Tuệ Sỹ đạo sư - Thơ và Phương trời mộng
Lời nói đầu
“Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng” là tên của một quyển sách, do thầy
Phạm Công Thiện đặt cho. Bây giờ Thầy đã lên tới đỉnh cao, bỏ lại sau lưng là
hố thẳm. Dưới lòng hố thẳm ấy còn vang vọng âm ba một thời Thầy đã
vung bút vẽ vời những tiếng kêu trầm thống, thiết tha của nhân thế,
hay những ngôn ngữ dị thường, chân thường vượt thoát thế
nhân. Có người hỏi, tôi đặt tên một quyển sách mà bao gồm tên một vị
Thầy giỏi Kinh, Luật, Luận - Tam tạng kinh điển - "Tuệ
Sỹ có tâm hồn thơ văn phủ lấp cả chân trời Đông Tây" (lời
của nhà thơ Bùi Giáng). Rồi hình ảnh nhà thơ ấy in sâu vào tâm
thức củacon người để từ đó bật lên tiếng thét: "Đơn
sơ mà kỳ vĩ, bi ai mà hùng tráng, im lặng mà sấm sét, tĩnh
tọa mà phiêu bồng, khốc quỉ kinh thần của Tuệ Sỹ, một thi sĩ dị
thường, một tâm hồn cô liêu cùng tuyệt. Hồn thơ khốc liệt u ẩn,
ngân dài trên giai điệu trầm tư tối thượng…" (lời của Tâm Nhiên).
Rồi mang tính giáo dục hướng thượng, toàn diện của bậc
"Đạo Sư". Vị Thầy sách tấn, hướng dẫn con
người trên con đường chân thiện mỹ. Là vị Thầy giảng dạy đàn con
đi bằng đôi chân của chính mình, phải biết tự trọng, không làm điếm
nhục tông môn. Đó là cung cách của vị "Đạo Sư" đang hiện hữu. Liên
quan đến"Thơ" của tên sách, là cả một hương vị nồng nàn trong
đời sống, là một tâm hồn vượt thoát phiêu bồng như
cuộc rong chơi cát bụi; tiếng gầm của biển cả, bọt trắng phủ ghềnh, núi
xanh trùng điệp, thác đổ muôn trùng, như gởi gấm một tâm sự đầy lại vơi, sống rồi
chết, mê rồi ngộ trên con đường phiêu lưu, hồ hải:
Từ núi nọ đến biển im muôn thuở
Đỉnh núi này và hạt muối đó chưa tan.
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn
chăng.
Thơ là thế đó. Là đỉnh núi, hạt muối, suối nguồn, thác
đổ, trùng dương... Cuối cùng là "Phương Trời Mộng." Phương
trời mộng là phương trời ước mơ, gởi gấm tâm sự. Hay mộng một phương trời.
Mộng về nơi xa xăm, xa tít chân mây. Nơi đó có thác ghềnh, núi khơi, sương
tuyết. Hay nơi phương trời mộng dệt thành giấc mộng thái
bình cho nhân sinh, cho nhân gian, cho loài người trên
mặt đất hoang vu, cô liêu... Một cái tên của quyển sách mà bao trùm hết
tất cả những ý nghĩa như vậy thật khó hiểu. Tôi trả lời, nếu
muốn hiểu thì hỏi thầy Phạm Công Thiện.
Cũng trong tình bạn hữu, người có tâm
hồn thơ văn khuyên tác giả nên tiếp tục cho xuất bản
quyển "Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng".
Bởi vì giá trị của thơ văn là làm giàu cho nền văn học nước
nhà, cho nhiều thế hệ mai sau tham khảo để biết
được tư tưởng, tâm hồn to lớn một thời của cha ông. Nghe vậy, để
tỏ lòng biết ơn lời khuyến khích, tác giả khởi sự viết bài
cũng như góp nhặt một số bài viết của thầy Tuệ Sỹ và các văn hữu để tập thành
"Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng" cống
hiến bạn đọc. Hòa tan một giọt nước biển trong đại dương để thấy
mình cũng có vị mặn mà cảm nhận được tinh thể của đất trời, núi cao, sông
rộng, hay vô cùng của không gian và vô hạn của thời
gian.
Chân thành cảm ơn quý bằng hữu tri
thức. Những người bạn cùng cái nhìn về Phương Trời Cao Rộng của nền văn
học nước nhà mà giúp đỡ mọi phương tiện, công sức, thời
gian để "Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng" được có mặt hôm nay.
5/12/2012
Nguyễn Siêu
Quảy Gánh Ra Đi
Hướng về rặng núi xa, đồi cây xanh, Thầy quảy trên vai
hai túi đồ, có lẽ một túi đựng đồ dùng cá nhân và túi kia là y hậu,
đôi cuốn sách đọc... đếm từng bước trên con đường mòn của miền thôn
dã. Đầu đội chiếc nón lá. Thân mặc áo khoác. Chân mang đôi dép mòn, trông như
một bộ hành trên con đường thiên lý không quán trọ để nghỉ
chân. Thầy đi. Quảy gánh ra đi. Đi như một định mệnh. Một sứ mệnh. Một
sự vận hành của quê hương, dân tộc. Hay đi là một khốn cùng
của tâm thức bị vây hãm bởi bóng người. Bóng đêm của phố thị. Quảy
gánh ra đi để thấy từng viên đá cuội nằm bên lề đường, chịu nắng mưa năm tháng.
Để thấy hoa đồng cỏ nội chen chúc với đám lau xanh. Để thấy mây trời bay trên
đầu và bụi đường xoắn đôi chân. Ra đi mới thấy núi cao, hùng vĩ. Mới thấy rừng
xanh, cây xanh. Lá xanh. Thầy quảy gánh ra đi như một vượt thoát của
dòng tư duy lâu đời bị kìm hãm. Ra đi như một sự nổ tung
của ý thức trước bóng đêm tăm tối. Ra đi để hòa quyện với hương rừng,
sương đêm, nắng sớm. Sự vùng dậy của ý thức như tiếng hú vọng về từ
sườn non, vách đá, như tiếng gọi của núi rừng, một phương trời
mộng còn cách xa.
Dọc đường gió bụi
Sáng nay, sương mù phủ kín miền cao nguyên. Những ngọn
lá xanh cúi đầu thầm lặng. Trời không gió. Chẳng nắng vàng. Sương đêm còn dày
đặc. Ngồi ngủ trước cổng chùa, Thầy vỗ đầu sư tử xin được tá
túc qua đêm. Quấn mình trong chiếc y, co ro dưới bụng sư tử đá,
như một gã ăn mày lang bạc, đầu đường, xó chợ đâu không phải là nhà
- vô trụ xứ Niết bàn, hay tùy sở trụ xứ thường an lạc của
một tâm hồn an nhiên, tự tại. Tùy duyên hóa
độ, Bồ tát hóa thân dưới mọi hình tướng. Ngài Hàn
San, Thập Đắc lưỡng đầu đà thường ăn cơm thừa, canh cặn
của Tăng chúng, tối lại kéo nhau xuống nhà bếp ngủ, sáng thức
dậy lang thang ngoài đường. Áo quần rách bương, lem luốc. Người đời nhìn
đâu có ai biết là hai vị Bồ tát hóa thân. Cõi đời ác năm trược này
được gọi là Ngũ thú tạp cư địa hay còn gọi là phàm
thánh đồng cư độ. Người phàm, bậc thánh sống chung với nhau. Đâu
ai phân biệt được Thánh phàm khi chưa chứng đắc lục
thông - Thiên nhãn thông, để nhìn thấy và biết, đây là bậc quân vương
nhưng còn quá nhiều tham, sân, dục vọng và đây là người cùng
tử xin ăn, nhưng đã giảm thiểu quá nhiều đa tâm, tạp tưởng.
Kẻ cùng tử ấy trở về ngôi nhà xưa để tiếp
nhận gia tài. Đâu là phàm. Đâu là Thánh. Nhận diện tướng mạo, chân
dung? Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật. Văn học Thiền đã
dạy như thế. Vô niệm. Vô ngôn. Vô sở trụ. Vô phân biệt.
Hành trạng của Thầy hóa thân vào đời là
vậy đó. Như Thầy đã nói trong lời "Gate Gate": "Tôi đi
lang thang theo đám mây trôi, phương trời vô định. Bờ sông, hốc
núi, đây cũng là chỗ vùi thây. Một chút duyên còn ràng buộc thì có cơ
hội ngộ, đời này hoặc đời sau. Thị Ngạn Am vô trụ xứ, tàn thu,
Tân Mão, 2555. 10/21/2011. Tuệ Sỹ."
"Tôi đi" mà không phải anh đi, người
ta đi hay ai đó đi. Lời nói này đã khẳng định chủ từ "Tôi".
Tôi là biệt lập với anh, với em, với tất cả hình thù, dáng dấp mọi sự
vật. Hữu tình. Vô tình. Động vật. Thực vật. Khoáng vật. Nhưng
nếu bức "Tôi" ra, biệt lập với tất cả thì "Tôi"
ấy cũng chẳng thành cái gì hết. Vì tương duyên, tương sinh. Do cái này có, nên
cái kia có. Do cái này sanh, nên cái kia sanh. Do cái này diệt, nên cái kia
diệt. Một chuỗi duyên sinh trùng trùng vô tận. Vậy "Tôi"
của Thầy là "Tôi" trong vô lượng cái "Tôi".
"Tôi" trong giáo pháp duyên khởi. "Tôi đi"
có nghĩa là, "Tôi" duyên khởi đi. Duyên
sinh đi. "Tôi" là triết lý sống của vũ trụ vạn
hữu. "Tôi" là sự tự tồn của sự sự vật vật - nhân
sinh và vũ trụ.
"Tôi" là tất cả, thì Thầy là tất cả.
Tất cả là "Thầy". Sự liên hệ duyên sinh mật
thiết nên vận mạng của quê hương, sử mệnh của quê hương, sự hao
mòn của tuổi trẻ, sự đọa đày của dân tộc, chính là của
chung tất cả, trong đó có Thầy. Nên "Tôi đi chấn chỉnh sơn
hà. Hồng rơi vánh đá mù sa thị thành" là vậy. (Tỉnh Thất. 2000-2001).
Một khi đã khẳng định "Tôi đi" có nghĩa là những người khác
không đi. Những người khác ở lại. Ở lại với "Tôi" của họ. Biết
vậy, chúng ta thử coi cái "Tôi đi" của Thầy như thế
nào. "Lang thang", "đi lang thang" có nghĩa
là không điểm tới. Không điểm khởi đầu. Không
điểm chung cục. Đi như gió thổi bụi bay. Đi như gió cuốn hoa bay. Đi như
gió đẩy mây bay. Đi tự nhiên. Đi mà tâm không cầu. Tâm
không mong. Tâm không vướng bận. Tâm không ràng
buộc bởi bất cứ cái gì. Đi bằng an nhiên tự tại. Hình
dung hai chữ "lang thang" như kẻ không nhà. Vô
trụ xứ. "Lang thang theo đám mây trôi" có nghĩa
là "đám mây trôi" về đâu thì Thầy lang thang "theo đám
mây trôi" đó. Mây trôi về phương Nam thì Thầy theo về phương Nam.
Phương Tây. Phương Đông... lòng nhẹ như mây, bềnh bồng giữa hư
không. Nói đến đám mây là nói đến sự không ràng buộc.
Sự tùy thuận. Sự dễ hợp mà cũng mau tan, biến tháinhiều về hình
tướng. Tùy duyên mà thành. Cũng tùy duyên mà tan. Hợp tan là lẽ
thường tình.
Qua ý thứ hai của sự ra đi là "phương
trời vô định". Không nhất định một phương trời
nào. Tùy duyên thì đến mà cũng tùy duyên để đi. Thật
là ngoạn mục cho một tâm tư phiêu bồng, nhẹ như mây và vô
định phương trời. Chúng ta đọc lại Ngục Trung Mị Ngữ sẽ thấy lại
những tư tưởng này. Bài Trách lung:
"Trách lung do tự tại
Tản bộ nhược nhàn du
Tiếu thoại độc cảnh hưởng
Không tiêu vĩnh nhật sầu."
Dịch: Lồng chật:
"Lồng chật vẫn tự tại
Qua lại như nhàn du
Nói cười chơi với bóng
Tiêu sái tù thiên thu"
Khi xưa còn ở tù, mà vẫn tự tại, nhàn du, nói
cười chơi với bóng. Nếu không có một chất liệu sống an
nhiên, tự tại, vượt thoát tất cả mọi sự ràng buộc, kể cả cái chết,
thì khó có được tâm hồn siêu thoát như vậy. Siêu
thoát như "đám mây trôi", "phương trời vô
định". Một tâm hồn lớn của bậc xuất trần. Trong
bài Tự vấn:
"Vấn dư hà cố tọa lao lung
Dư chỉ khinh yên bán ngọc khung
Tâm cảnh tương trì kinh lữ mộng
Cố giao già tỏa diện hư ngung."
Dịch: Hỏi mình
"Hỏi mình sao phải lao tù?
Song thưa cửa ngục có tù được mây?
Kiên trì cuộc lữ vàng bay
Lời xưa còn đó phút giây không sờn."
Song cửa tù không thể nhốt được mây. Cánh cửa nhà tù
không thể nhốt được tâm tư của Thầy. Vì tâm tư của Thầy nhẹ nhàng như
mây. Vô trụ như mây, bềnh bồng như mây. Thơ mộng như mây. Cửa
tù làm sao nhốt được tâm tư ấy. Mặc dù thân ở trong tù nhưng tâm thì ngao
du sơn thủy, nay thì đỉnh núi nọ, mai thì gềnh biển kia. Thân bị nhốt
trong tù mà tâm thì an nhàn, tịnh lạc như ở các cõi Thiền. Trong Ngục
Trung Mị Ngữ, bài thơ Biệt Cấm Phòng:
"Ngã cư không xứ nhất trùng thiên
Ngã giới hư vô chân cá thiền
Vô vật vô nhơn vô thậm sự
Tọa quan thiên nữ tán hoa miên."
Dịch: Tù xà lim
"Ta ở tầng trời Không vô Biên
Nơi ấy tịnh nhiên Thiền thật Thiền
Không vật không người không đa sự
Nhìn xem hoa vũ bởi tiên thiên."
Tất cả những ý trên là chân thân hằng
hữu. Tâm thức tuyệt cùng của lý tánh nhất như. Vô trụ. Bất
thủ như "đám mây trôi". Như "phương trời vô
định". Một tâm hồn lớn. Tâm hồn của Bậc Đại
Sĩ.
Trở về sau 3 tuần khất thực
Đọc tiếp "Gate Gate" để thấy
những hình ảnh, những ảnh tượng, những sắc thái. Hình thù đơn điệu,
cô liêu trên mặt đất. Hình ảnh ấy như là: "Bờ sông, hốc núi,
đâu cũng là chỗ vùi thây." Vùi thây có nghĩa là khỏa lấp, chôn cất cái
thân đã chết. Cái thân không còn cử động. Không đi. Không đứng. Không nằm.
Không ngồi. Không biết thương yêu, thù tạc. Cái thân do tứ
đại hợp thành bất động. Cái thân do ngũ uẩn hợp
thành bất động. Thân chết. Thân vô tri. Vô giác. Nhưng tại sao Thầy
lại nói "Bờ sông, hốc núi, đâu cũng là chỗ vùi thây?" Làm
người đọc phải suy tư dữ lắm mới có thể hiểu đôi chút ý
nghĩa của lời nói này. Tại sao khi chết - Thầy chưa chết, không
ở một chỗ đàng hoàng, có vòng hoa phúng viếng, có liễn đối chia
buồn, có điếu văn phân ưu, có lời Kinh siêu độ, có quý Thầy môn
đồ pháp quyến cầu nguyện siêu sanh Thượng Phẩm, mà phải
"vùi thây" nơi "bờ sông, hốc núi"? Thì ra,
cái chết là bình đẳng. Dù chết ở đâu. Chết trên long sàng. Chết trong nệm
ấm, chăn êm. Chết trên giường bệnh. Chết dưới gốc cây. Tất cả cái chết đều
giống nhau. Một ông vua chết giống như một người dân nghèo chết. Một anh
hùng chết giống như một tên lính chết. "Thông minh tài
trí anh hùng, ngu si dại dột cũng chung một gò".
Có khác chi đâu. Nếu có khác chăng, thì khác ở người sống. Nghĩa thứ hai
là vô thường. Đang đi có thể chết. Đang ngồi có thể chết, và đang là có
thể chết. Từ sự chết ấy nơi bờ sông, nơi hốc núi bằng tâm vô phân
biệt của Bồ tát thì đâu cũng là nơi xã bỏ báo thân tịch
tịnh, Khi xưa đức Thế Tôn xã báo thân nơi rừng Sa la
Song thọ. Dưới những gốc cây Sa la trái mùa hoa nở.
Nhưng khi đức Thế Tôn thâu thần nhập diệt, Niết Bàn vô dư thì hoa rừng nở rộ để cúng dường. Khi đức Thế Tôn quyết định nhập Niết bàn nơi rừng Kusinara - Câu Thi Na, thì bao chư vị Thánh đệ tử, bao nhiêu vua quan, đại thí chủ, thưa thỉnh đức Thế Tôn nên nhập Niết bàn trong thành Vương Xá, Ma Kiệt Đà... là những thành phố lớn có đông dân, giàu có, sang trọng, để cho Lễ trà tỳ, phân chia xá lợi được đông đảo người, chiêm bái, cầu nguyện. Nhưng đức Thế Tôn đã từ chối. Ngài nhập Niết bàn giữa vùng núi rừng thanh vắng. Thầy đã học theo cái hạnh của đức Thế Tôn. "Bờ sông, hốc đá" là nơi thanh vắng. Nơi yên tĩnh, thích hợp cho sự xã bỏ báo thân, dưới cái nhìn của bậc Thượng sĩ. Một ý nghĩa khác mà chúng ta có thể hiểu, Thầy chẳng quan trọng gì cái chết. Nhẹ như lông hồng. Nhẹ như bông. Nhẹ như tuyết. Thân có sinh ra thì thân có chết. Chết là điều tất nhiên. Chết nơi phố thị kiêu sa. Lầu son gác tía. Nơi cung vàng điện ngọc, hay rừng vắng núi sâu. Tất cả đều chết. Với ý nghĩa chết này, Thầy đã bao lần nghĩ tới. Trong bài thơ Trầm Mặc:
Nhưng khi đức Thế Tôn thâu thần nhập diệt, Niết Bàn vô dư thì hoa rừng nở rộ để cúng dường. Khi đức Thế Tôn quyết định nhập Niết bàn nơi rừng Kusinara - Câu Thi Na, thì bao chư vị Thánh đệ tử, bao nhiêu vua quan, đại thí chủ, thưa thỉnh đức Thế Tôn nên nhập Niết bàn trong thành Vương Xá, Ma Kiệt Đà... là những thành phố lớn có đông dân, giàu có, sang trọng, để cho Lễ trà tỳ, phân chia xá lợi được đông đảo người, chiêm bái, cầu nguyện. Nhưng đức Thế Tôn đã từ chối. Ngài nhập Niết bàn giữa vùng núi rừng thanh vắng. Thầy đã học theo cái hạnh của đức Thế Tôn. "Bờ sông, hốc đá" là nơi thanh vắng. Nơi yên tĩnh, thích hợp cho sự xã bỏ báo thân, dưới cái nhìn của bậc Thượng sĩ. Một ý nghĩa khác mà chúng ta có thể hiểu, Thầy chẳng quan trọng gì cái chết. Nhẹ như lông hồng. Nhẹ như bông. Nhẹ như tuyết. Thân có sinh ra thì thân có chết. Chết là điều tất nhiên. Chết nơi phố thị kiêu sa. Lầu son gác tía. Nơi cung vàng điện ngọc, hay rừng vắng núi sâu. Tất cả đều chết. Với ý nghĩa chết này, Thầy đã bao lần nghĩ tới. Trong bài thơ Trầm Mặc:
"Anh ôm chồng sách cũ
Trầm mặc những đêm dài
Xót xa đời lữ khách
Mệnh yểu thế mà hay"
(Giấc Mơ Trường Sơn)
Trong Giấc Mơ Trường Sơn, Thầy muốn "mệnh yểu
thế mà hay" nhưng mệnh vẫn không yểu. Cho đến thời
gian ở tù, Ngục Trung Mỵ Ngữ, Thầy lại muốn "mệnh yểu"
nữa, qua bài thơ Tác Thi Sự:
"Tự tâm tự cảnh tự thành chương
Tự đối bi hoan diệc tự thường
Tha nhật Nhan Hồi tọa tán ngẫu
Tàm ty cát đoạn tán thương thương."
Dịch: Làm thơ
"Cô độc canh tâm thơ tự xuất
Tự ngắm buồn vui tự thưởng thức
Nhan Hồi gặp gỡ trong lòng đất
Cắt nhỏ tơ tầm tung không trung"
Mệnh yểu thế mà hay để gặp Nhan Hồi trong
lòng đất. Vì Nhan Hồi - chết yểu. Còn Thầy thì đâu có "mệnh
yểu" mà "thọ mệnh" để vuốt lông mi làm thơ. Trong
bài: Mộng khứ mộng lai:
"Bán niên cấm cố mộng thành ty
Đạp biến giang hồ phóng nhiệm quy
Mộng khứ mộng lai thân ngoại vật
Mộng tàn ngốc tọa bát trường mi."
Dịch: Mộng đến mộng đi
"Nửa năm cấm cố thanh tơ
Đi khắp non sông giảng huyền cơ
Mộng đến mộng đi thân thành mộng
Vuốt mi làm thơ để lại cho đời thưởng
thức những đêm đen lộng gió. Những buổi chiều tà hoàng hôn buông
phủ. Những bọt sóng nhấp nhô gào thét giữa đại dương. Những đỉnh núi cao.
Những gềnh biển sâu. Những tâm tưởng là gỗ mục, nhưng hàm tàng một
"nguồn thơ thâm viễn u u..." Do vậy, thi sĩ Bùi
Giáng đã đề nghị sau khi đọc bài Khung trời cũ: "Tôi hoảng vía đề
nghị: Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều
cho, nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên
tài quá lớn." Vậy, sự sống, sự chết nơi đây được coi như là
huyễn, mộng, bào, ảnh của pháp hữu vi, thì sá gì "bờ sông, hốc núi"
đâu chẳng là nơi Bồ tát xã báo thân. Như Tôn giả A
Nan bay lên hư không, ở giữa sông Hằng dùng lửa Tam
muội thiêu thân, tro rơi xuống sông Hằng trôi ra đại
dương tan biến hòa nhập vào bản thể thiên nhiên, vũ
trụ và cuối cùng của lời "Gate Gate" là câu kết
rất có hậu. Rất có tình. Có nghĩa. Có lòng thương tưởng của hạnh
nguyện độ sinh. Của tâm Bồ tát cứu khổ độ mê mà không quay
lưng bỏ lại mặc ai sống ai chết. "Chút tình mang xuống tuyền
đài chưa tan". Tan sao được khi mà hạnh nguyện độ
sinh chưa tròn "chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ đề".
Do vậy mà: "Một chút duyên còn ràng buộc thì có cơ hội
ngộ, đời này hoặc đời sau". "Một chút duyên" ấy
nhưng nó mãi miên man đến vô cùng, vô tận. "Cái
phút ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm chưa dễ đã ai quên".
Hay "Cái tình là cái chi chi, dẫu chi chi cũng chi chi với tình".
Ấy là chuyện thế nhân nói nghe vui chơi. Còn cái "duyên"
của Bồ tát thương chúng sanh còn nặng nhiều hơn nữa.
Còn lâu dài "ràng buộc" nhiều hơn nữa, thì đâu thể
gọi là "có chờ hội ngộ" mà là hạnh nguyện độ sinh.
Là bổn phận. Là trách nhiệm. "Đời ác năm trược, con xin nguyện vào
trước, để độ chúng sinh. Ngày nào còn có một chúng sinh chưa
được hóa độ, thì con nguyện không chứng nhập quả vị Nê-hoàn".
Lời của Ngài A Nan thưa thỉnh nơi đức Thế Tôn chứng minh.
"Một chút duyên" mà tự tánh muôn trùng. Ràng
buộc "chút duyên" ấy như mắc lưới đế châu, phạm
võng. Chút duyên "sinh vô lượng duyên". "Có
cơ hội ngộ" hay vô lượng lần hội ngộ, cho đến cùng
tận biên tế thời gian và vô cùng của không gian.
Do vậy, "có cơ hội ngộ, đời này hoặc đời sau" chỉ
là ngôn từ để nói. Để phô diễn. Để đùa giỡn của cái hữu hạn với
cái vô cùng mà thôi. Phương tiện để nói nhưng cứu cánh không
thể nghĩ bàn. Không thể nghĩ bàn ở chỗ, Thầy nói:
"Lặng lẽ nằm im dưới đáy mồ
Không trăng không sao mộng vẫn vơ
Tại sao người chết, tình không chết?
Thân xác "nằm im dưới đáy mồ", có
nghĩa là con người đã chết. "Tại sao người chết" còn
"tình không chết" vì tình ấy là Đại bi tâm. Tình ấy
là Từ bi tâm, Bồ đề tâm. Giải thoát tâm... làm sao
chết được. Nếu "tình" cũng chết theo "người"
thì "tình" ấy là "tình" của thế gian.
Của nhơn ngã bỉ thử. "Tình" của sự so đo tính toán. "Tình" sai
biệt trong dòng đời sinh diệt. "Tình" hơn thua.
"Tình" hận thù. "Tình" cho đi và
muốn lấy lại.
Đấy là đôi dòng nói vẩn vơ của hình
tướng ngôn ngữ. Còn cái gì muốn nói thì không thể nói. Dù muốn nói về
"đám mây trôi", "phương trời vô định",
"đời này", "đời sau", hay "một chút
duyên có cơ hội ngộ". Tất cả là thế ấy. Từ từ, chậm rãi của sự suy tư!
Giờ này, người viết thắp ba cây hương cắm vào lư
hương để trước mặt. Ngồi ngắm làn hương quyện tỏa, lan dần, lan dần
rồi tan vào hư không. Ba cây hương đã cháy hết hơn nửa, mà cứ đọc tới đọc
lui lời của người tường thuật về chuyến đi của Thầy. Đọc hoài mà nghĩ
không ra. Càng đọc càng bí lối. Vỏn vẹn chỉ có bảy, tám hàng chữ
viết mà sao thấy nó mênh môngvô tận. Mênh mông ở chỗ
người hiện thân vào cát bụi để gần gũi với cát bụi. Và vô
tận ở chỗ là một thân mà liên hệ đến vô lượng thân.
Sự mênh mông, vô tận của người tường thuật: "Em nói
nó bình thường đến mức mình không tưởng tượng nổi là ý
nghĩa như vầy: đúng nghĩa "giang hồ"! Chị tưởng tượng được
không, em gặp lại một ông già râu xồm xoàm, mặc áo mưa, đầu đội nón lá,
vai gánh cây gậy tre (ông lượm được dọc đường) một đầu là cái giỏ nilon để
cái võng và mấy thứ linh tinh, đầu kia cái đảy thầy tu đựng y và sách!
Nghe ông kể chuyến đi mà rùng mình không hiểu sao ông chịu
đựng nổi, cứ như một quyển tiểu thuyết. Ông đi bộ trung bình mỗi ngày 30
km, qua các đoạn đường đèo, đường rừng, tối ngủ đình, miếu cô hồn, có
hôm nằm ngủ trên sạp bán bún riêu khi người ta đã bán xong và dọn
hàng về. Có đêm ngủ trong chòi kiểm lâm trên rừng, có đêm ngủ bến xe
bị bảo vệ ra đuổi, lại xách gói đi tiếp.v.v... Nhưng mừng là ông rất
khỏe, da rám nắng nhưng hồng hào, nét mặt tươi rất thanh
thản thoải mái, và đặc biệt giọng nói rất mạnh, to, chứng
tỏ một nội lực được tích lũy lớn."
Lò hương đã lụn. Khói hương đã tan. Tàn hương đã nguội
mà bao hình ảnh cứ lũ lượt kéo về trong tâm tư. Một ông già
râu tóc dài. Đầu đội chiếc nón lá rộng vành. Vai quảy gậy trúc. Thân
người mảnh khảnh như thân cây sậy - cây sậy có tư tưởng, lang
thang trên khắp nẻo đường. Khi thì ngồi nơi góc chợ, để xem người đi qua, lúc
thì ngủ nơi miếu cô hồn bên vách núi. Có phải là hóa
thân của Bố Đại Hòa Thượng, của Bồ tát Quán Thế Âm, của Đại
Tạng Vương Bồ Tát chống tích trượng vào ba đường
ác mà thể hiện lòng từ, thương người, cứu vật, chia sẻ nỗi khổ
đau trong đời. Rồi lắm lúc ngồi tựa dưới gốc cây, bên bờ suối mà ngắm
mây trôi, trong rừng già mà nhìn lá rụng, bên dòng sông thấy nước lững lờ.
Bên đống rác thấy trẻ mưu sinh và còn nhiều hình ảnh ẩn tàng
trong tâm thức của ông già râu tóc xòm xoàm ấy. Một trong
những hình ảnh lưu lộ và luôn tuôn chảy dạt dào trong lòng của Thầy
là ý thức để nhận chân tuổi trẻ, một năng lực sinh
tồn mãnh liệt của dòng sử mệnh Phật Việt và Tộc Việt. Thầy viết trong
"Suy Nghĩ Về Hướng Giáo Dục Cho Tuổi Trẻ" như sau:
"Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên
cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư
duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản
chất sự sống.
Cho nên, sự học Phật pháp không hề cản trở sự học thế gian pháp; kiến thức Phật học không xung đột với kiến thức thế tục. Duy chỉ có điều khác biệt, là học Phật khởi đi từ thực trạng đau khổ của nhân sinh để nhận thức đâu là hạnh phúc chân thật. Bi và trí là đôi cánh chắc thật sẽ nâng đỡ tuổi trẻ bay lượn vào suốt không gian vô tận của đời sống."
Cho nên, sự học Phật pháp không hề cản trở sự học thế gian pháp; kiến thức Phật học không xung đột với kiến thức thế tục. Duy chỉ có điều khác biệt, là học Phật khởi đi từ thực trạng đau khổ của nhân sinh để nhận thức đâu là hạnh phúc chân thật. Bi và trí là đôi cánh chắc thật sẽ nâng đỡ tuổi trẻ bay lượn vào suốt không gian vô tận của đời sống."
Quảy gánh ra đi không phải chỉ riêng cho mình, mà ra
đi chung cho một vận hội, dù sự ra đi ấy có vùi thây nơi "bờ sông",
"hốc núi". Sự quảy gánh ra đi là thể
hiện lòng yêu thương cho mình, cho người. Ra đi như bỏ lại bụi
đường sau lưng, hướng về núi xanh phía trước để sống với cái hồn
nhiên. Thiên nhiên. Man nhiên như tự thuở nào. Tự thuở tâm
người thánh thiện. Lòng người chân như. Bức thư gởi Gia
đình Lam, đã gói trọn tình yêu thương, tính bất
biến của Phật pháp được diễn đạt trong bức thư ấy.
"ACE thân mến, Xuân muộn, hoặc xuân trể. Tùy theo mùa
mai nở. Mà cũng còn tùy ước hẹn của tình riêng. Muộn hay trể, tôi vẫn
muốn gởi đến Anh Chị, trong và ngoài Gia đình Lam một cành mai.
Gốc mai già cỗi. Tương truyền cũng đã mấy ngàn năm. Giữa mùa đông giá
lạnh, trong đêm đen, ngoài kia sương rơi, hay mưa bão, không biết. Tôi giật
mình như gốc mai già. Vội vã lần ra trước sân. Gốc mai già vẫn còn đó. Bẻ một
cành hoa để dành bằng hữu. Lỡ khi sương gió không thương tình, thì
mình còn giữ được chút tình nào, để tặng những người mình yêu?
Thao thức chờ mặt trời mọc. Tôi mang cành
mai ra tặng Mặt trời. Bấy giờ, tôi còn mơ hay đã tỉnh, để khi nhìn lại,
cành mai trong tay thật, hay giả, mà chỉ có sắc, không hương? Thật hay giả, soi
bóng mặt trời, vẫn không nhận thức được. Nhưng dù thật hay giả,
tôi vẫn gởi đến Anh Chị. Vì, ngoài cái thật, và cái giả, còn có một tấm
lòng! Trước cổng vườn xuân Tân Tỵ - Tuệ Sỹ - Đình Tiền Tạc Dạ Nhất Chi
Mai."
Quảy gánh ra đi trên đôi vai gầy. Trên tấm thân bé
bỏng, gầy guộc, nhưng trong tâm thức tồn trữ một lượng sóng
người nhấp nhô, hùng vĩ, xô dạt, phá tung mọi thành trì ngăn chắn, như vách đá,
tường đồng, để hiện thân trên cánh đồng hoang lô nhô những dấu
chân người của thời tiền nhân. Quì xuống, gào thét cho bùng vỡ cuộc
say của nhân thế. Cho đêm trường tỉnh mộng đi hoang, mà vực dậy
những gì đã mất. Lấy lại những gì đã vượt ra khỏi tầm tay cho một quê
hương, dân tộc nhiều đọa đày.
Một lần quảy gánh ra đi, để rồi không đi nữa. Vì
đã có một quê hương thanh bình. Quê hương đó được tưới tẩm bằng
tình yêu thương chân thật. Bằng lý tưởng sống thanh cao.
Bằng phẩm chất Phật từ bi, hỷ xã.
9/1/2013
Nguyên Siêu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét