Vào mùa hạ năm 2006, sau 15 năm rời xa xứ Huế, tôi có dịp trở
về sống ở Huế ba tháng, ở trọ ở đỉnh đồi Châu Lâm (Dương Xuân) xanh mát. Đây là
dịp cho tôi giao lưu và tiếp cận cảnh trí và con người xứ Huế sau nhiều năm xa
cách.
Có rất nhiều thú vui hữu ích ở đây: thăm viếng cảnh chùa, lăng tẩm, đền đài;
leo núi Bạch Mã, leo đồi thông Thiên An, leo núi Ngự Bình; đi biển Thuận An, biển
Lăng Cô; thăm thú các quán cafe vườn hoặc bên bờ sông Hương; đi bách bộ trên
các nẻo đường phượng bay, đi thuyền rồng sông Hương nghe ca Huế; giao lưu với
văn nghệ sĩ ở Huế, thăm các phòng triển lãm; đặc biệt là lên Huyền Không Sơn
Thượng, Thị Ngạn Am uống trà và đàm đạo với Đại Sư Phước Thành và Minh Đức -
Triều Tâm Ảnh giữa cảnh núi rừng cô tịch.
Ở Huế, mùa hạ hoa phượng nở tràn ngập các nẻo đường, đẹp nhất là đường Lê Lợi dọc
bờ sông Hương, đường men theo sông An Cựu, sau là các nẻo đường trong Thành Nội
(còn gọi là Hoàng Thành hoặc Đại Nội).
Trong lời nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ghi lại khá sinh động
các nẻo đường lừng danh của xứ Huế:
- ... Em đi về trời mưa ướt áo, Đường phượng bay mù không
lối vào, hàng cây lá xanh gần với nhau.
- Hàng cây thắp nến lên hai hàng, để nắng đi vào trong mắt
em
- Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.
Tôi cũng nhiều lần đi dưới các nẻo đường và địa danh của nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn từng đi qua: Huyền Trân Công Chúa (hiện là Bùi Thị Xuân) Nam
Giao, Bến Ngự, Phủ Cam, Cung An Định, Thượng Tứ, Đông Ba, Gia Hội và nhất là đường
“Phượng Bay” một bên hồ sen của Hoàng Thành đi vào hồ Tịnh Tâm.
Có ba con đường đáng để kể ra đây vào mùa hạ ở Huế: Nam Giao
- Bến Ngự (hai bên sông đào An Cựu), Lê Lợi (bờ Nam sông Hương) và đường Phượng
Bay (Thành Nội).
Nam Giao - Bến Ngự : men theo bờ sông An Cựu có hai con
đường hai bên: Phan Đình Phùng và Phan Chu Trinh. Bến Ngự: xưa vào dịp vua tế
giao, tức là lễ cúng tế trời đất kéo dài cả tuần lễ để cầu “mưa thuận gió hòa,
quốc thái dân an”, vua đi thuyền qua bến sông này nên có tên như vậy. Nam Giao:
đàn tế trời được đắp bằng đất hai tầng, một vuông một tròn (trời tròn, đất
vuông), tầng trên diễn ra lễ chính có kè đá xung quanh như hệ thống thoát nước,
nhưng kỳ thực là hệ thống truyền âm, đứng cách xa cả trăm mét vẫn nghe được âm
thanh phát ra rõ mồn một từ chỗ người xướng lễ, tạo nên sự linh thiêng cho buổi
lễ.
“Sông An Cựu nắng đục, mưa trong”
Đây là dòng sông đào phục vụ nông nghiệp. Khi mùa nước mặn từ
biển Thuận An dâng lên sông Hương, người ta ngăn nước mặn sông Hương bằng hệ thống
cửa sập nên vào mùa Hạ nước sông An Cựu cạn dần và đục. Khi có mưa nước lại
dâng đầy, nước sông sẽ trong hơn là do vậy.
Hai bên đường chạy dài theo sông An Cựu có nhiều đền, miếu và
phủ chúa, phủ quan hoặc là nhà của các giới trâm anh, khuê các. Tường cao kín cửa
và đầy bí ẩn. Chỉ những buổi sớm hoặc lúc tan trường mới thấy thấp thoáng bóng
áo tím hoặc áo trắng đội nón bài thơ thướt tha xuất hiện trên đường vắng đỏ au,
rụng đầy xác hoa phượng vỹ. Ở địa điểm này các “bóng hồng” thường đi bộ vì gần
trường học, bóng phượng vỹ và thấp thoáng nón lá, áo dài phơ phất, nghiêng soi
xuống dòng sông tạo thành một vẻ đẹp như tranh vẽ và mơ hồ như trong mộng. Nắng
hanh vàng, hoa phượng đỏ, lá xanh ngát, bóng áo tím, nón lá bài thơ và dòng
sông như chiếc gương soi để trang điểm thêm như vẫn còn thấy chưa đủ thơ mộng
cho bức tranh mùa hạ ở Huế. Đúng là vẻ đẹp tinh tế, kỳ ảo, nên thơ.
Ở Huế, giới trâm anh đài các thường kỳ thị với giới nghệ sĩ
lang thang, chuyện “môn đăng hộ đối” thường áp dụng triệt để cho đến giờ. Điều
này cũng làm chạnh lòng bao tâm hồn các thế hệ nghệ sĩ nhạy cảm. Và nhờ vậy, nguồn
cảm xúc cứ vậy dâng trào: chưa gặp gỡ đã thấy chia ly, chưa vui đã ngút ngàn sầu,
trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ, ...
Nữ nhạc sĩ kiêm ca sĩ Diệu Hương cũng người gốc Huế, hiện
đang sống ở Mỹ khá nỗi tiếng với các Album: Khắc Khoải, Vì Đó Là Em, Phiến Đá Sầu,...
tôi có dịp gặp gỡ chị ở Quận 11- Sài Gòn (Vạn Phước Tự) trong dịp về thăm Việt
Nam, sau khi bố Diệu Hương mất tại Mỹ. Chị đẹp người, đẹp nết mang đầy đặc tính
chất “gái Huế”, chị hát cho tôi nghe mấy bài nhạc chị mới làm, tôi cũng khoe là
tôi cũng có làm nhạc, ngồi trong phòng nhỏ, cùng hát giao lưu với chị.
Năm sau chị về lại để thu âm Album mới, chị đến tìm tôi, gặp
gỡ lần này thân thiện hơn, cởi mở hơn. Chị say sưa kể về Album mới và câu chuyện
liên hệ tình cảm giữa chị và “anh Trịnh Công Sơn”. Tôi tin liền vì khi tiếp xúc
và ngắm nhìn chị: từ gương mặt, ánh mắt, hình dáng, ... cũng đài các không kém,
chắc nhạc sĩ phải mê thôi.
Diệu Hương cũng có nhà ở khu vực này, Trịnh Công Sơn thường
qua lại và mắc kẹt lưới tình khắc nghiệt. Diệu Hương kể là “người nhà anh Sơn”
có sang dạm hỏi, nhưng gia đình Diệu Hương lưỡng lự, không đồng ý... và Diệu
Hương xác nhận: ba mẹ em cũng có tư tưởng bảo thủ lắm, em rất yêu nhạc của anh
Sơn và không ngờ sau này trở thành người làm nhạc. E có gởi CD cho anh Sơn
nghe, anh khen và động viên em nên tiếp tục dòng nhạc này.
Đường Lê Lợi: thực ra đường này có nhiều cây “long não” hơn,
phượng vĩ được trồng nhiều ở công viên bờ nam sông Hương và nhiều nhất là hai
ngôi trường nỗi tiếng của Huế: Quốc Học và Trưng Trắc (xưa có tên là Khải Định
và Đồng Khánh). Xưa, một bên trường nam trung học, một bên là nữ trung học nối
nhau bằng con đường “Giao Duyên” của học sinh thế hệ trước tự đặt. Trường nỗi
tiếng xưa nay vì đào tạo các thế hệ học sinh thành tài, thành danh trên nhiều
lĩnh vực, nhiều vùng miền xứ sở. Có người trở thành danh nhân đất nước. Từ 1976
– 1982, tôi cũng là học sinh của trường Quốc Học – Huế.
Trường có lối kiến trúc cổ kính, thời Pháp là trường nội trú chỉ dành cho con em quý tộc, quan chức và viên chức làm cho Pháp. Hai trường này rất kỷ cương và nhiều “giáo sư” giỏi điều hành, giảng dạy. Hồi tôi đi học dù là sau 1975 cũng còn lệ “gọi thầy xưng con”. Điểm thi vào trường này cũng lấy điểm chuẩn cao hơn các trường khác, cái đẹp của hai trường này là: kiến trúc, không gian, kỷ cương và đồng phục.
Trường có lối kiến trúc cổ kính, thời Pháp là trường nội trú chỉ dành cho con em quý tộc, quan chức và viên chức làm cho Pháp. Hai trường này rất kỷ cương và nhiều “giáo sư” giỏi điều hành, giảng dạy. Hồi tôi đi học dù là sau 1975 cũng còn lệ “gọi thầy xưng con”. Điểm thi vào trường này cũng lấy điểm chuẩn cao hơn các trường khác, cái đẹp của hai trường này là: kiến trúc, không gian, kỷ cương và đồng phục.
“Tan học nón về phố nở bông” (thơ Đỗ Văn Khoái)
Đó là câu thơ diễn tả nét đẹp của đường phố Lê Lợi vào lúc
tan trường.
Con gái Huế thường khép nép và rụt rè, qua đường áo bay thường
đặt tay sen lên tà áo để giữ, nón nghiêng, tà áo bay và tay sen khép nép. Đó là
nét đẹp rất riêng của con gái xứ Huế.
Hoa phượng vỹ nhờ cấu trúc đặc biệt: đài hoa gồm 5 cánh màu
xanh lá, cánh hoa màu đỏ thắm và một cánh nâng vòi nhụy có lốm đốm trắng bạc
trông như cánh ngài. Học trò dùng hoa phượng để làm thành bướm ép vào sách vở tặng
nhau rất đẹp và rất học trò. Thời đi học tôi từng mê làm bướm hoa phượng để
dành tặng cho “cô láng giềng” thời trẻ dại, hồn nhiên.
Ven sông Hương thường lộng gió, mùa Hạ ở Huế rất nắng nóng, người ta mơ những
ngọn gió mát lành để đem đến cảm giác dễ chịu. Gió mang lá cây, bóng nắng, hoa
và hương thổi dậy cả một vùng trời. Gió còn làm sinh động tà áo, mái tóc và tạo
dáng mỹ cảm cho con người. Hoa phượng bay là đặc thù của mùa hạ ở Huế. Những
tàn cây đỏ rực, dày kín, những con đường hóa kỳ diệu khi xác hoa phượng đỗ dày.
Chiều đến, những con đường càng đẹp thêm như cổ tích, thần thoại. Trời Huế có mây
tím, buổi chiều nhẹ xuống, không khí mát dịu, sắc trời, dòng sông, cảnh vật nhuộm
tím dần. Cái màu tím buồn nhớ, trông đợi và sầu tương. Cho Huế một không gian lắng
đọng, tĩnh lặng và sâu lắng. Huế như cảnh một một ngôi chùa khổng lồ trải rộng,
uy nghiêm và tỉnh tại.
Đường Phượng Bay: Có nhiều ý kiến để xác minh về đường phượng
bay, người ta xác minh rất nhiều hướng, rất nhiều đường. Nhưng xét về ý nghĩa
“phượng bay” của Trịnh Công Sơn khi anh đưa vào nhạc, đã trở thành một hình tượng
đẹp của đường phố Huế trong lòng mọi người, có thể suy luận: lá phượng bay, hoa
phượng bay, chim phượng bay, tà áo bay, tóc mây bay, tâm hồn bay, tình yêu bay,
... để gió cuốn bay!
Có lẽ từ “bay” chất chứa nhiều thứ như thế! Tình yêu khắc khoải
trong tâm hồn người nghệ sĩ chứa đựng cả quê hương, con người, thân phận, đạo
lý, tâm linh, thời đại, ... làm cho trái tim rung cảm như có thêm đôi cánh để
bay xa, bay cao, bay bổng, thoát ra vòm trời u tối, ngục tù u minh mà thăng
hoa, nở hoa kết trái dâng hiến đời sống.
“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng.
Để làm gì Em biết không?
Để gió cuốn ... bay!”
Đấy là đỉnh cao mà người nghệ sĩ cần vươn tới.
Bắc Ninh, mùa trăng tròn tháng Tư Nhâm Thìn 2012
PHỤ LỤC:
Hạ trắng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Dạ lý hương
Trịnh Công Sơn có kể lại câu chuyện về "Giấc mơ Hạ trắng" [1]
Ở Huế mùa hạ, ve kêu râm ran trên những tàn cây như một giàn
hợp xướng và nắng nóng oi bức như địa ngục. Thêm vào đó còn có gió Lào. Vừa tắm
xong là người đã ướt đẫm mồ hôi. Bao nhiêu nhiên liệu tích lũy trong cơ thể đều
tan ra thành nước. Những đồ vật và áo quần cũng có cảm giác như vừa rút trong
lò lửa ra. Những mặt đường gần như bốc khói với nhiệt độ 42 - 43 độ.
Có một mùa hạ năm ấy tôi bị một cơn sốt nặng, nhiệt độ trong
người và bên ngoài bằng nhau. Tôi nằm sốt mê man trên giường không còn biết gì.
Và bỗng có một lúc nào đó tôi cảm thấy hương thơm phủ ngập cả căn phòng và tôi
chìm đắm vào một giấc mơ như một cơn mê sảng. Tôi thấy mình lạc vào một rừng
hoa trắng thơm ngào ngạt, bay bổng trong không gian đó. Đến lúc tỉnh dậy người
ướt đẫm mồ hôi và tôi nhìn thấy bên cạnh giường có một người con gái nào đó đã
đến cắm một bó hoa dạ lý hương trắng rất lớn. Chính cái mùi thơm của dạ lý
hương đã đưa tôi vào giấc mơ kia. Giấc mơ trong một mùa hạ nóng bức. Trong vùng
tôi ở, quanh đó chỉ có một nhà duy nhất trồng dạ lý hương nên tôi biết ngay người
mang hoa đến là ai.
Sau một tuần lễ tôi hết bệnh. Nghe tin bố người bạn đang hấp
hối tôi vội vàng đến thăm. Ông chẳng có bệnh gì ngoài bệnh nhớ thương và buồn rầu.
Câu chuyện rất đơn giản. Hai ông bà đã lớn tuổi thường nằm chung trên một sập gụ
xưa. Cứ mỗi sáng bà cụ thức dậy sớm và xuống bếp nấu nước sôi để pha trà cho
ông cụ uống. Một buổi sáng nọ, cũng theo thường lệ, bà cụ xuống bếp bị gió ngã
xuống bất tỉnh và chết. Mấy người con ở gần đó tình cờ phát hiện ra và đưa bà cụ
về nhà một người để tẩm liệm. Sau đó chôn cất và giấu ông cụ. Tất nhiên, khi
ông cụ thức dậy hỏi con, mẹ các con đi đâu rồi, thì họ trả lời là mẹ sang nhà
chúng con để chăm sóc mấy cháu vì chúng bị bệnh. Vài ngày sau vẫn chưa thấy bà
về ông mới trầm ngâm hỏi các con có phải mẹ các con đã chết rồi phải không. Lúc
ấy mọi người mới khóc òa lên. Từ đó ông nằm trên sập gụ một mình cơm không ăn,
trà không uống cho đến lúc kiệt sức và đi theo bà cụ luôn.
Câu chuyện này ám ảnh tôi một thời gian. Và sau đó tôi kết hợp
giấc mơ hoa trắng mùa hạ với mối tình già keo sơn này như áo xưa dù nhầu cũng
xin bạc đầu gọi mãi tên nhau để viết nên bài "Hạ Trắng".
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đường Đoàn Thị Điểm - Đường phượng bay ngày xưa
Ở Huế có hai con đường được gọi là đường Phượng bay [1]:
Đoạn từ cầu Trường Tiền đến Bạch Hổ, người cao niên ở Huế vẫn quen gọi là đường Phượng
Bay. Nhà thơ Anh Phan đã minh chứng cho điều
này từ năm 1966, qua bài thơ Con đường Phượng Bay, có đoạn:
"Con đường Phượng Bay nằm dọc bờ bắc sông Hương,
Từ cầu Trường Tiền lên cầu Bạch Hổ.
Đi trên con đường Phượng Bay nắng hoa vàng rơi lỗ chỗ..."
"Đường Đoàn Thị Điểm, là đoạn nối dài từ đường Hai Ba
Tháng Tám đến đường Tịnh Tâm
Đường được hình thành từ đầu thế kỷ 19, cùng thời với việc
xây dựng Kinh Thành. Là con đường quan trọng của Hoàng Thành và có tên rất sớm.
Từ 1945 trở về trước là đường Hiển Nhơn. Sau 1956 đổi tên là đường Đoàn Thị Điểm
cho đến ngày nay. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gọi là đường Phượng Bay, hiện
người Huế vẫn hay gọi như thế..."
Đường Phượng bay là tên gọi khác của đường Đoàn Thị Điểm nằm bên cạnh khu vực hoàng thành của kinh đô Huế. Xuất phát từ ca từ trong bài hát Mưa hồng của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn: đường Phượng bay mù không lối vào, hàng cây lá xanh gần với nhau..., người dân xứ Huế và những người yêu Huế đều cảm nhận được nét trữ tình riêng biệt của con đường này.
Nằm bên cạnh khu vực hoàng thành, sự trầm mặc của dấu tích, nét thâm trầm đặc trưng của cố đô khiến cho con đường trở nên vô cùng thơ mộng. Con đường ngắn, ít dân cư sinh sống nhưng màu xanh mướt cây cối rất phù hợp với lối sống nhàn tản, thích đi bộ, tư lự, trầm ngâm của người dân xứ Huế. Mùa đông ấm áp, mùa hè rực rỡ không chỉ riêng có màu đỏ của sắc phượng bay mà còn vàng dịu nhẹ của hoa điệp, màu tím thanh tao của những bông hoa bằng lăng...
Đường Phượng bay là một trong những con đường đẹp ở Huế, gợi nhiều cảm hứng cho thi ca, âm nhạc, hội họa...
Đường Phượng bay là tên gọi khác của đường Đoàn Thị Điểm nằm bên cạnh khu vực hoàng thành của kinh đô Huế. Xuất phát từ ca từ trong bài hát Mưa hồng của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn: đường Phượng bay mù không lối vào, hàng cây lá xanh gần với nhau..., người dân xứ Huế và những người yêu Huế đều cảm nhận được nét trữ tình riêng biệt của con đường này.
Nằm bên cạnh khu vực hoàng thành, sự trầm mặc của dấu tích, nét thâm trầm đặc trưng của cố đô khiến cho con đường trở nên vô cùng thơ mộng. Con đường ngắn, ít dân cư sinh sống nhưng màu xanh mướt cây cối rất phù hợp với lối sống nhàn tản, thích đi bộ, tư lự, trầm ngâm của người dân xứ Huế. Mùa đông ấm áp, mùa hè rực rỡ không chỉ riêng có màu đỏ của sắc phượng bay mà còn vàng dịu nhẹ của hoa điệp, màu tím thanh tao của những bông hoa bằng lăng...
Đường Phượng bay là một trong những con đường đẹp ở Huế, gợi nhiều cảm hứng cho thi ca, âm nhạc, hội họa...
Người con gái của đường phượng bay
Trịnh Công Sơn
|
TTXUÂN - Tháng 12-2005, người con gái Huế tên A. ấy trở lại
Sài Gòn thăm mẹ. Trong căn nhà của mẹ chị ở quận 10, cũng như mọi lần về VN, chị
lại có những đêm gần sáng hát nhạc của Trịnh Công Sơn cùng người thân. Những
bài tình ca hát lên là quay quắt những kỷ niệm.
A. nhớ Huế. Nơi ấy, mấy chục năm trước, đêm đêm chị trốn cậu
(ba của chị) rời nhà đi qua cầu Phủ Cam về Bến Ngự thăm anh Sơn, rồi anh tiễn
chị về, đi theo con đường bên kia sông có hai hàng phượng chụm đầu vào nhau.
Anh gọi đó là đường phượng bay, con đường tình yêu của anh, con đường nhớ nhung
một đời của chị. Con đường mà bắt đầu từ đó, trong hơn một nửa sáng tác của anh
để cho đời đều có hình bóng chị, người mà anh chỉ gọi bằng một từ lúc nào cũng
được viết hoa trong nhạc của anh: Em.
A. là người con gái trong Như cánh vạc bay, Hạ trắng,
Mưa hồng..., của Tình nhớ, Tình sầu, Tình xa... Chị kể rằng
trong những năm tháng ở gần anh Sơn, chị chưa bao giờ hỏi anh bài nào anh viết
cho chị, bài nào là hình bóng của chị. Anh cũng chưa bao giờ nói với chị rằng
bài nào anh viết về chị, bài nào Em đấy chính là chị.
Duy có một lần, đưa chị đến chơi nhà một người bạn, anh giới
thiệu với bạn rằng chị là người con gái trong hơn một trăm bài hát của anh. Mọi
người nhìn chị, ai cũng hiểu đó là sự thật, bởi ngoài đời cũng như trong nhạc của
anh, chị đẹp nền nã, đẹp từ người, từ nết cho đến tên: N.V.D.A..
“A. bảo anh viết thật dài cho A., nhưng những dòng chữ không
thể dài bằng nỗi nhớ được. Nỗi nhớ đã đi qua hết quãng đời dài hơn hai mươi
năm. Đi từ Huế lên Đà Lạt về Sài Gòn và âm ỉ như một dòng nước ngầm không quên
lãng”.
Một lần anh viết thư cho chị như thế. Chị nhớ những lá thư
anh gửi từ Blao về Sài Gòn cho chị bao giờ cũng dày đến độ giấy nứt ra, bởi
trong đó có nhiều hoa khô ép....
Đã có nhiều người phụ nữ muốn cho mọi người biết họ từng là một
phần đời của Trịnh Công Sơn. A. không muốn vậy. Chị muốn chỉ là chị, là em gái
ruột của Diễm - người con gái đi qua con đường có hàng hoa long não li ti ở Huế
và đi qua một phần ký ức ngắn của anh. Diễm đã có một đời sống khác, hạnh phúc.
Chị cũng đã có một đời sống khác, về VN lần này cũng là lúc con trai chị mừng
sinh nhật tuổi 34.
Trịnh Công Sơn
|
Nghĩ rằng sẽ thật ích kỷ nếu chị cứ giữ mãi những cái riêng
ngày xưa với Trịnh Công Sơn mà bây giờ đã là cái chung của rất nhiều người, A.
làm album Lời của dòng sông với số lượng thật ít chỉ để tặng bạn bè.
“Không hiểu A. sẽ có giọt nước mắt nào nhỏ lên mộ phần của
anh. A. sẽ có lời nguyện cầu nào cho một lần anh vắng mặt. Ôi nếu một ngày nào
sự sống mình đã tắt thì anh cũng đã mang theo luôn những gì đã một lần vong
thân trong anh” - thư anh Sơn viết cho chị như thế, chị đọc lại thật buồn
trong album.
Tên A. anh viết trong thư được chị xóa đi, để không ai biết đến
chị, để chị mãi là lặng lẽ, để mọi người chỉ biết rằng Trịnh Công Sơn đã từng
có một tình yêu mấy mươi năm trong đời.
Người con gái của đường phượng bay ấy cũng nghĩ rằng rồi đến
lúc chị sẽ phải thôi không còn giữ những lá thư của anh viết cho chị nữa. A. sẽ chỉ còn giữ riêng cho mình “lời hẹn thề là những cơn mưa”, những
lời hẹn thề cứ day dứt mãi trong đời người như những cơn mưa xứ Huế rả rích
theo tháng ngày...
NGUYỄN TRƯỜNG UY
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét