Thứ Tư, 6 tháng 4, 2016

Người đã cứu cố đô nước Nga bằng âm nhạc

Người đã cứu cố đô nước Nga bằng âm nhạc
Trong số tất cả các nhạc trưởng trên thế giới chỉ một mình ông có vinh dự được ghi tên trên tấm bảng lưu niệm bởi một buổi biểu diễn duy nhất. Nhưng buổi biểu diễn này đã và mãi mãi sẽ trở thành huyền thoại. Người nhạc trưởng ấy tên là Karl Ilich Eliasberg.
Tấm bảng lưu niệm bằng đá hoa cương gắn trên tòa nhà Đại lễ đường của Hội khuyến nhạc ở thành phố Leningrad dưới thời Xôviết, hay St. Peterburg ngày nay, ghi rõ rằng: “Tại đây, ngày 9 tháng 8 năm 1942, dàn nhạc của Ủy ban phát thanh Leningrad dưới sự chỉ huy của Karl Eliasberg đã trình diễn bản giao hưởng số 7 của nhạc sĩ Dimitri Shostakovich”.
Vào thời điểm ấy, quân Đức đang chuẩn bị cuộc tổng tấn công vào thành phố. Và bản nhạc đầy khí thế hào hùng trong cái cố đô bất khuất bị phong tỏa, thiếu thốn đủ bề ấy chính là cú đòn tâm lý cực mạnh giáng vào những kế hoạch của kẻ thù. Không phải ngẫu nhiên mà sự kiện này được gọi là Ngày chiến thắng trong chiến tranh. Còn bản thân việc trình diễn bản giao hưởng nổi tiếng đó không chỉ được khắc bằng chữ vàng vào cuốn sử biên niên của thành phố anh hùng, mà còn đi vào lịch sử của nền âm nhạc thế giới như một bằng chứng về tinh thần dũng cảm vô song của những người làm nghệ thuật trong tình thế hiểm nghèo ngàn cân treo sợi tóc.
Nghệ sĩ công huân của Liên bang Nga Karl Eliasberg (1907-1978) quê ở Minsk (thuộc Belarus), nhưng với tư cách là một nhạc sĩ, ông sinh trưởng ở Leningrad. Tại đây, ông tốt nghiệp lớp vĩ cầm của Nhạc viện và tự học môn nghệ thuật chỉ huy dàn nhạc. Thoạt tiên, ông làm việc tại nhà hát ca kịch Leningrad, từ năm 1932 đến năm 1950 tại dàn nhạc đại giao hưởng của đài phát thanh Leningrad. Cùng với dàn nhạc này, ông đã đi vào thiên sử thi của thành phố kỳ quan bên bờ sông Neva.
Sau đây là cuộc trao đổi giữa nhà báo Nga Oleg Serdobolski với nhạc trưởng Eliasberg chung quanh buổi hòa nhạc huyền thoại này.
– Thưa Karl Ilich, nhạc sư có những cảm nghĩ như thế nào trong buổi biểu diễn tại thành phố bị phong tỏa?
– Tất nhiên là tôi hiểu rằng đây không hoàn toàn là một buổi biểu diễn thông thường. Bản thân cái tên Shostakovich và bản giao hưởng số 7 đã nói lên nhiều điều. Chúng tôi nhận thức được rằng, đây là một sự kiện, nhưng có lẽ chỉ là một sự kiện âm nhạc mà thôi. Tôi không ngờ rằng nó lại có một ý nghĩa lớn lao như vậy.
– Xin nhạc sư cho biết cảm tưởng đầu tiên của mình khi làm quen với tổng phổ.
– Tôi bị sửng sốt. Bởi lẽ bản giao hưởng được viết cho hai nhóm kép của nhạc kèn; không phải bốn kèn cor như trong dàn nhạc thông thường, mà là tám, không phải ba trompet mà là sáu, thêm một nhóm tăng cường của kèn gỗ và bộ gõ. Tập trung được một đội ngũ như thế trong những điều kiện lúc bấy giờ không phải là chuyện giản đơn. Trong thời gian bị phong tỏa, 27 người trong dàn nhạc đã qua đời. Tôi đành đến xin nhờ sự chi viện của Thành ủy và Cục chính trị của phương diện quân Leningrad. Người tiếp riêng tôi về vấn đề này là Bí thư Thành ủy Aleksei Aleksandrovich Kuznesov, đồng thời cũng là ủy viên Hội động quân sự của phương diện quân. Các đồng nghiệp đã gợi ý cho tôi danh tính của những nhạc công cần thiết, nhưng vấn đề liên hệ rất khó khăn bởi lẽ bộ đội không có địa chỉ cố định mà chỉ có số hòm thư dã chiến. Kuznesov bèn nhờ trung tướng Kholostov, Cục trưởng Cục Chính trị của phương diện quân. Với sự giúp đỡ của ông, tôi đã xác định được nơi ở của một số người cần tìm. Các nhạc công của dàn nhạc, như những tài xế taxi, cái gì cũng biết. Và khi những người đầu tiên có mặt, họ lập tức thông báo cho tôi rõ: Ở đơn vị ấy có người thổi kèn trompet rất giỏi, còn ở đơn vị nọ có anh chàng thổi trombon thật điệu nghệ. Chúng tôi xin được phép điều động những quân nhân đó đến phục vụ tại dàn nhạc trong thời gian trình diễn giao hưởng. Thật ra, sau đó họ đã ở lại luôn chỗ chúng tôi.
– Trước đó họ có quan hệ như thế nào đối với dàn nhạc của nhạc sư?
– Nhiều người có quan hệ lắm chứ. Họ bị động viên hoặc tình nguyện ra mặt trận trong những ngày đầu chiến tranh. Nhưng có nhiều người tôi mới gặp lần đầu. Tôi cố chạy vạy xin thêm một số người dự phòng bởi lẽ trong thành phố bị bao vây có thể xảy ra bất cứ chuyện gì.
– Và sự phòng xa có giúp ích gì cho nhạc sư không?
– May mà không ai bị loại khỏi đội ngũ. Mọi người đều hăng hái tập dượt, đều tham gia biểu diễn, đều giúp đỡ lẫn nhau.
– Ở đây có một chi tiết: Trong tờ chương trình không thấy đề ngày tháng. Tại sao vậy?
– Đó là do đầu óc thực tiễn của giám đốc Hội khuyến nhạc hồi đó là Boris Hais. Mọi người đều biết rằng bản giao hưởng sẽ không chỉ được trình diễn một lần, và để khỏi phải in lại tờ chương trình mới cho mỗi buổi biểu diễn nên ông đã đặt in luôn những tờ chương trình không ghi ngày tháng, cho cả bốn lần biểu diễn.
– Thế mà người ta đồn rằng ngày tháng được giữ bí mật để bọn Đức không biết trước.
– Bọn Đức biết tất cả mọi thứ. Chúng đã nghe buổi tiếp âm của chúng tôi vốn chỉ được mở ra trong thời gian pháo kích hoặc báo động phòng không. Chúng biết rõ có thêm một cửa hàng bán bánh mì mới được khai trương và từ ngày ấy, ngày nọ, khai thông thêm đoàn tàu điện số 8 hoặc số 5. Trên những tấm bản đồ thu lượm được của chúng, những địa điểm tập trung đông người được đánh dấu bằng những vòng tròn xanh đỏ – đó là những cửa hàng bánh mì, các rạp chiếu bóng, các ga tàu điện. Chúng cố pháo kích vào những vòng tròn ấy. Như thế là chúng biết rõ tất cả mọi thứ.
– Kể cả việc bản giao hưởng được trình diễn?
– Tôi không dám chắc, rằng ở một chừng mực nào đó đài phát thanh Leningrad đã thông báo cho dân chúng biết về chuyện này. Song tôi nghĩ bọn Đức đã biết.
– Còn chính cái ngày biểu diễn có gì đáng ghi nhớ đối với nhạc sư không?
– Chúng tôi đều dậy sớm như mọi khi. Kỷ luật rất mẫu mực. Chúng tôi trù tính tất cả gồm bảy hoặc tám buổi tập, nhưng đến buổi thứ năm thì mọi chuyện đã ổn. Một bầu không khí tưng bừng của ngày hội và tất cả chúng tôi rất xúc động. Buổi biểu diễn được bắt đầu không phải vào thời điểm thông thường, mà, nếu như tôi không nhầm, thì vào 5 hoặc 6 giờ chiều. Trong thính phòng có mặt tư lệnh phương diện quân Leningrad là tướng Aleksandrovich Govorov. Sau buổi biểu diễn, khi bước vào phòng khách danh dự, tôi nhìn thấy ở đó toàn bộ các cán bộ chủ chốt của Thành ủy và Tỉnh ủy. Mọi người chúc mừng chúng tôi. Khi ra về, Govorov nắm tay tôi và nói một câu lạ lẫm: “Chúng tôi hôm nay cũng làm ăn đến nơi đến chốn vì các bạn đấy.” Tôi không hiểu gì cả. Nhưng không được phép hỏi lại tư lệnh. Và chỉ 20 năm sau, tôi mới giải mã được câu nói đó.
– Bằng cách nào vậy?
– Viện bảo tàng học đường “Các nàng thơ không im lặng” đã tổ chức một buổi giao lưu giữa các nhạc công của dàn nhạc với các chiến sĩ pháo binh, những người trước buổi công diễn, bằng một đợt pháo kích dữ dội đã trực tiếp chế áp tất cả các hỏa điểm của địch. Họ đến đây, những con người đã luống tuổi, nghễnh ngãng như tất cả các pháo thủ. Điều đó thật cảm động đến nỗi tất cả mọi người đều khóc- cả các pháo thủ lẫn chúng tôi. Và họ đã kể lại việc họ tóm được “cái lưỡi” như thế nào, đã chuẩn bị cho cuộc pháo kích ra sao. Họ đã kể về những tính toán pháo binh cần thiết cho trận đánh. Đó là chiến dịch mang tên “Bão lửa”. Tất cả mọi chuyện đã được thực hiện hết sức hoàn hảo. Không một quả đạn pháo nào của địch nổ ở nội đô trong suốt thời gian trình diễn bản giao hưởng.
– Đấy, thưa Karl Ilich, nhạc sư coi sự kiện này như một sự kiện âm nhạc, còn những người ngay từ hồi ấy đã hiểu rằng đây là một sự kiện có tầm quan trọng rất lớn.
– Lẽ tất nhiên, trong Thành ủy người ta đã biết rằng đây là một sự kiện có ý nghĩa chính trị to lớn. Nhưng chúng tôi, những công nhân đứng bên cỗ máy của mình, bên bàn thợ của mình, ngày nào cũng làm công việc quen thuộc. Chúng tôi đến tập, uốn nắn những sai sót trong bản nhạc, đã chạy những bè riêng lẻ, đã suy nghĩ và tranh luận về những đặc điểm… Và điều này là lẽ tự nhiên. Bởi lẽ không thể không nghĩ đến công việc cụ thể trong giờ phút ấy. Nếu không thế thì mọi việc sẽ hỏng hết. Vào thời kỳ đó tất cả mọi cái đều có ý nghĩa: Liệu hôm nay có tắm rửa được không, loại bánh mì nào sẽ được cấp tem phiếu – loại bánh mì ngon hay loại kém chất lượng, liệu có xoay được một ít thuốc lá sợi không, hôm nay cuộc pháo kích sẽ dữ dội hay không đáng kể. Nhưng dứt khoát sẽ có pháo kích – điều này chả ai nghi ngờ. Vào ngày bản giao hưởng được trình diễn theo dự kiến, cuộc pháo kích của địch đã kéo dài suốt ngày. Không thể nào chuyển các nhạc cụ đến được. Bởi vậy cuộc hòa nhạc này đành tạm hoãn. Trở lại với ngày hôm ấy, tôi nghĩ bụng: Sở dĩ chúng ta chịu đựng được cuộc phong tỏa bởi vì mỗi người đều làm tốt công việc của mình. Mà công việc thì ngập đầu, ngập cổ. Nhưng âm nhạc và công việc đã cứu chúng ta. Dàn nhạc đại giao hưởng của Ủy ban phát thanh trong suốt thời kỳ phong tỏa đã biểu diễn ở Leningrad. Tất cả các đoàn nghệ thuật khác, trừ nhà hát hài kịch, theo quyết định của chính phủ đã sơ tán đến miền Đông. Trong thời gian đó gần 240 buổi hòa nhạc đã được thực hiện. Ngoài ra, bằng lực lượng của các nghệ nhân ở lại trong thành phố, nhà hát ca vũ kịch đã được khai trương, và ở đó, với phần nhạc đệm của dàn nhạc do Eliasberg chỉ huy, hơn 50 vở diễn đã được trình bày dưới ánh đèn sân khấu.
– Thưa Karl Ilich, những người thuộc thế hệ hậu chiến khó hình dung được rằng nhạc sư đã vượt qua những thử thách đó như thế nào?
– Như ông thấy đấy, ngoài tất cả những điều kể trên còn có cả lòng tự hào nữa. Chúng tôi tự hào rằng mình đã làm việc trong những điều kiện như vậy, rằng cái tên Leningrad vang vọng khắp thế giới. Quả thật chúng tôi đã làm việc quên mình, một cách tận tụy, ăn thì bữa no bữa đói. Với khối lượng công việc như vậy thật rất thương các nhạc công thổi kèn. Tôi đứng sau giá nhạc không ít hơn sáu, bảy tiếng đồng hồ mỗi ngày. Thoạt tiên là buổi tập kéo dài ba giờ liền, còn sau đó là vở diễn “Con đầm pich” hoặc “Evgeni Onegin” gồm bảy cảnh – ông có hình dung điều đó là thế nào không? Chúng tôi đã từng cãi cọ, than phiền, kêu ca nhưng rất tự hào về những gì mà mình đã làm được. Thật ra hồi đó tôi mới 34 -35 tuổi. Bây giờ thì không thể làm nổi. Vả lại, làm sao mà biết được…
– Trong thời kỳ phong tỏa, nhạc sư sống ở đâu?
– Trong tòa nhà của Hội khuyến nhạc, mãi tận trên tầng sáu nơi có trần bằng kính. Các bạn đồng nghiệp nói đùa rằng Eliasberg đã tìm cho mình được một hỏa điểm kiên cố lợp kính. Nhưng tôi rất thích, ở đó có đèn điện, có lò sưởi bằng hơi nước.
– Thế nếu có sóng do hơi nổ thì sao?
– Lúc ấy sẽ còn trơ lại một khoảng đất trống ẩm ướt. Chỉ có tuần lễ đầu tiên là chúng tôi chui xuống hầm trú ẩn, còn sau đó thì hiểu rằng chuyện đó là vô nghĩa, và không chú ý nhiều đến bom đạn nữa. Có lần tôi đi xe đạp qua khách sạn Châu Âu, trong lúc đang có pháo kích. Một anh bộ đội chạy lại quát: “Nếu mày không nằm ngay xuống thì tao cho một quả đấm vào mõm bây giờ”. Tôi dựng chiếc xe đạp vào tường và nằm xuống. Không thể giận được. Tất nhiên là anh ta ăn nói thô bạo đấy, nhưng rất chân tình. Còn trong Ủy ban phát thanh tôi là phó ban phụ trách hầm trú ẩn. Sáng nào cũng phải kiểm tra hệ thống thông gió, chiếu sáng, xem nhà vệ sinh có hoạt động không, xem có nôi cho trẻ em và sách báo cho người lớn không để có cái mà đọc chứ không phải ngồi run như cầy sấy. Xem có nước sạch không. Và tất cả những khoản đó cần phải để mắt đến.
– Nhạc sư còn giữ được những vật kỷ niệm của thời đó không?
– Tôi đã phân phát hết cả rồi. Bức điện của Shotakovich gửi nhân dịp trình diễn bản giao hưởng, tôi đã trao cho Viện bảo tàng lịch sử Leningrad. Chiếc áo đuôi tôm mà tôi mặc trong buổi biểu diễn thì tặng phòng lưu niệm “Các nàng thơ không im lặng” của trường trung học 235. Tôi cũng gửi ở nơi đó bản tổng phổ giao hưởng số 7 và tấm huân chương Sao đỏ mà phương diện quân Leningrad đã trao tặng tôi vì những việc làm trong thời kỳ phong tỏa. Thật lòng mà nói, tôi đã nhận được phần thưởng đó bằng xương máu của mình.
– Thưa nhạc sư, nhạc sư có những chứng cứ cho thấy rằng âm nhạc của nhạc sư đã tác động tới quân Đức như thế nào không?
– Tôi có một cuộc gặp gỡ rất đáng nhớ. Tại khách sạn Astoria. Ban chấp hành Xôviết Leningrad đã tổ chức một cuộc chiêu đãi nhân “đoàn tàu hữu nghị” từ hai nước Đức vừa đến. Tôi cũng được mời tham dự. Người điều hành bữa tiệc nói: “Có mấy vị khách muốn làm quen với ông” và dẫn tôi đến một cái bàn nhỏ có hai phụ nữ và hai người đàn ông trung niên bận quân phục. Trong lúc giới thiệu tôi, họ đứng dậy và dập gót giày. Một trong số đó rút trong túi ra một cuốn sổ và bắt đầu đọc những chương trình biểu diễn của tôi. “Chúng tôi từng ngồi trên đồi Quạ ở Dudergf”. Và tôi lập tức hiểu rằng chính họ hồi đó đã pháo kích thành phố từ đồi Quạ. Người Đức này thú nhận rằng âm nhạc là nguồn ánh sáng duy nhất giữa chốn địa ngục kinh hoàng mà họ đã chịu đựng ở đấy. “Trong những điều kiện như vậy các ngài làm thế nào mà có thể tổ chức được dàn nhạc?”- Ông ta hỏi. Và câu chuyện đó đã xảy ra chính ở cái khách sạn Astoria, nơi trong thời gian phong tỏa đã từng là một trong những bệnh xá điều trị chứng loạn dinh dưỡng và là nơi hai vợ chồng chúng tôi đã từng sống ngắc ngoải…
(Theo “Ekho planety”)
Nguồn: Báo Văn nghệ số 45/2014
https://nghiemluongthanh.wordpress.com/




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXTrường đời 2

Trường đời 2 XVII- Buổi chiều hôm ấy, mãi quá ba giờ, Khánh Ngọc mới ra chỗ làm. Nàng đi thẳng ngay đến mỏm núi Sám Coọc mà nàng biết chắc...