Cung cách dung dị, hiền từ tay lần
chuỗi hạt chậm rãi, tự tại trong nhà Thiền, bên tách trà sen bốc
hơi ấm, đó là hình ảnh thân thương, tôn kính toát ra từ vị
Sư Trụ Trì nơi các Tổ Ðình, Cổ Tự của nhiều thập niên,
nhiều thế kỷ qua. Hình ảnh ấy là biểu tượng của các
bậc Thạch Trụ Thiền Gia, Long Tượng Thạc Ðức, là
bài thuyết pháp vô ngôn, thân giáo thanh tịnh, giới đức tính
nghiêm. Ðó chính là nơi quy ngưỡng của hàng Phật
tử bằng lý tưởng tu tập và phụng sự làm lợi
ích, an lạc cho tha nhân.
Dưới mọi hành trạng, ứng xử thích
nghi với đời, để thể hiện công hạnh độ sinh, ban
vui cứu khổ mà tinh thần nhập thế của đạo
Phật tùy duyên, vô tướng hiện bày khắp chốn, thời
gian cho từng người, cho từng quốc gia, xã hội. Tinh
thần nhập thếấy, đã trải dài suốt một dòng lịch sử Phật giáo
Việt Nam mà cũng là dòng lịch sử Phật giáo thế giới, qua
bao thăng trầm vinh nhục của loài người.
Bằng bài học nhập thế, nhằm góp phần xây
dựng quê hương thanh bình thịnh trị cho dân tộc
được hạnh phúc, tự do cho những thế hệ kế
thừa có tình thương đồng loại, Thầy Tuệ Sỹ đã đi trên con
đường mà từ ngàn xưa chư vị Tổ Sư, Tiền Nhânđã đi, đã hành
sử những hạnh nguyện mà các bậc Thầy đã ứng xử qua thái
độ nhập thế như là một hiện thân vì con người.
1. Thái độ nhập
thế qua công trình trước tác, dịch thuật, thơ văn.
Ðể góp phần làm giàu đẹp cho gia tài văn
hóa nước nhà, cũng như Ðạo pháp, Thầy đã dành phần lớn thời gian,
công sức để trước tác, dịch thuật Kinh, Luật, Luận, nghiên tầm các hệ
phái triết học, tư tưởng Ðông Tây và cũng chính từ đó, Thầy
đã đi vào "Những Phương Trời Viễn Mộng."
* Lãnh vực Ðạo học, Kinh,
Luật, Luận:
Bằng sở tri lịch lãm, kiến văn sâu
xa mà nhất là cổ ngữ chữ Nho, Pàli, Sankrit là phương
tiện duy nhất để phiên dịch Tam Tạng. Những bộ
kinh Thầy đã hoàn tất như bộ A Hàm, Kinh Duy Ma
Cật Sở Thuyết, Thắng Man Phu Nhân...
Bộ Kinh A Hàm được xem là bộ Kinh tiêu
biểu cho nền tảng của Phật giáo Nguyên Thủy. Tất cả những thời kinh
mà Ðức Phật đã thuyết giảng trên con đường hoằng hóa, làm
tươi mát cho mọi đời sống từ Vua quan cho đến hàng dân dã,
từ tầng lớp đạo sỹ cho đến hàng nông nô, từ những tướng cướp giết
người cho đến hàng kỹ nữ lang bạc, tất cả đều được hóa
độ để trở thành bậc Thánh. Ðó là tinh thần giáo
pháp làm sống dậy tình người, ngày thêm hương sắc để đưa đến chân
trời thánh thiện.
Thầy dịch bộ A Hàm, cho chúng ta thấy
được rằng: lời Phật dạy xây dựng một đời sống chân
hạnh phúc gia đình quốc gia xã hội. Ðây được xem
như tinh thần nhập thế tích cực. Ðời sống của người cư
sĩ Phật tử hạnh phúc trong hiện tại và tương lai. Một
cái nhìn rất nhân bản và cấp tiến trên tình
thương yêu đồng loại, liên đới giữa cá nhân và cộng
đồng loài người trên thế giới. Các mối tương quan tốt
đẹp giữa Cha Mẹ và con cái, giữa Thầy và trò, giữa bạn bè
và bà con xóm giềng, giữa người chủ và thợ... Thầy đã mang hành
trang chữ nghĩa, ý kinh để làm nguồn cảm hứng giác ngộ cho
những ai đem tâm sưu khảo, nghiên tầm và áp dụng giáo
pháp vào đời sống hằng ngày, để từ đó chứng đắc giáo
pháp nơi tự thân mà được giải thoát.
Tinh thần nhập thế thứ hai là Kinh Duy
Ma Cật Sở Thuyết và Thắng Man Phu Nhân, đây là hai bộ
Kinh được tiêu biểu cho hạnh Bồ Tát tại
gia của Trưởng giả Duy Ma Cật và Phu Nhân Thắng
Man. Nơi đây, tinh thần nhập thế được mở rộng, hoàn
toàn xả kỷ vị tha, phá trừ mê lậu vọng chấp, để thẳng tiến đến
chân trời Phật tánh bình đẳng. Phiên dịch Tam Tạng
Kinh Ðiển là điều Thầy thường khuyên nhủ học Tăng phải thông Hán
học, giỏi Pàli và rành Sankrit vì đó là những ngoại ngữ mà người muốn dịch
thuật Kinh Luật Luận không thể không thông. Do vậy, Thầy đã
dạy Phạn ngữ và Pàli hầu như suốt thời gian cho
Tăng sinh Phật Học Viện để chuẩn bị cho nền dịch thuật sau này.
Thái độ nhập thế của Thầy được biểu
lộ qua "Tự Ngôn" của bộ luật Tứ Phần: "Chúng
tôi hy vọng những đệ tử kế thừa y bát của Hòa
Thượng sẽ chú tâm thực hiện các Phật sự này, một
là để không phụ ân đức giáo dưỡng tài bồi của Sư Trưởng, hai là
góp phần vào sự tăng trưởng hưng thịnh của Tăng già, tiếp
nối mạng mạch của chánh pháp, làm chỗ nương tựa và phước
điền cho thế gian."
Như vậy, công trình nghiên cứu dịch
thuật của Thầy nhằm mục đích là hoàn thành bộ Ðại Tạng
Kinh Việt Nam để cho người Phật tử dễ dàng trì
tụng, tham vấn mà không còn lệ thuộc vào ngôn
ngữ cũng giống như các quốc gia khác. Ðây là công trìnhlâu
dài và to lớn mà Thầy đã góp một phần quan trọng trong công việc phát huy và bảo
tồn nền văn hóa, học thuật đạo pháp.
Mang hành trang vào đời bằng ngôn ngữ thi
ca, Thầy đã tham cứu các tư tưởng triết học từ Âu sang
Á. Trong bài Cogito Bát Nhã - Dưới ánh sáng của Hiện Tượng Luận,
nơi đây Thầy đã gặp René Descartes, Edmund Husserl là những nhà toán
học, triết học, đã đề cập đến trong cuốn "Tư Tưởng Dẫn Ðạo
Vào Hiện Tượng Học". Husserl định nghĩa: "Hiện tượng học là
một khoa học căn bản đặt nền cho triết học; nó được gọi là khoa
học về hiện tượng." Hay trong bài so sánh các vấn
đề triết học Phật giáo, Thầy đã có lệ ngôn: "Cogito là một danh từ La
Tinh có nghĩa là "Tôi suy tưởng" rút trong nguyên lý triết
học của Descartes: "Cogito ergo sum - tôi suy tư tức tôi hiện
hữu"... Sau này Husserl, Sartre, Heidegger lần lượt theo
Descartes suy niệm về bản thể của tri thức và đem lại cho
danh từ Cogito những nội dung khác nhau. Do đó, chúng tôi cũng có ý
mượn danh từ Cogito là một đề mục cho sự nghiên cứu bản
thể tri thức siêu nghiệm của Ðức Phật, trong loạt bài so sánh triết
học Ðông Tây của chúng tôi mang tính triết học lồng
vào tư tưởng Tánh Không Luận là gì ? Thầy đã mượn lời
nói của Heidegger: "Aus der Erfahrung des Denkens". "Có thể
vay mượn những lời nói như vậy để khởi đầu cho sự chờ đợi tiếng
vọng đáp ứng của những gì đó đang ẩn mình trong bóng
tối... kiên trì và dừng lại để chờ đợi trong sự bế tắc là liều
lĩnh ký thác mình cho một cuộc chơi ngoạn mục của thiên diễn,
là liều lĩnh đứng lại giữa dòng thác đổ của vạn hữu."
Trong cái thường có cái bất thường. Trong
cái thuận dòng có cái nghịch dòng được diễn bày thiên lưu thiên biến,
trong ý niệm triết học, tư tưởng, tri thức mà Thầy đã tạo
dựng nên khung trời nghịch thường đó: "Không chịu tiệm tiến từng
bước vững chắc như những đợt nhảy của con chim hồng: nhảy bên bờ
nước, nhảy đến tảng đá, nhảy trên đất cạn, nhảy trên cành cây, nhảy lên gò cao
và cuối cùng bay trong thương khung để lông cánh làm đẹp cho bầu
trời." Và để từ đó trả lời Tánh Không Luận là gì? Như là:
"Khi con bướm mùa hè dừng lại trên đóa hoa, khép lại đôi cánh và đong đưa
theo cơn gió của cỏ nội hoa ngàn." Hay một định nghĩa khác:
"Trong tư tưởng, mọi sự trở thành cô liêu và lững
thững." Ấy là Triết học Tánh Không được nói bằng ngôn
ngữ của Thầy với thái độ của kẻ sĩ nhập thế.
Từ chân trời triết lý phương Tây, Thầy đã trực
nhập vào nền triết học Ðông phương tiêu biểu là
nền triết học Trung Hoa. Những nhà thơ Ðào Tiềm, Dã Ðảo, Lý
Bạch, Tô Ðông Pha, Bạch Cư Dị ... Thầy đã đều gõ cửa ghé thăm để
bầu trời thơ của Thầy phiêu diêu lãng đãng, như hương, như sắc hiến
tặng cho đời.
Ðại diện cho nền triết học Trung Hoa là Kinh
Thi và Kinh Dịch. Nơi đây, chúng ta nghe Thầy nói:
"Kinh Thi và Kinh Dịch như đôi cánh của
con chim nhạn chuyên chở định mệnh của lịch sử Trung Hoa
bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Ðông. Dịch trải
rộng con đường cho những bước đi lịch nghiệm trong cuộc tồn sinh; Thi
là tâm nguyện khẩn thiết và trung thực từ giữa chỗ sâu thẳm
của tình người và lòng người được mang ra để lịch nghiệm cuộc lữ mà Dịch đã
phơi bày ra đó. Âm hưởng của Thi là tiếng vang của nhịp
bước trong cuộc lữ."
"Lý Bạch là một trong những tay lái cự
phách và có thể là nhất. Lãng đãng với tài hoa vừa lãng
mạn vừa kiêu hùng nên quyến rũ và tạo ra một trường say sóng.
Say trong một buổi tiệc, lượm lặt những vật phế khí của trời đất, để thống ẩm
cuồng ngông. Gậy lục ngọc của Lý Bạch được mượn để gõ lên đầu lịch sử,
đẩy lịch sử vào mê cung bát trận đồ."
"Thơ vẫn là một cuộc lịch nghiệm Riêng và Chung
của Thời Ðại và Lịch Sử. Từ cuộc Riêng, Thơ nương theo đôi cánh Thi và
Dịch để đi về nơi Hoằng viễn, dẫn lịch sử uyên nguyên tụ hội
với thời đại."
Bằng cách nói của biện chứng pháp hay
để kết thúc ý niệm triết lý, tư tưởng, Thầy viết:
"Bao lâu con người còn đắm chìm trong
triết lý, khái niệm và ngôn từ của triết lý, thì bấy lâu, con
người vẫn là một kẻ lữ hành trong đêm trường kinh khiếp."
Thật sự Thầy muốn khơi dậy, đánh động tri
thức tự tri, tự giác để đi trên con đường tu
chứng hơn là triết lý, luận giải, phải thể hiện một
đời sống thực tế có ích, có lợi cho chúng sanh, hơn
là lý luận suông. Dù sự lợi ích ấy nhỏ nhặt, khiêm
tốn, bình dị.
Phương trời viễn mộng, như là bầu trời thơ của Thầy đã
kết tinh một tấm lòng vì quê hương, dân tộc, về một chặng đường lịch
sử nguy nan, khốn khó mà con người phải mang nặng trên đôi
vai sinh tử của thời đại. Phương trời viễn mộng đó, mênh
mông những vần thơ mang tính tự tồn, độc lập, kiêu hùng của
dòng lịch sử quê Cha, đất Tổ mà Thầy luôn mãi là đứa con của giống
nòi, lênh đênh theo dòng sử mệnh quê hương.
Tiếng trẻ khóc ngân vang lời vĩnh cửu
Từ nguyên sơ sông máu thắm đồng xanh
Tôi là cỏ trôi theo dòng thiên cổ
Nghe lời ru nhớ mãi buổi bình minh.
Buổi vô thủy hồn tôi từ đáy mộ
Uống sương khuya tìm sinh lộ viễn trình
Khi nắng sớm hôn nồng lên nụ nhỏ
Tôi yêu ai, trời rực ánh bình minh.
(Bình Minh - Tuệ Sỹ)
Từ thời lập quốc, từ thủa sơ khai của nước
nhà Lạc Việt là thời thái bình, an cư lạc nghiệp, đó là buổi bình
minh, là tiếng khóc đầu đời của dân tộc Việt có mặt trên dải đất dấu yêu.
Ðể xây dựng cho giang sơn gấm vóc, bao anh hùng liệt nữ đã
tô đậm non sông bằng máu đỏ của thân mình để làm tươi thắm ruộng đồng, mà hôm
nay Thầy tiếp nối dòng sông lịch sử ấy, đem nước mát, phù
sa phì nhiêu cho dân sinh nhuần đượm. Nhưng nay, thời thanh
bình thịnh trị đó đã không còn để Thầy phải viết lên tâm tư qua
"Bài Ca Cuối Cùng":
"Chim trời xếp cánh
Hát vu vơ mấy tiếng trong lồng
Nhớ mãi rừng cây thăm thẳm
Ủ tâm tư cho hạt thóc cay nồng
Rát bỏng với nỗi hờn tủi nhục
Nó nhịn ăn
Rồi chết gục
Ta đã hát những bài ca phố chợ
Người ăn mày kêu lịch sử đi lui
Chàng tuổi trẻ cụt chân từ chiến địa
Vỗ lề đường đoán mộng tương lai
Lộng lẫy chiếc lồng son
Hạt thóc căng nỗi hờn
Giữa tường cao bóng mát
Âm u lời ca khổ nhục
Nó nhịn ăn
Hình ảnh này là thực trạng của quê
hương Việt Nam chúng ta hôm nay. Thầy đã đi từng vỉa hè, góc
phố, chứng kiến cảnh trạng đau thương từ muôn người đến
muôn vật, từ tình cảm đơn côi đến cái nhìn nhãn quan tổng thể. Thái
độ nhập thế không chủ quan, phiến diện mà là tâm trạng
đau buồn cho quê hương, dân tộc, ngang qua những hình ảnh xót
xa đau đớn. Nỗi đau của dân tộc cũng là nỗi đau của chính mỗi người
trong chúng ta. Nỗi đau của người Mẹ mất con, nỗi đau của bà
con ruột thịt chia lìa, của cửa mất nhà tan, của một dân tộc bị lưu
đày:
Ðêm qua chiêm bao ta thấy máu
Từ sông ngân đổ xuống cõi người
Bà Mẹ xoi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời
Lồng son hạt cơm trắng
Cánh nhỏ run uất hận
Tiếng hát lịm tắt dần
Nó đi về vô tận.
(Bài Ca Cuối Cùng - Tuệ Sỹ)
Bằng cái nhìn thẩm thấu, vì chan
chứa tình thương đến mọi loài, vạn vật ngay cả loài vô tình
cũng chiếu cố chẳng làm ngơ, khi mà tâm thức của Thầy bừng dậy như là
sự sống của vạn loài chúng sinh.
Lon sữa bò nằm im bên chợ
Con chó lạc
Ðến vỗ nhịp
Trời mưa
Tôi lang thang
Ði tìm cọng cỏ
Nó nhìn tôi vô tư.
(Tĩnh Thất 5 - Tuệ Sỹ)
Nỗi ưu tư của Thầy đã hòa quyện cùng
nỗi ưu tư của mọi người, của từng cái sống và cái chết,
cái hữu tình, cái vô tình, cái sứ mạng thiêng liêng cao cả
được hiện hữu nơi đây:
Lời rao trong ngõ hẻm
Ðồng hồ điện!
Cầu dao!
Công tắc!
Những lời rao chợt đến, chợt đi
Một trăm năm mưa nắng ra gì
Cánh phượng đỏ đầu hè ai nhặt?
Nhập thế để thấy thảm cảnh trên quê hương mình
hôm nay, mà ai trong chúng ta có chút suy tư về dòng máu, con tim
người dân nước Việt đều nhận chân ra một thực trạng như lời thơ của Thầy trong
bài trường ca Tĩnh Thất:
Con trâu trắng thẫn thờ góc phố
Nỗi hoài hương nhơi mãi nhúm trăng mòn
Ðám sẻ lạnh gật gù trên mái đỏ
Sương chiều rơi có thấy lạnh nhiều hơn?
Một chuỗi rắn rình mò trong hẻm nhỏ
Không bụi đường đâu có chỗ đi hoang?
Ngay đến những dã thú, loài vật cũng không có chỗ
để đi trong ý nghĩa tự do của dân tộc ngay trên quê hương mình.
Nhưng, dẫu có tang thương đến hoa kia cỏ này đi nữa, Thầy vẫn một
lòng trung trinh với dòng lịch sử mấy nghìn năm văn
hiến, được phát xuất từ núm ruột của Tổ tiên:
Người đi đâu bóng hình mòn mỏi
Nẻo tới lui còn dấu nhạt mờ
Ðường lịch sử
Bốn nghìn năm dợn sóng
Ðể người đi không hẹn bến bờ
(Tĩnh Thất 24 - Tuệ Sỹ)
Và, với bổn phận, trách nhiệm của người dân,
Thầy tự đặt hướng đi cho chính mình, việc làm cho chính mình.
Vì, nếu khôngtự mình có trách nhiệm với quê hương dân tộc,
không xây dựng lại cơ đồ thì ai sẽ đi xây dựng lại đất nước
cho mình? Dù tấm thân có nhỏ, đôi tay có gầy như cọng cỏ lề đường, thì
cũng mở lòng che chở trong tình đồng loại để nghe
tiếng thì thầm của sông núi:
ta không buồn
có ai buồn hơn nữa?
người không đi,
sông núi có buồn đi?
tia nắng mỏng xoi mòn khung cửa
để ưu phiền nhuộm trắng hàng mi
ta lên bờ,
nắng vỗ bờ róc rách
gió ở đâu mà sông núi thì thầm?
kìa bóng cỏ nghiêng mình che hạt cát
ráng chiều xa, ai thấy mộ sương dầm?
(Tĩnh Thất 4 - Tuệ Sỹ)
2. Thái độ nhập thế qua
cung cách giáo dục như là tư tưởng vượt thoát của con
đường Bồ Tát Ðạo
Thầy đứng trên bục giảng của Ðại Học Vạn
Hạnh thời rất trẻ, những giáo sư đồng nghiệp được xem
như bạn vong niên, do đó mà Thầy được gọi là "Chú Sỹ". Mặc
dù nhỏ tuổi, nhỏ con nhưng ai cũng ngưỡng phục cái đầu không nhỏ, cái kiến
thức rộng rãi, cái chí nguyện cao vời và cái hạnh thâm trầm tinh
tế của Thầy. Thầy đem sở học của mình trao truyền lại cho sinh viên và
luôn luôn lưu tâm đến thế hệ kế thừa. Thầy thường
hay nói:
"Ðất nước có giàu đẹp vững mạnh đều trông
nhờ vào lớp người tuổi trẻ hôm nay. Nguồn năng
lượng để cung cấp cho đất nước là khả năng và kiến
thức của tuổi trẻ. Nếu ngày nay tuổi trẻ không
được đào tạo, học hành kỹ lưỡng thì đó là cái lỗi của thế
hệ Cha Ông, chúng ta phải thấy điều đó mà ra công xây
dựng tài bồi cho tuổi trẻ."
Thầy luôn ưu tư đến con đường giáo
dục và lúc nào Thầy cũng muốn dạy, dù có lớp học hay không, hoặc năm ba
người mà dốc chí học, Thầy cũng không ngần ngại hướng dẫn.
Hiện nay, Thầy có lớp giảng Duy Thức Học cho quý Thầy Cô cũng
như Phật tử ở khắp thế giới trên Paltalk, đó là tinh
thần giáo dục của Thầy. Từ nơi đại học phổ thông cho
đến lớp cao đẳng chuyên khoa Phật Học, Thầy đem sự hiểu
biết của mình trong Kinh, Luật, Luận giảng dạy lại cho các thế
hệ sau, như trong bài Ðạo Phật và Thanh Niên, Thầy viết:
"Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ
thừa tự những hành vi mà họ đã làm" và còn có lời Phật khác nữa:
"Hãy là kẻ thừa tự chánh pháp của Như Lai, chớ đừng là kẻ
thừa tự tài vật."
"Các bạn trẻ học tập để chuẩn bị cho mình xứng
đáng là kẻ thừa tự. Kế thừa gia nghiệp của Cha Ông,
của dòng họ. Kế thừasự nghiệp của dân tộc. Kế thừa di
sản của nhân loại. Dù đặt ở vị trí nào, bản
thân của các bạn trẻ, trước hết sẽ phải là người thừa kế thành
công hay thất bại trong sự nghiệp kế thừa của mình, đó
là trách nhiệm của từng người, của từng cá nhân. Hãy tự đào
luyện cho mình một trí tuệ, một bản lãnh để sáng suốt lựa
chọn hướng đi, và dũng cảm nhận chịu trách nhiệm những
gì ta đã lựa chọn và gây ra cho bản thân và cho
cả chúng sanh."
Giáo dục theo phương pháp tự
tri, tự giác để thừa tiếp gia tài quê hương, dân tộc
mà gia tài đó phải được đón nhận bằng đôi tay cẩn trọng, bằng
trái tim nồng ấm của tuổi trẻ. Sự giáo dục con người, không
phải chỉ giảng dạy bằng chữ, bằng nghĩa, bằng văn chương từ ngữ, mà
Thầy luôn khơi tạo ý thức tự thân qua cái nhìn xuyên suốt
dòng lịch sử nước nhà. Sự giáo dục trách nhiệm cá
nhân với chính nó. Sự giáo dục mối tương quan giữa mình và
người. Sự giáo dục tình cảm gắn bó giữa gia
đình và xã hội. Ðây chính là sự giáo dục nhập
thế mà Thầy đã vạch ra cho tuổi trẻ hôm nay, hướng thân lập mệnh
trên hành trình xây dựng đất nước. Tính chất giáo
dục này chính là tư tưởng vượt thoát, không vướng
mắc bởi những thế lực thế gian, đảng phái mà chỉ một lòng hướng
tâm thuần túy, trên sự hưng thịnh của quê hương dân tộc.
Sự giáo dục được thấm nhuần tinh
thần Bồ Tát Ðạo, biết hy sinh để cống hiến cho
đời. Con đường Bồ Tát hành sử là hóa độchúng sanh, tạo
niềm bình an hạnh phúc cho kẻ khác. Giáo dục vượt
thoát để không bị câu thúc nơi thế tục, quyền lực thế
gian vây hãm. Nhưng, hôm nay, nền giáo dục vượt thoát, tự tri đó
đã bị dập vùi, tẩy xóa, đó là nỗi đau thương của Thầy cũng như
của bao người còn chút tình quê hương đất nước.
Thái độ giáo dục nhập thế như là cái
nhìn sâu vào những vết hằn, vào những vết sẹo loang lổ trên thân
hình dân tộc, quê hương, Ðạo pháp, để thấy tận mắt bằng trái tim non
của tuổi trẻ, bằng ý thức gầy dựng và bảo tồn di
sản ngàn đời của Cha Ông, mà dường như bị ném vào bóng tối. Trong cung
cách của nhà giáo dục nhập thế, Thầy đã vực dậy những gì đã bị
sụp đổ, chỉ cho thế hệ trẻ nhìn thấy nỗi tủi nhục, thương đau, qua
Thư Gửi Tăng Sinh Thừa Thiên-Huế:
"Thế hệ các con được giáo dục để quên
đi quá khứ. Nhiều người trong các con không biết đến Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất là gì; đã làm gì và cống hiến những gì
cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục, hòa bình dân tộc,
trong những giai đoạn hiểm nghèo của lịch sử dân tộc và đạo
pháp của đất nước - Một quá khứ chỉ mới như ngày hôm
qua, di sản vẫn còn đó nhưng đã bị chối bỏ một cách vội
vàng - Di sản được tích lũy ròng rã hằng thế kỷ, bằng
bao tâm tư khổ lụy đau thương bằng máu và nước mắt của biết
bao Tăng Ni, Phật tử; mà những người gầy dựng nên di sản đó
bằng bi nguyện và hùng lực của mình, có vị bị bức tử bởi bạo quyền,
có vị suốt năm tháng dài chịu tù đày, bị lăng nhục. Nhưng sống hay chết,
vinh hay nhục, không làm dao động tâm tư của những ai biết sống và
chết xứng đáng với phẩm cách con người, không hổ thẹn với phẩm
hạnh cao quý của bậc xuất gia."
Trước ngưỡng cửa vong thân của một thế hệ,
và thấy đó là hiểm họa của dân tộc quê hương, vì thế trên mọi lãnh
vực: văn hóa, giáo dục, thi ca... Thầy đều thể
hiện tinh thần phụng sự của mình cho công cuộc hồi
sinh một quê hương quá nhiều đổ nát. Do đó, con đường giáo
dục toàn diện là nền tảng quan trọng cần phải xây
dựng, bảo trì. Thầy cũng như mọi người chúng ta đều nhìn
thấy tương lai đất nước như thế nào, khi một quốc gia với hệ
thống giáo dục lỏng lẻo, nhiều thế hệ con em bị thất
học, dân trí thấp kém và đầy dẫy những tệ nạn xã hội?
3. Thái độ nhập
thế qua bản án tử hình và cái dũng của sỹ phu.
Nếu là một con người bình thường,
không lưu tâm đến sự thịnh suy của đất nước, không đặt
hướng đi để kéo quê hương dân tộc dừng lại để không bị rơi vào hố thẳm suy
vong, thì chắc hẳn Thầy không bị bao lần tù tội, để đưa đến bản án tử
hình năm 1984. Và nếu không phải là một Tăng sĩ với tâm
nguyện xây dựng quê hương, đất nước được thanh bình, tự
do và nhất là một thành viên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất có tiếng nói trung thực, thẳng thắn thì chắc rằng Thầy
đã không bị canh gác, giam lỏng như trong một nhà tù lớn. Vì tâm
lượng của một kẻ sĩ chân chính đối với đất nước, vì tiền đồcủa
Ðạo pháp đối với lý tưởng xuất gia mà Thầy đã khởi xướng ý
thức độc lập, Thầy đã khuyên nhủ đàn hậu duệ qua Thư Gửi Tăng
Sinh Thừa Thiên-Huế:
"Cầu mong các con có đủ dũng mãnh để đi
bằng đôi chân của mình, nhìn bằng đôi mắt của mình; tự xác định hướng đi cho
chính mình. Thầy sẽ là người bạn đồng hành với các con trên đoạn
đường bóng xế của đời mình."
Chính thái độ nhập thế trực diện với
chính quyền Hà Nội hôm nay, mà Thầy được xem như người tù của chế độ,
do đó nhà cầm quyền đã không ngần ngại trao cho Thầy bản
án tử hình.
Thầy đã không khiếp nhược khi bị kết án tử
hình, Thầy vẫn tích cực đấu tranh viết các văn kiện, kháng thư,
giác thư gởi đến chính quyền Hà Nội, Tập Thơ Ngục Trung Mị Ngữ, các văn
thư tường trình Phật sự Giáo Hội được viết trong
suốt thời gian ở tù cho đến ngày được thả, nhưng không ký
giấy phóng thích, vì: "Không ai có quyền kết án tôi, thì cũng
không ai có quyền ân xá tôi."
Thầy đã gửi cho Quốc hội Hòa Lan bản văn Một Khía Cạnh
Của Vấn Ðề Nhân Quyền Tại Việt Nam, Tham Nhũng Một Quốc Nạn:
"Ở đây, tôi cũng xin bầy tỏ sự cảm kích sâu
xa đối với cộng đồng Việt Nam hải ngoại đang đấu tranh cho
một nước Việt Nam trong sáng và tự do. Tôi cũng xin gởi lời cám
ơn đến các nhân sĩ Hòa Lan, trong tình cảm nhân loại đã trực
tiếp can thiệp với chính phủ Việt Nam cho tôi được
sang thăm viếng đất nước Hòa Lan, để có thể có điều kiện tự
do hơn nói lên tiếng nói thầmlặng mà đã hơn một phần tư thế kỷ
bị bóp nghẹt."
Trong khuôn khổ một bài nói chuyện về thái
độ nhập thế của Thầy, bị giới hạn bởi thời gian, hẳn
sẽ có nhiều điều thiếu sót, có lẽ chúng ta nên đọc lại những bài
viết của Thầy trong tác phẩm "Tuệ Sỹ Ðạo Sư Thơ và Phương Trời
Mộng" để nhìn thấy rõ tâm tình của Thầy hòa quyện với non sông gấm vóc,
với dân gian làng nước, một tình người đơn sơ thuần hậu, mộc
mạc chân thành, luôn ấp ủ tinh thần quật cường, khí
khái truyền thống của giống nòi, dù chặng đường lịch sử ấy
có thăng trầm, thành bại, kẻ sĩ vẫn ngẩng cao đầu không thẹn với đất
trời:
"Hoàn cảnh đất nước Việt
Nam như thế cho nên dân ta phải chịu quá nhiều đau
thương và tủi nhục. Ðối với giới trí thức nói riêng, mà xã
hội Việt Nam truyền thống rất tôn trọng, điều tủi nhục lớn
nhất là họ không thể thay những người dân thấp cổ bé miệng nói lên một cách trung
thực tất cả những uất ức, những khổ nhục mà họ phải chịu. Bởi vì,
tại Việt Nam ngày nay những người có thể nói thì ngòi bút đã bị cong;
những người muốn nói thì ngòi bút đã bị bẻ gẫy. Nhưng tôi rõ một điều, và điều
đó đã được ghi chép trong lịch sử: Trí thức chân chính của Việt
Nam không bao giờ khiếp nhược."
Thầy đã vì quyền lợi của quốc
gia dân tộc mà đạo đạt ý nguyện, giải bày nỗi thống khổ,
bất công của người dân lên các cấp chính quyền, nhưng, giống như tiếng kêu
trong sa mạc, âm vang của tiếng vọng từ xa, tiếng gào thét vẫn không đến tai những
người cầm quyền, chi bằng tự mình dấn thân đến cửa công quyền để tận tay gửi
Giác Thư đến các lãnh đạo:
"Qua Kháng Thư này, mà với nhiều lý
do như tôi đã trình bày, nó không được đạo đạt lên Ðảng và Nhà
nước theo đúng các quy định hành chính phiền hà của pháp
chế xã hội chủ nghĩa, tôi muốn tự mình dẫn thân đến trước cổng bạo
lực chuyên chính, dù biết chắc sẽ bị nghiền nát trước khi thoáng
thấy những bóng mờ trên chín tầng vời vợi của uy quyền tuyệt
đối; tự dẫn thân đến đó để cáo tri cùng quốc dân đồng bào,
bày tỏ sự hèn kém, bất lực của mình trước vô vàn thống khổ mà đồng
bào phải âm thầm chịu đựng."
Ðó là tâm tình và ý chí dõng mãnh của Thầy
trước bạo lực, không cúi đầu khiếp sợ, giữ vững lập trường đứng về
phía dân tộc và Ðạo pháp, và cũng chính vì ý chí kiên cường đó mà
Thầy phải chịu bản án tử hình của chế độ hôm nay. Thế nhưng, Thầy
vẫn thanh thản, tự tại biểu hiện qua những bài thơ được viết ở
trong tù, đó là chất liệu sống của bậc xuất trần không phiền, chẳng
nhiệt, khi hiểu được rằng hóa độ chúng sanh cần
phải giàu lòng từ bi, hỷ xả. Chính đức tánh từ
bi, hỷ xả là thái độ nhập thế vững chãi để chiến
thắng mọi trở lực bạo quyền, mọi sức mạnh và chướng duyên
của lòng thù hận. Thầy đã đem tâm không để hóa giải tâm chấp
thủ, đem lòng vị tha mà hóa độ kẻ hẹp hòi để tạo
sự bình an và tịnh lạc cho tất cả. Thầy đã tự hỏi mình trong tập thơ
"Ngục Trung Mị Ngữ " qua bài Tự Vấn:
Vấn dư hà cố tọa lao lung
Dư chỉ khinh yên bán ngục trung
Tâm cảnh tương trì kinh lữ mộng
Cố giao già tỏa diện hư ngung
Hỏi Mình
Hỏi mình sao phải lao tù?
Song thưa cửa ngục có tù được mây?
Kiên trì cuộc lữ vàng bay
Lời xưa còn đó phút giây không sờn.
Thân ở trong tù, nhưng tâm Thầy vẫn thư
thái nhàn tịnh. Một tâm thức rỗng suốt để thấy mình với người
không khác. Nỗi bi lụy của thế gian là nỗi đau của chính mình. Sự tù
đày nghiệt ngã của các bậc Thầy Tổ, pháp lữ là nỗi đau rót vào trái
tim của chư vị Bồ Tát hóa thân vì đời mà kham nhẫn.
Một tâm thức sâu thẳm để hàm tàng, chứa đựng tất cả hình
ảnh của sum la vạn tượng, như hồ nước lặng im trong
vắt chiếu soi hình bóng sơn hà đại địa như nhiên. Từ sự tĩnh
lặng của chân tâm mới thấy rõ những nét thật hư, giả huyễn, những máu
và nước mắt của trần gian nhiều hệ lụy, mà tự thân Thầy cũng đang ở trong
cõi đời đầy nghiệt ngã ấy, qua bài thơ Cúng Dường:
Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn
Cúng Dường
Ðây bát cơm tù con kính dâng
Cúng dường Ðức Phật đấng Tôn Thân
Thế gian chìm đắm trong máu lửa
Lệ nhỏ không lời, lòng xót thương.
Tu hành là cầu mong giải thoát,
nhưng sự giải thoát không từ bỏ thế gian. Tu
hành từ nơi thế gian, nhưng cũng chính từ nơi thế
gian để giác ngộ. Thầy đem tinh thần giác ngộ tung rải
cho thế gian được tươi nhuận, thắm hồng.
Thái độ nhập thế ấy, bàng bạc trong tất cả
thơ văn của Thầy, cũng như trong sinh hoạt thường nhật. Cuộc
sống đơn sơ trong một căn phòng nhỏ, chung quanh bốn vách tường là
những giá sách, ban ngày dịch thuật, trước tác, tối ngủ ngay trên chiếc ghế làm
việc, không giường, không võng, không cầu kỳ trước tiện nghi vật
chất. Bởi Thầy thấy được nỗi đau khốn cùng của người dân đói khổ, thấy đất
nước nghèo nàn tụt hậu, mất hướng mà tự thân của Thầy cũng đang sống
giữa lòng quê hương đói nghèo, tụt hậu ấy. Trong tinh thần từ bi, Thầy
đang chia sẻ từng bài thuyết pháp, từng buổi giảng kinh, từng
lời giáo huấn cho mọi người, cho hàng hậu học nhằm xây
dựng tình người được gần lại với nhau, để nhìn cho rõ hình
ảnh quê hương, tự tình dân tộc mà dựng xây bồi đắp, qua bài Ðạo Phật với
Thanh Niên:
"Chúc các anh chị có đầy đủ nghị
lực để chinh phục những vương quốc cần chinh phục, để chiến
thắng những sức mạnh cần chiến thắng."
Ðó là thái độ của nhà Sư, là tinh
thần nhập thế trong ý nghĩa mong cầu hòa bình
an lạc cho quê hương dân tộc Việt Nam hôm nay.
Chiều Thơ Nhạc - Giới Thiệu Tác Phẩm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét