Không kể những bài thơ đầu tay thuở học trò,
chỉ tính từ tác phẩm đầu tiên đăng trên tạp chí Bách
khoa ở Sài Gòn năm 1960, đời thơ Đỗ Hồng Ngọc đến nay đã tròn nửa thế kỷ.
Nửa thế kỷ với bốn tập thơ giữa những khoảng cách khá xa nhau: Tình người (1967),
Thơ Đỗ Nghê(1973), Giữa hoàng hôn xưa (1993), Vòng quanh (1997), Đỗ
Hồng Ngọc gây cho chúng ta cảm tưởng ông là một nhà thơ thoắt ẩn, thoắt hiện,
ẩn mà hiện, hiện mà ẩn. Có phải vì cái tên Đỗ Hồng Ngọc đã quá nổi tiếng với
tư cách một tiến sĩ y khoa đã phần nào che mờ
tác giả như một nhà thơ? Hay là vì chính những tác phẩm bàn về y học, thiền học
của ông, với chất thơ bàng bạc trong đó, cũng mang đủ những phẩm chất thi ca,
cho nên người đọc không còn phân biệt ở ông đâu là nhà thơ, đâu là thiền giả
và đâu là bác sĩ của tuổi thơ?
Tiếng Việt mình có những từ đồng âm thật
là tuyệt diệu: thơ, tuổi thơ, trẻ thơ, ngây thơ, tình thơ, ngày
thơ…, những từ khác nghĩa mà thật gần nghĩa, cộng hưởng vào nhau. Đọc Đỗ Hồng
Ngọc từ gần 40 năm trước, tôi nhận ra rằng tất cả những “thơ” đó đều hiện diện
trong thơ văn ông. Thì đây, hãy đọc lại một khổ thơ ông viết về Mũi Né năm
1970:
Mũi Né ơi người xưa đã xa
Mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ
Năm nay người có về ăn Tết
Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ…
Chút ấu thơ lúc nào cũng làm ta ngậm ngùi, đó là một nét
thuộc về phongcách
Đỗ Hồng Ngọc. Hồn thơ này nhạy cảm với những gì đã qua, những gì đã xa, biết
là mất mà không tin là mất, vẫn có thể níu kéo được, vẫn có thể gìn giữ được,
bằng kỷ niệm, bằng tình yêu và bằng chính thơ ca:
Mùa xuân mừng tuổi thơm tho áo
Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa.
Lòng em biết có ngàn xưa cũ
Hay cũng mòn phai theo bóng trăng.
Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng
Tình cũng ngùi phai theo tháng năm.
Đỗ Hồng Ngọc chọn thơ ca và chọn nhi khoa là phải lắm. Ông
chăm sóc thơ như chăm sóc tuổi thơ và chăm sóc tuổi thơ như chăm sóc mầm thơ.
Ông không xem thơ
như mục đích tự thân, cũng không xem thơ như một công cụ, mà để thơ tựa vào
cuộc đời, tựa vào tình người. Câu thơ của ông chan hoà,
giản dị, như tự bật ra từ trái tim, và khi thấy lòng mình đã lên tiếng vừa đủ,
thì thơ ông nhẹ nhàng rút lui hay ẩn mình trong khói sóng.
Cung cách “ẩn mình” đó là cách hiện diện của thơ Đỗ Hồng Ngọc ngay từ
trước 1975, khi ông chọn bút hiệu ghép từ họ cha và họ mẹ (Đỗ Nghê) và chọn
hình thức phổ biến hạn chế bằng ronéotypé. Trong hồi kýNhững chuyến ra đi,
nhà văn Lữ Phương nhắc đến kỷ niệm về những câu thơ mà cho đến nay ông vẫn
không hề biết tác giả là ai: “Một ông thầy dạy Pháp văn tên Nguyễn Khánh Long
ở kế bên nhà tôi, trước khi bắt đầu giờ học đã đọc cho học sinh chép bài thơ
đem từ Sài Gòn về, không biết ai là tác giả, ca ngợi Quách Thị Trang bị bắn
chết trong một cuộc biểu tình chống Ngô Đình Diệm trước chợ Bến Thành, trong
đó những câu tôi còn nhớ được:
Có cần gì một con đường mang tên em
Một công trường hay một hoa viên
Vì tên em đã lồng khung tuổi trẻ
Vì tên em không còn là một tên riêng…”
Đây chính là bài Em còn sống mãi Đỗ Nghê viết năm
1964, lần đầu in báo Tình thương, sau được Kiên Giang Hà Huy Hà đăng lại
trên báo Điện tín.
Riêng người viết bài này, thì lần đầu tiên đọc và thuộc thơ
Đỗ Nghê là qua trung gian của báo chí và âm nhạc. Đó là những câu thơ biểu hiện
hơi thở và mùi vị Phan Thiết mà Thu Thuỷ trích dẫn trong một bài giới thiệu
trên nhật báo Chính luận (1974): Chân run rẩy cát bờ Thương
Chánh/ Gió ở đâu về thơm bước khuya… Trong bài giới thiệu đó, Thu Thuỷ
tán đồng nhận xét của Lữ Kiều, một bạn văn và đồng môn của Đỗ Hồng Ngọc, rằng
hai tố chất chủ đạo của người và thơ Đỗ Nghê là nghiêm túc và đôn hậu. Đó còn
là bài Lời ru do Miên Đức Thắng phổ thơĐỗ Nghê, một bài hát “thật
chua xót và cũng thật dữ dội”, như Thế Uyên nhận xét. Chính Lời ru là một
trong ba ca khúc phản chiến đã khiến chính quyền Sài Gòn đưa Miên Đức Thắng
ra toà với bản án năm năm khổ sai:
Rất nhiều đêm rất nhiều đêm
Tôi vỗ về tôi thủ thỉ
Ngủ đi con ngủ đi con
Ngày mai rồi khôn lớn
Cầm súng với cầm gươm.
Ngủ đi con ngủ đi con
Ngày mai rồi khôn lớn
Giết bạn bè anh em
Ngủ cho ngon ngủ cho ngon
Ngày mai rồi khôn lớn
Bán nước mà làm quan.
Cùng với hai bài thơ Em còn sống mãi và Lời
ru nói trên, Thư cho bé sơ sinh tạo ra một “thế chân vạc” cho
vị trí của thơ Đỗ Nghê, khiêm tốn mà riêng biệt, trong thơ đô thị miền Nam thời
chiến. Rõ ràng là Đỗ Nghê có mặt trong dòng thơ tranh đấu lúc đó như một chọn
lựa: chính ông đã từng thuyết trình về đề tài này ở Đại học Y khoa Sài Gòn
năm 1964, như Nguiễn Ngu Í tường thuật lại trên tạp chí Bách khoa. Nhưng
với bài Thư cho bé sơ sinh, ngòi bút Đỗ Nghê không chỉ tranh đấu
cho hoà bình như một lẽ phải đương nhiên, mà còn suy ngẫm về thân phận con
người trong một thời buổi nhiễu nhương và phả hơi ấm tình yêu con người trong
một ngôn ngữ hiện đại.
Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc
Trong cùng một cảnh ngộ nghe em.…
Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em
Em được dán nhãn hiệu từ giây phút ấy
Nhớ đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu…
Thật kỳ lạ, ở tuổi 25, Đỗ Hồng Ngọc đã tự đặt cho mình một
cột mốc thơ ca mà chính ông không dễ gì vượt qua. Ni sư Giải Nghiêm có lý khi
cho rằng nhiều bài thơ và bài viết của Đỗ Hồng Ngọc về sau này dường như là một
sự nối dài Thư cho bé sơ sinh.
Thư cho bé sơ sinh còn đặc trưng cho thơ Đỗ Hồng Ngọc ở
điểm này: tác giả khai thác nhiều khía cạnh tương phản của đời sống: tiếng
khóc và nụ cười, màu sáng và màu tối, thực chất và nhãn hiệu, cái bé bỏng nhỏ
nhoi và cuộc đời rộng lớn; nhưng không đẩy nó vào thế đối lập mà đưa những
tương phản đó thành những hợp thể. Phải chăng đây cũng là dấu ấn của lý tưởng
hoà hợp trong thơ ông sau này, khi ông viết những bài thơ mang hơi thở thế sự
hay mang tâm thức thiền học.
Giữa hoàng hôn xưa và Vòng quanh là một giai
đoạn mới của thơ Đỗ Hồng Ngọc. Quả là một nghịch lý, khi hồn thơ mở ra những
không gian mới, nó lại vẫn không thôi chịu sức hút của kỷ niệm. Cho nên,
trong tuyển thơ này, tác giả cố ý để lẫn lộn những bài thơ của những thời kỳ
khác nhau để bạn đọc cảm nhận được sự chan hoà của quá khứ và hiện tại, của
chất “nghiêm túc” và đôn hậu, lý tưởng và lãng mạn, của đau thương
và hy vọng.
Có thể nói Đỗ Hồng Ngọc là người nhặt thơ của
chính mình đánh rơi trên những ngả đường. Đọc Giữa hoàng hôn xưa, ta
tưởng chừng như nhà thơ để lại trái tim mình nơi những góc phố, những bến
thuyền của thị xã Phan Thiết mà tuổi trẻ ông đã đi qua. Đến tập Vòng
quanh, Đỗ Hồng Ngọc nhặt tiếp một lẵng thơ từ những chân trời xa: dưới một
vầng trăng Boston,
vào một muà tuyết Montréal hay trong màu nắng toả sáng vườn Luxembourg –
nơi từng in dấu chân bao văn nhân thi sĩ. Thì ra chuyến đi nào cũng là một cuộc
hành hương trên cõi đời này. Một lúc nào đó, dường như Đỗ Hồng Ngọc ngộ ra rằng
đâu có phải mình đang đi mà chính là thời gian bước đi trong mình, bước đi
qua những sợi tóc không còn xanh, bước đi qua kỷ niệm, bước đi qua nhớ
thương.
Và như vậy thời gian không còn gợi lên niềm sợ hãi. Ngày
tháng cứ trôi đi, đó là quyền lực của tạo hoá. Còn con người cũng biết cách
biến tình yêu và niềm tin của mình thành “quyền lực”. Tin rằng một cái gì đã
hiện hữu thì không thể nào là hư vô. Đó là niềm tin của nhà thơ khi cầu nguyện
cho hình ảnh thân yêu đã chia lìa bước ra từ một phim trường hay hiện về trên
màn hình vi tính.
Thật ra, ý hướng thiền học và cảm xúc tâm linh đã ươm mầm
trong thơ Đỗ Hồng Ngọc từ rất sớm. Nhưng phải qua những trải nghiệm nào đó về
cuộc đời, người ta mới có thể nghĩ sâu về Tâm kinh như tác giả Nghĩ từ
trái tim. Cũng như phải đạt đến một sự hoà hợp nào đó giữa “ngã” và
“tha”, người ta mới viết được những câu thơ như Đỗ Hồng Ngọc:
Hội An còn ngái ngủ
Mái chùa ôm vầng trăng
Giật mình nghe tiếng chổi
Gà gáy vàng trong sương.
Tan biến giữa mênh mông, ta còn biết nhận ra mình ở đâu? Chỉ
là ở cái giật mình. Và hễ còn giật mình là còn có thơ.
(*) Đọc Thư cho bé sơ sinh và những bài thơ khác của
Đỗ Hồng Ngọc, NXB Văn Nghệ, 2010.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét