Thứ Hai, 30 tháng 11, 2015

Đàn tranh Việt Nam

Đàn tranh Việt Nam
Phạm Văn Vĩnh
Dây đàn Tranh 
17 dây
Chúng ta sẽ chỉ đề cập đến đàn Tranh 17 dây, là loại đàn thông dụng nhất hiện nay. Dây thấp nhất là dây mang số 1 rồi từ từ đi lên cao, dây cuối cùng mang số 17.
Ngày xưa cây đàn Tranh chỉ có 16 dây. Từ năm 1950, Nhạc Sư Nguyễn Vĩnh Bảo cải tiến cây đàn Tranh thành 17, 19, 21 dây. Đôi khi ta có thể thấy đàn Tranh 22 dây. Các dây thêm vào là các dây trầm. Ở trình độ hiện tại, chúng ta chưa xử dụng dây trầm mà chỉ xử dụng 16 dây căn bản, bắt đầu từ dây số 2 và kết thúc bằng dây số 17.
Có nhiều hệ thống dây đàn Tranh. Chúng ta sẽ lên dây theo hệ thống dây như sau:
– 5 dây mang số 2,3,4,5,6 tạo thành bát độ (octave) thấp nhất,
– 5 dây mang số 7,8,9,10,11 tạo thành bát độ trung bình,
– 5 dây mang số 12,13,14,15,16 tạo thành bát độ cao
– dây số 17 là cung đầu tiên của bát độ kế tiếp
Tên gọi của 5 dây:
– Bát độ thấp nhất: Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, (có nhạc sĩ viết các cung này với dấu huyền)
– Bát độ trung bình: Liêu, Xự, Xang, Xê, Cống,(có nhạc sĩ viết các cung này không dấu),
– Bát độ cao: Liu, Ú, Xang, Xê, Cống, (có nhạc sĩ viết các cung này với dấu sắc),
– Dây 17: Liu
Cung Hò, Liêu, Liu chỉ là một cung nhưng ở các bát độ khác nhau. Cung Xư hay U cũng vậy.
Ngày nay, các cung trên cũng được các nhạc sĩ đặt tên theo hệ thống solfège như trong Tân nhạc.
* Các nhạc sĩ Miền Nam Việt Nam gọi tên các cung trên làSol, La, Do, Re, Mi.
* Các nhạc sĩ Miền Bắc Việt Nam gọi các cung trên là Do, Re, Fa, Sol, La.
Gọi tên như thế nào cũng được, miễn là khoảng cách giữa các cung phải được tôn trọng:
– Cung Hò và cung Xư cách nhau 1 cung,
– Cung Xư và cung Xang cách nhau 1 cung rưỡi,
– Cung Xang và cung Xê cách nhau 1 cung,
– Cung Xê và cung Công cách nhau 1 cung.
Lấy thí dụ ta gọi cung Hò là cung Rê, thì 5 cung sẽ được gọi làRê, Mi, Sol, La, Si.
Tuy các cung trên được đặt tên bằng các cung theo Solfège trong Tân nhạc, nhưng điều đó không có nghĩa là phải lên dây theo đúng cao độ của các cung Tân nhạc. Nói một các chính xác, các cung nhạc trong nhạc truyền thống Việt Nam không có cao độ nhất định, người đàn muốn để cao độ nào cũng được, miễn là các cung theo sau phải có khoảng cách như đã viết ở trên. Tuy nhiên, khi hoà đàn với nhau, các nhạc sĩ Miền Nam Việt Nam dùng cao độ của cung Rê trong Tân nhạc cho cung Hò.
Để thống nhất, chúng ta sẽ áp dụng cách gọi tên như sau:
– Bát độ thấp nhất: Hò, Xự, Xang, Xê, Cống hay là Sol, La, Do, Re, Mi
– Bát độ trung bình: Liêu, Xự, Xang, Xê, Cống hay là Sol, La, Do, Re, Mi
– Bát độ cao: Liu, Ú, Xang, Xê, Cống hay là Sol, La, Do, Re, Mi
– Dây 17: Liu hay Sol
Chúng ta sẽ lên các dây Hò, Liêu, Liu theo cao độ của cung Rêtrong Tân nhạc.
Khi viết bản nhạc, nếu viết theo Tân nhạc, chúng ta sẽ xử dụng các cung Sol, La, Do, Re, Mi.
Nếu viết bản nhạc theo Hò, Xự, Xang, Xê Cống, chúng ta sẽ viết như sau:

NB. Cách viết theo mẫu tự L U S X C là do nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo sáng chế ra từ năm 1955. Ở bậc thấp, các chữ L U S X C mang dấu nặng, không dấu ở bậc trung, có dấu chấm phía trên khi ở bậc cao.
Thực ra thì nhạc Việt Nam có 7 cung, trên đây chúng ta đã đề cập đến 5 cung. Hai cung còn lại là cung Xư hay U (còn gọi là Y) và cung Công (còn gọi là Phạn). Cung Xư (U, Y) cao hơn cung Xự (Ú) khoảng nửa cung, cung Công (Phạn) cao hơncung Cống khoảng nửa cung. 7 cung Hò, Xự, Xư, Sang, Xê, Cống, Công được tạm dịch là Sol, La, Si, Do, Re, Mi, Fa.
Để tóm tắt:
Các bạn nên làm một cái băng bằng giấy ghi tên các cung nhạc để gắn trên mặt đàn, bên cạnh cầu đàn như trong hình dưới đây:
Nếu có thể, nên may một cái băng tròn bằng vải, có thể mở ra hay gắn vào dễ dàng bằng hai miếng băng Velcro. Trên băng vải dán băng giấy viết tên các cung đàn. Việc xử dụng băng vải với băng Velcro rất hữu ích trong tương lai khi chúng ta học tới cách chuyển cung Hò (Transposition). Tên các cung nhạc nên viết ở vị trí nào mà khi ngồi đàn có thể nhìn thấy dễ dàng. Sau này khi các Bạn đã quen với các dây đàn, các Bạn sẽ không cần xử dụng tới băng ghi cung nhạc này nữa.

Nghệ sĩ đàn tranh Võ Vân Ánh viết tác phẩm 
ca ngợi sức mạnh tinh thần người Việt
Hồng Hoa
Giải Grammy của Mỹ được biết đến là giải thưởng danh giá nhất trong ngành công nghiệp thu âm, tương đương với giải Oscar trong lĩnh vực điện ảnh, giải Emmy trong lĩnh vực truyền hình, và giải Tony trong lĩnh vực sân khấu. Vào tháng 9 năm 2014, một nghệ sĩ đàn tranh của Việt Nam đã được mời trở thành thành viên của hội đồng vòng loại giải Grammy bao gồm 15 nghệ sĩ có chuyên môn về lĩnh vực âm nhạc thế giới và đã hoạt động trong lĩnh vực này nhiều năm. Người nghệ sĩ Việt Nam này không ai khác mà chính là nghệ sĩ Võ Vân Ánh (Vanessa Vo) và VOA Tiếng Việt đã có dịp trò chuyện cùng chị trước đây.
Quay trở lại với VOA lần này, bên cạnh những buổi biểu diễn thông thường của một nghệ sĩ đàn tranh, nghệ sĩ Vân Ánh cho biết chị đã bắt đầu các chuyến đi giảng dạy về âm nhạc truyền thống Việt Nam tại nhiều trường đại học ở khắp Mỹ như Western Michigan, UC Santa Cruz cùng những buổi hội thảo ở các tiểu bang như Washingon, Massachusetts, Texas, Ohio, Indiana v..v… Chia sẻ về công việc mới giảng dạy của mình, chị nói:
“Khi nói dạy ở các trường đại học thì mọi người sẽ hỏi là chị sẽ dạy gì vì chị làm về nhạc dân tộc Việt Nam mà các cây nhạc cụ dân tộc Việt Nam thì các trường đại học ở Mỹ là không có. Âm nhạc là một phương tiện chị nghĩ rất mạnh để hiểu văn hóa nước khác. Công việc chính của chị giảng dạy ở trường đại học là dạy cho nhạc sĩ tương lai, những sinh viên học sáng tác nhạc nhưng phải sáng tác cho những cây đàn không phải của phương Tây. Khi mình đem cây đàn của mình sang nhạc phương Tây thì mình phải học và hiểu nhạc phương Tây như thế nào, truyền thống lề lối của họ như thế nào để tránh việc râu ông nọ cắm cằm bà kia. Những residency của chị rất vui làm cái đó vì những cái bước nhỏ này thôi, những bạn sinh viên học ở trường đại học, họ có cơ hội làm quen với âm nhạc và văn hóa của người Việt mình, thì mai kia khi tỏa đi khắp nơi, họ đã có chút gì đó thật sự đem văn hóa người Việt mình và chia sẻ với cộng đồng khác khi họ đi.”
Âm nhạc và những nét văn hóa Việt Nam đó đã được nghệ sĩ Vân Ánh truyền tải lại cho các bạn sinh viên một cách chân thực và sâu sắc, bao gồm thế mạnh, thế yếu của cây đàn dân tộc, và thậm chí cả những điều mà theo chị, ngay cả người Việt nhiều khi cũng chưa hiểu hết:
“Chị giới thiệu thể loại âm nhạc khác nhau của VN, từ Bắc Trung Nam, như làn điệu chèo, dân ca quan họ Bắc Ninh, cho đến hò Huế, lý miền Nam, hay tài tử miền nam, nhạc cải lương. Nhưng nếu họ chỉ nghe nhạc không thôi họ sẽ bị mất đi hẳn một phần quan trọng là cái âm nhạc đấy được dùng với mục đích gì, như thế nào. Như bài Trống Cơm rất đơn giản, trống mà lại có cơm, thật chẳng liên quan. Nhưng Trống cơm của người miền Bắc, khi chơi nhạc thì mình phải có thỏa thuận nào đó ở tông giọng nào đó, không phải mạnh ai nấy chơi. Các cụ ngày xưa chẳng bao giờ có ý thức phải lên dây, cũng có ý thức phải thay đổi nhưng không dùng từ lên dây như phương Tây. Nên khi đó nghĩ ra việc nhai cơm cho mềm ra, dính như kẹo cao su, lấy ra một cục gắn vào hai đầu trống, nếu cục cơm to thì tiếng trống trầm xuống, nếu cục nhỏ thì tiếng cao. Cứ thử rồi thêm bớt sao cho vừa giọng người hát thì sẽ xong. Từ đó mới gọi Trống cơm là vì thế.
Hay những bài Lý Con Sáo miền nam, lời nhắn nhủ của bài đó không đơn giản là ai mang con sáo sang sông để cho con sáo sổ lồng bay đi. Không phải thế. Lời nhắn nhủ sâu sắc hơn là nếu bạn có gì quý báu trong tay thì phải biết giữ chứ mất rồi ngồi khóc chẳng làm được gì. Đó là nét văn hóa của người Việt mình, nói thì không nói thẳng mà rất sâu. Nếu những điều đó mình không có giải thích thì ngay cả người Việt không để ý không biết được chứ không nói người phương Tây.”
NS Võ Vân Ánh diễn tấu đàn tranh.
Âm nhạc truyền thống của Việt Nam không chỉ vang lên trong những khu giảng đường trước những nhạc sĩ tương lai của một nền âm nhạc phương Tây mà nó còn được tái hiện trên nhiều sân khấu trong các buổi biểu diễn chuyên nghiệp trên khắp Mỹ của nghệ sĩ Vân Ánh. Sau những lần biểu diễn như vậy, chị nói đã có những lần giao lưu với khán giả để lại cho chị nhiều ấn tượng và khiến chị không khỏi xúc động. Một trong những lần như vậy là trong chuyến lưu diễn của chị ở Chicago hồi tháng 9 vừa rồi. Nghệ sĩ Vân Ánh kể lại câu chuyện mà chị được nghe từ một vị khán giả đã nhẫn nại chờ chị nửa tiếng sau buổi biểu diễn và khi các khán giả đã về hết:
“Năm 1968, lúc đó ở bên Mỹ là chính phủ Mỹ cần phải tuyển nhập ngũ, trên 18 tuổi. Những người Mỹ da đen không những thường xuyện được chọn mà còn bắt phải vào quân ngũ tại khi đó cuộc chiến tranh rất tệ rồi. Chồng của cô (vị khán giả nói trên) bị bắt vào quân ngũ. Trước khi đi họ làm đám cưới thì không biết như thế nào. Làm đám cưới xong, trao nhẫn xong, rồi lúc đi thì đến năm 1972 chồng cô tử trận ở Việt Nam nhưng không thấy xác, họ chỉ đem biển tên về thôi.”
Nghệ sĩ Vân Ánh nói rằng, người phụ nữ này đã cắt đứt mọi mối liên hệ với Việt Nam sau khi nhận được tin về cái chết của người chồng, ví dụ như từ chối đến nhà hàng hay các tiệm làm móng của người Việt Nam tại Mỹ. Tuy nhiên, sau khoảng 40 năm, người ta lại thấy cô xuất hiện tại một buổi hòa nhạc của một nghệ sĩ Việt Nam:
“Lý do cô đến buổi concert là nhìn thấy trên báo Chicago Tribune là chị sẽ đến và cô ấy muốn thử và xem đó có phải là cách để hàn gắn vết thương không. Đến lúc cô ấy nghe chị giải thích về bài Qua cầu gió bay, cô ấy thấy giống câu chuyện của cô ấy.”
Chính nhờ những làn điệu và hiểu được nội dung của ca khúc Qua cầu gió bay rất đỗi Việt Nam đó mà theo lời kể của nghệ sĩ Vân Ánh, vị khán giả này cuối cùng cũng có can đảm đến nói chuyện với chị và thậm chí cám ơn chị. Nghệ sĩ Vân Ánh nói rằng trong những lần biểu diễn ở Mỹ, chị đã gặp nhiều cựu chiến binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam và có rất nhiều người trong số họ đã tới gặp và cám ơn chị, nhưng đây là lần đầu tiên chị nhận được lời cám ơn từ vợ của một cựu chiến binh. Người nghệ sĩ này chia sẻ rằng bởi lẽ thông qua bức thư của chồng cô ấy và âm nhạc của chị, người góa phụ ấy đã có thể hình dung ra cuộc sống của chồng mình ở Việt Nam như thế nào trước khi chết. Nghệ sĩ Vân Ánh nói rằng nhiều khi chị cảm thấy có những điều chị làm rất nhỏ nhưng cũng có thể giúp cả hai bên thấu hiểu nhau hơn.
NS Võ Vân Ánh trong một buổi trình tấu 
cùng với các nhạc sĩ Mỹ. (ảnh Christine Jade)
Trong khi âm nhạc truyền thống của Việt Nam do nghệ sĩ Vân Ánh đem tới cho những khán giả ở Mỹ có thể phần nào hàn gắn vết thương mà người thân của những binh sĩ Mỹ đã tử trận trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam phải chịu, thì cùng lúc đó, với số tiền 40.000 đôla mà tổ chức Asian American for Community Involvements trao tặng, nghệ sĩ Vân Ánh cho biết dự án The Odyssey-từ Việt Nam đến Mỹ (From Vietnam to America), một tác phẩm được viết để ca ngợi sức mạnh tinh thần của người Việt, sẽ được trình diễn vào cuối năm 2015 ở San Francisco. Tác phẩm này của nghệ sĩ Vân Ánh biểu diễn cùng hai nghệ sĩ Mỹ Alex Kelly và PC Munoz, là hai thành viên trong nhóm VA’V Trio mới của chị, sau đó sẽ cũng đến với khán giả ở New York, Houston, và Kennedy Center vào năm 2016. Chia sẻ thêm về dự án này, nghệ sĩ Vân Anh nói:
“Đối với những người dân thường như chúng ta thì cuộc chiến tranh nào đi chăng nữa cũng đem lại những mất mát, tổn thương cho dân thường chứ không có gì tốt đẹp. Chương trình “The Odyssey From Vietnam To America” thì chị viết về âm nhạc để ca ngợi sức mạnh tinh thần của người Việt mình. Chị rất tự hào sức sống của người Việt mình mạnh như tre. Tại sao nhiều người cũng ví người Việt mình, đặc biệt là người phụ nữ Việt Nam, như cây tre? Tại vì đây là một thứ cây không bao giờ hủy diệt được, có chặt đến tận gốc, đào, cho dù còn sót một chút nó sẽ nhảy sang chỗ khác vẫn mọc lại được. Nó tổn thương cỡ nào đi nữa, gần như sắp chết, mọi người nghĩ nó chết rồi, nhưng mà nó vẫn có hy vọng, sức mạnh nào đó để sống trở lại. Chị thấy sức mạnh của người Việt mình mạnh như thế.”
Nghệ sĩ Vân Ánh cho biết thêm rằng nguồn cảm hứng để viết tác phẩm này của chị đó chính là từ chuyến vượt biển của những người Việt Nam:
“The Odyssey From Vietnam to America chủ yếu ca ngợi tinh thần sức mạnh của con người nhưng niềm cảm hứng là câu chuyện từ chuyến vượt biển của những người Việt Nam, làm sao họ có thể tìm được sức mạnh để vượt qua khó khăn, chị nghĩ là khó nhất trong cuộc đời người ta. Khi làm tác phẩm này, chị phải làm rất nhiều nghiên cứu và phỏng vấn nhiều người thì điều chị tìm được để khẳng định suy nghĩ của chị, chị rất vui là: sự yêu thương rất con người của người Việt mình, đó là cái lý do tại sao giúp những người rơi vào trường hợp như thế có thể vượt lên được.”
Thành công hiện giờ của nghệ sĩ Vân Ánh có được có lẽ nhờ vào sự ủng hộ từ khán giả, gia đình, và đồng nghiệp. Tiếng đàn của người nghệ sĩ này cũng đã và đang đi vào lòng của nhiều khán giả của mọi lứa tuổi và mọi sắc tộc. Nhưng mục tiêu lớn nhất mà nghệ sĩ Vân Ánh hy vọng làm được đó là:
“Mình muốn làm sao để mai kia người Việt Nam mình đi đâu hay âm thanh của âm nhạc dân tộc Việt Nam cất lên, không quan trọng bạn là ai. Bạn là người Việt thì bạn có thể nói là ôi đó là nhạc cụ, âm nhạc của đất nước tôi, còn nếu đó là người nước ngoài thì họ có thể nói ô, đó là âm nhạc Việt Nam. Đó là điều mà chị muốn làm.”
Theo http://dotchuoinon.com/


Các loại đàn tranh ở Viễn Đông

Các loại đàn tranh ở Viễn Đông
Viễn Đông là một phần của Á châu và chịu ảnh hương văn minh và văn hóa Trung Quốc rất sâu đậm. Các xứ Nhựt Bổn, Đại Hàn và Việt Nam đều sử dụng Hán tự để diễn tả tư tưởng, dù rằng mỗi xứ đều có chữ viết riêng (Nhựt vớihiragana, katakana, kanji; Đại Hàn với hyangul; Việt Nam vớiquốc ngữ). Vì thế, ảnh hưởng của nhạc Trung Quốc đối với ba xứ vừa kể trên rất là hiển nhiên.
Cổ Cầm (Trung Quốc)
Dù muốn dù không, các cây đàn tranh ở Viễn Đông đều xuất xứ từ Trung Quốc. Có lẽ cây đàn tranh cổ xưa nhứt là cây cổ cầm (ku qin) bên Trung Quốc. Tiếng đàn khi khoang khi vồn, nghe rất du dương. Xưa kia, đức Khổng Tử chỉ nghe tiếng đàn cổ cầm mà đã mất ăn mất ngủ ba tháng.
Theo truyền thuyết, cây đàn cổ cầm được sáng chế vào thời Nghiêu Thuấn, và chỉ có 5 dây thôi, nên được gọi là “ngũ huyền cầm“. Về sau, hai vị hoàng đế Văn và Võ, mỗi người thêm vào một dây làm thành cây đàn 7 dây hay “thất huyền cầm“. Hai dây thứ 6 và thứ 7 được gọi là dây Văn và dây Võ. Nhà thi hào Nguyễn Du có lẽ không am tường về nhạc nhiều nên nhà thơ Tố Như, lúc tả Thúy Kiều khảy đàn mà chúng ta đã đặt nhiều giả thuyết không biết có phải là cây đàn tỳ bà, hoặc cây đàn nguyệt, hoặc một cây đàn bốn dây nào đó, đã viết như sau:
“So dần dây Võ dây Văn,
Bốn dây to nhỏ một vần cung thương”
Dây Võ dây Văn chỉ có hai dây mà thôi, chứ làm sao mà bốn dây được !!! Hơn nữa, hai dây Văn Võ chỉ dùng để nói đến hai dây thứ sáu và thứ bảy của cây cổ cầm. Ở Việt Nam, Phạm Đình Hổ, trong quyển “Vũ Trung Tùy Bút“, có nhắc đến một danh cầm đời nhà Trần là Nguyễn Sĩ Cố đánh đàn cổ cầm rất hay. Trong quyển “Toàn Thư” cũng có nói tới một nhạc sĩ thời nhà Trần đàn cổ cầm 5 dây của Trung Quốc thật điêu luyện, tên là Trần Cụ. Ở Nhựt Bổn và Đại Hàn không thấy nói tới cây cổ cầm.
Cổ Cầm Trung Hoa.
Hình dáng cây cổ cầm ra sao?
Cổ cầm gồm có một âm bảng bằng cây ngô đồng dài độ một thước được sơn đen bóng nhoáng . Trên mặt âm bảng, ngoài 13 chấm tròn nạm xa cừ dùng làm dấu để người đàn coi theo đó mà bấm dây, có 7 sợi dây căng dài từ đầu tới cuối âm bảng . Đàn này không có trục và nhạn như đàn tranh thường thấy.
Đặc điểm của cổ cầm là cách sử dụng phiến thanh hay bồi âm (sons harmoniques/harmonic sounds) giống như âm thanh phát ra từ cây đàn bầu hay đàn độc huyền của Việt Nam. Cây cổ cầm rất khó đàn cho hay. Hiện nay chỉ còn độ 200 người Trung quốc biết đàn cây đàn này. Số người này ngày càng thưa thớt. Các ông thầy già rồi chết đi. Số nhạc sĩ trẻ đàn hay rất hiếm. Có vài sinh viên Trung Quốc và Hồng Kông có viết luận án về cây cổ cầm. Cây đàn sắc 25 dây ngày nay không còn có ai biết đàn.
Nghệ sĩ Trung Hoa Liu Fang (Lưu Phương) trình tấu Guzheng
ZHENG (đọc là Tsân), đàn tranh Trung Quốc
Theo huyền thoại Trung Quốc, ngày xưa có một ông già sống chung với hai cậu con trai trẻ, ngoan, và rất thích đàn. Trong nhà, ông bố có một cây đàn tranh 25 dây. Ở đây, tôi xin mở dấu ngoặc, tự hỏi không biết có phải là cây đàn sắc hay chăng? Vì cây đàn sắc có 25 dây. Đó chỉ là nghi vấn mà thôi. Trở lại chuyện hai cậu học đàn tranh. Một hôm bỗng dưng hai cậu cùng muốn đàn tranh một lúc. Trong nhà chỉ có mỗi một cây đàn tranh. Lúc đầu còn lời qua tiếng lại. Dần dần, cãi nhau dữ dội. Ông bố nghe tiếng cãi lộn, mới đi vào hỏi cớ sự ra làm sao. Khi hiểu ra sự tình, ông bố mới khuyên một trong hai người nên nhường cho người kia đàn trước. Nhưng rốt cuộc không sao hòa giải được. Tức giận quá, ông ta mới đi tìm một cây búa, rồi xách cây đàn chặt ra làm đôi theo chiều dọc để làm thành hai cây đàn tranh: một cây 13 dây, bây giờ còn thấy ở miền Bắc Trung Quốc và ở Nhựt Bổn, còn cây kia 12 dây hiện vẫn còn thấy ở Mông cổ và Đại Hàn.
Lại có một giả thuyết khác cho rằng cây đàn tranh Trung Quốc là do ông Mông Điềm sáng chế ra vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch. Hình thù cây đàn tranh Trung Quốc rất giống cây đàn tranh Việt Nam nhưng to hơn. Bề dài cây đàn dài lối 1m,50. Mặt đàn làm bằng cây ngô đồng. Có 13 dây tơ theo truyền thống Bắc Kinh hay 16 dây sắt theo truyền thống Quảng Đông, được căng dài trên mặt âm bảng. Cũng có một hàng trục và một hàng nhạn xê dịch được. Người đàn dùng ngón tay trỏ, ngón giữa và ngón áp út của bàn tay mặt để khảy và ba ngón trỏ, giữa và áp út của bàn tay trái để nhấn. Họ chỉ dùng móng tay để khảy và rất ít khi dùng móng sắt, hay đồi mồi như người Việt. Cây đàn thường để trên bàn trước mặt người đàn hoặc để trên đùi.
Ngày nay ở Đài Loan, cây đàn tranh có cây ngắn độ 1 thước và cây dài tới 1m,80. Kỹ thuật đóng đàn làm theo kỹ nghệ hóa. Khúc cây đưa vào máy cắt, và khi ra khỏi máy đã gần thành cây đàn. Thành ra cây đàn tranh rất tốt, kích thước không sai chạy, và hình dáng hoàn hảo, nhưng lại rất yếu về âm thanh. Họ không còn tuyển lựa khúc cây tốt, già, có gân mà chỉ lấy bất cứ khúc cây ngô đồng nào cũng được. Tất cả mọi việc đều kỹ nghệ hóa, máy móc hóa, chuyên về lượng mà làm giảm đi phần phẩm. Ở Đài Loan, các cô học đàn mua cây đàn tranh hoặc sơn xanh, sơn đỏ, sơn vàng. Mặt âm bảnh không còn là cây ngô đồng mà là một loại ván ép rẻ tiền. Các ông thầy bị đồng tiền làm chi phối nghệ thuật và thường đàn với mục đích thương mại. Đàn tranh thường được sử dụng độc tấu, song tấu hoặc trong một dàn nhạc.
Đàn Kayakeum – Triều Tiên
KAYAKEUM (đọc là Cây đa-cum), đàn tranh Đại Hàn
Cây đàn tranh Kayakeum là một trong ba cây đàn tranh chính của triều đại Silla, có 12 dây tơ căng dài trên mặt âm bảng, trên 12 con nhạn hình chữ A, nhưng không có trục. Trong quyển Silla cổ ký, hoàng đế Kashil của vương quốc Kaya đã sửa đổi thêm bớt một cây đàn của nhà Đường ên Trung Quốc. Theo truyền thuyết cho rằng cây đàn tranh Kayakeum được phát triển từ một cây đàn dây gọi là “cầm” (qin) đã có từ thời Tam Quốc. Như thế thì cây đàn tranh Kayakeum có trước thời vương quốc Kaya.
Vào thế kỷ thứ 6 Công nguyên, một nhạc sĩ nổi tiếng tên là Uruk không những giỏi về tài đàn tranh Kayakeum, mà còn có tài sáng tác.
Ông ở tại vương quốc Kaya. Khi vương quốc Kaya có loạn, ông Uruk mới chạy sang vương quốc Silla và tại đây ông ta rất được hoàng đế Jinhung mến chuộng. Ông Uruk mở lớp dạy đàn tranh Kayakeum, dạy hát và múa tại Kookwon (bây giờ là Choongjoo, tỉnh Choongchung-bookdo). Ông Uruk đã sáng tác 12 bản nhạc như là Ha-Karado, Sang Karado, vv…. Những nhạc phẩm của Uruk đều dựa trên nhạc dân gian bởi vì tên các nhạc phẩm thường lấy tên các tỉnh lỵ thời đó. Ông Uruk đã sáng tác hai điệu Hahlim và Noojook và 115 bản nhạc nhưng chỉ có 12 bản của ông và ba bản nhạc của học trò ông là Eemoon, là còn được truyền tụng tới bây giờ.
Có hai loại đàn tranh kayakeum: một loại gọi là Poongyoo Kayakeum dành cho nhạc cổ điển và nhạc cung đình, và một loại gọi là Sanjo Kayakeum dành cho nhạc dân gian. Kỹ thuật đánh đàn tranh của người Đại Hàn có phần khác. Họ dùng phần thịt của lóng tay đầu của cả năm ngón tay của bàn tay mặt và ba ngón tay trỏ giữa, và áp út của bàn tay trái để nhấn. Họ đàn rất mạnh, và thường cây đàn tranh Kayakeum đi kèm với trống changgo, một loại trống giống hình thù cái bồng của Việt Nam nhưng to hơn. Đàn tranh Kayakeum có thể độc tấu chung với trống changgo như trong thể điệu Sanjo, hay đàn trong dàn nhạc cung đình Ah-ak (Nhã nhạc), hay trong dàn nhạc Hyang-ak (Hàn nhạc). Từ 50 năm nay, có nhiều nhạc sĩ soạn nhạc phẩm cận đại cho Kayakeum , nổi tiếng nhứt là nhạc sĩ Hwang Byong Gi.
Đàn Koto – Nhật
KOTO (đọc là Cô tô), đàn tranh Nhựt
Theo truyền thuyết, một nhạc sĩ người Trung Quốc đem một cây đàn tranh vào xứ Nhựt và cây đàn ấy gọi là So-no-koto hiện vẫn còn được sử dụng trong vũ điệu cung đình cổ truyền Bugaku. Hoặc một huyền thoại cho rằng vào thế kỷ thứ 7, có một bà thuộc dòng dõi quý tộc tên là Ishikawa Iroko, trong thời gian đi nghỉ ở miền quê một hôm tình cờ bà nghe một âm thanh lạ khi đi dạo gần một động núi bà mới đi lại gần nghe và gặp một ông đạo sĩ người Trung Quốc đang khảy đàn tranh. Bà Ishikawa Iroko mê mẩn tâm thần và xin thọ giáo. Sau một thời gian học tập, bà ta mới trở về nhà, thuật lại cho mọi người nghe. Không ai chịu tin rằng chuyện đó có thật. Bà ta tức quá mới dẫn mọi người lại động núi thì không thấy ai hết, mà chỉ thấy trên vòm trời xanh ngay trên đỉnh núi lơ lửng một vần mây trắng.
Từ đó bà Ishikawa Iroko mở trường dạy đàn tranh và thành lập môn phái Kyushu. Điều chắc chắn là đàn tranh Koto Nhựt có từ thời đại Nara (710-793) được dùng trong dàn nhạc Gagaku (Nhã nhạc). Mãi tới đầu thế kỷ thứ 16, vào thời đại Momoyama (1574-1602), một nhà sư đạo Phật ở miền Bắc Kyushu tên là Kenjun (1547-1636) sáng tác những bài hát đầu tiên với tiếng đệm của đàn tranh. Loại nhạc mới này gọi là Tsukushi-goto lấy tên của tỉnh thành nơi nhà sư đã sống.
Sau đó có một nhà sư khác tên là Yatsuhashi Kengyo (1614-1685) ở Kyoto học cách đàn và hát theo thể nhạc mới tsukushi-goto và ông lại tạo ra một thể điệu mới cho nhạc koto bằng cách phỏng theo hình thức cấu tạo sáu bài hát của tsukushi-goto, và được gọi là kumi-uta. Sự khác biệt giữa hai trường phái Tsukushi-goto và Yatsuhashi nằm trong cách lên dây đàn và cách sử dụng điệu.
Trường phái Tsukushi-goto lên dây đàn theo điệu Ryo của nhã nhạc (gagaku), nghĩa là âm giai với 12 bán cung trong khi trường phái Yatsuhashi chỉ dùng hai điệu mới gọi là Hirajoshi (Sol- sol thấp một bát độ-SiĐo-Mi-Fa-La-SiĐo-Mi-Fa-La-Si) và Kumoijoshi (Mi- La thấp một quãng 5 – Sib-Re-Mi-Fa-La-Sib-Re-Mi-Fa-La-Si) dựa theo điệu In (âm) âm giai lên gồm các nốt: Mi-Fa-La-Si-Re-Mi trong khi âm giai xuống gồm các nốt: MiĐo-Si-La-Fa-Mi. Hai điệu Hirajoshi và Kumoijoshi trở thành hai thang âm tiêu biểu và đặc thu của nhạc Nhựt Bổn ngày nay.
Nhà sư Yatsuhashi và những người học trò của ông có sáng tác một số bài độc tấu đàn tranh nhưng hầu hết các bài đặt ra đều là bài hát với phần đệm đàn koto. Đồng lúc với sự phát triển thể nhạc mới Tsukushi-goto, nhạc shamisen (shamisen là một đàn dây giống như cây đàn tam của Việt Nam) cũng bắt đầu lộ diện ở Nhựt. Ông Ikuta Kengyo (1656-1715) mới phối hợp đàn shamisen và đàn tranh koto trong khi trình diễn Ji-Uta ( một loại hát đệm đàn Shamisen). Từ đó về sau, những bài bản gồm có một phần ngắn hát và một phần dài đàn tranh koto.
Phần đánh đàn gọi là Te-goto và thể cách trình diễn các bài hát kiểu đó gọi là Te-goto-monọ Trong khi Te-goto-mono được bành trướng mạnh ở Kyoto và Osaka, thì ở Edo, một nhạc sĩ khác tên là Yamada Kengyo (1757-1817) mới tạo ra một thể cách mới cho nhạc koto là phối hợp nhạc hiện đại shamisen và nhạc koto. Vào cuối thời đại Edo (1603-1867) ông Yoshizawa Kengyo ở Nagoya lại nghĩ ra cách để đàn koto một mình đệm bài hát mà thôi. Kiểu này đã từng dùng trong Kumi-Uta, nhưng có khác là ông Yoshizawa Kengyo trích lời ca qua các bài thơ cổ điển trong các cổ thi tuyển danh tiếng như Kokin Waka Shu, Kin Yo Shu, vv… Ông ta lại chế ra một cách lên dây hoàn toàn khác hẳn hai điệu âm (In) và dương (Ryo) và đặt tên là Kokin-joshi lấy từ tên Kokin Waka Shu mà ra. Âm giai như sau: Mi-La-Si (thấp) -Re-Mi-Fa-La-Si-Re-Mi-Fa-La-Si.
Từ khi nhạc Tây Âu bắt đầu xâm nhập đất Phù Tang vào đầu thời đại Meiji (1868 trở vềsau), nhiều nhạc sĩ cổ truyền Nhựt thử sử dụng các âm giai mới vào trong nhạc Nhựt và một số ít đã thành công. Miyagi Michio (1895-1956), nhà soạn nhạc Nhựt đầu tiên đã phối hợp hai luồng nhạc Á Âu, sử dụng hai nhạc ngữ Đông Tây trong khi soạn các nhạc phẩm cho đàn koto. Từ đó những nhạc sĩ trẻ tuổi và các người đánh đàn tranh koto đều bắt chước ông Miyagi Michio. Có một số phê bình ông và lại thử một hướng đi khác. Gần đây, nhứt là từ khi sau thế chiến thứ hai (1939), rất đông nhà soạn nhạc Nhựt thi đua nhau sáng tác nhạc đương đại dựa trên nhạc cổ truyền.
Cây đàn tranh Koto làm bằng cây pawlonia, dài 1m80. Mười ba dây tơ căng dài trên mặt âm bảng. Mười ba con nhạn hình chữ A hứng chịu 13 dây đàn. Đàn tranh Koto không có trục giống như đàn Kayakeum của Đại Hàn. Người khảy đàn mang móng vào ngón tay cái, trỏ và giữa của bàn tay mặt và dùng ba ngón tay trỏ, giữa, và áp út của bàn tay trái mang móng đeo ở ngón tay thì đủ biết người đàn thuộc trường phái nào (Gagaku, Tsukushi-goto, Ikuta, Yamada.
Đàn tranh koto có thể đàn độc tấu, tam tấu với với đàn tam shamisen, ống tiêu shakuhachi, hay đàn trong dàn nhạc cổ điển hay cận đại.
Nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo, người 
chế tác Đàn Tranh 17, 19, 21 dây.
Đàn Tranh Việt
Có lẽ đàn tranh là cây đàn được nhiều người Việt biết đến nhiều nhứt và có đông người học nhứt trong số các nhạc khí cổ truyền Việt Nam. Thật ra đàn tranh không phải bắt nguồn từ Việt Nam mà đúng ra là từ Trung Quốc. Có một giả thuyết cho rằng tiếng đàn khi đánh lên nghe giống như âm từ “tranh”. Nhưng giả thuyết này không đứng vững. Về sau có một số giả thuyết khác cho rằng đàn tranh là do chữ “tranh” có nghĩa là “tranh luận thêm một bộ trúc phía trên.
Giả thuyết này có đưa ra một huyền thoại. Nói rằng ngày xưa có hai người tranh nhau một cây đàn “sắc” có 25 dây. Mông Điềm, một vị quan thời nhà Tần, mới chặt cây đàn sắc ra làm hai, một cây đàn 12 dây và một cây đàn 13 dây. Từ đó người ta mới gọi là đàn tranh.
Một huyền thoại khác nói rằng dưới thời nhà Tần có hai chị em nhà kia tranh nhau một cây đàn sắc có 25 dây. Dành qua dành lại, cây đàn rớt xuống bể làm hai. Người chị lấy cây đàn có 13 dây, còn người em lấy cây đàn 12 dây. Từ đó mới phát xuất tên đàn tranh.
Điều chắc chắn là đàn tranh Trung Quốc đọc là zheng (tsân) được xuất hiện giữa khoảng thế kỷ thứ ba trước công nguyên vào cuối nhà Tần. Ở Việt Nam, đàn tranh xuất hiện đầu tiên vào lúc nào, không ai biết rõ. Có thể vào cuối thế kỷ thứ 9. Nhưng có điều chắc chắn là đàn tranh được nhắc đến lần đầu tiên trong dàn tiểu nhạc dưới thời nhà Trần (1225-1400) trong quyển Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ. Ông Phạm Đình Hổ kể rằng cây đàn tranh chỉ có 15 dây chứ không phải 16 dâỵ Người đánh đàn mang móng bằng bạc để khảy hoặc dùng hai khúc cây sậy nhỏ đánh lên dây theo kiểu đánh đàn tam thập lục ngày nay. Cách dùng cây sậy khỏ lên dây không còn được truyền tụng nữa.
Đàn Tranh còn được gọi là Đàn Thập Lục (16 dây). Thùng đàn dài khoảng từ 100cm tới 110cm. Một đầu rộng từ 17cm tới 20cm, và một đầu nhỏ cỡ 12cm tới 15cm. Mặt âm bảng làm bằng cây ngô đồng hình cầu vòng. Thành đàn làm bằng gỗ trắc. Đáy đàn làm bằng một miếng ván có khoét ba cái lỗ: lỗ hình bán cầu ở phía dưới đầu đàn để có chỗ cột dây đàn cho đừng bị tuột dây; lỗ thứ nhì hình chữ nhựt ở giữa đáy đàn dùng để cho người đàn có nơi để xách đàn, và lỗ thứ ba tròn và nhỏ dùng để treo đàn trên vách tường sau khi hết muốn đàn nữa.
Đầu đàn có một sợi dây bằng đồng uốn cong gọi là “cầu đàn” dùng làm điểm tựa cho 16 dây đàn bằng thép. Mỗi sợi dây căng từ cầu đàn tới trục đều chạy trên một con nhạn (còn gọi là “ngựa đàn” – chevalet theo tiếng Pháp hay bridge theo tiếng Anh). Nhạn có thể di chuyển tùy theo cách lên dây đàn theo điệu Bắc, Nam, Xuân, Ai, Đảo, Oán, vv… Âm vực của đàn tranh cổ truyền là ba bát độ hay quãng 8 (octave).
Theo truyền thống miền Trung và Bắc, người đàn sử dụng ngón tay cái, trỏ và giữa của bàn tay mặt hoặc với móng tay thật để dài mà khảy nhưng âm thanh phát ra không được trong trẻo) hoặc với móng gẩy (onglet/plectrum) đeo vào. Ở miền Nam chỉ dùng có hai ngón tay mặt: ngón cái và ngón trỏ mà thôi. Có nhiều thủ pháp cho tay mặt rất được phổ thông cho đàn tranh. Cách gẩy lướt trên các dây đàn tạo thành một chuổi âm dài. Có hai cách đàn chữ Á.
Á xuống gẩy với ngón cái từ các âm cao đến âm thấp khoảng 7 hay 8 dây liên bậc.
Á lên gẩy với ngón tay trỏ từ âm thấp tới âm cao. Kỹ thuật này rất được ưa thích tại Việt Nam và nhứt là các nhạc sinh thế hệ trẻ sau này thường đàn trong các nhạc phẩm mới sáng tác Đánh chồng âm, hợp âm thường được thấy trong nhạc đàn tranh, có nghĩa là hai âm thanh cùng đánh một lúc tạo thành hai âm cách nhau một quãng tám, gọi là song thanh (miền Nam), hay song long (miền Bắc), có khi liên bậc hay có khi cách bậc.
Đánh song huyền là cách đánh hai dây cùng một lúc nhưng âm thanh không cách nhau một quãng tám như song long/song thanh mà có thể là quãng 2, 3, 4, 5 vv…
Đánh nhiều dây là đánh cùng một lúc ba hay bốn dây tạo thành một hợp âm. Kỹ thuật này mới được áp dụng sau này có chiều hướng tây phương.
Ngón vê là dùng các ngón tay mặt gẩy liên tục thật mau trên một dây. Có thể vê hai dây. Một số thủ pháp như ngón láy rền, ngón vuốt, vv… làm tăng thêm sự phong phú của kỹ thuật đàn tranh Việt Nam.
Thủ pháp của bàn tay trái góp phần để tạo rõ hiệu quả âm thanh tính qua các ngón rung, ngón nhấn, ngón vỗ. Mấy lúc sau này tay trái còn được sử dụng phối hợp với bàn tay mặt để đánh các chồng âm hay một vài kỹ thuật khác.
Thủ pháp tay trái gồm có:
Ngón rung là dùng 2 hay 3 ngón tay trái rung nhẹ trên sợi dây tạo một âm thanh phát ra giao động như làn sóng nhỏ.
Ngón nhấn thể nhấn nửa bậc, một bậc hay một bậc rưỡi Ngón nhấn láy được dùng rất thường ở đàn tranh.
Ngón vỗ dùng ngón tay mặt gẩy dây cùng một lúc ngón tay trái vỗ và nhấc lên ngay.
Ngón vuốt dùng tay mặt gẩy đàn, tiếp theo dùng 2 hay 3 ngón tay trái vuốt trên dây đàn đó làm tăng sức căng của dây đàn một cách đều đều, liên tục âm thanh được nâng cao lên nửa cung hay một cung là thủ pháp của tay trái mà trước đây quá ít người biết sử dụng. Có thể gẩy bằng hai tay để tạo thêm chồng âm. Thường là tay trái gẩy những âm rải trong khi tay mặt phải sử dụng ngón vê, hoặc trong khi tay mặt nghỉ. Đôi lúc có thể gẩy giai điệu trong bản nhạc, đặc biệt là những đoạn nhạc êm dịu, trữ tình.
Bồi âm là kỹ thuật mới bắt nguồn từ kỹ thuật đàn bầu, nghĩa là chạm cạnh bàn tay trái lên giữa dây đành tính từ cầu đàn tới con nhạn trong khi tay mặt gẩy dây đó.
Cách lên dây đàn
Có nhiều cách lên dây đàn tranh tùy theo điệụ Sau đây là một số lên dây căn bản:
Dây Bắc, Quảng: Sol – La – Do – Re – Mi – Sol
Dây Đảo: Sol – La – Do – Re – Fa- Sol
Dây Nam Ai, Xuân: Sol – Sib – Do – Re – Fa- Sol
Dây Vọng cổ: Sol – Sib + Do – Re – Mi – Sol
Sa Mạc: Sol – Sib+ Do – Re – Fa- Sol
Tây Nguyên: Sol – Si Đo – Re – Fa#- Sol
Bài bản căn bản
Về bài bản cho nhạc sinh học đàn tranh, tôi chỉ ghi lại đây một số bài căn bản theo truyền thống miền Trung và miền Nam mà thôi.
Theo truyền thống miền Trung, dây Bắc có 10 bài ngự:
1. Phẩm tuyết
2. Nguyên tiêu
3. Hồ quảng
4. Liên hoàn
5. Bình nguyên
6. Tây mai
7. Kim tiền
8. Xuân phong
9. Long hổ
10. Tẩu mã
Về bài bản theo dây Nam thì có:
1. Nam ai (còn gọi là ai giang)
2. Hành vân
3. Nam xuân (còn gọi là Hạ giang hay Nam chiến)
4. Nam bình (còn gọi là vọng giang)
5. Chinh phụ
6. Tứ đại cảnh
7. Tương tư khúc
Truyền thống miền Nam trong nhạc đàn tài tử gồm có một số bài dây Bắc:
8 bài nhỏ:
1. Lưu thủy đoản
2. Bình bán
3. Kim tiền Huế
4. Tây thi vắn
5. Khổng Minh tọa lầu
6. Mẫu tầm tử
7. Long Hổ hội
8. Thu hồ
6 bài lớn:
1. Lưu thủy trường
2. Phú lục
3. Bình bán chấn
4. Xuân Tình
5. Tây thi
6. Cổ bản
7 bài lớn trong nhạc lễ:
1. Xàng xê
2. Ngũ đối thượng
3. Ngũ đối hạ
4. Long đăng
5. Long ngâm
6. Vạn giá
7. Điệu khúc
Các bài điệu Quảng gồm có:
1. Ngũ điểm
2. Bài tạ
3. Khốc hoàng thiên
4. Xang xừ líu
Dây Nam gồm có:
1. Nam ai
2. Nam xuân
3. Đảo ngũ cung
4. Tứ đại oán
5. Văn Thiên Tường
6. Vọng cổ
Sự đóng góp của một số giáo sư cổ nhạc như GS Nguyễn Hữu Ba, GS Bửu Lộc, GS Vĩnh Phan, GS Nguyễn Vĩnh Bảo, đã tạo ra một số nhạc sĩ trẻ có đầu óc muốn cải tiến và phát triển như Phạm Thúy Hoan và các nhạc sĩ nhóm Hoa Sim như Quỳnh Hạnh, Phương Oanh, Ngọc Dung ở Saigon trước 1975. GS Nguyễn Vĩnh Bảo đã dựa trên các cây đàn tranh của Đài Loan, Nhựt Bổn mà chế biến những đàn tranh 17, 19 và 21 dây với những âm thanh thật trầm và thật sống làm cho âm sắc giàu hơn nhiều. Tại Paris, Trung Tâm Nghiên cứu nhạc Đông phương (Centre d’Etudes de Musique Orientale/Centre of Studies for Oriental Music) do GS Trần Văn Khê sáng lập vào năm 1958 đã đào tạo hàng trăm nhạc sinh đàn tranh đủ các quốc tịch trong vòng 30 năm (tính cho tới năm 1988 là năm trung tâm này đóng cửa).
Ngày xưa, đàn tranh ít được phổ biến, chỉ hòa đàn trong dàn nhạc ngũ tuyệt, đàn tài tử miền Nam, hay là độc tấu, hoặc đệm cho một người hát. Ngày nay, với những kích thước lớn nhỏ khác nhau, với số dây từ 16 lên tới 21 dây hay nhiều hơn nữa, với những thủ pháp tân kỳ, đàn tranh có thể độc tấu, hòa tấu, đệm cho hát, cho ngâm thơ và luôn cả trong nhạc điện thanh (electro-acoustical music/ musique electro-acoustique) mà nhà sọan nhạc Nguyễn Văn Tường và tôi đã cộng tác để thực hiện qua nhạc phẩm Về Nguồn trình bày lần đầu tại Pháp năm 1975.
TS Lê Tuấn Hùng đã bảo vệ luận án tiến sĩ nhạc học về Đàn Tranh, bài bản đàn tranh tại trường đại học Monash University, Melbourne, Úc Châu vào năm 1991. Tại Pháp có GS Trần Văn Khê, Trần Thị Thủy Ngọc, Quỳnh Hạnh và Phương Oanh mở lớp dạy đàn tranh. Tại Canada, có Đức Thành ở Montreal dạy đàn tranh hàm thụ và trình diễn đàn tranh. Tại Úc châu có Lê Tuấn Hùng. Tại Hoa kỳ có TS Nguyễn Thiếu Phong, BS Đào Duy Anh.
Tôi đã giới thiệu đàn tranh tại Pháp và ở hải ngoại từ năm 1966 qua hàng nghìn buổi trình diễn và tại hàng trăm đại hội liên hoan nhạc truyền thống khắp năm châu. Với 23 dĩa hát thực hiện tại Pháp (15 dĩa như 33 vòng , 8 CD), tôi đã mang tiếng đàn tranh đi vào 60 quốc gia và nhờ đó ai ai đều biết tới tiếng đàn tranh. Với một cái nhìn tổng quát về các loại đàn tranh ở Viễn Đông, tôi hy vọng mang lại cho độc giả một cái nhìn xác thực về sự đa diện của cây đàn tranh và sự giàu có về âm thanh, thủ pháp, bài bản, cũng như về các nhạc sĩ, các nhà viết nhạc cho một nhạc khí đặc trưng của Viễn Đông: Đàn Tranh.
Tại Việt Nam ngoài Phạm Thúy Hoan, hiện nay còn có ba nữ nhạc sĩ đàn tranh trẻ tuổi là Hải Phượng (đoạt giải Tài năng trẻ đàn tranh toàn quốc 1992), Vân Ánh (đoạt giải đàn tranh tài năng trẻ năm 1995), và Thanh Thủy (đoạt giải tài năng trẻ đàn tranh năm 1998) . Một hội đàn tranh Châu Á lần đầu được tổ chức tại Saigon từ 10 tới 14 tháng 9, 2000 với sự tham dự của hơn 200 nhạc sĩ đàn tranh của Việt Nam, Đại Hàn, Nhựt Bổn và Tân Gia Ba thổi một luồng gió mới vào nhạc dân tộc trong xứ, và có thể làm phát triển đàn tranh ở Việt Nam.
Chú thích: Sách tham khảo…
– Trần Quang Hải, 1989: Âm nhạc Việt Nam – biên khảo, 362 trang, nhà xuất bản Nhóm Bắc Đẩu, Paris.
– Trần Quang Hải/Michel Asselineau, Eugene Berel, 1994: Musics of the World, (Nhạc thế giới), nhà xuất bản JM Fuzeau, 360 trang, 3 CD, Courlay, Francẹ
– Trần Văn Khê, 1962: Musique traditionnelle vietnamienne (Nhạc cổ truyền Việt Nam), nhà xuất bản Presses Universitaires de France (PUF) 382 trang, Paris.
– Trần Văn Khê, 1967: Vietnam, Traditions Musicales (Vietnam, Truyền Thống Âm Nhạc), nhà xuất bản Buchet Chastel, 225 trang, Paris.
Nghệ sĩ Vân Ánh biểu diễn trong Liên hoan Đàn tranh Quốc gia. (ảnh Nguyễn A).
Trần Quang Hải
Theo http://dotchuoinon.com/

Nhạc cụ cổ truyền Việt Nam - Đàn Tranh/ Thập Lục

Nhạc cụ cổ truyền Việt Nam - Đàn Tranh/ Thập Lục
Đàn Tranh (chữ Nôm: 檀箏, chữ Hán: 古箏: Cổ Tranh) - còn được gọi là Đàn Thập Lục, là nhạc cụ truyền thống của người phương Đông, có xuất xứ từ Trung Hoa. Đàn thuộc họ dây, chi gảy. Đàn có tên gọi Thập Lục vì có 16 dây.
Nguồn gốc Đàn Tranh Việt Nam là Đàn Tranh giống như Đàn Sắt (Se) và Đàn Cổ Tranh (Guzheng) từ Trung Hoa truyền sang nước Việt có thể từ đời nhà Trần hay trước nữa, dùng trong dân gian dưới dạng 9 dây, 15 dây, 16 dây và từ xưa đến giờ thay đổi số dây từ dây tơ sang dây cước (dây đồng) đến dây thép.
Qua bảy, tám thế kỷ, người Việt dùng và bản địa hoá nó, tạo cho nó một phong cách đặc thù trong thủ pháp, ngón đàn, tay nhấn nhá, trong thang âm điệu thức, biến nó trở thành một loại nhạc cụ bản địa mang tính dân tộc, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Việt, và nói rõ ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam.
Đàn Tranh Việt Nam
Đàn Tranh hình hộp dài. Khung đàn hình thang có chiều dài 110–120 cm. Đầu lớn rộng khoảng 25–30 cm là đầu có lỗ và con chắn để mắc dây. Đầu nhỏ rộmg khoảng 15–20 cm gắn 16 khoá lên dây chéo qua mặt đàn. Mặt đàn làm bằng ván gỗ ngô đồng dày khoảng 0,05 cm uốn hình vòm. Ngựa đàn(còn gọi là Con nhạn) nằm ở khoảng giữa để gác dây và có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh.
Dây đàn làm bằng kim loại với các cỡ dây khác nhau. Ngày xưa dùng dây tơ. Khi biểu diễn nghệ nhân thường đeo 3 móng gẩy vào ngón cái, trỏ và ngón giữa để gẩy. Móng gẩy làm bằng các chất liệu khác nhau như kim loại, sừng hoặc đồi mồi.
NS Đàn Tranh Hải Phượng
Âm sắc Đàn Tranh trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui tươi, trong sáng. Đàn Tranh ít thích hợp với những tính cách trầm hùng, khoẻ mạnh. Tầm âm Đàn Tranh rộng 3 quãng 8, từ Đô lên Đô3.
Đàn Tranh thường được sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho Ngâm thơ, Hát, tham gia trong các Dàn nhạc tài tử, Phường bát âm, dàn Nhã Nhạc và các Dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
Đàn Koto của người Nhật

Đàn Guzheng của người Đài Loan

Đàn Cổ Cầm - Trung Hoa
Cùng loại với Đàn Tranh của người Việt, người Nhật có Đàn Koto, người Trung Hoa có Đàn Guqin (mẹ đẻ của các thể loạiĐàn Tranh) & Zheng, người Triều Tiên có Đàn Gayageum, người Mông Cổ có Đàn Jatag. Điều đặc biệt thú vị là mỗi dân tộc đều có nét văn hóa độc đáo đặc thù của riêng mình với các thể cách khác nhau trong âm điệu của nhạc cụ cổ truyền phương Đông này.
Dưới đây mình có các bài:
– Các Loại Đàn Tranh Ở Viễn Đông
– Nghệ sĩ đàn tranh Võ Vân Ánh viết tác phẩm ca ngợi sức mạnh tinh thần người Việt
– Đàn Tranh
– Đàn Tranh Việt Nam
Cùng với 36 clips tổng hợp độc tấu, hòa tấu đànTranh/Guqin/Guzheng/Gayageum/Koto/Jatag do các nghệ nhân ưu tú trên thế giới diễn tấu để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Đặc biệt trong bài này mình giới thiệu đến các bạn một người nghệ sĩ Đàn Tranh tài hoa, chị Võ Vân Ánh. Chị Võ Vân Ánh là một nghệ sĩ đa tài. Chị có khả năng hát và diễn tấu thành thạo nhiều loại nhạc cụ dân tộc như: Đàn Bầu, Đàn T’rưng, Trống Đồng, và các loại trống khác… Hiện nay chị đang là giáo sư giảng dạy bộ môn Âm Nhạc Truyền Thống Dân Tộc Việt Nam trong hệ thống đại học USA cho người dân bản địa. Ngoài công việc giảng dạy, chị còn sáng tác và cùng với các nghệ nhân tài hoa của Mỹ đi trình diễn khắp nơi giới thiệu nền văn hóa âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
Bình Sa Lạc Nhạn – Hòa tấu Cổ Cầm (Guqin)
Ngư tiều vấn đáp – Hòa tấu Cổ Cầm (Guqin)
Hòa tấu Cổ Cầm (Guqin) – Zheng – Flute 
Độc tấu Cổ Cầm (Guqin) – Múa Flowing Water
Độc tấu Cổ Cầm (Guqin)
Độc tấu Cổ Cầm (Guqin)
Độc tấu Cổ Cầm (Guqin)
Độc tấu Cổ Cầm (Guqin)
Tịch Dương Tiêu Cổ – Độc tấu Guzheng
Độc tấu Guzheng tuyển chọn
Liu Fang (Lưu Phương) – Guzheng solo 1
Liu Fang (Lưu Phương) – Guzheng solo 2
Khám phá Đàn Cổ Tranh
Hòa tấu Thập Đại Danh Khúc
Độc tấu đàn Gayageum – Triều Tiên
Độc tấu đàn Gayageum – Triều Tiên
Hòa tấu đàn Gayageum – Triều Tiên
Hòa tấu – Japanese Flute, Koto, Shamisen
Japanese Koto “Tegoto” by Michio Miyagi
Độc tấu Japanese Koto
Mongolian folk music – hòa tấu Jatag
Jatag & Yoochir – Traditional Mongolian 
Music & Songs (Live Concert “Kharkhorum”)
Khusugtun – Mongolian music in London
 BBC Proms 2011 Human Planet
Khusugtun – Hòa tấu Jatag – Mongolian music
Rặng tre trước gió – Đàn Tranh – Hải Phượng 
Độc tấu Đàn Tranh – SAKURA – Hải Phượng
TEDxSanJoaquin – Vanessa Vo – Breathing 
New Air into Tradition (NS Vân Ánh giới thiệu 
âm nhạc truyền thống Việt Nam trên Ted)
Độc tấu Đàn Tranh – SAKURA  
Võ Vân Ánh (Vanessa Võ)
Độc tấu Đàn Tranh – Võ Vân Ánh (Vanessa Võ) 
Vietnamese Jazz Fusion  
Võ Vân Ánh (Vanessa Võ)
Đàn Tranh – Thanh Thủy 
Chương trình Tuổi Vàng – Nhạc sư Vĩnh Bảo
Giới thiệu NS Nguyễn Vĩnh Bảo 
 Mất văn hóa là mất nước
Rao buồn – NS Nguyễn Vĩnh Bảo
Đêm Tàn Bến Ngự – Vĩnh Bảo đàn Tranh
Vĩnh Tuấn & Thanh Thúy song tấu 
Tỳ Bà & Tranh – Lưu Thủy & Kim Tiền
Vĩnh Tuấn & Thanh Thúy song tấu 
Tỳ Bà & Tranh – Hành Vân
Vĩnh Tuấn & Thanh Thúy 
song tấu Tỳ Bà & Tranh
Vĩnh Tuấn & Thanh Thúy song tấu 
Tỳ Bà & Tranh – Cổ Bản
 Theo http://dotchuoinon.com/



  Bộ phim Đất rừng phương Nam: Một số điều “lấn cấn” về nội dung và nghệ thuật cùng với phản hồi của cục điện ảnh 17 Tháng Mười, 2023 “Đ...