt”, điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít, song đó lại là nhân vật không thể thiếu đi trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ cùng cực.
Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời, người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ. Nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô cùng, tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật.
Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.
Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng.
Sau khi thấu hiểu mọi điều, bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã rách bợt" mà lòng đầy thương xót. Bà thiết nghĩ "người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng: "Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng".
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng mà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình.
Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khó ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn truyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình.
Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão "lễ mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu: "Chè khoán đây. Ngon đáo để cơ". Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia.
Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
"Cái đẹp cứu vớt con người" (Đôxtôiepki). Vâng, "vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.
Câu 3:
Tố Hữu, một nhà thơ chiến sĩ, một người thư ký trung thành của thời đại ấy đã cùng hành trình làm cách mạng tiếp cận với thơ ca. Thơ ca đối với ông không ngoài mục đích chính trị, phục vụ cho lý tưởng của Đảng, của cách mạng.
Trong nguồn mạch về các đề tài chính trị của Đất nước ấy, Tố Hữu đã tìm về với quá khứ lịch sử của cha ông, một thế hệ hôm nay vọng về thế hệ cha ông xưa để đồng cảm, thấu hiểu, để tìm nguồn sinh lực mới cất bước cho cuộc kháng chiến hôm nay. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho đề tài này không thể không kể đến bài thơ "Kính gửi cụ Nguyễn Du", trích trong tập "Ra trận".
Tháng 11-1965 khi giặc Mỹ bắn phá ác liệt, nhà thơ có dịp qua quê hương của Nguyễn Du và nhân kỷ niệm đúng hai trăm năm ngày sinh của Người, Tố Hữu xúc động viết lên bài thơ này. Bài thơ đã thể hiện một cách cảm nhận, suy nghĩ và đánh giá của Tố Hữu tiêu biểu cho thế hệ hôm nay nhìn về quá khứ lịch sử của cha ông xưa để từ đó khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ hôm nay của dân tộc.
Trong tiếng vọng của tấc lòng tri âm tri kỷ ấy, Tố Hữu đã thốt lên:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
Bài thơ trừ bốn câu thơ đầu và cuối, tất cả có năm khổ thơ với ba cặp lục bát tương xứng. Bằng hình thức tập Kiều nhuần nhuyễn, sáng tạo, ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu hình ảnh, những so sánh bất ngờ... ấy đã diễn tả thật thành công tấm lòng của một người con cúi mình trước đại thi hào vĩ đại của dân tộc Nguyễn Du, một thi hào kỳ tài ấy đã chắp bút lên "Truyện Kiều", một công trình đồ sộ và có giá trị thật lớn lao, góp phần tăng giá trị đạo đức, nhận thức vào kho tàng văn học VN. Cảm khái và ngưỡng mộ trước tài năng ấy kết hợp với một tấm lòng khát vọng tìm về với quá khứ xưa, Tố Hữu đã viết:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Tố Hữu đã ca ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một tiếng thơ vang động đến hồn thiêng sông núi, đến tạo vật muôn loài. Bằng cách sử dụng lối so sánh, ẩn dụ tài tình, nhà thơ đã nâng cao tầm vóc, giá trị của thơ ca Nguyễn Du. Ông đã ví tiếng thơ ấy là "non nước" vọng về từ ngàn năm trước, của thời gian xa xưa, của quá khứ.
Tiếng thơ ấy vọng về đây trong niềm tự hào, hân hoan, đón nhận của một tấm lòng hậu thế muốn đền đáp tấm lòng cha ông xưa. Nỗi niềm ấy, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng vọng. Hai câu thơ không những khái quát được tầm vóc, giá trị to lớn của tài năng Nguyễn Du mà còn thể hiện sâu sắc tình cảm cao đẹp của Tố Hữu - thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khá của cha ông.
Lối thơ ấy, tiếng lòng hân hoan Tố Hữu lại tiếp tục rộng mở vươn tới những giá trị vĩnh hằng khác:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Nghìn năm là khoảng thời gian của hồi tưởng, của ngưỡng vọng, của khát vọng mãnh liệt, của tấc lòng tri kỷ biết ơn của thế hệ hôm nay. Đó còn là khoảng thời gian của thế hệ hôm nay trả lời cho nỗi đau lịch sử của cha ông trong quá khứ. Một lần nữa cảm hứng ngợi ca chấp bút cho Tố Hữu cất tiếng lòng tự hào trong khúc hát tràn đầy hân hoan, hứng khởi, trong sự ngưỡng vọng trước một thiên tài.
Tiếng thơ của Nguyễn Du được ví như "tiếng mẹ", mà "tiếng mẹ" thì gần gũi, thiết tha quá. Đó là lời ru nhẹ nhàng ân tình, chan chứa tình yêu thương và trong ấy gửi gắm bao mơ ước thật cao đẹp. Và vì thế tiếng thơ của Nguyễn Du là tiếng ru của mẹ ân tình, ngọt ngào thổi vào lòng bao thế hệ có sức mạnh thật lớn lao. Tình cảm ấy, khúc hát ru ân tình ấy là lời nhắc nhở, thủ thỉ cho con - thế hệ hôm nay vững bước trưởng thành.
Tiếng lòng đồng vọng của cõi xưa nhập cùng thế hệ hôm nay để con lại vang lên lời ca tự hào:
Hỡi người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
Trên trục kết cấu "xưa-nay", "con-Người" cùng vang lên tiếng lòng khát khao tìm kiếm tri âm. "Con" sẽ cùng "Người" hát tiếp khúc tráng ca ấy chào đón cách mạng. Chữ "cùng" đã thể hiện đầy đủ ước vọng của chúng con và Người. Tình cảm ấy, nghĩa cử ấy thật đáng tự hào và trân trọng.
Sáu câu thơ, ba cặp lục bát song hành ấy là tình cảm, tiếng lòng của chúng con thế hệ hôm nay đáp lời quá khứ. Đó cũng là lời hứa chân thành nhất của thế hệ hôm nay cùng ngân vang theo nhịp đập của quá khứ.
Bằng lối tập Kiều nhuần nhuyễn, sử dụng hình ảnh có tính gợi hình, giọng điệu ân tình, ngọt ngào, đậm chất dân tộc, khổ thơ đã thể hiện trọn vẹn phong cách thơ Tố Hữu: khuynh hướng thơ trữ tình - chính trị, một giọng điệu tâm tình ngọt ngào và đậm đà tính dân tộc. Khổ thơ khép lại nhưng lại mở ra một chân trời mới, tương lai mới trong hành trình chống Mỹ hôm nay:
Sông Lam nước chảy bên đồi
Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân
Nguyễn Thị Thu Trang





Nắng và hoa

Nắng và hoa
Thời gian chớp mắt 12 tháng trôi vèo như bóng câu qua song cửa, lòng tôi lại nôn nao nhớ hai câu thơ cũ: Có con én ngậm mùa xuân qua ngõ. Thương đến nhói lòng một tiếng chim rơi. Chỉ cần nhìn lại từng khoảnh khắc 365 tờ lịch rời khỏi bức tường, thấy bao nhiêu gương mặt thân quen vụt qua thảng thốt, thấy bao nhiêu nụ cười chưa tắt và thấy bao nhiêu nước mắt chưa khô. Kẻ bôn ba đất khách lòng càng thêm trĩu nặng, lúc trống vắng ngó chim én xôn xao những làn cánh mỏng chao xuống phố phường tất niên. Tháng chạp thổi ngang phố vài cơn gió hiu hiu làm những ngày cuối năm như dài ra.
Hơn 30 năm xa quê, ngoại trừ những cái tết bôn ba xứ người Phnôm Pênh, Paris hay Osaka, nay là cái tết đầu tiên gia đình nhỏ của tôi không được trở về quê vì cha mẹ già yếu cần chăm sóc tại chỗ, không thể dịch chuyển. Nhìn dòng người hối hả về quê, lòng xao xác một miền trống vắng. Ngồi thinh lặng giữa những huyên náo, chỉ muốn tự hỏi mình năm qua có lỗi với ai không? Có làm điều gì không phải với ai không? Hà Nội ám ảnh tôi những bàn chân cuống cuồng nhao nhác về quê và cả những cái nhìn bịn rịn. Mảnh đất ồn ào mưu sinh lập nghiệp cứ Tết đến thì ai cũng vội vã quay về quê cũ. Tôi đèo con trai lang thang tận hưởng cái không khí vắng lặng hiếm hoi khác hẳn ngày thường. Ngậm ngùi lắm nhưng cũng rộn ràng lắm. Phút giây hoai hoải gió miên man để nghĩ về chuyện chưa xa, người chưa quên, để nghe văng vẳng hư ảo chập chờn. Càng ám ảnh tuổi tác, càng nhìn đâu cũng ra kỷ niệm, kỷ niệm ngổn ngang, kỷ niệm ngập tràn vẫn không thể lý giải kỷ niệm khiến mình già nua hay kỷ niệm khiến mình trẻ lại. Khu tập thể vắng hoe, bỗng thấy mình như kẻ đang lênh đênh không đầu không cuối, như một Gypsy không quê hương, không còn khái niệm về trong những chiều xê dịch của riêng mình, người Gypsy với ngọn lửa hình bánh xe cứ lăn hoài, lăn mãi, lăn miệt mài cho đến khi nào đôi môi nở một nụ cười cuối cùng làm bảo chứng rằng tôi đã đến đời sống này, trọn vẹn với đời sống này, chứng kiến tất cả cuộc sống này và tất nhiên trải qua cảm giác không thể cắt nghĩa nổi thế nào là đi và về trong những chiều tháng Chạp như chiều nay. Tôi ngồi lại dưới gốc bằng lăng góc phố mà tưởng như tiếng nhạc của gã Gypsy có tên là Estas Tonne cứ thế vẳng lên, cứ thế vang lên, cứa thẳng vào tim tôi bằng chính cái long lanh của những dây guitar réo rắt. Những nốt nhạc như chính cuộc đời gã trai ấy chấp chới. Tôi hình dung gã đang ngồi bên cạnh, khuôn mặt đẹp như Jesus Cristo, mái tóc dài với từng lọn quăn, bay lên, tung lên trong gió đêm phấp phới như thể một lần được bay duy nhất trước khi lọn tóc ấy hấp hối.
Một gã trai sinh ra và lớn lên ở Liên Xô, cho đến khi 15 tuổi thì ôm đàn ra đi. Gã Gypsy ấy rong ruổi khắp châu Âu, sang cả Bắc Mỹ để làm một cuốn phim mà chất liệu chính là chuyến đi của cuộc đời mình, chuyến đi không bao giờ có điểm trở về. Hành trình chỉ là cây đàn, chỉ là những nốt nhạc mà gã viết lên từ chính những gì mình nghe thấy trên những con đường rong ruổi, con đường mà người ta gọi gã là: Kẻ hát Troubadour không lời. Ấy vậy mà gã Gypsy ấy vẫn có lúc còn mơ thấy lối về khi gã nói đến nước Nga: Một ngày nào đó tôi sẽ quay lại, tôi phải quay lại nơi tôi sinh ra và lớn lên, nơi người ta gọi bây giờ là nước Nga… Và tôi cũng vậy thôi, giống như Gypsy, tôi cũng đang mơ về nơi tôi bắt đầu, trong một tháng Chạp bất kỳ như bao tháng Chạp đã qua với khăn len áo lạnh, với những con đường bàng bạc gió, bàng bạc mưa, bàng bạc đèn khuya, bàng bạc khói mẹ hóa vàng chiều tất niên.
Tôi khao khát một chiều tháng Chạp như chiều nay, không quán nhậu, không người xe nườm nượp chen chúc ẩu đả bụi bặm, không áo quần chưng diện, không tóc đỏ, tóc vàng, tóc xanh láo nháo… Đó là một Hà Nội tĩnh, một tháng Chạp xưa như quê tôi mà những gốc cây, cột đèn, ngã tư, vỉa hè đều cô đơn, vắng lặng đến sững người. Tôi đã bước đi trong những chiều tháng Chạp như thế, trong những con phố hẹp và mưa bụi lớp lớp rơi lên tóc lạnh, đi nghiêng ngả bóng, xiên xiên bóng, liêu xiêu bóng dưới đèn vàng mờ mờ như thể mỗi bước đi sẽ tìm lại được hồn mình quê kiểng chứ không phải bằng nỗi nhớ muộn phiền thấy mình xa lạ giữa chính quê hương, cô đơn lạc lõng giữa chính quê hương mình. Mà may mắn, hạnh phúc sao tôi vẫn còn MẸ CHA để dựa vào, làm điểm tựa cho những chông chênh, để nhớ rằng chuyến đi tháng Chạp kia chính là sự trở về. Tự nhiên nghĩ đến đó thấy hai mắt cay cay. Người Gypsy với khúc Troubadour không lời ngả nghiêng trên những đường phố ở NewYork, Paris, Tel Avis, Madrid, Berlin, Delhi… ngả nghiêng với mái tóc bay trong gió, ngả nghiêng dưới bầu trời xanh phủ lên những mái nhà nho nhỏ, ngả nghiêng giữa quảng trường thênh thang không bóng người, ngả nghiêng bên những đài phun nước đẹp như huyền thoại, ngả nghiêng trong âm thanh mà gã nhặt nhạnh từ mọi nẻo đường đã đi qua, ngả nghiêng trong những ngày tháng dài bất tận, ngả nghiêng cho đến gần cuối đời mới thấy mình vẫn còn một hoài hương lớn lao và thẳm sâu trong tim tưởng như đã chai sạn theo vết bánh xe lăn. Tôi chợt muốn ngân lên những khúc Troubadour của riêng mình, những khúc Troubadour có mùi khói cay cay những khi mẹ hóa vàng, có mùi âm ẩm rạ rơm hoang hoải nơi góc bếp, có mùi rêu cũ bám trên những mảng tường phố nhỏ, có ánh đèn mờ mờ sắc vàng quạnh quẽ trên những cột đèn đứng im như chứng nhân cho những đêm thành phố không người, có tiếng tích tắc kim đồng hồ chạy đều đều khi cha thắp nén nhang đêm trừ tịch, có thấp thoáng dáng người con gái hàng xóm năm nảo năm nào đang vội vã rửa nốt mớ lá dong bên giếng nước, có tiếng pháo tép đì đùng xa gần, có tờ lịch hồng báo lên những háo hức trẻ thơ những ngày mong tết. Tất cả dồn lại, vang lên trong tôi theo một giai điệu không định trước, theo một thứ tự lộn xộn không đầu không cuối, theo một hình dung về những tháng Chạp xưa, những tháng Chạp mà tôi không bao giờ có thể trở về lại. Những tháng Chạp đó chỉ còn mờ mờ, im lìm nằm đó nơi tận cùng ký ức, phủ một lớp bụi mỏng mà nhiều khi tôi không dám đặt tay lên, sợ dấu tay để lại sẽ làm đè thêm bao nhiêu trĩu nặng. Để rồi từ đó, khúc Troubadour không lời của tôi cũng bắt đầu, nghẹn đứt…
Miên man hoài niệm man mác ấy chưng cất nên một không khí tháng Chạp để rồi vỡ òa khi bùng lên như một chớp mắt thanh tao giữa cơn ngái ngủ, tôi cũng chợt bừng thức một ngẫu hứng ngu ngơ: Nắng giòn!
Thốt nhiên, như trong mình vừa có hàng triệu cầu vồng xuất hiện. Nó không chỉ là nắng, bởi nắng đã nắng rồi. Nắng miên man kiếp này kiếp khác. Mà nó là cái thứ ánh sáng trong veo chắt ra từ những tàn cây lộc vừng hai bên đường. Mỗi lần đi qua lại quay quắt nhớ về những bước chân mình trong khuôn viên ngôi trường mình dạy. Hơn ba mươi năm, tôi sải bước trên những con đường rợp bóng nhãn hay xum xuê lộc vừng, bằng lăng nhưng chắc chắn không phải bước chân rong ruổi của gã trai Gypsy xứ trời Âu. Những bước chân bỡ ngỡ, những bước chân dạn dày, những bước chân vạm vỡ…  gắn với những đoạn đời tôi đã trải qua cùng bao lo toan, chắt chiu, gắng gỏi. Những bước chân từ ngày tôi còn là cậu sinh viên Văn khoa đầy đam mê và nhiệt huyết, khi sân trường rợp bóng áo dài, nhấp nhô nón trắng. Chênh vênh trong sương, nghiêng nghiêng trong gió, chênh chao trên khắp giảng đường bóng nữ sinh e lệ. Và rợp cổ thụ, biếc xanh lộc vừng, nhoi nhói thông và tả tơi ngập trời phượng đỏ.
          Hơn ba mươi năm qua, thế hệ chúng tôi đã thành lớp trung niên. Thế hệ sinh viên giờ khác xưa nhiều lắm. Họ sống nhanh hơn, gấp gáp hơn nên mọi thứ đến vội, đi cũng vội vã hơn. Dẫu vậy, mỗi lần bước chân lên bục giảng, nhìn những tà áo nữ sinh vẫn thấy lòng thanh nhẹ. Nó không đủ sương để mờ khi ta muốn lẩn mình đi một chốc một lát thôi giữa cuộc đời trần ai bụi bặm, cũng không đủ nghiêng để thấy thi thoảng tim mình chùng đi: Sao em còn mang áo mỏng. Có còn mùa hạ đâu em. Sao em làm lòng ta đau. Nhớ ngọn lửa tình đã tắt. Nhưng đó vẫn là một nốt trầm đủ lắng lại trong hỗn độn âm thanh đời sống thường nhật. Không dễ gì lưu được cái khoảnh khắc nắng ấy nên lòng lại nôn nao khúc Đóa hoa vô thường trong nhạc Trịnh với những tìm/gặp, gặp/mất, mất/còn, có/không, là cái có đi vào cái không vô thức: Gió sẽ mừng vì tóc em bay. Cho mây hờn ngủ quên trên vai. Tại sao gió sẽ mừng? Vì tóc em là gió. Gió đùa với gió làm sao gió không vui? Tại sao mây lại hờn? Vì tóc em là mây: Mây thua nước tóc làm sao mây không hờn dỗi nũng nịu ngủ vùi trên bờ vai em bé bỏng. Em là giai nhân toàn bích.
Thế nhưng giai nhân toàn bích ấy không làm Trịnh Công Sơn rung động. Giữa toàn bích, ông chấm một nét hỏng và chính nét hỏng ấy là cái duyên làm say lòng người: Vai em gầy guộc nhỏ. Như cánh vạc về chốn xa xôi. Tất cả những người đẹp trong nhạc Trịnh đều có vai gầy. Vai gầy có thể đẹp. Nhưng gầy guộc thì quyết là không đẹp vì thiếu: Da thơm quả ngọt mùa xuân. Khi thả giọng trầm xuống chữ guộc tôi tưởng như có tiếng con vạc bất chợt vỗ nước bay vào đêm thâu. Vậy nên: Nhìn cỏ cây dáng pha màu hồng. Nhìn lại em áo lụa thinh không. Nắng chiều có thật nhưng nắng đi vào hư ảo, chớp thoáng thôi. Nhìn hư trong thực như thế, giật mình nhìn lại em tôi. Ôi! Thần kỳ hai chữ thinh không! Lụa nhẹ như khói không tan, em cũng vậy, như thực như huyễn, chỉ còn là một nét đẹp diễm ảo mong manh đó thôi.
Và chiều cuối năm này, trong hoàng hôn trong trẻo, cơn nắng giòn đã như một đặc ân của trời ban cho tôi, kẻ luôn thiết tha đi nhặt ký ức. Không phải là luôn luôn hoài cảm đến thành nghiện nhưng có những thứ trong đời ta đã một đi không trở lại để rồi lâu lâu lại lẩn mẩn nhớ. Ấy là nói đời người, tuổi người, là những kỷ niệm, những khát khao, ước mơ, là những tháng năm cứ lặng lẽ rơi sau lưng, rắc lên đường đời những vệt vàng hoài niệm. Còn ở đây, là những điều đang diễn trước mắt ta, tươi rói và xót xa, đủ để thấy mình vô nghĩa trong một cái chiều tuyệt vời đến thế, cái chiều biến ta thành kẻ khác, ngu ngơ và lẩn thẩn, nhẹ hơn chiếc lá rơi, ta tự bảng lảng về mình.
Thì cũng chỉ là bởi một vệt nắng thôi mà. Trong một khoảnh khắc phối màu tuyệt vời, trong một bố cục vô tình với độ xiên của nắng, cái thăm thẳm của mắt và cơn cớ của nhạt nhòa ký ức, của vọng vang tiếng chuông mơ hồ đâu đó, ta có một buổi chiều kỳ lạ, một buổi chiều như cổ tích với những cung bậc cảm xúc đến thắt nghẹn mà lại mở ra rất nhiều ô cửa nhỏ. Những ô cửa mở vào mình.
Đơn giản thôi. Ấy vẫn là nắng giòn và mùa xuân đang đến!
Có lẽ chỉ còn một đợt nắng này nữa thôi, những khoảnh khắc nắng bừng lên rực rỡ rồi sau đó sẽ là mùa của những giọt mưa xuân. Cái nao nao thao thiết của từng giọt mưa lây rây như là chất xúc tác để tôi miên man nhớ rét và nhớ tết. Nhớ những ngày mà cái lạnh giá của những đợt gió mùa Đông Bắc thổi về se se bảng lảng sương mờ tạo nên một ảo ảnh không gian. Những cây mạ cắm xuống đồng còn run rẩy. Có gì như xa xăm nuối tiếc pha một chút nhớ nhung. Một bếp lửa bập bùng, củi tre nổ lách tách, một củ khoai nóng hổi vùi vào tro làm nụ cười bốc khói! Hay một cánh cò đăm chiêu đơn độc trên đồng vắng, một màu nâu trầm như màu đất ấm áp phù sa vừa trải ra nhân hậu! Tất cả dâng lên nỗi niềm da diết: Có bóng Mẹ Cha trong đó! Tháng giêng là tháng của Mẹ Cha. Mẹ Cha thức khuya dậy sớm. Mẹ Cha lặn lội thân cò, áo cha mặc màu nâu, túi trầu Mẹ thơm nồng. Những trầu, những cau có từ thuở xa xưa đến bây giờ vẫn mới, vẫn tươi, vẫn nồng nàn ấm gương mặt Mẹ Cha mỗi độ tết đến, xuân về. Tháng giêng là mùa lễ hội. Thằng bé con là tôi lón cón theo mẹ đi hội chùa, xúng xính bộ quần áo tuy mới nhưng mặc thừa của anh vẫn còn nguyên miếng vá độn với những túi đựng nào quế, nào hoa, nào quả. Tay Mẹ lần tràng hạt như lần chuỗi ngày hi vọng mở ra những ước muốn tâm linh, những khát khao chân thiện. Tôi được bao bọc quanh một không khí kì ảo, một thế giới trang nghiêm có khói hương trầm thoang thoảng, có hoa đại trắng tinh khiết, có tiếng mõ trầm trầm không bao giờ lỡ nhịp như con lắc đồng hồ thời gian gõ đều đặn, kiên nhẫn và thanh thản. Bao huyền thoại mở ra: Công chúa Liễu Hạnh, Đức Thánh Mẫu, Mẹ Thượng Ngàn. Tất cả các tượng chùa đều mang khuôn mặt Mẹ phúc hậu, đầy đặn và độ lượng bao dung. Trong tâm trí của tôi từ ấu thơ, đền chùa mang không khí ảo diệu với đức Phật từ bi vô lượng. Nép mình bên mẹ, tôi nghe hơi ấm lan tỏa từ bàn tay nắm, từ ánh mắt ngước nhìn thành kính của những người xung quanh. Cái không khí ấy tưởng gần mà đã trở thành quá vãng khi giờ đây, mỗi lần vào chùa là toát mồ hôi lo lắng. Đông đúc, ồn ào! Bội thực chen lấn, bội thực bán mua! Trong mỗi gia đình, đến mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên còn toan tính thiệt hơn. Người miền Nam thường bày mâm trái cây cúng gia tiên dịp Tết gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài mà đọc trại âm là: Cầu vừa đủ xài. Nếu mua được giống đu đủ vàng thì coi như cầu đủ vàng. Thay dừa bằng chùm sung thế là một bước lên cầu xài sung. Năm nay người ta còn bày bán thứ quả gọi là dư. Sở dĩ gọi là vì đó có thể không phải tên sơ khai của loại trái cây ấy. Quả dư này, hình như ngày xưa lũ trẻ quê tôi gọi bằng quả chọi (không ăn được thì để chọi nhau chứ biết làm gì) nhưng người ta gọi vậy cho dễ bán. Vậy là ước vọng trên bàn thờ đôi khi gọn lỏn chỉ là: Cầu dư. Nó làm cho cái ước nguyện cầu vừa đủ xài cả trăm năm nay trở nên khiêm tốn, dù khái niệm đủ xài cũng đã là vô cùng lắm. Mâm trái cầu dư trên bàn thờ phải chăng đã phai mờ lòng thành, lẩn khuất sự tham lam, sự bất kính với vong linh người đã khuất. Ông bà vốn khốn khó vì sung chát, đu đủ non, giờ chắc chỉ còn biết ngồi nhìn thứ trái lạ mà ngay cả bọn trẻ con vốn nghịch ngợm cũng không dám dùng để ăn. Trong nhà tôi, dù nghèo đói, mỗi khi hoa trái vườn nhà vừa bói quả, thế nào mẹ cũng nhắc chọn quả thơm ngon nhất để cúng lên ban thờ. Mẹ tin người mất gì cũng biết, người sống có lòng hay chỉ là qua quýt. Mâm cúng thành kính xưa, không chỉ trong Nam mà tràn ra cả ngoài Bắc, giờ nhuốm mùi đổi chác. Không phải ai đội hoa quả đến chùa cũng với tâm thế cho đi, chẳng cầu xin gì. Từ cầu no đủ cho đến cầu dư dả, lòng tham tăng bậc khi sự kiên nhẫn xuống thang. Hình như họ có hàng ngàn lý do để sốt ruột, nhấp nhổm sau cái khoảng thời gian dài mà cả xã hội chỉ so đo chuyện mâm cơm có thịt hay không có thịt, độn khoai hay không độn khoai. Cơn khát trong thời buổi này không phải chỉ giàu, mà phải giàu nhanh như thể thời gian chỉ dành cho những người biết chụp giật, kể cả chụp giật ơn phước của tổ tiên, thánh thần. Nhìn cảnh người ta giẫm đạp lên nhau xin (hoặc cướp) lộc chốn đền chùa, lòng lo lắng về sự hỗn mang, nguyên thủy, nhập nhoạng. Trong đám đông cướp ấn đền Trần, có mấy người tham gia chốn quan trường hay phần nhiều chỉ là những anh nông dân cổ cày vai bừa, chị bán hàng rong, bà buôn thúng bán bưng. Họ vẫn cướp Ấn. Như để nuôi một hy vọng. Cái sự cuồng tín với những thứ xung quanh thánh thần (không phải với thánh thần) là khi niềm tin bị đánh tráo. Chắc hẳn người ta chưa quên câu: Có làm thì mới có ăn ông bà xưa dạy, nhưng nhìn lên vẫn thấy có kẻ chẳng làm mà vẫn có ăn. Nhìn xuống lại thấy muôn trùng người tốt lăn lóc mưu sinh, sống thua thiệt cả đời. Vậy nên người ta cho rằng chỉ có một thứ thay đổi số phận con người: phép màu của thần thánh. Nhưng thần thánh chưa chắc đã công bằng, biết đâu lại chỉ chiều chuộng những kẻ tháu cáy, chẳng làm mà vẫn có ăn. Thôi cướp lấy cho chắc ăn! Chờ đợi chắc gì đã đến lượt mình. Một lần đi chùa, tôi đã làm phép thử xin sớ mấy thầy viết sớ chữ Nho ở cổng chùa rồi lẩn mẩn ngồi đọc. Giật mình khi thấy các tờ sớ viết sai nhiều quá, ngay cả tên mình có thầy còn viết sai và đặc biệt bốn chữ: Gia đạo bình an được xếp sau cùng, sau làm một được hai, trồng một gặt mười… bởi các thầy nhân bản những tờ sớ cho muôn người như một. Vậy là, người ta vào chùa không phải để cầu an. Phải chăng, lúc rạp mình trước đức Phật là lúc tâm chúng sinh bất an nhất. Chịu khó ngồi lâu nhìn tháng Giêng (không chỉ năm nay) thì sẽ thấy nó trở thành hỗn tạp của những lễ hội vơ vét khổng lồ. Kẻ vét hy vọng từ trời, kẻ vét túi khách hành hương, địa phương vét phí. Vét đến nỗi giẫm lên đồng loại và đức tin. Đi chùa ngày xuân đâu còn cảnh: Tôi nhẩn nha ngoài sân chùa nhặt hoa gạo, đợi mẹ hay chị cũng nhẩn nha sẽ sàng ngồi trên chiếc chiếu trải trước bàn lễ, dõi mắt về phía hư không. Cớ gì mà lòng không hỏi lòng sao không thôi hoài niệm về một tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Tháng giêng như độ này ở triền đê ven sông quê tôi, hoa gạo đã đỏ.
Những bông hoa gạo như lũ chim lửa mang hơi ấm về từ phương bắc xa xôi. Cây xoan trút lá đã lấm tấm, lích chích những tiếng chim vườn, cành na khẳng khiu bắt đầu nứt vỏ hé nở những đọt tươi non. Tháng giêng hồi sinh trong vòng tay của Mẹ. Tháng giêng lộc nõn gieo vào hồn thằng bé đa cảm như tôi nhiều mộng mơ và bâng khuâng thương nhớ lắc rắc, lấm tấm, li ti mà mượt mà, mơn man như mưa bụi. Ra giêng, có năm trời rét và kéo theo mưa bụi. Mưa lất phất bay trong làn gió se lạnh dịu dàng. Mưa rơi nhè nhẹ. Trên mái tóc em. Mát như sương đêm. Tươi cành xanh lá. Nghiêng nghiêng đôi má. Chào đón mưa rơi. Em ngẩng nhìn trời. Xuân sang đẹp quá là đoạn thơ trong bài Tập đọc tôi thường lẩm nhẩm mỗi khi chân sáo tới trường. Những ngày đầu năm như thế đất trời trở nên dung dị, êm ả lạ thường. Mưa bụi lấm tấm, nhỏ nhoi nâng niu tà áo, vuốt ve mơn trớn trên mái tóc. Không giống tơ trời giăng mắc đó đây, mưa bụi như là nỗi nhớ mong manh, gần gũi mà xa xôi, mơ hồ.Mưa bụi miên man khắp trời, si tình cỏ dại, da diết nương dâu, bẽ bàng với triền sông, bến nước. Hãy nghiêng tai trên mặt nước sông xuân mà nghe tiếng mưa bụi reo tí tách, hàng ngàn, hàng triệu hợp âm như một cung đàn, như một bản hòa tấu lãng đãng trong cõi ta, cõi người, cùng trời cuối đất. Mưa bụi rơi rơi, rồi đọng lại tự bao giờ, mà mỗi khi chạm đến dòng ký ức nôn nao ấy như vướng phải nỗi tàn phai trên dòng hư ảo giữa cuộc nhân sinh thế tục vong tồn. Tháng giêng mưa bụi, không là khói, là mây mà như khói mây vương vấn, cũng chẳng phải sương mù gửi gắm trong cõi hóa sinh. Trong đêm tháng giêng mưa bụi, ta nghe bước chân thời gian đi giữa không gian vô tận như vòng châu thiên, như cát sông Hằng đi tìm sa mạc. Ra Tết, nếu như tháng giêng mưa bụi, đừng nên lang thang ngoài đường một mình. Cái khoảng thời gian mong manh ấy, thiên địa u hoài chỉ dành cho những đôi tình nhân nép mình vào nhau thủ thỉ… Nói chuyện tháng giêng mưa bụi là nói nhỏ bên tai, thì thầm sâu lắng, thương nhớ nồng nàn. Chừng như thuở ấy, trên dòng trường lưu mưa bụi, người gọi đò đứng đợi bến sông xa. Đêm cứ chùng sâu trên dòng xuân rây rắc, người gọi đò hay đò đợi khách sang sông. Đêm như đất trời thấm lạnh, mưa bên thềm xưa ướt tấm áo nâu, bóng dáng mẹ như nghìn năm mưa bụi rớt xuống trần gian những giọt u nồng… Thời gian trôi bạt tóc người, mỗi khi tháng giêng mưa bụi tôi lại trở về như đứa trẻ. Vốn không biết uống rượu, bia, không biết hút thuốc, nhậu nhẹt, ngoài đam mê đọc sách, xem phim, tôi chỉ mê được quẩn quanh bên bố mẹ, bên những người thân yêu của mình. Ngày mẹ còn ở quê xa, mỗi lần bà lên chơi, quá tuổi háo hức những món quà nhà quê trong giỏ xách của mẹ, tôi hóng thứ khác: Những câu chuyện nhà quê mẹ kể. Hiểu tính tôi nên vừa bước chân vào nhà là chuyện của mẹ đã giòn như cốm nổ. Không chịu ngồi yên một chỗ, xăng xái dọn chỗ này dẹp chỗ kia, vừa làm vừa kể, những chuyện nhà quê theo bước chân mẹ dìu dặt nửa xa nửa gần. Giọng điệu bâng quơ, như thể không ai nghe cũng không sao, mẹ nói cho vui nhà vui cửa. Chuyện và người kể chuyện nôm na, bình dị nhưng lại là những gì không thể mua được ở cái thành phố tiện nghi và thực dụng này. Mà, những câu chuyện ấy cũng đâu có giật gân, kịch tính gì. Lơ vơ, quẩn quanh chỉ là cái góc bếp bị dột, bà thím càng ngày càng điếc, cải nhà trổ hoa, cau ra buồng. Sực nhớ gì thì nói đó, mẹ cứ láp giáp rời rạc, như thể chắp vá những cái quê nhà mà tôi đã rời bỏ từ hồi mười hai tuổi xuống thành thị theo học trường chuyên. Tất cả hiện lên sống động như bộ phim ai ải màu rơm rạ mục. Không phải cái tên nào mẹ kể ra tôi cũng biết, nhưng cứ có cảm giác họ quen thuộc với mình lắm. Mẹ cũng không màng tôi có quen người này người kia hay không, có gợi nhớ gì không. Quan trọng gì, mẹ sẽ ở lại nhà tôi vài ba ngày rồi phải về quê coi vườn tược, thời gian mẹ con gần gũi cũng ngắn ngủi, nên phải tận dụng những thứ có thể nói được với nhau. Bằng cách đó mẹ buộc tôi vào quê nhà, dù sợi dây đó không thấy được bằng mắt thường, dù rất đỗi mong manh. Đôi khi tôi cũng vuột khỏi nó, trôi tuột theo những cuộc điện thoại bàn chuyện công việc, học hành, thi cử. Mẹ, một chân rút lên ghế, tơ mơ ngó ra ngoài, thủng thẳng kéo tôi về: mùa này giàn mướp lại ra hoa con ạ… Ngay lập tức tôi nhìn thấy lung linh màu vàng hoa mướp, cái hình ảnh nửa vầng trăng cong treo chi chít trên giàn, và mùi thơm của nồi canh cua rau đay mùng tơi nấu mướp lại ứa ra nơi đầu lưỡi. Và lại thổn thức nhớ về những thằng Bôm, con Bát nào đó mà tôi vẫn nhớ mùi ghẻ của chúng từ thuở cùng chăn trâu cắt cỏ, giờ chắc chúng đang nằm võng ru cháu nội, cháu ngoại. Qua lời kể hiền queo của mẹ, họ đến với tôi bằng mái tóc bạc, đuôi mắt răn reo…. Khó mà nắm bắt cho rạch ròi những chuyện không đầu không cuối đó nhưng nó mang đến cảm giác khó tả, xáo động một cách êm đềm. Như thể mỗi chuyện là một cọng nan tre, mẹ tiện tay đan thành tấm liếp che nắng, che gió cho mình đỡ rạc rài. Giờ được mẹ ở cùng với mình, tôi lại được nghe chuyện nhà quê qua cô em gái. Những câu chuyện em kể cũng khác đi nhiều. Chói chang. Bén nhọn. Gay gắt. Hình như làng quê bắt đầu nhốn nháo, các giá trị một thời đảo lộn trong bao cuộc bán mua. Chuyện thằng bạn nối khố làm ăn tha phương giận vợ con nên tự vẫn, chuyện ông chú bạc tình bỏ vợ con, chuyện người làng cướp đất, chuyện phá núi chặt rừng. Hẳn đó không phải là thứ tôi mong đợi, những gì xảy ra ở nơi vùng chiêm trũng gắn với tuổi thơ của mình phải dịu dàng hơn những thứ tin tức mà tôi vẫn thường thấy nhan nhản trên báo chí hàng ngày. Tôi cứ tưởng cái làng Nghè nhỏ bé của tôi phải đứng ngoài những cơn gió lốc của đời sống này chứ. Như nó đã từng thờ ơ đi qua mấy bận binh lửa. Mãi mãi trong hình dung, quê tôi như một bông hoa gạo vừa bật khỏi cành, bay la đà, thờ ơ bâng quơ theo gió đậu đâu cũng được. Những câu chuyện hiền lành của mẹ từng làm bóng mát cho tôi giờ đã xa xôi. Hoa gạo đỏ triền đê ngày nào cũng đã bay thốc vào cuộc sống mưu sinh ồn ào, láo nháo.
Thành phố này, giờ đây hình như mở mắt nhìn là chạm tới nỗi buồn. Những câu chuyện vu vơ mà vẫn buồn…
Một chiều cuối năm, ngồi đợi giải quyết công việc ở một cơ quan cấp trên. Phòng nào trong cơ quan cũng chật kín, tôi đứng ngoài chờ, phía trước là những dãy ghế đợi đã kín người. Có một người đàn ông vào sau, tay cầm cặp, tay kia cầm một bó hoa hồng, thấy đầy nụ và những ngọn hồng mập mạp vươn lên đung đưa. Cũng chưa có chỗ ngồi, anh ta đứng cạnh tôi, tựa hông vào ghế, cái túi đung đưa. Tôi nhìn người đàn ông ấy, ánh mắt đầy thiện cảm. Chắc là một người tử tế, có sách và hoa.
Hàng người trên ghế đợi vơi dần. Rồi cũng có chỗ trống. Người đàn ông với sách và hoa hồng dợm người ngồi xuống cái ghế trống. Kìa kìa, anh ơi, ngồi vào hoa hồng rồi kìa! - Tôi nhắc vội vì thấy anh ta ngồi lên cả những cành hồng. Chỗ ấy chắc là chưa có gai, thảng hoặc nếu có thì gai vẫn còn rất non, chưa đủ làm đau.
Người đàn ông dợm đứng lên, lôi tuột cả bó hoa ôm lên tay. Rồi liếc qua tôi. Rồi yên vị ngồi tựa lưng ghế. Duỗi chân. Thản nhiên. Có phần lành lạnh. Không một nụ cười đáp lễ. Không một lời cảm ơn. Cố nén tiếng thở dài. Tôi quay mặt…
Rồi lần khác ngồi đợi ở một hiệu bán kính, tôi thấy một cậu bé trai khoảng mười tuổi từ trong phòng khám đi ra, ngồi phịch xuống ghế cạnh bố mẹ. Cậu bé béo tốt, hồng hào. Trên mắt cậu ta là cặp kính thử. Những người khám mắt để làm kính đều được bác sĩ cho đeo những cặp kính thử như thế này để xem có vừa số kính không. Cậu bé ngồi ỳ ra, bố một bên, mẹ một bên. Bố mẹ cậu có vẻ người khá giả, quần áo xịn. Bà mẹ diêm dúa. Ông bố com lê, chìa khóa xe hơi lủng lẳng trên tay. Rõ là một gia đình kiểu mẫu và thành đạt. Chắc cậu bé học hành nhiều quá nên lại cận đây, tôi nghĩ. Đó là mầm non của đất nước, rồi sẽ phơi phới bay…
Nhưng cậu bé cứ ngồi đấy, khá lâu, giữa bố và mẹ.
Với thâm niên đeo kính đã dăm năm, tôi biết thử kính thì phải đi lại xem có choáng không, nhìn xa rồi lại nhìn gần xem có hợp mắt không. Thấy cậu cứ ngồi, bố mẹ chắc không biết, tôi nhẹ nhàng giải thích cho họ, bảo họ cho cậu đi lại và thử nhìn gần nhìn xa. Ông bố bà mẹ nghe theo nhưng không nhìn tôi lấy một lần, quay sang bảo con đi lại, nhìn xa nhìn gần. Cậu bé ngoan ghê, đứng lên ngó nghiêng, đọc hết biểu ngữ chăng ngang đường đến quảng cáo treo đầy trước những ngôi nhà sang trọng, rồi đi lại như diễn viên. Thế rồi, họ vào trả kính thử, họ làm kính mới, và... họ đi. Không nhìn tôi lấy một lần, không một lời cảm ơn. Rồi lại một cô bé xinh xẻo trạc mười lăm mười sáu cũng thử kính, đi cùng bố mẹ. Cũng lại ngồi ỳ ra. Lần nữa tôi tua lại bài học kinh nghiệm. Cả cô bé, ông bố, bà mẹ đi cùng, lại lần nữa, họ nghe lời nhưng cũng không nhìn tôi lấy một lần, lại đi lại nhìn xa nhìn gần, làm kính mới, rồi đi mất, không một lời cảm ơn.
Kính để làm gì nhỉ?
Mới đây trong chuyến công tác vào miền Nam, ngồi cùng ghế cạnh tôi là một ông già có khuôn mặt già nua, khắc khổ. Thấy ông cứ loay hoay không biết cài dây an toàn, tôi quay sang cài giúp rồi hỏi xem ông đi đâu mà không có con cái đi cùng. Ông quay sang kể chuyện, ông vào tận Cà Mau làm đám tang cho đứa con trai đầu đi làm ăn xa vừa bị tai nạn qua đời. Tôi thoắt nhiên lạnh sống lưng, nghẹn đắng, thương cảnh lá vàng khóc lá xanh, thương phận người nổi nênh bèo bọt. Ông hỏi tôi xem sau khi xuống máy bay thì từ Cần Thơ về Cà Mau có xa không, đi taxi mất bao nhiêu tiền. Khi nghe tôi nói tiền triệu, ông lắc đầu lè lưỡi vì bằng cả gia tài. Không ngần ngại, tôi đổi lộ trình ở lại Cần Thơ để về Cà Mau ngay trong đêm chỉ với mong muốn cho ông lão đi nhờ. Tôi sợ ông đường xa dặm thẳng, một mình giữa đêm côi cút nơi đất lạ quê người biết nương tựa vào đâu. Suốt quãng đường dài, tôi thi thoảng quay sang len lén nhìn ông, nhìn cái già nua khổ hạnh của ông mà thương đến thắt lòng. Vài lần trên xe, mấy đứa con từ Cà Mau gọi điện cho ông hỏi xem bố đã đi đến đâu. Chúng đón ông ở bến xe khách Cà Mau vì nghĩ ông tự đi từ Cần Thơ về Cà Mau trong đêm bằng xe khách. Ông trả lời đang đi nhờ xe hơi, chúng không tin. Để củng cố niềm tin, tôi cầm điện thoại, nói chuyện với con ông. Vậy mà chúng chỉ hỏi: Bố đang ở đâu? Một câu hỏi lạnh lùng rồi điện thoại tắt cái rụp. Lúc đưa ông xuống xe, dặn ông đứng vào lề đường, chỗ đèn sáng để các con đi đón tiện nhìn thấy. Khi dợm người bước đi, tôi mong một lời gọi theo: Chú gì ơi, tôi cảm ơn chú nhé! hoặc Chú gì ơi, tên chú là gì vậy? Vậy mà tịnh không. Như người bước hẫng, tôi lên xe, bóng ông khuất nhòa vào màn đêm. Lòng vẫn trào thương mà sao thấy chới với lạ lùng. Sao lời cảm ơn thốt ra khó thế? Và còn cả những lời xin lỗi. Cũng lại sao khó thốt ra? Lớp chồi, lớp lá, lớp một, lớp hai…Lớp nào dạy nói lời cảm ơn, xin lỗi. Vậy nên… ngồi vào cả hoa hồng! Không chỉ nói lời cảm ơn, xin lỗi khó, lời nói thật, hành động thật càng khó bội phần…
Bây giờ là mùa cưới, đi đâu cũng gặp đám cưới. Cưới, tất nhiên đó là chuyện tốt, vì nó chứng tỏ thiên hạ còn thích nhau, chưa chán nhau. Nhưng có chuyện này vui vui. Đó là những cặp đôi đi chụp ảnh cưới. Cứ quan sát mà xem, hay lắm. Cô dâu, dù rét chết đi được, răng va lập cập, nhưng vẫn váy trắng hở vai hở lưng hở tay, trông thấy rùng mình. Và vẫn cố nhoẻn miệng cười duyên. Cái duyên rất gượng. Còn chú rể thì phờ người vì bế cô dâu nặng quá. Nhưng chắc cả hai mệt vì ông phó nháy. Nào nào, cười lên, nào, cô dâu, nghiêng người một tý, nào, chú rể phải tươi lên, nhìn đắm đuối vào, đấy, sát môi vào, tay để thế kia à? Ấy ấy, ra sát mép hồ chút nữa cho lãng mạn... Cẩn thận dẫm vào váy cưới rồi ông trẻ ơi... Chụp xong ảnh cưới, cô dâu chú rể về nhà thở dốc như đi vật trâu. Lũ cháu tôi cũng chụp ảnh cưới. Khi lấy cuốn album to đùng nặng vật vã về, cả nhà xúm vào xem, bình phẩm cô dâu trông lạ quá, cứ tưởng ai, chú rể trông đần quá, cũng tưởng ai. Nhưng chỉ xem được một lượt, rồi gập lại. Sau này lũ chúng nó bảo, chụp phí cả tiền, để trên giá cả năm chẳng giở ra xem lần nào. Chúng bảo lũ em: Đừng có dại như anh mày nhé. Vâng vâng. Thế đám cưới mày có chụp không? Chụp chứ! Cả thiên hạ chụp cơ mà. Thế là, Hà Nội ta chụp ảnh giỏi (mạn phép mượn tiêu đề một phóng sự của cụ Nguyễn Tuân), Hà Nội sinh ra một đống cô dâu xinh giống hệt nhau, một đống chú rể đần hệt như nhau. Đôi khi nghĩ, họ diễn cho ai xem nhỉ? Vì thực ra, đó là diễn. Có phải thực đâu? Có những giây phút bồi hồi, có những cái nắm tay vội vàng, có những buổi chiều như trong hơn, có những cuộc cãi vã, dỗi hờn, tất cả chẳng được ghi hình ghi tiếng nhưng họ đã kịp ghi trong đầu. Đó mới là thật. Không album. Không ghi hình in ra đĩa. Người ta diễn khắp nơi. Trên ti-vi đầy những cảnh diễn. Có ông trao quà tặng tình thương vừa trao vừa ngoảnh mặt tìm ống kính truyền hình, trước khi trao chẳng nở một nụ cười, khi máy quay hướng đến ông vội vã nhoẻn môi. Ông khác lên diễn đàn dạy dỗ bảo phải đổi mới tư duy, hôm sau nhân viên hỏi, lại ra lệnh cứ như cũ mà làm. Giáo viên biết có thanh tra kiểm tra thì đưa những học sinh thuộc diện cá biệt đi di tản hoặc quá lắm thì dặn cháu ở nhà. Không chỉ ngoài xã hội, trong nhà, trong họ mạc cũng diễn. Đứa cháu gái muốn thi vào ngân hàng với mong muốn nhanh kiếm tiền nhưng khi nghe ông chú khuyên nên thi vào sư phạm để giữ lấy gia phong, lấy cái nết na, nghiêm cẩn làm trọng, đáng lẽ nói thật là cháu không thích, cháu không muốn, đằng này nó gật gù tâm đắc, khen hay lắm, thích lắm. Ông chú vui mừng vì cái nề nếp gia phong mình giữ gìn lâu năm hóa ra vẫn còn tác dụng, tất bật sấp ngửa đi lo làm hồ sơ. Thế mà nó chả thèm đi thi, chả thèm nói lại nửa lời làm ông chú cứ ngơ ngác chẳng hiểu vì sao nó phải diễn “những phân cảnh đầu đời” với mình làm gì.
Trong điện ảnh, đích thị là diễn. Nhưng có những bộ phim diễn đến mức thật. Lại đầy những bộ phim diễn đúng là diễn, vừa xem vừa cười. Trong văn chương có diễn không? Có. Đầy cảnh diễn. Nhiều truyện đọc đến chết cười. Kỹ thuật rất quan trọng, nhưng lạm dụng kỹ thuật thì lại biến thành một trò diễn.
Chỉ mong sao được bình an. Chỉ mong sao tim mình yên ổn. Chỉ mong sao “diễn” ở đâu đó xa lắc, không ở bên mình. Khi đó, lòng mình sẽ có cơ hội được lắng lại, cảm nhận sẽ sàng tiếng mưa đêm miên man trên cánh đồng xanh thuở thanh bình, trà lúa đông xuân ôm bờ hạnh ngộ, cánh cò trắng lượn quanh chiều sóng vỗ, thương nhớ ai, không biết, đợi xuân nồng. Xin cho một lần hội ngộ cùng đất trời mưa bụi mà lắng nghe tiếng thở đêm trường trùng lai miên viễn…
Rồi lại được nghe tiếng họa mi. Không hiểu sao họa mi lại hót trong mưa và chỉ trong mưa họa mi mới hót hay và hót nhiều. Có gì bí ẩn giữa tiếng mưa giao thoa đất trời với tiếng chim líu ríu chuyện trò như trẻ nhỏ. Trong tôi bỗng ngân lên câu hát: Tiếng mưa như tiếng tằm ăn. Một vẻ đẹp phồn thực ám ảnh tâm thức Việt bởi nương dâu bãi mía, bởi tiếng tằm ăn rỗi rào rào để chuốt bao nong kén óng ả. Tiếng mưa đã dệt lụa với tiếng thoi đưa kết nên một mùa vàng no ấm. Tuổi thơ tôi lăn lóc cùng giỏ đựng cua, bị đựng thóc hồ hởi reo vang cùng bầy trẻ làng. Cả thân mình đẫm bùn đắp đập be bờ bắt những con cá rô căng phồng bụng trứng, cả dải trứng cá chạy vào cái giỏ ký ức tuổi thơ để sinh sôi, để nảy nở, để tắm gội, để thanh lọc, để ngấm vào mình cái vị đầm đậm phù sa của đứa con nhà nông. Đôi lúc chợt hỏi giữa cuộc mưu sinh mệt mỏi, những cố gắng của tôi không chỉ vì áo cơm no ấm đủ đầy cho cả đại gia đình mà có thể còn vì vẻ đẹp trong trẻo, tươi tắn, nguồn cội của thiên nhiên. Nếu không còn sức sống nào trỗi dậy sau mưa, níu kéo sau mưa và cộng hưởng sau mưa để thăng hoa hơn, thuần khiết hơn thì trái đất này, sự sống này sẽ buồn biết mấy. Còn nghe được tiếng mưa, còn khao khát tiếng mưa là còn khát vọng tránh được sự vô cảm của cõi con người khi cái ác ngày càng có nguy cơ gieo mầm mống và mọc tràn lan như cỏ dại. Được nghe tiếng mưa thẩm thấu qua mình, được vỡ òa thảng thốt, được nếm những đọt mưa ngọt mát, được choàng tấm áo mưa tinh khiết, tôi như đứa trẻ lại được hồi sinh.
Càng mát dịu lành lẽ hơn nữa khi tết này tôi được đón tết cùng bố mẹ và chị gái. Qua nhiều khó khăn, trắc trở, khi giành giật những phút giây sinh tử cho những người thương yêu ruột thịt, tôi lại được ngồi quanh bàn ăn đêm tất niên với tràn ngập sum vầy. Tạm quên đi những vất vả, những nỗi tái tê chảy qua từng kẽ ngón tay, tạm quên cái lạnh cóng quánh của đất trời, tôi khoan khoái hưởng những phút giây ấm nồng tình cha con, tình huynh đệ, tỷ muội. Nhớ những mùa xuân xưa không được ăn tết quê nhà, đón tết nơi xứ người mà lòng cứ rưng rưng. Nhớ tết năm nào, suốt mùa Giáng sinh không thấy tuyết rơi. Sáng hai tám tết, mở mắt ra đã thấy đất trời trắng xóa. Những mái nhà lợp bằng đường kính. Tuyết đấy. Lạnh âm 7 độ c.
Anh ở xa có nhớ Tết Việt không? Câu hỏi của cô bé dễ thương năm nào tóc xõa ngang vai. Tiếng hỏi dài như tiếng nấc trong đêm:
Hồi mới sang cũng nhớ quay nhớ quắt em ạ!
Hồi mới sang, mình luộc gà, thổi xôi, nấu chè. Mâm ngũ quả có dưa hấu, chuối, cam, phật thủ. Căn hộ cao tầng, thiết bị báo cháy kêu như còi xe cảnh sát, ngay cả khi mình lỡ tay quá lửa mẻ lạc rang. Phút sang canh không thắp nhang, không bật sâm-banh, nhớ cha mẹ nghèo không dám tự mình cho mình tiền mừng tuổi. Hồi mới sang, đêm giao thừa nghe cô ca sĩ hát: Hà Nội ơi, một trái tim hồng, một mình ngồi nước mắt rưng rưng. Điện thoại đường dài nghẽn mạch. Cùng một building, chẳng ai biết tết của mình.
Anh ở xa có nhớ Tết Việt không?
Ăn tết “giả vờ” thành quen em ạ! Tết giả vờ vì không có cành đào, chậu quất, không có cảnh chen chân vào chùa xin lộc. Bạn bè nâng ly chúc tụng, rồi lại đợi phút sang canh, í ới gọi nhau: Chúc mừng năm mới. Siêu thị sáng choang biết tìm đâu ra xôi gấc. Góc bánh chưng rán vàng cháy cạnh ngẩn ngơ. Tết giả vờ đĩa hành nén được thay bằng củ cải. Tết giả vờ vẫn phải đến giảng đường dạy học, phút giao thừa phía bờ đông, ngồi nhai bánh mỳ trước màn hình máy tính.
Anh ở xa có nhớ Tết Việt không?
Hoài niệm cứ mênh mang, chẳng biết bắt đầu từ đâu em ạ!
Tết ở Việt Nam bắt đầu từ tháng chạp. Cửa hàng thợ máy chất ngất vải vóc. Đồng nghiệp bảo nhau, địa chỉ tin cậy đặt mua miến dong, đặt bánh chưng, đặt làm giò chả… Đầu tháng giỗ bên nội, cuối tháng giỗ bên ngoại. Tất bật như thoi trên những chuyến xe. Chiều hai tám về nhà ông bà nội thịt lợn đụng. Ông mổ gà, đồ xôi, nấu chè cho tất cả các gia đình bé mọn mang về cúng sang canh cho các con đỡ vất vả. Quà biếu nhau phải đem đến từ trước tết. Xe máy phóng như bay, bấm chuông, trao túi quà, tất bật hẹn ra giêng. Ừ, chỉ vài tiếng đồng hồ nữa sẽ ra giêng. Mỗi phút chiều ba mươi quý hơn cả giờ đồng hồ tháng dài ngày rộng. Tết ở mình là gặp nhau uống rượu. Tết là cúng cơm đặt lên bàn thờ mời các cụ mỗi ngày. Tết là chạy xô chúc tết nhau như kiểu điểm danh. Tết vui. Tết mệt nhoài. Tết… tiền đi ra khỏi cửa.
Anh ở xa có nhớ Tết Việt không?...
“Đêm giao thừa không chờ đón pháo bông
Không ra phố lang thang - không lên chùa hái lộc
Bữa cơm tất niên nghe lòng mình chùng xuống
Khói hương cay, day dứt phía quê nhà”.
Những tháng ngày này, tết không còn nỗi day dứt tha hương nữa, cũng vắng thưa giọng hỏi véo von của cô bé có đôi mắt đuôi dài và mái tóc mượt mà xõa ngang vai nhưng bù lại, lòng ấm áp hơn trong niềm cảm xúc của sự sum vầy. Lại quay về với những tất bật rất Việt, lại quay về với những điều không thể đưa lên bàn toan tính hơn thiệt, được thua. Chỉ cần biết quanh mình còn đủ đầy những thương yêu là mùa xuân đã dâng đến ngập lòng.
Xin cho những mùa xuân này mãi là viên miễn!.
Cùng với nắng xuân, gió xuân, với hoa cải vàng triền sông rực rỡ, tim lại thắp những ngọn lửa nồng nàn của một mùa xuân yêu thương!                      
Nam Thảo
Theo http://congdoan.hnue.edu.vn/





Nhà văn Nguyễn Quốc Trung trên hành trình đất không đổi màu

Nhà văn Nguyễn Quốc Trung trên hành trình đất không đổi màu Nhà văn Nguyễn Quốc Trung qua đời cách đây 2 năm vì Covid-19, được Hội Nhà văn...