Nếu văn chương là bản mệnh đeo đuổi một con người, thì nó sẽ
gõ cửa số phận không chỉ một lần, bởi nó tin rằng người được gọi sẽ góp phần
làm nên công tích. Trần Mai Châu là một người được gọi dù con đường văn học của
ông không ít gian nan, trắc trở.
Đầu thai nhằm lúc sao mờ
Nguyên quán Hà Nội, Trần Mai Châu sinh năm 1924 tại Sơn La,
nơi thân sinh ông lên nhận nhiệm sở sau khi tốt nghiệp y sĩ Đông dương tại
Trường Cao đẳng Y dược Hà Nội. Trong những năm đi học, Trần Mai Châu bắt đầu
làm thơ. Hơn 200 bài thơ hoà vào mạch thơ lãng mạn đương thời mà tác giả đã sẵn
sàng quên đi không nuối tiếc, vẫn còn những vần thơ giữ lại cảm hứng và tình
điệu tuổi trẻ, chẳng hạn bài Em đến mùa xanh được ghi lại nguyên
văn dưới đây:
Em đến mùa xanh lạnh đã lâu
Trang thơ chưa đẹp giấc mơ đầu
Đêm hoàng lương ấy khôn chung mộng
Ba bốn năm trời lỗi hẹn nhau.
Ngàn thương em đến rồi sao
Vầng trán xuân nào băng tuyết
Ngàn thương thức tỉnh rồi sao
Sao bỗng chào thưa thân thiết.
Em ơi chuyện cũ vui buồn
Đừng có bao giờ kể lại
Mây vàng đã bỏ lầu son
Nước cũng qua cầu trôi mãi.
Sương xuống đầy song gió
thổi
Trăng tà về sáng ngàn dâu
Có sáng đời anh tăm tối
Từ khi em bước chân vào?
Mỏi nhớ mòn thương chẳng trách nhau
Không dưng em đẹp đến u sầu
Hoàng lương tỉnh giấc thiên thu lạnh
Biền biệt mùa xanh đôi mắt nâu.
Bài thơ này được sáng tác năm 1944, vào lúc hậu kỳ Thơ Mới,
cho nên tác giả cũng dự cảm một sự thay đổi nào đó cần thiết cho thơ ca. Như
một run rủi của số phận, trong thời gian đó, Trần Mai Châu làm quen với Trần
Dần, Vũ Hoàng Địch và cả ba cùng hợp tác xuất bản một tờ báo văn học. Tập thơ Một
mùa địa ngục (Une saison en enfer)
của A. Rimbaud gợi cảm hứng cho họ đặt tên tờ báo là Dạ đài, phát
hành đúng một tháng trước ngày Toàn quốc kháng chiến. Tờ báo mỏng chỉ có bảy
trang, ghi rõ ở trang bìa:
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ – NĂM THỨ HAI
DẠ - ĐÀI
tuần báo văn chương ra ngày thứ bảy
Số 1 Chủ
bút: Vũ
Hoàng Địch
16-11-46 Chủ nhiệm, Quản lý: Trần
Mai Châu
Báo quán: 30, Bùi Quang Trinh, Hà Nội
Điều thú vị là chính ông Lưu Văn Lợi, lúc đó làm giám đốc
Nha Báo chí, đã ký giấy phép cho xuất bản Dạ đài.
Nằm ở trang bìa, chiếm gần nửa số trang báo là Bản
tuyên ngôn tượng trưng mà ba người cùng ký tên, do Trần Dần chấp bút với
sự góp ý của Trần Mai Châu và Vũ Hoàng Địch. Có thể nói những tích tụ của yếu
tố tượng trưng trong thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Đoàn Phú Tứ… đã chuẩn
bị cho sự xuất hiện đầy tự tin này, như lời tự giới thiệungay từ
đầu bản tuyên ngôn:
“Chúng tôi – một đoàn thất thổ - đã đầu thai nhằm lúc sao mờ.
Cho nên buổi chúng tôi xuất hiện, chúng tôi để cho tàn suy
giấc mơ của những người thuở trước.
Sụp đổ: lâu đài phong nguyệt;
và mai một: ý tứ những thi nhân mò ánh trăng mà thác.
Chúng tôi không còn khóc – không còn muốn khóc – vì người
ta đã khóc mãi ái tình, công danh và thế sự.
Chúng tôi không còn nhìn mây – không còn muốn nhìn mây – vì
người ta đã nhìn mãi mây chiều cùng nắng sớm.
Chúng tôi đã gào thét những đêm thâu, đã rên la những ngày
dài dằng dặc. Chúng tôi đã nhìn lên Tinh đẩu, đã nhìn xuống Thế nhân. Chúng
tôi đã về giữa non sâu để trở lại những bình nguyên hoang lạnh. Chúng tôi đã
sống, sống hết cả những hình thức dương trần, đã đau khổ hết cả những mối sầu
vui nhân loại”.
Bản tuyên ngôn đầy chất thơ đã không ngần ngại đối thoại và
tranh luận một cách tinh tế với quan niệm thơ lãng mạn thịnh hành suốt hai thập
niên trước đó:
“Vả lại, làm sao người ta cứ lăn lộn mãi trong mối thất
tình eo hẹp? Làm sao người ta cứ khóc mãi, than mãi, rung động mãi theo những
con đường rung động cũ? Làm sao người ta cứ nhìn mãi vũ trụ ở ba chiều và thu
hẹp tâm tư ở bảy giây tình cảm? Chúng ta còn có nghèo nàn thế nữa đâu? Chúng
ta đã mang nặng: - những thế hệ tàn vong – những triều đình đổ nát – trăm
nghìn lớp phế hưng. Chúng ta đã thâm cảm: - những trời sao vằng vặc – những sự
vật điêu tàn – sự mòn mỏi của ngày đêm liên tục. Biết bao nhiêu chuyện tang điền
đã xao động tấm hình hài nhân thế! Biết bao nhiêu thế kỷ đã trầm tư! Biết bao
nhiêu núi lở non tàn đã bắt buộc chúng ta phải sầu thương, chúng ta phải trở
lại chúng ta mà tư tưởng! Chúng ta đã suy nghĩ nhiều rồi, chúng ta đã suy
nghĩ quá nhiều rồi ở một Con đường Tuyệt vọng”.
Không bằng lòng với con đường mà thơ ca lãng mạn đã đi, những
người tự khẳng định là thi sĩ tượng trưng ý thức về sứ mệnh của mình qua những
lời hứa hẹn:
“Chúng tôi sẽ vén cao bức màn nhân ảnh, viết lên: - quỹ đạo
của trăng sao – đường về trên cõi chết. Chúng tôi đã sống, lấn cả sang bờ bến
u huyền, cho nên buổi chúng tôi quay về thế tục, chúng tôi nhìn hoa lá với những
cặp mắt mờ hoen. Nhỡn tiền bỗng thấy thay đổi tất cả những hình sông, vóc
núi. Chúng tôi lạ: lạ từng đám mây bay, từng bóng người qua lại – Chúng tôi lạ
từ sắc nắng bình minh đến mầu chiều vàng vọt. Chúng tôi lạ, lạ tất cả. Và
chúng tôi đã thấy những cái gì người ta chẳng thấy. Chúng tôi đã thấy muôn
nghìn thực tại ẩn sau cái thực tại cảm thâu bằng những năng khiếu nông gần. –
Chúng tôi đã thấy: thế giới bên kia, những thế giới bên kia lẩn ngay trong
đám bụi dương trần một giây phút có thể bừng lên như Thực Cảnh”.
Qua một đoạn văn như trên đây, ta có thể thấy những người
viết tuyên ngôn muốn xa rời chủ nghĩa lãng mạn thế kỷ XIX để đến với chủ
nghĩa hiện đại thế kỷ XX, thâu tóm những quan niệm mới mẻ nhất: vai trò của
trực giác và biểu tượng, nghệ thuật như là phương thức lạ hoá, sự bừng ngộ về
cõi siêu thực như là sự thức nhận sâu sắc hơn về cõi thực.
Khi xuất hiện vào đầu thập niên 30 thế kỷ trước, thơ lãng mạn
Việt Nam cũng đã có chỗ dựa ở những phát ngôn lý thuyết của Lưu Trọng Lư,
Phan Khôi, Nguyễn Thị Kiêm..; nhưng yếu tố quyết định chiến thắng của nó
chính là những bài thơ giàu năng lượng nghệ thuật và sức lan toả. Giờ đây
cũng vậy, thơ tượng trưng Việt Nam muốn thay thế thơ lãng mạn thì
không thể chỉ bằng tuyên ngôn thuần lý mà chủ yếu phải chinh phục bằng chính
sáng tác. Điều này cũng giống như Manifeste du Symbolisme của Jean
Moréas không thể thay cho sáng tác của Baudelaire, Rimbaud, Verlaine,
Mallarmé…
Hiểu vậy cho nên ngay sau Bản tuyên ngôn tượng trưng,
Dạ đài đã in sáu bài thơ của Trần Dần, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Trần
Mai Châu, Nguyễn Văn Tậu (một bút danh của chính Trần Mai Châu) như là những
lời hô ứng cho bản tuyên ngôn. Chỉ trong vòng chưa đầy hai năm, cảm hứng lãng
mạn của thi nhân đã chuyển đổi thành cảm hứng tượng trưng pha màu siêu thực,
như có thể thấy qua bài thơ Theo bóng tử thần của Trần Mai Châu:
Thế kỷ ta rung ánh lửa thần
Hoa vàng nghiêng mặc áo Siêu nhân
Trăng ơi! Trở lại đêm tàn sát
Này ánh tà dương khóc Bạo Tần
Em có buồn không, giờ tử nạn
Ta cười ghi lại nét phù vân
Nửa đêm sao biếc về trong Mộ
Mừng cuộc hồi sinh hiện giữa trần…
Đọc bài thơ này, Lại Nguyên Ân cảm nhận rằng tác giả “về tiềm
năng vốn hứa hẹn những bung phá theo hướng văn nghệ tiên phong”. Dạ đàicòn
rao trước số tiếp theo sẽ tăng lên 12 trang, với những tiểu luận Hiệu
triệu các nghệ sĩ của Trần Mai Châu, Toà án tượng trưng: cái nhầm
Xuân Diệu của Trần Dần và sáng tác của những cây bút mới. Nhưng cuộc
kháng chiến đã bùng nổ, mọi thể nghiệm nghệ thuật đều phải xếp lại. Trần Mai
Châu cùng Trần Dần, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch… giã từ Hà Nội,
giã từ giấc mộng văn chương thời tuổi trẻ.
Khối tình mang xuống… Dạ đài chưa tan
Đằng sau ảo vọng của tuổi trẻ, Dạ đài không giấu
được một khối tình lớn với thơ ca. Dạ đài, cái tên như vận vào số
kiếp, là ngọn nến bùng lên cuối một thời thơ nhiều hứng khởi và bứt phá. Ngọn
nến đó sớm tắt vì hoàn cảnh không cho phép “dung hợp được thực và hư bằng
hình tượng”.
Thời kháng chiến, Trần Mai Châu lập gia đình và sống ở Thái
Bình. Gánh nặng trách nhiệm với gia đình nhỏ buộc ông trở về Hà Nội năm 1952
và vào Nam năm 1954, để lại một người con trai ở miền Bắc. Trong khi đó, song
thân và gia đình lớn của ông tham gia trọn hai cuộc kháng chiến, cho đến ngày
cả nhà đoàn tụ sau 1975.
Vào Sài Gòn, Trần Mai Châu ghi danh học Đại học Văn khoa, tốt
nghiệp cử nhân Pháp văn năm 1962, ra trường dạy ngoại ngữ và có hơn muời năm
làm hiệu trưởng trường trung học tổng hợp Lý Thường Kiệt ở Hóc Môn, Gia Định.
Sau năm 1975, ông chuyển về dạy học ở trường trung học cơ sở Hà Huy Tập, Bình
Thạnh, cho đến khi nghỉ hưu (mà không có lương hưu) vào tuổi lục tuần.
Với Trần Mai Châu, gần 40 năm, vì chiến tranh, vì nợ áo
cơm, giấc mộngDạ đài chôn vùi trong quên lãng, những tuyên ngôn và sáng
tác cũng nằm sâu trong ngăn kéo. Gặp lại những người bạn cũ thời Dạ đài, Trần
Mai Châu chắc cũng nhận ra văn chương đã khiến không ít người tơi tả. Nhưng
có lẽ khát vọng thơ ca vẫn âm ỉ ở một góc nào đó của tâm hồn văn nhân, chỉ chờ
dịp bùng cháy trở lại.
Trong những ngày hưu trí rảnh rỗi, Trần Mai Châu đã nhận lời
dịch một số tiểu thuyết cho các nhà xuất bản ở An Giang và TP Hồ Chí Minh.
Nhưng những tác phẩm không thôi ám ảnh tâm hồn ông lại là những bài thơ Pháp
thế kỷ XIX mà ông thuộc làu từ thời đi học ở Hà Nội và Sài Gòn. Ông tin mình
có thể chuyển ngữ thành công những bài thơ đó sang tiếng Việt. Có lần ông tâm
sự với Phan Phú Yên, tức nhà thơ Phan Hoàng: “Tôi thấy người dịch thơ Pháp phải
hết sức cố gắng để xứng đáng một phần nào với những tác giả nổi tiếng. Ta phải
cung cấp cho độc giả những bài thơ thực sự là thơ Việt Nam và khi đọc mọi người
không có cảm tưởng là đang đọc một bài thơ dịch (…) Những bài thơ mình dịch
là những bài thơ hay nhất của một thi sĩ ngoại quốc nổi tiếng, nếu mình đưa
ra những bản dịch tầm thường thì phản bội lại họ. Điều quan trọng nhất của một
bản dịch là phải hay”. (Phan Phú Yên, “Đường một thuở trăng xanh”, Kinh tế
nông thôn cuối tuần, số 27, ngày 10-7-2004).
Trả lời nhà phê bình Thuỵ Khuê trên đài RFI ngày
04-12-1999, Trần Mai Châu cũng nói rõ quan niệm của mình về dịch thơ: “Quan
điểm dịch thơ của tôi là phải cố gắng dịch đúng và hay. Bài thơ dịch phải là
một bài thơ Việt thực sự. Nhưng muốn vừa đúng vừa hay thì nhiều khi phải cân
nhắc. (…) Đi vào cụ thể thì tôi thấy tình ý bài thơ đã có sẵn, vấn đề chỉ còn
là kỹ thuật, là diễn đạt. Nhưng tình ý là tình ý của tác giả nguyên tác, nếu
không thấy rung động thực sự vì những tình ý đó, không cảm thấy những tình ý
đó cũng là tình ý của mình thì không diễn tả hay được”.
Nhờ tài nghệ của Trần Mai Châu, hồn thơ Pháp hoà điệu với
tiếng Việt giản dị và tinh tế, qua những câu thơ năm chữ:
Nắng đã tắt từ lâu
Tôi ngồi bên cửa lớn
Nhìn chút ngày ngả muộn
Sáng ánh lửa cần lao.
(Hugo: Chiều, mùa gieo hạt)
hay những câu thơ tám chữ:
Đêm tăm tối nhưng vẫn còn leo lét
Ánh trăng mờ ở tận tít mù xa
Giữa trần thế một linh hồn thân thiết
Hiểu tình ta và sẽ trả lời ta.
Trần Mai Châu đã dự cảm đúng về thành công của ông trên
lĩnh vực dịch thơ. Cuốn Thơ Pháp thế kỷ XIX (NXB Trẻ, 1996) do ông
tuyển dịch, lược khảo, bình chú đã được dư luận hồi đáp tích cực, được tặng
thuởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1997 và nay đã in đến lần thứ ba. Có thể
mượn lời của James Mc Gowan, người dịch Les Fleurs du Malcủa Baudelaire
sang tiếng Anh, để nói về những dịch giả thành công, trong đó có Trần Mai
Châu: “Tôi hoạt động như một nhà thơ khi thực hiện những bản dịch của tôi, và
như một nhà thơ, tôi hy vọng phục vụ cả Baudelaire lẫn người đọc hiện đại”.
Dường như nhà thơ Trần Mai Châu thời Dạ đài đã sống lại trong kích
thước mới của những bản dịch này. Điều khiến ông đắc ý nhất là hầu hết những
bài thơ dịch đó, nhờ nhạc điệu, đều có thể được ngâm lên chẳng khác nào những
bài thơ Việt.
Việc tích lũy kinh nghiệm đọc thơ, làm thơ và dịch thơ dẫn
đến nhu cầu bàn luận về thơ bằng ngôn ngữ chính luận. Ở tuổi ngoài 80, Trần
Mai Châu biên soạn công trình Thơ – nhận định và thưởng thức (NXB
Văn hoá Sài Gòn, 2008; NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh tái bản, 2011) như một sự
đúc kết lý thuyết về thơ. Từ việc đi tìm đặc trưng của thơ, tác giả lý giải mối
quan hệ giữa thơ và văn xuôi, thơ và nhạc, thơ và thi hứng, thơ và hình ảnh,
tưởng tượng, thơ và tường thuật, mô tả. Cuốn sách trở thành một tài liệu thi
học khi tác giả trình bày vừa cặn kẽ, vừa khúc chiết những hình thái tu từ của
thơ và các thể thơ quen thuộc của dân tộc. Là người được đào tạo trong môi
trường Tây học, tác giả tỏ ra rất am hiểu đặc trưng nghệ thuật và tiến trình
thơ ca Pháp thế kỷ XIX – XX. Đọc cuốn sách này, ta còn hiểu được nhận định và
chủ kiến của ông về một số nhà thơ hiện đại, về tác dụng của thơ cũng như về
giá trị của một số bài thơ hay. Là một nhà biên khảo chừng mực và lão thực,
Trần Mai Châu lắng nghe, ghi nhận và tiếp thu ý kiến của nhiều người thuộc
nhiều thế hệ bàn về thơ. Chỉ tiếc là đôi khi ông trích dẫn hơi dài dòng một số
ý kiến không thật tiêu biểu và sâu sắc.
Lại Nguyên Ân đã nhận xét xác đáng về Thơ – nhận định
và thưởng thứccủa Trần Mai Châu: “Đây là câu chuyện của một người rất yêu
thơ. Ông giãi bày tình yêu ấy bằng một sự hiểu biết được tích luỹ khá súc
tích của mình về nó. Ông đã gắng trình bầy nó đưới các dạng tri thức, song
người ta thấy chỗ mạnh nhất ở ông là sự trải nghiệm, là kinh nghiệm tiếp xúc
với thơ của ông, với tư cách người thưởng thức thơ và người dịch thơ”. Lại
Nguyên Ân cũng có lý khi cho rằng cuốn sách này “không thực sự là một chuyên
luận, mà vẫn thuộc loại sách tập hợp, tức là sách được tổ hợp lại từ một số
bài viết, mang một số nội dung khác nhau, tuy giữa chúng có sự gần gũi nào
đó, nhưng không gắn bó hữu cơ với nhau”. (Lại Nguyên Ân, Trần Mai Châu –
duyên nợ với thơ, Thể thao Văn hoá, ngày 31-5-2008).
Thật ra, theo chúng tôi được biết, Trần Mai Châu có chủ định
viết cuốn này như một chuyên khảo về thơ. Nhưng do điều kiện sức khoẻ và nhất
là do cách viết thiên về “thưởng thức”, có tính nghệ sĩ, nên công trình của
ông, “tuy có chia thành các chương, mục, song tính hệ thống của chúng khá lỏng
lẻo, nhiều chỗ giống như những trang bút ký hay tuỳ bút về thơ”, như Trần
Thanh Đạm đã chỉ ra và đi đến nhận xét thoả đáng: “Tóm lại, tôi cho rằng tập
sách của Trần Mai Châu thuộc một thể loại mà các nhà phê bình thơ ở Việt Nam
và Trung Quốc xưa nay từng viết, đó là thi thoại (nói chuyện về thơ)”. (Trần
Thanh Đạm, Những trang sách về thơ của nhà thơ, nhà giáo lão thành Trần
Mai Châu, Giáo dục TP. Hồ Chí Minh, ngày 11-8-2008).
Trong tinh thần đó, có thể nói Thơ – nhận dịnh và thưởng
thức là một công tích nữa của Trần Mai Châu, với tư cách một người làm
văn học và một nhà giáo, đóng góp vào tủ sách những người yêu thơ ở một đất
nước có truyền thống sáng tạo và bình luận thi ca.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét