1. Về địa danh Nha Trang
Tên Nha Trang xuất hiện từ khi nào?
Từ năm 1653, với việc thành lập đơn vị hành chính dinh
Thái Khang cai quản hai phủ Thái Khang và Diên Ninh, vùng đất
Nha Trang - Khánh Hòa ngày nay đã trở thành một phần lãnh thổ của quốc gia Đại Việt (1).
Có thể tên Nha Trang đã xuất hiện ngay từ buổi đầu khi lưu dân người
Việt theo lệnh chúa Nguyễn đến khai khẩn và định cư ở vùng đất ven biển này.
Trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, tập bản đồ đường xá Việt
Nam do nho sinh trúng thức họ Đỗ Bá tự Công Đạo soạn vào khoảng nửa cuối thế kỷ
XVII, đã thấy có tên Nha Trang môn (cửa Nha Trang) (2). Trong một bản
đồ khác cũng có niên đại cuối thế kỷ XVII mang tên Giáp Ngọ niên bình Nam
đồ của Đoan Quận công Bùi Thế Đạt cũng thấy ghi rõ Nha Trang hải môn (cửa
biển Nha Trang) (3). Đây có lẽ là những tài liệu sớm nhất đề cập đến địa danh
này. Mặt khác, trong thư từ của các giáo sĩ châu Âu đến truyền đạo ở Đàng Trong
vào đầu thế kỷ XVIII, lần đầu tiên ta thấy tên Nha Trang được ghi lại
bằng mẫu tự La-tinh. Chẳng hạn trong lá thư đề ngày 31-5-1715 của Giám mục người
Pháp Marin gởi cho những giám đốc Chủng viện kể lại một vụ đắm tàu của người Hà
Lan tại vùng đảo Hoàng Sa, tác giả có nhắc đến một địa danh nguyên văn như sau:
“un port nommé Nhatlang” (một cảng biển có tên Nha Trang). Ở một lá thư khác đề
ngày 16-10-1718 ông lại viết: “le canton de Nhatlang” (tổng Nha Trang)(4). Điều
đáng chú ý ở đây là cách ghi âm địa danh Nha Trang = Nhatlang.
Ngoài dạng này, ta còn thấy một số cách ghi tương tự như trong tập Mémoire
sur la Cochinchine (Hồi ký về xứ Đàng Trong) viết năm 1744 của thương nhân
người Pháp Pierre Poivre, trong đó Nha Trang đã được viết là Natlang (5),
hoặc trong một lá thư xuất bản năm 1746 của M. Faure, một thầy lễ Thụy Sĩ, tả lại
các tổ yến trên vách đá của những hòn đảo ngoài khơi thành phố Nathlang (6).
Về mặt ngữ âm, tiếng Việt ở thế kỷ XVI, XVII có một số tổ hợp phụ âm đầu
như bl, ml, tl... về sau này không còn nữa mà biến thành một số
phụ âm khác, ví dụ tl sau này biến thành tr (Trong “Từ điển
Annam – Lusitan – Latinh” của Alexandre de Rhodes xuất bản lần đầu năm
1651 có các từ TLĂM = TRĂM, TLÂU = TRÂU, TLÊN = TRÊN…) (7). Một tài liệu khác có
thể cho ta biết tường tận xã hội Đàng Trong vào đầu thế kỉ XVIII là sách Phủ
biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết vào năm 1776 khi ông trấn nhậm hai đạo
Thuận – Quảng. Trong tác phẩm này có ghi những địa danh như Nha Trang
nguyên (nguồn Nha Trang), Nha Trang đàm (đầm Nha Trang), Nha
Trang dinh (dinh Nha Trang), Nha Trang dinh thị (chợ dinh Nha
Trang) (thuộc phủ Diên Khánh), Nha Trang lãnh (đèo Nha Trang) (thuộc
phủ Bình Khang). Điều đáng chú ý là, qua sự ghi chép tỉ mỉ của Lê Quý Đôn, ta
có thể thấy rằng vào thời bấy giờ tên Nha Trang là tục danh rất thông
dụng trong dân gian để chỉ chung phủ Diên Khánh, nơi đặt lị sở của dinh
Bình Khang, tức vùng đất bao gồm cả thành phố Nha Trang lẫn huyện Diên Khánh
ngày nay, như trong đoạn văn sau đây: “Phàm hóa vật được sản xuất ở các phủ
Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Bình Khang và dinh Nha Trang…”(8).
Nhiều tài liệu về sau cũng cho thấy cách gọi này đã tồn tại một thời gian dài.
Trong một bài hịch của vua Quang Trung viết năm 1792 có đoạn: “Các ngươi sẽ thấy
rằng Trẫm chỉ đánh một trận là Bình Khang, Nha Trang …tức khắc được thu phục” (9).
Sách Đại Việt địa dư toàn biêncủa Nguyễn Văn Siêu và Bùi Quỹ soạn dưới thời
Tự Đức ghi lại sự kiện sau: “Năm Quý Sửu (1793) đại quân lấy lại Bình Khang, tiến
đánh thành Quy Nhơn. Lúc ban sư, đắp thành đất ở thủ sở Nha Trang gọi là thành
Diên Khánh, núi sông thật là thiên hiểm, tục gọi là thành Nha Trang” (10).
Đến đời Gia Long đổi tên dinh Bình Khang thành dinh Bình Hòa rồi sau đó làtrấn Bình Hòa thì trong An Nam đại quốc họa đồ của Giám mục Taberd in năm 1838 cũng ghi: “Nha Trang seu Bình Hòa trấn” (Nha Trang tức trấn Bình Hòa) (11). Mãi đến 1924 khi thị trấn Nha Trang được hình thành từ 5 ngôi làng cổ ven biển của thuộc Hà Bạc huyện Vĩnh Xương là Xương Huân, Phương Câu, Vạn Thạnh, Phương Sài, Phước Hải, địa danh Nha Trang mới thu hẹp lại để chỉ vùng đất là thành phố Nha Trang hiện nay.
Đến đời Gia Long đổi tên dinh Bình Khang thành dinh Bình Hòa rồi sau đó làtrấn Bình Hòa thì trong An Nam đại quốc họa đồ của Giám mục Taberd in năm 1838 cũng ghi: “Nha Trang seu Bình Hòa trấn” (Nha Trang tức trấn Bình Hòa) (11). Mãi đến 1924 khi thị trấn Nha Trang được hình thành từ 5 ngôi làng cổ ven biển của thuộc Hà Bạc huyện Vĩnh Xương là Xương Huân, Phương Câu, Vạn Thạnh, Phương Sài, Phước Hải, địa danh Nha Trang mới thu hẹp lại để chỉ vùng đất là thành phố Nha Trang hiện nay.
Nguồn gốc và ý nghĩa địa danh Nha Trang
Không kể cách giải thích Nha Trang có nghĩa
là Nhà Trắng (12) chỉ là câu chuyện vui trong dân gian, đến nay
đã có nhiều giả thuyết về nguồn gốc địa danh Nha Trang:
a) Nha Trang là địa danh Hán-Việt do người Việt đặt
khi đến vùng đất này. Từ trang (nghĩa Hán-Việt là trại làm
ruộng) trong Nha Trang thể hiện “dấu vết tổ chức nông nghiệp thời
phong kiến” (Theo Trần Thanh Tâm, Thử bàn về địa danh Việt Nam, 1976).
b) Nha Trang là địa danh Hán-Việt do vua Trần Nhân
Tông đặt khi vào thăm đất Chiêm Thành năm 1301 theo lời mời của vua Chiêm là Chế
Mân. (Theo Mịch Quang & Nguyễn Hồng Sinh, Nha Trang là gì ?,
1992).
c) Nha Trang từ tiếng Chăm ýa krưm nghĩa
là sông tre (Theo A. Cabaton).
d) Nha Trang từ tiếng Chăm ýa trăh nghĩa
là chỗ hai dòng nước gặp nhau (Theo Nguyễn Khắc Ngữ).
e) Nha Trang từ tiếng Chăm ýa trang nghĩa
là sông lau (Theo Gerald Moussay, Thái Văn Kiểm, Quách Tấn, Nguyễn
Đình Tư).
Giả thuyết (a) và (b) với cách giải thích Nha Trang dựa
vào nghĩa Hán-Việt khá khiên cưỡng vì không có sử liệu minh chứng cụ thể.
Các giả thuyết còn lại (c, d và e), mặc dù có khác nhau trong
việc lí giải các thành tố cấu tạo nên địa danh Nha Trang nhưng chúng
đều thống nhất ở điểm:
– Nha Trang là địa danh phiên âm từ tiếng Chăm, tiếng
nói của một dân tộc vốn cư trú lâu đời ở vùng đất này.
– Nha Trang nguyên là tên sông (chỉ sông Cái, Nha
Trang), sau được dùng để gọi rộng ra cả vùng đất.
Theo chúng tôi, tên Nha Trang có thể được hình
thành do cách đọc Hán-Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước
là Ýa Trang. Trong sách Dictionnaire Căm-Vietnamien-Francais(Từ điển
Chàm-Việt-Pháp) do linh mục Gerald Moussay và cộng sự biên soạn, có ghi như
sau:
– trang: cây lau
– ýa: nước, bến nước, sông
– paley ýa trang: xứ Nha Trang (13)
Thành tố /ýa/ trong tiếng Chàm (và các ngôn ngữ chi Chàm như
Ê-đê, Raglai …) có nghĩa lànước, nguồn nước, đôi khi cũng dùng với nghĩa
chỉ sông, suối. Cách đặt địa danh gồm những thành tố chỉ sông, suối,
rừng, núi…kết hợp với những thành tố khác chỉ đặc điểm, thuộc tính của chúng
là những phương thức quen thuộc của các tộc người Nam Á, Nam Đảo mà Ýa
Trang(sông lau) là một ví dụ. Mặt khác, cuộc sống của con người bao giờ cũng gắn
với nguồn nước - một yếu tố quan trọng trong sinh hoạt hàng ngày. Từ tên nguồn
nước (sông, suối …) sau được dùng để gọi rộng ra vùng đất cư trú là quy luật phổ
biến trong việc cấu tạo địa danh.
– Khi kể lại sự tích vua Pô Klong Garai (tục gọi là vua
Lác, nay còn đền thờ ở Tháp Chàm, Phan Rang), người Chăm có câu ca: “Ko ýa ru
iku ýa trang” (nghĩa là “đầu ở xứ Ninh Hòa đuôi ở xứ Nha Trang”) để tả cảnh dân
chúng đi đưa chàng Lác về Kinh làm vua, kéo thành một đoàn dài vô tận (14).
– Trong tín ngưỡng dân gian của dân tộc Chăm, hình tượng nữ
thần Pô I-nư Na-ga (người Việt gọi là Bà Thiên Y A Na hay Bà Chúa Ngọc) chiếm một
vị trí hết sức quan trọng. Mỗi thôn xóm, mỗi vùng cư trú của người Chăm xưa đều
thờ Bà mẹ xứ của họ, ngày nay ta còn nghe truyền tụng những cái
tên như Pô I-nư Na-ga ha-mu Ca-wet (Mẹ xứ chim) ở Lạc Trị, Phan Rí; Pô I-nư
Na-ga ha-mu Tan-răn (Mẹ xứ đồng bằng) ở Hữu Đức, Phan Rang; Pô I-nư Na-ga ha-mu
Ýa Trang (Mẹ xứ lau) ở Nha Trang (15).
Tóm lại, tên Nha Trang, gốc từ tiếng Chăm Ýa
Trang (sông lau), là địa danh của người Việt gọi vùng đất đã thuộc chủ quyền
của mình từ năm 1653. Hơn 3 thế kỉ rưỡi trải qua nhiều biến động lịch sử, ban đầu
chỉ là tục danh, về sau trở thành địa danh hành chính chính thức,
tên Nha Trang vẫn tồn tại như một địa danh truyền thống cho đến ngày
nay.
Chú thích:
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tiền
biên, bản dịch của NXB Sử Học, Hà Nội 1962, tập 1, tr. 83.
(2) & (3) Hồng Đức bản đồ, bản dịch của Bửu Cầm và cộng
sự, Viện Khảo Cổ Sài Gòn, 1962.
(4) Nguyễn Nhã, Hoàng Sa qua vài tài liệu văn khố của Hội
truyền giáo Paris, Sử Địa số 29, Sài Gòn 1-1975, tr. 268-272 .
(5) Pierre Poivre, Hồi ký về xứ Cochinchine năm 1744, bản
dịch của GS Nguyễn Phan Quang, tạp chí Kiến Thức Ngày Nay.
(6) M.Fauvre, Lettres défiantes et curieuses sur la
visite apostolique de M. de la Baume, évêque d’Halicarnasse, à la Cochinchine
en l’année 1740, Venise 1746.
(7) Alexandre de Rhodes, Từ điển Annam – Lusitan – Latinh,
bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt , Đỗ Quang Chính, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội 1991.
(8) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, bản dịch của NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội 1977, tr. 234.
(9) Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, NXB Quân
đội Nhân dân, Hà Nội 1977, tr. 423 – 424.
(10) Nguyễn Văn Siêu, Phương Đình dư địa chí, bản dịch của
Ngô Mạnh Nghinh, NXB Tự Do, Sài Gòn 1960, tr. 161.
(11) Nguyễn Q. Thắng, Hoàng Sa Trường Sa, NXB Trẻ, TP.
HCM 1988, tr. 64.
(12) Quách Tấn, Xứ Trầm hương, NXB Lá Bối, Sài Gòn 1969,
tr. 158.
(13) Gerald Moussay, Dictionnaire Căm – Vietnamien –
Francaise, Trung tâm Văn hóa Chàm – Phan Rang, 1971, tr. 475.
(14) Bố Thuận, Sự tích vua Pô Klong Garai hay là sự tích
Tháp Chàm, tạp chí Bách Khoa (Sài Gòn).
(15) Văn Đình Hy, Quá trình chuyển hóa từ Pô Nưga (Chàm)
đến Thiên Y A Na (Việt), tạp chí Văn Học số 6-1979.
2. Từ Ýa Ru đến Nha Phu - Đi tìm địa danh cổ của Ninh Hòa
Tháng 10 năm 1714, ba chiếc thuyền buồm chất đầy hàng hóa của
thương nhân Hòa Lan từ Nhật Bản trở về Batavia (quần đảo Nam Dương) đã bị bão
đánh đắm trên những bãi ngầm của quần đảo Hoàng Sa. Thư từ trao đổi của các
giáo sĩ châu Âu thuộc Hội truyền giáo Pa-ri trong thời gian này cho biết đa số
thủy thủ đoàn đã thoát nạn nhờ bám vào những mảnh ván của con thuyền vỡ và sóng
xô dạt họ lên những cồn cát. Những người này đã sống trên đảo khoảng một tháng,
sau đó họ gom góp những mảnh vỏ tàu kết lại thành một chiếc xuồng, theo sau
bóng dáng những chiếc ghe bầu của ngư dân xứ Đàng Trong tiến về bờ biển Nam Hà,
vào một cửa biển có tên là Nha Tlang. Thư của các giáo sĩ cũng đề cập tới
một địa danh khác là Nha Ru và cho biếtNha Tlang cách Nha
Ru độ một ngày đường bộ. Từ Nha Tlang, đoàn người sống sót sau vụ đắm
tàu đã lên đường tới Nha Ru và từ đây họ tiếp tục cuộc hành trình khổ
nhọc ra Huế bệ kiến chúa Nguyễn (1).
Trong một bài viết trước đây (2), chúng tôi đã chứng
minh Nha Tlang chính là Nha Trang hiện nay. Cách ghi âm bằng
mẫu tự La-tinh Nha Tlang như trong thư của các nhà truyền giáo nước
ngoài hoạt động ở Đàng Trong vào thời điểm trên phản ánh sự tồn tại một số
phụ âm kép nhưbl, ml, tl ... trong ngữ âm tiếng Việt ở các thế kỷ
XVI - XVII mà về sau này không còn nữa. Về nguồn gốc, Nha Trang là
cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm là Ýa Trang. Ýa
Trang - có nghĩa là sông lau - nguyên là tên sông Cái Nha
Trang. Từ tên sông sau chỉ rộng ra cả vùng đất.
Còn Nha Ru? Qua một số chi tiết trong thư của các
giáo sĩ kể lại vụ đắm tàu năm 1714 đã nêu ở trên, có thể đoán định rằng Nha
Ru là một cửa biển nào đó nằm gần Nha Trang và ở phía bắc tỉnh
Khánh Hòa hiện nay. Lần theo dấu vết của địa danh này qua các tài liệu, thư tịch
cổ, chúng tôi phát hiện rằng Nha Ru cũng là một địa danh gốc Chăm như Nha
Trang và là tên cũ của vùng đất Ninh Hòa ngày nay. Ta cũng biết trước khi
thuộc chủ quyền của người Việt, dải đồng bằng ven biển miền Trung từ Quảng Bình
đến Bình Thuận ngày nay vốn là địa bàn sinh tụ lâu đời của dân tộc Chăm. Trong
hệ thống địa danh Việt ở vùng này có một số địa danh là phiên âm theo tiếng
Chàm xưa. Tra cứu Từ điển Chàm - Việt - Pháp của Gerald Moussay,
chúng tôi thấy có ghi các mục từ sau:
– ýa ru: thác nước
– paley Ýa Ru: xứ Ninh Hòa (3)
Người Chăm cũng có câu ca: “Ko Ýa Ru iku Ýa Trang” nghĩa là “đầu
ở Ninh Hòa đuôi ở Nha Trang” khi kể về sự tích vua Pô Klong Garai (nay còn đền
thờ ở Tháp Chàm, Phan Rang) (4).
Cùng bắt nguồn từ địa danh cổ Ýa Ru (có nghĩa
là thác nước), để chỉ vùng đất Ninh Hòa xưa, bên cạnh tên Nha Ru, ta
còn thấy tồn tại một số cách gọi khác có dạng phát âm tương tự như sau:
– Nha Du: Trong bản đồ Giáp Ngọ niên bình Nam đồ có
niên đại khoảng cuối thế kỷ XVIII, phần vẽ vùng đất Khánh Hòa ngày nay thấy có
ghi địa danh Nha Du hải môn (cửa biển Nha Du) (5). Cửa biển này
được vẽ gần Nha Trang hải môn.
– Nha Lỗ: Trong bài vè thủy trình Hải môn ca (bằng
chữ Nôm) của dân ghe bầu kể về các cửa biển ở Đàng Trong có đoạn: “Sông
ngang thủy thế mênh mông/ Qua miền Nha Lỗ phỏng trong nửa ngày/ Đến Nha Trang một
ngày chầy/ Lại thêm nửa ngày đến tiểu Nha Trang …” (6). Ở đây, Nha Lỗ chính
là Nha Ru vì trong mối tương quan giữa các địa danh thuần Việt và địa
danh Hán-Việt, ta thường thấy có sự chuyển đổi giữa cặp phụ âm đầu r >< l,
chẳng hạn: Cam Ranh >< Cam Linh; Phan Rang >< Phan Lang.
– Nha Tù: Trong sách Phủ biên tạp lục của
Lê Quý Đôn viết năm 1776 có chép tên đầm Nha Tù thuộc phủ Bình Khang (7),
còn sách Thông quốc duyên cách hải chử của Nguyễn Đức Huyên và
Đoàn Viết Nguyên soạn năm Gia Long thứ 16 (1817) thấy có tên Nha Tù hải
môn (cửa biểnNha Tù)(8) thuộc trấn Bình Hòa (chú ý: phủ Bình Khang,
trấn Bình Hòa đều là tên cũ của tỉnh Khánh Hòa).
– Nha Phu: Sách Đại Nam thực lục chính biên –
bộ sử biên niên của nhà Nguyễn – cho biết: “Đến năm Minh Mạng thứ 14 (1833) đổi
tên tấn sở Nha Tù ở tỉnh Khánh Hòa là Nha Phu” (9).Về các cửa biển thuộc
phía bắc tỉnh Khánh Hòa, sách Đại Việt địa dư toàn biên (còn gọi là Phương
Đình dư địa chí) của Nguyễn Văn Siêu và Bùi Quỹ soạn dưới thời Tự Đức có
ghi tên cửa Nha Phu ở phía đông huyện Quảng Phước (10). Sách Đại Nam nhất
thống chí của Sử quán triều Nguyễn có chép các địa danh Nha Phu úc (Vịnh
Nha Phu), Nha Phu tấn (tấn sở Nha Phu) (11). Hiện nay, cửa Nha Phu tức
là cửa Hà Liên thuộc huyện Ninh Hòa, nơi sông Dinh chảy ra đầm/ vịnh
Nha Phu.
Căn cứ vào những ghi chép trên, có thể xác định rằng:
tên Nha Ru (theo cách ghi âm của các giáo sĩ châu Âu đến truyền đạo ở
Đàng Trong hồi đầu thế kỷ XVIII) hay Nha Tù, Nha Du, Nha Lỗ (trong
các văn bản Hán Nôm trước năm 1833), rồi Nha Phu (từ 1833 đến nay) đều
có gốc chung từ tiếng Chăm là Ýa Ru và là địa danh cổ của vùng đất
Ninh Hòa hiện nay.
Chú thích:
(1) Nguyễn Nhã, Hoàng Sa qua vài tài liệu văn khố của Hội
Truyền giáo Ba Lê, tập san Sử Địa (Sài Gòn) số 29 (1 – 3/1975), trang 258 –
273.
(2) Nguyễn Viết Trung, Về địa danh Nha Trang, trong
sách Khánh Hòa – Diện mạo văn hóa một vùng đất (tập 1), Sở VHTT Khánh Hòa
xuất bản 1998.
(3) Gerald Moussay, Dictionnaire Căm - Viêtnamien - Francais, Trung tâm Văn hóa Chàm Phan Rang xuất bản 1971, trang 474.
(4) Bố Thuận, Sự tích vua Pô Klong Garai hay là sự tích
Tháp Chàm, tạp chí Bách Khoa, Sài Gòn (trước 1975).
(5) Hồng Đức bản đồ, Viện Khảo cổ Sài Gòn xuất bản 1962,
trang 160 – 161.
(6) Bửu Cầm, Hải môn ca, Văn hóa nguyệt san (Sài Gòn), tập
XIII quyển 9 (9-1964).
(7) Lê Quý Đôn toàn tập, tập 1: Phủ biên tạp lục, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội 1977, trang 217.
(8) Bửu Cầm, sách đã dẫn ở mục (6)
(9) Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhị kỷ VIII, tập
12(1833), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1965, trang 36.
(10) Nguyễn Văn Siêu, Phương Đình dư địa chí, Cơ sở
Tự Do (Sài Gòn) xuất bản 1960, trang 162.
(11) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí
(quyển 11: tỉnh Khánh Hòa), bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa
(Sài Gòn) xuất bản 1964, trang 89.
Nguyễn Man Nhiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét