Quy Nhơn, tên gọi của thành phố - tỉnh lỵ Bình Định hiện nay
có từ cuối thế kỷ XIX, nhưng trong lịch sử, địa danh Quy Nhơn xuất hiện lần đầu
vào năm 1602 với tư cách là một phủ thuộc đạo Quảng Nam của xứ Đàng Trong, đơn
vị hành chính có địa giới còn rộng hơn tỉnh Bình Định hiện nay. Nhân 410 năm
(1602 - 2012) “khai sinh” địa danh phủ thành Quy Nhơn. Xin giới thiệu loạt bài “Dấu
xưa Quy Nhơn” nhằm phác thảo “một chân dung” Quy Nhơn trong tiến trình lịch sử
qua góc nhìn văn hóa.
Quy Nhơn - Di chỉ cư trú của cư dân văn hóa Sa Huỳnh
Bình Định được xác nhận là một trong 3 trung tâm của văn hóa
Sa Huỳnh với một hệ thống di chỉ phân bố khá dày đã được các nhà khảo cổ phát
hiện, đào thám sát và khai quật như: Động Cườm, Gò Tháp, Ca Công, Động Bàu
Năng, Phú Nhuận, Công Lương (Hoài Nhơn), Truông xe, Gò Lồi, Thuận Đạo, Chánh Trạch
(Phù Mỹ), Hội Lộc, Núi Ngang, Đồi Điệp (Quy Nhơn).
Khai quật khảo cổ khu mộ chum văn hóa Sa Huỳnh – Động Cườm.
Trên dải đất Việt Nam ngày nay, vào thời đại kim khí (cách
ngày nay 3000-4000 năm) đã từng tồn tại 3 trung tâm văn hóa lớn: văn hóa Đông
Sơn ở miền Bắc, văn hóa Óc Eo ở miền Nam và văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung.
Không gian văn hóa Sa Huỳnh phân bố khá rộng từ Quảng Bình đến Đồng Nai và Tây
Nguyên. Trong cảnh quan văn hóa chung rộng ấy, địa bàn Quảng Nam - Quảng Ngãi - Bình Định không những có số lượng di tích nhiều nhất mà còn có mật độ phân bố
khá dày. Ba vùng có mật độ di tích cao nhất là vùng thềm phù sa cổ con sông Vu
Gia, Tiên Hà, Thu Bồn; vùng cồn cát ven biển, gần sông Vĩnh Điện - Tam Kỳ - Vĩnh An và vùng cồn cát ven biển, gần bàu nước La Vận - Bàu Năng - Trà Ổ - Thị
Nại (Quy Nhơn).
Văn hóa Sa Huỳnh là một nền văn hóa nổi tiếng trong thời tiền
sử và sơ sử Việt Nam, được đặt tên theo khu di tích mộ chum Sa Huỳnh (Đức Phổ,
Quảng Ngãi) do M. Vinet phát hiện năm 1909, và chính thức định danh Văn hóa Sa
Huỳnh vào năm 1937.
Những dấu vết văn hóa của cư dân cổ Sa Huỳnh trên đất Quy
Nhơn được phát hiện khá muộn qua các cuộc điều tra, khảo sát và đào thám sát từ
năm 1978, đã hé mở cho thấy cả bề dày và bề rộng của không gian lịch sử - văn
hóa Bình Định nói chung và Quy Nhơn nói riêng.
Nhóm di tích tiền sử và sơ sử vùng đất Quy Nhơn: Hội Lộc, Núi
Ngang, Đồi Điệp là một trong những tập hợp các di tích khảo cổ học, có cùng một
tính chất, phát triển trong cùng một giai đoạn và cùng một khu vực với nhóm
Truông xe, Gò Lồi, Chánh Trạch, Thuận Đạo (Phù Mỹ) và Động Cườm, Ca Công, Gò
Tháp…(Hoài Nhơn) – vùng cồn cát ven biển, gần bàu nước: Thị Nại, Trà Ổ, Bàu
Năng.
Một số loại hình mộ chum văn hóa Sa Huỳnh.
Hội Lộc, Núi Ngang, Đồi Điệp ngày này thuộc xã Nhơn Hội,
thành phố Quy Nhơn, là một cồn cát trải dài một bên là đầm Thị Nại, một bên biển.
Năm 1978, các nhà khảo cổ học phát hiện tại Hội Lộc, dọc cồn cát ven biển xuất
lộ nhiều mảnh gốm màu đen xám rải hầu khắp bề mặt, đã tiến hành mở hai hố thám
sát: 3m2 và 1m2, ở độ sâu 0,15m đến 0,35m, kết quả thu được một bàn mài
xám nhạt, 24 mảnh cuội vỡ, 500 mảnh gốm các loại, hoa văn không rõ nét, chủ yếu
là mảnh vỡ của bình, hũ, nồi đựng đáy bằng. Ngoài ra, còn phát hiện trong lớp đất
màu xám có lẫn tro than.
Tại Núi Ngang, một ngọn núi nhỏ khá bằng phẳng cách đầm Thị Nại
khoảng 400m, cũng thuộc địa phận thôn Hội Lộc, qua khảo sát phát hiện trên bề mặt
có nhiều mảnh gốm vỡ, thuộc loại gốm thô pha nhiều cát, nhiệt độ nung cao, màu
nâu, xương gốm màu đen.
Đồi Điệp thuộc thôn Hội Bình, được phát hiện năm 1997, dọc
chân núi dưới lớp đất canh tác có một lớp vỏ sò điệp khá dày. Tuy chưa có cuộc
đào thám sát kiểm tra, nhưng qua xói lở tự nhiên làm xuất lộ xác sò điệp dày
khoảng 2m. Loại hình di tích như Đồi Điệp, các nhà khảo cổ đã phát hiện trong
các di tích ở Bàu Tró (Quảng Bình).
Loại hình hiện vật tìm thấy qua khảo sát, đào thám sát tại Hội
Lộc, Núi Ngang và Đồi Điệp thuộc văn hóa Sa Huỳnh, chủ yếu là những mảnh
bình, vò, nồi có nắp đậy, nói chung là loại hình đồ gia dụng, có kích cỡ nhỏ,
chưa phát hiện những mảnh chum, vò lớn dùng để chôn xác người như khu mộ chum Động
Cườm (Tam Quan Nam, Hoài Nhơn). Mặc dù, chưa có cuộc khai quật khảo cổ học mở rộng
diện tích để nghiên cứu sâu, nhưng với những dấu tích vật chất còn để lại, các
nhà khảo cổ học đã khẳng định chắc chắn: Từ hậu kỳ đồng thau và sắt sớm (cách
ngày nay khoảng 2500 năm), Quy Nhơn đã có cộng đồng cư dân tiền sử đến định cư
và sinh sống.
Đồ gia dụng tùy táng văn hóa Sa Huỳnh.
Hàng loạt trống đồng Đông Sơn được phát hiện trong những năm
90 của thế kỷ trước và những năm vừa qua trên địa bàn các huyện: Vĩnh Thạnh,
Tây Sơn, Phù Cát, An Lão, có chôn theo nhiều mảnh gốm thô mang đậm phong cách
văn hóa Sa Huỳnh đã có thêm nhận thức mới: Từ trước Công Nguyên người Sa Huỳnh
đã có sự giao tiếp với không gian văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc và không gian văn
hóa Đồng Nai ở phía Nam; Đến thế kỷ thứ X, không gian xã hội văn hóa Champa
cũng có sự giao tiếp và tiếp nối với không gian xã hội văn hóa Thăng Long - Đại
Việt ở Bắc và không gian xã hội Phù Nam, Chân Lạp ở Nam. Có thể xem Quy Nhơn - Bình Định từng là nơi tiếp nhận và hội tụ các luồng văn hóa BắcNam, chịu ảnh hưởng
của nền văn hóa Ấn Độ miền Nam Á và văn hóa Trung Hoa miền Hoa Nam.
Giả thuyết khoa học được đề ra từ những năm trước về những di
tích Sa Huỳnh muộn, có thể cũng là những di tích Champa sớm, đã và đang được
làm sáng tỏ. Như vậy, chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh là tổ tiên trực tiếp của những
cư dân đã xây dựng quốc gia Champa. Quy Nhơn hiện nay có đủ di tích của hai nền
văn hóa đó.
Miền đất tụ linh, tụ phúc
Người xưa nhìn nhận trong bao la có một khối sinh lực nào đó ở
tầng trên. Dòng sinh lực vũ trụ này dần được đồng nhất với mọi nguồn hạnh phúc,
chảy xuống mặt đất, làm nảy nở thành sự sống. Nhưng dòng chảy thiêng liêng ấy
chỉ xảy ra ở những mảnh đất hội được các điều kiện nhất định nào đó, mà bằng
kinh nghiệm con người đã nhận thấy được. Nơi đó, họ thường dựng các kiến trúc
tín ngưỡng, tôn giáo. Quy Nhơn là một miền đất như vậy.
Tháp Đôi.
Các công trình tôn giáo, tín ngưỡng xưa nhất hiện còn trên
vùng đất Bình Định ngày nay đó là các đền tháp Champa. Đối với đền tháp phục vụ
cho mục đích tôn giáo, việc lựa chọn địa điểm, cảnh quan đảm bảo các yếu tố tâm
linh, vị trí xây dựng các đền tháp đều có nghiên cứu kỹ, phù hợp với ý nghĩa
văn hóa mà các đền tháp muốn truyền đạt. Theo quan niệm của người Champa, những
công trình xây dựng liên quan đến các loại hình kiến trúc đền tháp là thuộc về
nhà vua. Do đó, việc lựa chọn vị trí xây dựng càng nghiêm ngặt hơn và do nhà
vua quyết định.
Địa điểm người Champa chọn xây dựng tháp thường là các gò đất
cao, đồi núi, vị trí như vậy trước hết thỏa mãn là biểu tượng núi Mêru – nơi cư
ngụ các thần linh Ấn Độ giáo. Gò, núi cao còn được coi là biểu tượng hóa thân của
thần Visnu thành rùa đội núi Mêru nổi lên theo huyền thoại khuấy sữa biển trong
sử thi Ấn Độ. Vị trí này có thể còn được trông thấy tháp từ xa, án ngữ cả một
vùng rộng lớn, tạo nên vẻ uy nghi, tôn nghiêm cho công trình kiến trúc như chức
năng nó đảm nhận.
Trong 14 tháp cổ Champa hiện còn được phân bố trên 5 huyện,
thị, thành phố như sau: huyện Phù Cát 1 tháp, huyện Tây Sơn 4 tháp, huyện Tuy
Phước 5 tháp, thị xã An Nhơn 2 tháp và thành phố Quy Nhơn 2 tháp.
Ở Quy Nhơn, ngoài Tháp Đôi hiện còn, có một phế tích Champa
được phát hiện ở Đồi Điệp thuộc xã Nhơn Hội và dấu vết gạch Chăm cũng được tìm
thấy ở Hải Giang (xã Nhơn Hải) và xã Nhơn Châu. Về tượng Champa có tượng thần
Siva ở chùa “Phật Lồi” (Linh Sơn tự), thôn Hải Giang, xã Nhơn Lý; tượng
Avalokitesvara (một dạng Bồ Tát) ở chùa Phước Sa xã Nhơn Lý; phù điêu vũ nữ ở
lăng Ông, thôn Hải Minh, phường Hải Cảng.
Thành phố Quy Nhơn nhìn từ núi Vũng Chua.
Nếu các đền tháp người Champa hầu hết xây dựng trên gò đồi
cao hoặc núi cao (tháp Hòn Chuông, Phù Cát) cửa quay hướng Đông, nhìn ra biển,
đón dương khí…thì các công trình tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt: miếu,
đình, đền, chùa cũng thường xây trên gò đồi và sườn núi, hướng Nam hoặc Đông
Nam, nhìn về cõi ly minh, đón dương khí.
Có lẽ quan niệm về địa cuộc, về đất thiêng của người Champa
và người Việt có sự tương đồng. Thực tế chứng minh như: tại phế tháp Tân Kiều
(Nhơn Mỹ, An Nhơn) có chùa Bửu Sơn, tại phế tích Thập Tháp (Nhơn Thành, An
Nhơn) có chùa Thập Tháp, tại phế tích Khánh Vân (Phước Quang, Tuy Phước) có miếu
làng; dưới chân tháp Dương Long (Tây Bình, Tây Sơn) có ngôi miếu Thanh Minh,
chân tháp Bánh Ít (Phước Hiệp,Tuy Phước) có chùa Nguyên Thiều; ngay cạnh tháp
Bình Lâm (Phước Hòa, Tuy Phước) có chùa Thiên Trúc và đình Bình Lâm (bị sập
trong chiến tranh). Và chân Tháp Đôi Quy Nhơn vừa có chùa Tháp Đôi vừa có miếu
Thanh minh.
Sự hình thành làng xóm của người Việt có vai trò to lớn của
các yếu tố tinh thần là tình họ hàng, nghĩa xóm giềng và nhiều phong tục tập
quán khác mang màu sắc truyền thống huyền nhiệm. Có những tập tục muốn tạo sức
mạnh buộc mọi người tin theo đã thần bí hóa thành thuyết phong thủy.
Gạt đi cái vỏ mê tín, thì phong thủy là nước và gió, tức biểu
hiện của địa hình có cao thấp để hướng dẫn dòng chảy của nước và sự chuyển động
của gió, mà làng xóm và nhà cửa phải biết lợi dụng để tạo sự hài hòa với thiên
nhiên. Thế đất đẹp phải có núi đồi, gò bãi hay đường bờ từ phía sau tỏa ra vây
bọc hai bên rồi cùng chầu vào, hoặc những điểm cao đột khởi làm án che phía trước
hay làm chuẩn để tựa phía sau, và đối lại là những vùng thấp tụ thủy làm minh
đường ở mặt trước hay làm não đường ở đằng sau, có đứt đoạn đột khởi, lại có liền
dải hai bên phải và trái tạo nên sự đăng đối nhịp nhàng.
Vị trí lập làng không chỉ có địa thế đẹp, mà còn phải thuận
tiện cho việc làm ăn để có đời sống kinh tế và văn hóa phong phú. Người xưa đã
đúc kết “Nhất cận thị, nhị cận tân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền” (một
gần chợ, hai gần bến đò, ba gần sông, bốn gần đường, năm gần ruộng). Khái quát
là miền đất bồi có các đầu mối giao thông và thuận tiện việc làm ăn, tức là thế
đất ăn lan ra mặt nước theo hình tượng quen thuộc và rất dân dã: “Thè lè lưỡi
trai: không ai, chính nó/ Khum khum gọng vó: chẳng nó thì ai!”
Vị thế làng xóm thường quy tụ nếu không dọc bờ sông nước, thì
cũng ở vùng đầm phá, gần cửa biển.
Đô thị Việt Nam nói chung và đô thị Bình Định nói riêng được
hình thành trên cái nền làng xã. Đô thị ở Bình Định đầu tiên xuất hiện ở Nước Mặn
(Phước Quang, Tuy Phước) rồi chuyển đến Gò Bồi (Phước Hòa, Tuy Phước) và cuối
cùng chuyển về Quy Nhơn. Sự hình thành, suy tàn, dịch chuyển và tồn tại đô thị ở
đây cũng dựa trên cơ sở kinh nghiệm được đúc kết từ người xưa “Nhất cận thị, nhị
cận tân, tam cận giang, tứ cận lộ,…”.
Đến hôm nay, đô thị Quy Nhơn đã gần 200 năm hình thành và
phát triển (căn cứ bia ghi công đức chùa Ông Nhiêu năm 1837, có chức danh phố
trưởng Trần Đức Hiệp), chúng ta có thể khẳng định Quy Nhơn “đất lành chim đậu”.
Quy Nhơn - một miền đất tụ linh, tụ phúc.
Nguyễn Thanh Quang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét