Những cánh mai trong tách trà
Hà có cái thú thích tìm vào những tiệm bán đồ cũ. Đi tới một
thành phố lạ, bao giờ Hà cũng liếc nhìn bên đường xem có tiệm nào kẻ cái bảng
Antiques Store là nàng phải tìm thời giờ ghé vào.
Nàng thích chạm tay vào những cái chén trà, cái nón vải, cái
áo len, cái dây đeo cổ, cái khung hình hay bất cứ một cái gì trong tiệm bán đồ
cũ. Đối với Hà mỗi vật thể đó nó cất giấu cả một linh hồn thiêng liêng và bí mật.
Đôi khi cái mùi quần áo đã chạm vào da thịt lâu năm treo
trong tiệm, làm nàng bị dị ứng, nhưng Hà cố bỏ nó sang một bên để chỉ nghĩ và
tưởng tượng đến những hình hài đã khoác nó lên người. Cũng may, phần đông những
tiệm đồ cổ của tư nhân ở những thành phố nhỏ nơi Hà đi du lịch qua họ ít bán quần
áo, chỉ những tiệm có tính cách gây quỹ cho một charity nào đó mới có thôi.
Hôm nay đã cận tết lắm rồi, chỉ còn năm hôm nữa tết đến mà
hai vợ chồng Hà còn lang thang ngao du ở Coeur d’alene, Idaho cách nhà bảy, tám
tiếng lái xe. Hai vợ chồng chắc là phải thay nhau lái một mạch về nhà, dừng lại
ăn đường, đổ xăng, thư giãn tay chân thôi, chứ không ngủ qua đêm nữa. Còn về
nhà lo dọn dẹp bàn thờ, nhà cửa cho năm mới đang đến.
Hà nói với chồng:
Em vừa nhìn thấy cái bảng hiệu bán đồ cũ ở góc đường gần tiệm
ăn, anh cho em ghé vào xem một chút rồi hãy ra xa lộ.
Đoàn biết ý vợ, cười dễ dãi:
Tuy nói thế nhưng anh dư biết Hà chỉ thích đặt tay lên mấy
cái vật cũ kỹ nhỏ bé, cầm lên để xuống, đứng tần ngần một lúc, rồi thôi. Nàng
hay mua tách trà nhất, nàng đã có tới gần ba mươi cái tách khác nhau mua ở các
tiệm đồ cũ rồi. Cái tủ chén ở nhà đã hết chỗ cho nàng chất thêm. Hà đã hứa nhiều
lần sẽ không mua nữa, nhưng vào xem thì nhất định nàng phải vào mới hài lòng.
Hà dặn chồng ngồi ngoài xe đọc sách, “em vào mười lăm phút,
ra ngay.” Đoàn vui vẻ, ngả cái ghế thấp ra sau một chút mang mấy cuốn tạp chí
ra đọc, đợi vợ.
Cái tiệm Antique này không lớn lắm, nhưng chất khá nhiều
hàng. Hà cầm lên bỏ xuống ngắm nghía đủ mọi thứ. Mỗi thứ đẩy trí tưởng tượng
nàng đi thật xa hiện tại. Sợi dây đeo cổ này chắc phải thuộc về một phụ nữ giầu
có nào từ vài chục năm về trước. Những hạt đá đỏ thẫm lấp lánh được gắn vào sợi
dây vàng rất mỹ thuật, tuy cái móc đã mất mà giá khá cao trong một của tiệm như
thế này. Hà tưởng tượng ra nó được đeo vào một chiếc cổ mịn màng nõn nà như cổ
con thiên nga. Người phụ nữ đó bây giờ ở đâu, nàng còn sống, da mồi, tóc bạc, cổ
nhăn nheo và đang ở trong một khu nhà già hay nàng đã nằm ngủ vùi trong lòng đất?
Cái khăn quàng cổ bằng nhung lam đã bạc màu, nhưng đường ren gắn ở hai đầu khăn
thì không hề mất một sợi chỉ nào. Ai choàng chiếc khăn này trong một buổi dạ vũ
nhỉ; đôi giầy bạc kia nữa, chắc nó đi vào một bộ với nhau nên người ta mới bày
cạnh nhau. Hà nhìn thấy ngay hình ảnh của người con gái mới lớn, má đỏ môi hồng,
đang ngã vào vòng tay người đàn ông nàng yêu trong một vòng luân vũ. Ô, còn những
khung hình này nữa, có cái hình đã tháo đi chỉ còn lại khung, cũ kỹ và trầy trụa,
có cái còn nguyên hình của một cặp vợ chồng mặc quần áo của thế kỷ có Nã Phá
Luân; rồi cái này, hình em bé gái độ lên 10, với chú thích chụp năm1911. Cả
trăm năm rồi cơ à? Sao cái hình lại lưu lạc tới đây. Con cháu không giữ à?
Hà lan man bước len lỏi giữa những kệ hàng, cầm lên, bỏ xuống,
thứ này thứ nọ, ngắm nghía và tưỏng tượng. Cuối cùng nàng cũng tới kệ bát đĩa.
Chẳng cái nào đủ bộ cả. Bát lớn, bát nhỏ, đĩa và chén, ly thủy tinh nữa, chủ tiệm
cứ xếp đầy lên kệ chẳng theo một thứ tự nào cả. Có những cái mới tinh, chẳng có
dấu vết gì là đồ cổ Nhưng có những cái trông lạ lắm.
Hà cầm lên một cái tách trà nhỏ, có cả đĩa bên dưới. Hà ngắm
nghía, lật trước, lật sau, ngẫm nghĩ:“Tách trà này chắc của Trung Quốc hay Việt
Nam”, vì Hà tự nhiên thấy nó thân thuộc quá, cả hai đều có men xanh thật nhạt
và vẽ một cành mai vàng rất mỹ thuật. Trên tách trà, phía ngoài vẽ nguyên một
cành mai thếp vàng, phía trong lòng tách vẽ hai bông mai rơi trong tách, không
có lá, nét vẽ tinh xảo trông như hai bông mai đang nổi trên mặt nước. Ở chiếc
đĩa nhỏ kèm theo một bông mai lớn trên một cạnh đĩa, đầy đủ năm cánh với những
đường gân của cánh hoa. Hà tự nhiên thấy rùng mình vì cái tinh xảo của những
cánh mai. Bỗng một giọng đàn ông cất lên sau lưng làm nàng giật mình, tuy giọng
nói đó nhẹ nhàng.
Bà nên mua cái tách này, nó đợi bà đến mang nó về đấy.
Hà quay hẳn người lại. Trước mặt nàng là một người đàn ông Á
Châu, mặc dù cách phát âm tiếng Anh của ông khá giống như người bản xứ.
Ông trạc ngoài sáu mươi, tóc bạc, hơi gầy, trông khá tươm tất,
nhưng buồn buồn ở hai con mắt. Hà chưa kịp nói gì thì ông ta đã nói tiếp:
Cái tách này ở trong một bộ sáu cái, hai cái lớn, bốn cái nhỏ,
có ấm nữa. Nhưng do chiến tranh, cái thì mất, cái thì vỡ, cái ấm thì phải bán
lúc cần tiền mua thuốc cho con. Khi hết chiến tranh, hết tù đầy, trở về, chỉ
sót lại được có một cái nhỏ, may còn cả đĩa. Chủ nhân quý nó lắm, nhưng khi ông
ta mất đi, con cái mang vật dụng của ông đem cho, nó cũng bị vứt chung trong
đó. May mà không bị sứt mẻ gì.
Hà lơ đãng không để ý lắm đến lời ông kể lể, nàng còn mải chú
ý nhìn giá tiền ghi, thấy hai mươi đồng. Nàng nghĩ thầm, mọi khi mình mua những
cái tách lẻ ở tiệm đồ cũ như thế này, thì giá cao lắm cũng chỉ khoảng mười lăm
đồng thôi.
Như đoán được ý nghĩ của Hà, người đàn ông nói:
Tôi biết là giá cao, nhưng tôi cứ để như thế cố ý không muốn
ai mua, để chờ bà. Tôi sẽ hạ xuống mười lăm đồng thôi. Bà cứ lấy đi.
Hà vẫn cầm cái tách cái đĩa bằng cả hai tay. Nàng thấy nó đẹp
quá, nếu ông chủ tiệm muốn bán hai mươi đồng thì nàng vẫn mua. Nàng nói:
Cám ơn ông, chắc chắn là tôi mua rồi. Tôi thích sưu tầm tách
trà lạ và đẹp. Cái tách trà này tôi nghĩ là đẹp nhất trong số tách tôi có ở
nhà.
Người đàn ông mỉm cười, nói xã giao mà như thật:
Tôi biết hôm nay bà sẽ ghé qua đây, tôi đợi suốt từ sáng đến
giờ để trao nó cho bà, vì bà biết nhìn ra cái giá trị của nó. Trao được nó cho
bà tôi rất yên tâm.
Người đàn ông nói xong, rút cái bút trên túi áo ra, sửa lại
giá tiền của cái chén, rồi lại nói:
Chắc ông nhà đang chờ bà ngoài xe. Chúc bà về nhà bình an. Bà
còn về lo sửa soạn đón năm mới. Năm nay bà có cái tách mai vàng cho chén trà đầu
năm, sẽ may mắn nguyên năm.
Vâng, cám ơn ông, chắc ông cũng ăn Tết phải không? Ông là người
Hoa hay người Việt.
Người đàn ông chỉ mỉm cười, không trả lời câu hỏi của Hà, đưa
tay chỉ nàng ra chỗ quầy tính tiền.
Hà có cảm tưởng ông chủ tiệm này như một người mà nàng đã biết
từ lâu lắm rồi. Nàng cố tìm trong trí nhớ xem ông ta có phải là bạn của cha mẹ
mình không? Chắc là không? Vì cha mẹ Hà đã mất trên hai mươi năm rồi và khi mất
cũng bằng trạc tuổi ông này bây giờ, thì làm sao mà họ là bạn với nhau được.
Còn nữa, ông này chắc gì là người Việt. Cách phát âm tiếng Anh của ông ấy cho
Hà biết ông ấy không phải đồng trang lứa với cha mẹ nàng.
Hà đặt chiếc tách trà lên quầy tính tiền, cô thâu ngân tóc
vàng nhìn giá tiền trên cái tách trà, hơi cau mày lại. Cô nói trống không:
Lạ nhỉ, cái tách trà này, ông chủ tôi đề giá là mười lăm đồng,
nhưng khi nào tôi ra thu dọn, lau bụi tôi cứ thấy bị sửa lại là hai mươi đồng.
Vì giá cao nên chẳng ai mua. Bây giờ bà mang ra đây nó lại trở về giá mười lăm
đồng.
Hà cười nói:
Số tôi may, hôm nay chính ông chủ thấy tôi cũng là người Á
Đông nên ông bớt cho tôi năm đồng, ông ấy lấy bút mới sửa tức thì đấy.
Cô thâu ngân tròn mắt:
Ở đây làm gì có người Á Đông nào. Chủ tiệm là người Mỹ, tôi
cũng là người Mỹ, hơn nữa ngày hôm nay chỉ có mình tôi ở đây, ông chủ bận không
ra được. Bà có đùa cho vui không đấy?
Hà nghe lạnh buốt sau lưng. Nàng quay đầu lại, cố nhìn về
phía kệ để bát đĩa, tuyệt nhiên không có bóng một ai, sát sau lưng kệ là bức tường
ngang, chẳng có cánh cửa nào. Thế người đàn ông đó ở đâu ra? Nàng im lặng hấp tấp
trả tiền rồi đi như chạy ra xe.
Suốt trên đường về nhà, Đoàn lái xe, ngưng lại, nghỉ giải
lao. Hà cứ im lặng, chỉ trả lời những khi Đoàn hỏi làm Đoàn phải ngạc nhiên tưởng
Hà bệnh.
Em sao vậy, em bệnh à?
Không, em không sao cả.
Hà nói dối. Nàng đang hoang mang không biết cái ông Á Đông
nói chuyện về cái tách trà hoa mai ở đâu ra. Tiệm chỉ có bốn bức tường, không
phải là một cái nhà ở, nơi đó không có thêm gian nào ngoài gian bán hàng. Mà
sao ông ấy lại sửa giá tới, sửa giá lui để chờ nàng tới mua. Sao ông biết nàng
sẽ tới.
Bỗng Hà thấy đau quặn ruột, nàng nghĩ ra rồi. Ông ấy là người
Việt Nam. Ông ấy đã đi qua chiến tranh, qua mất mát, qua tù đầy, qua Mỹ và qua
đời rồi.
Cái tách trà này trước đây là của gia đình ông. Ông muốn trao
cho một người biết trân quý nó. Hà ôm chặt cái gói giấy vào lòng, nước mắt ràn
rụa.
Nàng đã nói chuyện với một hồn ma, một cái hồn tha hương thất
lạc tìm về quá khứ trong những ngày cuối năm.àng đã nói chuyện với một hồn ma,
một cái hồn tha hương thất lạc tìm về quá khứ trong những ngày cuối năm.
Đêm ba mươi, Hà thắp nhang, pha trà để lên bàn thờ cha mẹ
xong, nàng mang cái tách hoa mai vàng ra, cầm lên ngắm nghía. Hà thấy lòng nàng
nao nao xúc động, nghĩ đến người đàn ông Á Đông trong tiệm đồ cũ. Ông có thật
hay không? Hay nàng chỉ tưởng tượng ra vào những ngày cuối năm âm lịch, những
ngày mà hồn nàng chao đảo nhất.
Nàng xót xa lan man nghĩ tới những người đàn ông Việt Nam đã
đi qua chiến tranh, qua tù đầy, qua một nước khác không phải quê hương mình để
sống nốt những ngày còn lại rồi qua đời ở quê người. Toàn là những vượt qua thống
khổ, ngậm ngùi.
Nàng rót trà vào cái tách hoa mai, cúi xuống, nói nho nhỏ:
Xin mời ông ngụm trà đầu năm trong cái tách mai vàng gia bảo
này.
Hà đợi cho tàn hết một tuần nhang, mở cửa ra trước hiên nhà,
cầm tách trà rót xuống mặt đất tân niên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét