Thứ Năm, 31 tháng 8, 2017

Những vụ án văn học thế hệ 1932 - Phần 2

Những vụ án văn học thế hệ 1932 - Phần 2
A- Mặt trận bênh thơ mới (3)
Phan Văn Hùm phê bình nhà thơ Xuân Giang, tức Đông Hồ
Ngày 3 tháng 5 năm 1934 (P.N.T.V. số 240), Phan Văn Hùm đã viết bài "Thảo luận về thi: Nguồn thi cảm mới" để phê bình về tập thơ "Nguồn thi cảm mới" của Xuân Giang, tên tác giả của Đông Hồ Lâm Tấn Phác.
Phan Văn Hùm đã ví thơ mới của Xuân Giang với thơ của thi hào Sully Prud'homme của Pháp:
"Theo lời của ông Đông Hồ ở trong số báo "Việt Dân" ra ngày 7 Avril 1954, thời một nhà thi sĩ sành về thơ cũ, ông Xuân Giang có một tập thơ tên là "Nguồn thi cảm mới":
"Hai bài: 1. Cái hôn lần đầu - 2. Cô gái xuântrích tập thơ này đăng ở báo "Dân Việt" có cái giọng thật là mới mẻ. Tôi không ngại gì mà không thú thật rằng, khi đọc qua, ngâm lại, tôi đã buông ra lời "in giọng Sully Prud'homme!". Nhưng mà đó là cái ý riêng của tôi, không đủ khinh trọng.
"Ở đây tôi dẹp lại những vấn đề lý luận cùng học phái. Tôi không muốn động dến vấn đề thơ cũ thơ mới, dẫu cho tôi hết sức hoan nghinh lối thơ sau, hết sức hoan nghinh bài "Bất chủ nghĩa" của Hồ Thích, hết sức hoan nghinh tập Les Douzes Poètes của bộ tùng thơ "Horizon". Phan Văn Hùm đã có một lối phê bình thơ mới rất mới không đứng ở ngoài để khen câu này hay, chữ này khéo, ý này mạnh. Ông đã muốn bắt chước một kỹ sư, một kiến trúc sư...đi vào bên trong, hay đúng hơn nhìn công trình kiến trúc thơ từ bên trong:
"Tôi chỉ muốn đứng về phương diện nghệ thuật (art) không, tôi còn muốn thâu hẹp ranh rắp hơn nữa: tôi chỉ muốn đứng về phương diện kỹ thuật (point de vue technique) muốn vào trong công trường (atelier) vào trong trung điện mật nhiệm của nhà nghề, để xem cái tay thơ đương kiến trúc.
"Tôi sẽ xem được hay không, tôi xem mà sẽ thấy hay không? Mặc kệ, cứ bước sấn tới thử xem.
" Trước hết tôi không muốn để chữ quốc ngữ nó làm lầm tôi, vì tôi đã quen với sự in lầm nhiều lắm rồi. Nghề in xứ này, thật là bất tiện quá.
"Hai bài thơ trích tập "Nguồn thi cảm mới" thể chất và cách điệu, cũng như nhau. Hai bài cũng chỉ có một chủ chỉ (un même thème) là cuộc cách mạng nổi dậy, do ái tình phiến động, làm khuynh đảo tâm hồn đương yên tĩnh êm đềm của người con gái, hoặc nói của "con người" cũng được.
Thực vậy, qua mấy trang liền, cùng với việc trích văn để làm chứng, Phan Văn Hùm đã cố gắng lấy tư cách chuyên môn của nhà kỹ sư hay kiến trúc sư để vẽ lại cái họa đồ kiến trúc của thơ Xuân Giang. Đây các bạn nghe Phan Văn Hùm phê bình thơ mới của Xuân Giang Đông Hồ theo con mắt của kiến trúc sư:
"Tác giả dùng lối "bồi thấn" tả hai cái hiện tượng tiếp nhau mà khác nhau của một cái bản thể duy nhất, để làm cho càng biểu lộ những nét tế vi của nó ra.
"Vẽ cái bản thể của ái tình, là điều có phải dễ dàng đâu. Tác giả trở qua phía khác, mà cứ ở hiện tướng. Cái hiện tướng của ái tình, ở đây lại khéo mượn vật cụ thể (concret) để dụ dẫn, làm cho người đọc dễ cảm xúc. Hoặc lấy nước hồ khi bằng phẳng mà tả tâm hồn người chưa biết ái tình:
Mặt hồ lặng lẽ, xuân êm ái...
"Lại lấy nước hồ khi gợn sóng, mà tả cái tâm hồn người đã vào ái tình.
Một hôm gió gợn mặt hồ xao.
Ngọn sóng lòng em bỗng dạt dào.
"Hoặc lấy bóng râm, gió mát, bướm bay mà tả cái tâm hồn người chưa biết ái tình còn thưởng cảnh vật thiên nhiên một cách thản nhiên:
Lá rập cành xoài, bóng ngã ngang.
Cô em dừng bước nghỉ bên đường.
Cởi khăn phẩy giọt mồ hôi trán.
Gió mát lòng cô cũng nhẹ nhàng.
...Vội vàng để vở lên bờ cỏ.
Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh.
"Rồi lại lấy bóng râm, gió mát, bướm bay mà tả cái tâm hồn người đã vương ái tình, đối cảnh mà tình tha thiết:
Lá rợp cành xoài, bóng ngã ngang.
Cô em dừng bước nghỉ bên đường
Cởi khăn phẩy giọt mồ hôi trán
Gió mát, lòng cô những cảm thương.
...Ái tình nào phải bướm ngày xuân
...Một thoảng bay qua không trở lại
Trước sau cảnh một mà tình hai, hiện tượng dẫu hai mà bản thể vẫn một. Cái bản thể "một" không phải hai đó, tác giả biểu xuất được rất thần tình là nhờ cái kỹ thuật "trùng phục" đem lời tả cảnh trước mà tả lại cảnh sau. Trước sau lời dẫu có như nhau, mà kỳ trung vẫn khác. Khác ở ý nghĩa, khác ở chỗ đổi thay, thêm bớt hình dung từ (adjectif) hoặc trạng từ (adverbe).
Ánh sáng tưng bừng em chẳng cảm
Mặc chùm hoa nở, tiếng chim kêu.
"Là tâm hồn trước khi biết ái tình. Mà sau khi biết ái tình rồi thời:
Ánh sáng tưng bừng, em hớn hở,
Chim kêu, hoa nở, cảnh vui sao!
Thời cũng người ấy, cảnh ấy, bản thể ấy, cũng:
Trong xóm làng trên, cô gái thơ
Mà tình chưa nhồi sóng khi:
Tuổi xuân mơn mởn vẻ đào tơ
"Thời tấm lòng yên tĩnh:
Gió đông mơn mởn bông hoa nở
Lòng gái xuân kia vẫn hẫng hờ.
"Chờ... rồi chợt thấy, gần như được. Nào ngờ thành ra một chuyện bắt bướm hụt, mà:
Lững thững bên đường cô ngẩn ngơ
...Cô buồn, cô tiếc, cô ngùi ngậm
Cô nhớ ngày xuân, nhớ tuổi thơ
"Là cái tuổi "trong trẻo, bình minh", còn:
Lửng thửng lên đường buổi sớm chiều
"Mỗi một lượt thấy "bướm bay qua bãi cỏ xanh... " là một lượt "lòng phấp phới":
Vội vàng để vở lên bờ cỏ
Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh
"Đó là hai chỗ xuất sắc trong kỹ thuật tác giả.
"Một là dùng phép "bồi thấn" hai là dùng phép "trùng phục". Phép nào tác giả dùng, thời tác giả cũng chủ nó được, điều khiển nó được cả.
"Ngoài ra, còn những cái đặc sắc, mà tôi không nỡ bỏ qua không nhắc đến. Như khéo dùng âm hưởng cho kêu câu văn:
Tuổi xuân hơn hớn vẻ đào tơ:
"Khéo dùng vật cụ thể dụ dẫn sự vô hình:
Chim con nằm dưới tổ êm đềm
Lòng anh ấm áp, em sung sướng
Tình ái êm đềm như tổ chim.
"Nhứt là khéo dùng hình linh hoạt và có thể sắc làm thành những bức tranh nhỏ thần tình:
Ánh sáng tưng bừng
Hồi hộp nhìn em ngẩn ngơ...
Quần đen, áo trắng khăn hồng nhẹ
"Câu sau đó làm cho tôi nhớ câu:
Vân Tiên đầu đội kim khôi
Tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô
"Hay là câu trong Chinh Phụ Ngâm
Áo chàng đỏ tợ ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
"Lối dùng màu này, Nguyễn Khắc Hiếu khéo dùng nhứt, trong bài hát xẩm, tựa là "Cô tây đen".
"Tác giả lại có cái tài khéo dùng tiếng nói chuyện thường ngày, mà để vào cho hạp tình hạp tiết, thành ra "có duyên" như những tiếng:
Lòng em trong trẻo: Em không náo nức;
Ánh sáng tưng bừng: - hồi hộp nhìn anh;
Lửng thửng lên trường: - lửng thửng bên
đường: - lòng em phấp phới. - v.v...
"Kỹ thuật được như vậy, thi tứ dồi dào, khó mà luyện tập cho nên. Tiếc vì, về tự nghĩa, sao chừng như tác giả không chắc cho mấy, hay là không lưu tâm đến mấy. Tôi không hiểu như nước triều mà tác giả dùng, nghĩa ra làm sao. Cứ như câu:
Đầy đặn lòng em, mặt nước triều,
"Thời chữ triều có nghĩa là yên lặng. Mà thủa nay thời cái nghĩa của nó là lưu động xem như câu truyện Kiều nói:
Ngọn triều non bạc trùng trùng...
"Còn về cái tổ "ổ" chim, thời có thể dùng tiếng dưới mà chỉ cái đáy nó hay không, mà nói:
Chim non nằm dưới tổ êm đềm?
"Lại còn tiếng mơn trớn, tác giả hiểu nghĩa nào mà nói là:
Gió đông mơn trớn bông hoa nở?
"Tôi cũng lại không biết ngẩn ngơ tác giả hiểu làm sao mà:
Hồi hộp nhìn anh em ngẩn ngơ
Lững thững bên đường cô ngẩn ngơ.
"Tôi không dám nói nhiều lời nữa, chỉ còn muốn hỏi xem tác giả dùng tiếng Nam tiếng Bắc trộn trạc là ý làm sao.
"Tổ chim (Bắc) - mồ hôi (Nam) - giọt lệ (Bắc) - rỏ lệ (Bắc).
Sau khi phân tích tỉ mỉ kỹ thuật của Xuân Giang, Phan Văn Hùm đã để những lời kết luận cực tán thơ mới, và tin vào thơ mới như sau:
"Mà đó chỉ là những chỗ sơ lậu cỏn con, không có nghĩa gì, không có phương hại gì cho cái thi tài của tác giả, là người thật có biệt tài. Tôi chưa được dịp biết nhà thi sĩ nào trong làng văn chữ nho hay quốc ngữ, mà lìa bỏ được cái phóng tứ mơ màng, đuổi rượt những cái tư tưởng vu vơ theo gió trăng, non nước, cùng những cái tư tưởng thông thường về nhân tình thế sự, nghĩa là lìa bỏ được cái ngoại giới mà quay trở về mình, chú lực vào trong thân trong mình, để miêu tả nội giới hay không? Thật tôi chưa từng thấy có, mà cũng có lẽ tại kiến văn tôi cô lậu thật.
Nay thấy ông Xuân Giang là một. Cái ráng sức mà nội tỉnh đó (cet effort d'introspection) cái ráng sức mà phân tích (cet d'effort d'analyse) những nỗi uẩn trong tâm hồn đó, là một điều rất đáng hoan nghênh và tưởng lệ. Giả thử tôi mà có văn tài thế lực thì tôi không ngại gì giới thiệu ông Xuân Giang một cách sốt sắng về phương diện kỹ thuật mà thôi. Tôi nói "về phương diện kỹ thuật mà thôi" là khen kỹ thuật vị tất là khen người về phương diện khác, một là bởi không bằng cứ được ở nơi sự thành tựu của một người phụng sự một cái chủ nghĩa nghệ thuật nào, mà dám quyết rằng người ấy sẽ thành tựu, khi phụng sự một cái chủ nghĩa nghệ thuật khác, nhứt là cái chủ nghĩa nghệ thuật có hàm lý tưởng xã hội."
Đông Hồ lên tiếng trả lời Phan Văn Hùm, tự nhận là Xuân Giang
Sau bài phê bình của Phan Văn Hùm, ngày 24-5-1934, Đông Hồ lên tiếng cũng trên Phụ Nữ Tân Văn (số 243) để tự tố cáo cái tên tác giả Xuân Giang là chính tên của Đông Hồ, tức người giới thiệu thơ Xuân Giang trên báo Việt Dân với Xuân Giang chỉ là một người.
Đây lời Đông Hồ giải thích lý do tại sao ông phải giả thác như vậy:
"P.N.T.V. số 240, ngày 3-5-34 vừa rồi, ông Phan Văn Hùm đã đứng về phương diện nghệ thuật mà phê bình hai bài (1- Cái hôn lần đầu, 2- Cô gái xuân) trích ở tập "Nguồn thi cảm mới"Cuối bài có mấy chỗ, vì Phan quân còn ngờ nghĩa nên hỏi lại. Nay tôi xin viết bài kính đáp nầy.
"Trước khi vô bài, tôi xin mở cái dấu ngoặc.
"Tôi xin chịu tội với Phan quân và với cả các bạn độc giả báo Việt Dân số 6 và độc giả P.N.T.V. số 240 cái tội đã nói dối. Nói dối vì tôi đã đem hai chữ Xuân Giang mà che đậy cái tên mình rồi lại giới thiệu thơ của mình làm một cách ân cần, tội nhứt là trong lời phê bình đó có một ít tiếng khen, là lời giới thiệu mình mà tự mình lại khen mình.
Nguyên tôi muốn đem hai bài thơ nọ đăng báo khi toan gởi đi tôi lại sợ để trơn như vậy khi đăng báo, tất nhà báo cho đăng lộn vùi trong đám rừng "thơ nay" độc giả tất không để ý xem đến. Tôi có cái ý nghĩ đó vì khi làm xong hai bài thơ, không dám nghĩ được xứng đáng như lời khen lao của Phan quân, chớ cũng tự biết là nó có một ít đỉnh giá trị đặc biệt. Và đem đăng báo là tôi có muốn cho độc giả nhận thấy cái đặc biệt của nó ở chỗ thoát được cái tư tưởng ý tứ "xôi thịt" của thi ca ta, chính tôi cũng đã từng châu tuần một lúc lâu trong cái phạm vi tư tưởng ý tứ "xôi thịt" đó rồi. Đó là bởi thành thực muốn mở một thể thế, một cách lập luận mới cho thi ca nước nhà, chớ quyết không phải bởi lòng tự khoa tự đại. Vậy thì cần phải có một ít lời giới thiệu. Đáng lẽ thì viết bài giới thiệu đó là về phần tòa soạn của báo V.D. Nhưng tôi ở xa xuôi cũng bất tiện. Nơi gần thì tôi không kiếm được ai - ở một nơi cô lậu hẻo lánh, nó có những sự thiệt thòi cho học vấn như thế - nơi xa thì bất tiện. Đánh bạo, tôi đành phải dùng cái phương "giả thác". Giả thác ra đó là thơ của một người bạn mà mình đứng ra giới thiệu, nên trong lời giới thiệu tôi dùng tiếng để gọi tác giả là: "anh Xuân Giang" là cái cách kêu gọi thân thiết như tiếng thường dùng trong văn tiểu thuyết, chuyện bịa đặt, chớ không dám ngay thẳng mà gọi là "ông Xuân Giang" vì theo phép giao tế, đem một nhà thi sĩ giới thiệu với quốc dân trên báo chương thì phải gọi là "ông" chớ sao được gọi là "anh".
"Nay Phan quân đã phê bình đến một cách nghiêm trọng thành thực thì tôi thiệt không dám dấu cái tên mà không xứng, không dám nuôi sự giả thác - hay muốn nói là sự giả dối cũng được - ấy mãi, mà phải thành thực cùng Phan quân tiếp chuyện bày tỏ cái duyên cớ như trên, để trước là khỏi để làm lầm nhà phê bình, sau là để khỏi lầm cho độc giả. Lại một sự giả thác đó, cũng nên cải chính, sớm muộn rồi cũng phải làm, để tránh khỏi nhiều điều lầm lẫn về sau trong thi giới."
Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới
Tiểu Thuyết Thứ Bảy đối với phong trào thơ mới cũng không kém sôi nổi. Người lên tiếng nhiều trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy cũng là người đã lên tiếng ở Phong Hóa, ở tiểu thuyết Người Sơn Nhân, ở Phụ Nữ Tân Văn, người đó là Lưu Trọng Lư. Ông đã viết ba bài bênh vực thơ mới trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Bài "Phong trào thơ mới" (T.T.T.B. số 27, 1-12-1934) đã được tòa báo giới thiệu thế này:" "Kỳ trước ông Tản Đà có nói đến bài diễn văn ông Lưu Trọng Lư đọc ở nhà Hội học Qui Nhơn nên nay trích đăng một đoạn để các bạn độc giả cùng xem."
Như lời giới thiệu, bài "Phong trào thơ mới" này là một bài diễn văn. Có lẽ vì vậy mà ta thấy, nơi bài này, có rất nhiều ý, nhiều đoạn, ông đã nói ở bài gửi cho Phan Khôi đã đăng ở báo Phụ Nữ Tân Văn số 153 tháng Juin 1932 rồi sau lại đăng ở Phong Hóa số 31 Janvier 1933, hay ở bài đăng ở tiểu thuyết Người Sơn Nhân, tháng 5 năm 1933 rồi lại đăng lại ở Phụ Nữ Tân Văn số 216 ngày 14-9-1933. Có điều, ở đoạn trích bài diễn văn này, Lưu Trọng Lư nói mạnh mẽ hơn, so sánh thơ cũ thơ mới để tìm ra nguyên nhân sự khác biệt của đôi bên.
Trước hết, Lưu Trọng Lư nhìn nhận bọn thanh niên đã đưa thơ mới đến chỗ đặt được cơ sở rồi:
"Gần đây trong học văn nước nhà thấy có một cái phong trào mệnh danh là "Thơ mới"... Nó đã thành một sự hiển nhiên, dù muốn dù không, nó cũng cứ ngày một bành trướng. Cũng như mọi cái mới có ở trên đời, phong trào ấy chia dư luận ra hai phái: Phái hoan nghênh và phái phản đối. Tôi không cần nói, các ngài cũng dư hiểu rằng phái hoan nghênh là hạng thanh niên tây học, phái phản đối là các cụ nho học. Hai bên đương sừng sộ nhau, đương giằng co nhau... Thắng bại về đâu không thể đoán trước được, đó là sự bí mật của lịch sử văn học mai sau. Dầu sao, có một điều chắc chắn là những điều kiện ở bên ngoài đã biến thiên thì tâm hồn của người ta cũng thay đổi."
Sau đó Lưu Trọng Lư phân tích tâm lý thi gia thời xưa để tìm nguyên nhân tại sao các cụ ta ưa lối thơ gò bó chật hẹp nhiều giả dối nữa:
"Những sự thương đau buồn chán, vui mừng, yêu, ghét của chúng ta không còn giống những sự thương đau, buồn chán, vui mừng, yêu, ghét của ông cha ta nữa đó là một sự thực! Các cụ ta xưa sống trong một cuộc đời giản dị, êm đềm, sinh hoạt dễ dàng, tiếp xúc ít ỏi, cho nên tâm hồn các cụ cũng đơn sơ nghèo nàn, phẳng lặng khô khan như cuộc đời của các cụ, gia dĩ văn hóa Tàu tràn sang, đưa đến cho ta những kỷ luật nghiêm khắc, hẹp hòi của Khổng giáo. Cái chế độ chuyên chế trong chính trị cũng có ảnh hưởng lớn đến thi văn vì các thi sĩ ta xưa đều là những nhà nho mài miệt mười năm đèn sách, là chỉ lăm le có một ngày kia xuất chính. Thi văn của họ là một thi văn quí phái, bệ vệ, đường hoàng, có lề, có lối để thù tạc với nhau, hay để ca tụng những kẻ quyền thế đương thời, những công danh sự nghiệp của người và của mình. Những nhà nho ấy, nếu không may thất thời, lỡ vận, hoặc giả có tiêm nhiễm một ít tư tưởng Phật, Lão mà đâm ra chán đời, thì đã đành họ không thèm ca tụng những cái công danh sự nghiệp ở đời, nhưng khi dưới bóng trăng trong, dốc bầu rượu, họ cũng chỉ ngâm được một câu sáo: "chiếc hoa tàn, bóng mây qua, đời là bể khổ"...
"Thật thế, lòng chán đời của các cụ cũng tầm thường, ít ỏi như cái lòng yêu đời của các cụ! cái tình cảm đã tầm thường ít ỏi như vậy, thì cần gì có một cái khuôn khổ rộng rãi hơn mềm mại hơn?
"Một nhà thi sĩ có biệt tài, theo các cụ, là kẻ đã đưa một cách khéo léo những cái tình cảm cũ rích ấy vào những cái niêm luật khó khăn hơn hết.
"Họ không cần tưởng tượng cao xa, có tình cảm thành thực vì cái giá trị bài thơ không phải ở chỗ đó."
Sau khi chê bai tâm tình các cụ là chật hẹp nhỏ nhen, Lưu Trọng Lư chửi bới, châm biếm các kỹ thuật tiểu xảo mà các cụ nghĩ ra để gói ghém những tình cảm nhỏ nhen của các cụ. Dưới con mắt người đời mới, cái mà xưa kia các cụ cho là tài tình, tế nhị, ngày nay chỉ là ngây ngô, tẩn mẩn:
"Họ có một cái lối đối đáp rất buồn cười là hễ khi tôi thấy "con chó đi ra" thì thế nào tôi cũng phải nghĩ đến "con mèo chạy vô" dầu lúc bấy giờ trước mắt tôi thấy chiếc lá rụng. Nếu tôi không nói thế thì là không hay, không hay vì đối không chỉnh. Ngay người có tài như bà Huyện Thanh Quan cũng vì mắc phải cái bệnh ấy, mà viết ra lắm câu buồn cười. Rất đổi người có trí xét đoán chắc chắn như Phạm Quỳnh tiên sinh, khi đọc bài "Đèo ngang" mà phải phục là "Tuyệt bút". "Tuyệt bút" theo Tiên sinh, nghĩa là không thể đặt bút vào chỗ nào nữa, hết nước hay, hết nước đẹp, nhưng thưa các ngài, chỉ có một cái lỗi nhỏ là chẳng thành thực chút nào hết.
"Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia"
Không biết các ngài thì thế nào, chứ tôi thì khi đọc hai câu ấy, thấy cái lòng nhớ nước, thương nhà của bà Huyện mất vẻ tự nhiên và thành thực nhiều lắm. Thật bà đã kiếm được những chữ "sướng" nhưng không phải giúp bà diễn tả cái nỗi lòng tha thiết của mình, mà chỉ là để kết thành hai câu thơ tài tình. Tài tình đây là tài tình về mặt tiểu xảo. Hình như bà đã bỏ cái tình cảm đầu tiên của bà, mà theo dõi những sự đối chọi từng chữ, từng câu, cái vẻ không thật ấy, ta thấy hầu hết trong các bài thơ bát cú xưa nay".
Theo Lưu Trọng Lư, ngày nay ta chẳng nên trách các cụ, nhưng ngày nay các cụ cũng chẳng nên bắt ta sống theo các cụ, yêu, ghét theo các cụ. Người giữa thế kỷ hai mươi nghĩ, cảm... bao la hơn các cụ nên phải đi tìm cái thể thức rộng rãi hơn để mà diễn tả tâm tình.
Lưu Trọng Lư viết:
"Ngày nay ta đã có cái ý muốn lập một nền văn học hẳn hoi cho nước nhà, thì cố nhiên không còn là cái lúc nói bằng những điển tích mơ hồ, nói những điều mình không cảm, nói mãi những điều cũ mèm sáo hủ. Phàm cái gì mà lập lại hai ba lần là thành "máy móc", là mất hẳn sự thành thật, sự sống, là vô hồn...Vậy ta phải đi tìm những tình cảm mới mẻ. Mà sự thật, thì ngày nay ta được tiếp xúc với văn hóa âu tây, với những thực trạng mới lạ, không phải tìm, ta cũng đã có những tình cảm mà cha ông chúng ta không có.
"Các cụ ta chỉ thích cái bóng trăng vàng rọi ở trên mặt nước; ta lại thích cái ánh mặt trời buổi sáng lấp lánh, vui vẻ ở đầu ngọn tre xanh. Các cụ ta ưa màu đỏ choét; ta lại ưa những màu xanh nhạt.- Một dòng máu chảy ra làm cho các cụ rùng mình.- Chỉ một cái quan tài phất giấy đỏ lững thững đi dưới bóng mặt trời ban trưa cũng có thể làm cho ta rởn óc.- Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì tiếng gà đúng ngọ.- Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi ; ta thì cho là mát mẻ đứng trước một cánh đồng xanh ngắt, cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình, muôn trạng, cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình chân thật, cái tình ảo mộng, cái tình ngây thơ, cái tình già dặn, cái tình trong giây phút, cái tình nghìn thu...Các ngài xem đấy, cái tình cảm của người đời bây giờ dồi dào, phiền phức như thế, liệu có khép vào trong những niêm luật khắc khổ được không? Ông Lanson chẳng đã nói rằng: "Với những cái tâm trạng mới, phải có những văn thể mới" (à des états d'âme nouveaux, des genres nouveaux), thì trong Văn học ta bây giờ mà có cái phong trào "Thơ mới" cũng là lẽ tất nhiên vậy". (Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 27, 1-12-1934).
Lưu Trọng Lư gửi thơ thứ nhất cho Tản Đà
Sau khi đã tàn nhẫn phũ phàng phần nào với thơ cũ như vậy ở số 27 (1-12-13934), thì đến số 29 (15-12-1934) trong "Bức thư thứ nhất gửi lên Khê Thượng" cho Tản Đà, Lưu Trọng Lư đã đổi hẳn giọng nói. Đây không còn phải là một người muốn tranh hùng, cãi cọ mà là một "tâm hồn muốn mở ra với một tâm hồn". Thực vậy, Lưu Trọng Lư đã nói với Tản Đà bằng một ngữ ngôn đầy tình yêu, lòng quý mến, niềm kính trọng một người anh đã ấp ủ lòng người em bé bỏng. Đây lời Lưu Trọng Lư thổ lộ với Tản Đà:
"Tản Đà Tiên sinh,
"Lần này là lần đầu tiên, tôi được biên thơ cho tiên sinh, nhưng tôi đã được hân hạnh làm quen với tác giả "Khối tình con" từ ngày tóc còn để trái đào. Đối với tôi, Tiên sinh không phải là một người lạ ; đã có lúc Tiên sinh đi bên cạnh tôi, đưa quyền phép thiêng liêng dẫn tôi vào một thế giới thần tiên, mộng ảo, thế giới của Chiêu Quân, của Dương Quý Phi, của Hằng Nga...của Tô nữ... Đã đành rằng lúc mộng thì phải có lúc tỉnh, khi ra khỏi cuộc phiêu lưu kỳ lạ, lại thấy mình quạnh quẽ lạc loài không hiểu mình, không biết người, ngơ ngác lạ lùng giữa một đám người quen biết, nhưng riêng tôi vẫn lấy điều ấy làm thích thú:
"Ai bảo rằng ta hay mộng tưởng?"
"Cuộc đời âu cũng giấc chiêm bao!"
"Ở trong thế giới này, nếu có điều bất ý, thì tôi đây cũng muốn mơ luôn không muốn tỉnh" cũng muốn đi vào thế giới đẹp đẽ hơn do ta tạo lấy... mà ai ngăn ta điều ấy được?
"Tiên sinh ạ, thì ra chúng ta đã quen nhau tự hồi nào, mà nay mới biên thơ cho nhau, kể cũng đã muộn lắm.
"Vậy trong bức thơ này và những bức thơ sau, Tiên sinh cho phép tôi gác hết những giọng khách sáo thường tình, nói phăng ra những điều tôi thường bâng khuâng trong trí về một vấn đề quan trọng giữa làng thơ. Tôi muốn nói là vấn đề "Thơ mới" mà thiên hạ bàn tán đã nhiều. Một hôm tôi đưa vấn đề ấy ra chất vấn một ông bạn tôi. Bạn tôi bình sinh là người ngay thẳng, minh bạch rất ghét thái độ mập mờ, thế mà đối với vấn đề này cũng phải trả lời một cách lúng túng: "Thơ mới hay thơ cũ thơ nào hay thì tôi thích và ngâm mãi".
"Câu trả lời lúng túng của ông bạn, sau này tôi xét lại thật chí lý, ví dụ: như tôi đây là một người rất yêu "Thơ mới"  mà trong làng "Thơ mới" dầu có sản xuất ra được một bậc thiên tài lỗi lạc tôi không vì bậc thiên tài ấy mà rẻ rúng ông Nguyễn Du thân yêu của tôi, ông Nguyễn Du bất diệt, nhà thi sĩ của muôn đời."
Như vậy, ta thấy Lưu trọng Lư chẳng có ghét, chẳng có chán thơ cũ khi những nhà thơ cũ ấy là Nguyễn Du, khi các vần thơ cũ ấy là "khối tình con" của Tản Đà. Nhưng Lưu trọng Lư đã thỏ thẻ với Tản Đà rằng: thằng em bé bỏng là chàng ấy ngày nay lớn khôn rồi, mái nhà cũ của cha mẹ, tuy nó vẫn yêu, vẫn quí, mà không muốn ở nữa, nó ra đi xây dựng một mái nhà khác để ở riêng với người yêu của nó. Lưu Trọng Lư đã ôn tồn giải thích cho Tản Đà thấy tại sao ông phải làm thơ mới:
"Cuộc đời dầu có thay đổi, bao giờ tôi cũng là người ưa ngâm... ngâm mãi mà không biết chán những bài "Chiêu hồn"bài "Mả cũ...". Nhưng tôi không thể giấu Tiên sinh cái cảm tình rất nặng của tôi đối với "Thơ mới"... Tiên sinh cho phép tôi nói ra đây cái cớ tại sao tôi làm "Thơ mới" tôi cần phải sáng tạo ra những điệu mới"...
Sau đó, với tất cả tình trìu mến, say sưa, Lưu Trọng Lư đã trình diễn lại các tâm trạng mà ông trải qua khi làm một bài thơ mới, từ chỗ nghĩ ra đề tài, đến tình tứ gợi lên ; tới việc tìm chữ, chọn vần, lựa điệu:
"Nói đến mình, tôi tưởng là một điều khiếm nhã, nhưng cũng chỉ có mình mình mới hiểu được rõ ràng thôi.
"Tôi còn nhớ một buổi sáng về mùa Xuân ở quê nhà, ngồi bên một cánh song, tôi nhìn bóng mặt trời lấp lánh ngoài vườn hoa, giữa những màu xanh, đỏ, tím...Những hoa hoàng lan, hoa tử vi, cúc trắng, hồng bạch phơn phớt rung rinh trong bầu xuân khí ấm áp, lòng tôi bỗng thấy nhảy nhót, vui vẻ, phe phẩy. Tôi bèn đặt mình vào cảnh ngộ một người thiếu nữ, bên người tình để hưởng cho hết diễm phúc, làm ra bài thơ đề là: 
"Ngày xuân"
Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giáp Mộ
Trong gian nhà cỏ
Tôi quay tơ
Chàng ngâm thơ
Vườn sau, oanh giục giã
Nhìn ra hoa đua nở
Dừng tay tôi kêu chàng:
"Này! Này!; bạn! xuân sang"
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng, lòng vồn vã...
"Nhưng một ý nghĩ tàn ác thoạt len vào trong trí tôi: tôi chợt thấy sự mỏng mảnh của tạo vật... Hoa sẽ tàn... Ngày tháng đi! lòng người thay đổi - Bao nhiêu cái đẹp đẽ, êm đềm, thân yêu ở trên cõi thế rồi sẽ tan tành, đổ bể vào vực thẳm, của thời gian, lòng tôi bỗng xám tốc lại:.
Rồi ngày lại ngày
Sắc mầu phai
Lá cành rụng
Ba gian: trống
Xuân đi...
. . . .
"Những vật kia kể còn bền chắc, dai dẻo hơn người. "Vật" còn mong trở lại chứ "Người" thật là một đi ngàn thu mất biệt:
...Xuân kia còn trở lại
Người xưa không thấy tới
"Thể thơ ấy là do tôi tạo ra để cho hợp với sự uyển chuyển ngoắt nghéo của thi tình, thi tứ, rồi tôi gọi nó là "Thơ mới".
"Muốn tả cái lòng hớn hở, cái vui phe phẩy, khi thấy ánh trời buổi sáng nhởn nhơ với những đóa hoa mơn mởn, ta cần phải dùng một "thi thể" riêng, gọn gàng, văn vắn, vần trắc cùng ngang với vần bằng.
"Cũng như khi tả sự nhanh chóng của thì giờ ta phải đi từ câu dài đến câu vắn hơn để người đọc nhận thấy sự nhanh chóng ấy một cách rõ rệt:
Rồi ngày lại ngày
Sắc mầu phai
Lá cành rụng
Ba gian: trống
Xuân đi.
"Thưa Tiên sinh, theo ngu ý, cái điệu thơ thật có quan hệ đến bài thơ. Sống ở trong cuộc đời mới mẻ, lòng thấy vài cái tình cảm khác khác, mà muốn diễn tả ra cho hết, không thể không tìm đến những cái điệu rộng rãi, mềm mại hơn. Âu đó cũng là một điều bất đắc dĩ, có ai cho là lập dị, cũng đành cam tâm...
"Hôm nay xin tạm biệt Tiên sinh ở chỗ này đã...Trong những thư sau, ta sẽ còn trở lại với "Thơ mới" (T.T.T.B. số 29, 15-12-1934).
Lưu Trọng Lư gửi thơ thứ hai cho Tản Đà
Trong bức thư sau đề ngày 19-1-1935 (Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 34), Lưu Trọng Lư đã viết cho Tản Đà, phân tích và cực tán bài thơ "Non xanh xanh" của Tản Đà, bài thơ mà Lưu Trọng Lư bảo cũng có thể xếp vào hàng thơ mới.
"Tản Đà Tiên sinh
"Trong bức thư trước, tôi có câu rằng: "Cái điệu thơ thật quan hệ đến ý tứ của bài thơ". Bức thơ ấy viết xong, thì tờ T.T.T.B. số 26, mang lại một cái chứng thực nữa cho lời tôi đã nói, bài "Non xanh xanh" của Tiên sinh đăng trong số báo ấy, ở mục văn nghệ, ngoài cái giá trị tưởng tượng, nó còn có một cái giá trị ở chỗ khác nữa: ở điệu thơ...
"Dương Quí Phi và Chiêu Quân là hai kẻ đa tình có danh tiếng ở trần gian, lúc về tiên giới ngày nhìn xuống cõi trần hoàn xa thẳm, mù tịt là chốn "tình trường" của mình ngày trước thì lòng thương dạt dào những nỗi nhớ nhung, thương tiếc... Cái tình thật là kỳ lạ, mà cũng thật là giéo giắt, não nùng, mênh mông! chẳng ngại gì. Tiên sinh đã tự ý tạo ra một cái điệu riêng cho thích hợp, từ đầu đến cuối bài thơ. Tiên sinh gieo toàn một vần bằng ngõ hầu diễn cho hết cái "giéo giắt", cái não nùng, cái "mênh mông" của khối tình kỳ lạ ấy!... Trong âm hưởng của ta, những tiếng "bằng" thật là dồi dào, uyển chuyển, "huyền diệu" có thể diễn tả được hết cái buồn của người ta, cái buồn muôn hình vạn trạng...
"Giả thử Tiên sinh đem phả cái tình của hai bà tiên vào một điệu thơ rất bó buộc, toàn vần trắc chẳng hạn, thì cái tình ấy sẽ tiêu tan đi mất hoặc trở nên buồn cười."
Sau khi cực tán thơ của Tản Đà, Lưu Trọng Lư đồng ý với Tản Đà rằng có rất nhiều bài thơ mới rất dở, cho nên mặc dầu sốt sắng bênh thơ mới Lưu Trọng Lư cũng chẳng muốn bênh vực những thứ thơ đó.
"Trong bài "Phong trào thơ mới" Tiên sinh có câu: "... cũng có xem đến một vài bài thơ mới đăng trên các báo chí nhưng thực chưa lấy làm xứng ý" mà tôi đây cũng lấy làm bất mãn lắm...Tôi là một người yêu "thơ mới" - xin thú thật với Tiên sinh như vậy. Nhưng tôi cứ thành thực tố cáo với làng thơ rằng: phần nhiều những nhà tân thi nhân hình như không hiểu cái âm luật huyền bí, cái cách tiết tấu tự nhiên của tiếng ta...
"Đã đành có khi cần phải tạo ra những điệu mới nhưng người nào nghĩ rằng muốn tạo ra thế nào thì tạo, thật là lầm to...
Cái "điệu" phải hợp với thi tình, thi tứ, mà cũng cần phải hợp với những luật phép nhất định của thanh âm. Trên các báo chí ở đây tôi thấy nhiều bài "thơ mới" chữ dùng rất sôi nổi vần điệu khó khăn, lại có những câu dài dằng dặc đọc lên nghe lổng chổng nghênh nghênh thế nào!
"Đối với người thường, một câu thơ có thể dài mấy cũng được, nhưng đối với các lỗ tai rất sành sỏi của thi nhân sự ấy rất có hạn định...Trong thể ca trù cũng có lắm câu rất dài, những câu dài ấy là gồm nhiều câu ngắn nương tựa vào nhau, câu thơ mới dễ ngâm...
"Hãy bình tĩnh mà xét, ý tứ của những bài "Thơ mới" ấy không phải là không hay, nhưng ý tứ hay mà làm gì, nếu không biết diễn tả ra được một cách dễ dàng, trơn tru, êm ái...Cái "thi tứ" nào luyện bằng một âm hưởng du dương, mới hòng đi tới lòng ta được, bằng không nó sẽ đi lên trí ta và nó chỉ làm cho ta suy nghĩ mà không làm cho ta cảm xúc".
Tuy có đồng ý với Tản Đà mà chê một ít bài thơ mới, Lưu Trọng Lư cũng tha thiết yêu cầu Tản Đà không nên vì những sự sơ xuất đó mà hờ hững ác cảm với thơ mới:
"Dầu sao cũng không nên vì đôi điểm lầm lỗi của nhà Tân thi nhân mà hờ hững với "phong trào thơ mới"... Hình thức của thơ phải mới, mới luôn, cho hợp với tâm hồn của ta, cái tâm hồn phiền phức của ta, trong khi tiếp xúc với hoàn cảnh mới, lại càng thêm phiền phức...
"Tiên sinh nghĩ sao?".
Hoài Thanh ca ngợi thơ mới trên T.T.T.B.
Đồng thời với Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh cũng dùng Tiểu Thuyết Thứ Bảy (số 31, 29-12-1934) để bàn về "Thơ mới".
Theo Hoài Thanh, xét cho cùng ra, không có thơ mới cũng như không có thơ cũ: chỉ có thơ mà thôi, tức là thơ làm ngày xưa và thơ làm ngày nay. Cái hay, cái kiệt tác không lệ thuộc ở thời gian mà ở thiên tài của thi nhân:
"Trước hết một câu hỏi, thơ mới có hay không có?
"Nói một cách tuyệt đối văn thơ không có xưa không có nay, vì vô luận xưa nay, hễ ghép chữ thành câu, có ý tứ, có âm điệu, gợi được mỹ cảm cho người nghe, đều gọi là thơ cả.
"Ta đọc những câu:
Dưới dòng nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha...
Cảnh ấy tình này thôi hết muốn
Trời kia đất nọ nỡ cho đành
Hay những câu của Thế Lữ:
Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt
Mây bay, gió quyến mây bay...
Tiếng vi vút như khuyên van như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may
"Mấy đoạn văn này đều gợi được thi cảm trong lòng ta, ta cần gì phải phân biệt xưa nay ".
Tuy nhiên nếu bình tâm mà nhận định ta vẫn thấy có một cái gì khác biệt giữa hai thể thơ mà người ta gọi là cũ, là mới: "Tuy vậy cái mục đích của nhà làm thơ, cái công dụng của thơ không khác, mà cách xếp đặt có khác, có bài thơ làm theo lối nhất định ngày xưa, có bài lại không theo niêm luật nào, những bài thơ không theo niêm luật này, quả như ông Tản Đà đã nói, không phải đợi đến vài năm gần đây mới có, song chắc ông Tản Đà cũng phải nhận rằng chỉ trong khoảng vài năm gần đây, lối thơ ấy mới thành phong trào, có địa vị hẳn hoi trên văn đàn nước nhà, phong trào thơ mới ngày nay đã thành sự thực hiển nhiên, "thơ mới" có vậy.
"Thơ mới không những có, mà lại có những tay thi sĩ có tài sản xuất nhiều tác phẩm rất giá trị nữa".
Sau đó, Hoài Thanh trích của Thế Lữ mà Hoài Thanh gọi là những vần thơ kiệt tác:
"Những câu thơ của Thế Lữ tôi dẫn trên kia hay những câu sau này của Lưu Trọng Lư có đăng trong một kỳ Tiểu Thuyết Thứ Bảy vừa rồi". Nếu đem so sánh với các áng văn kiệt tác xưa nay của nước ta, tưởng không có gì phải hổ thẹn.
"Ban đêm đi dạo, thoáng nghe mùi thơm của một đóa hoa mà tưởng tượng:
...Kiếp trước hoa là thiếu nữ
Sống một kiếp, vạn người thương
Chết vô duyên vùi bên đường...
Một đám đất vàng
Dãi nắng dầm sương...
Trên đống sương lạnh
Thổi lên một nhánh
Lúc canh trường
Thoảng mùi hương...
"Mới trong thời gian rất ngắn, mà đã có những kết quả tốt đẹp như thế, thì thơ mới còn nhiều hy vọng về sau".
Cũng giống như Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh nhìn nhận toàn thể cơ cấu xã hội đang bị cuốn phăng theo trào lưu mới : tất cả cuộc đời dân tộc ta đang đổi mới. Tâm tình ta, tuy có thay đổi chậm hơn cả, nhưng cái lúc nó thay đổi cũng đã đến rồi:
"Nước ta trong mấy ngàn năm sống một cuộc đời chất phác, bình dị, tư tưởng, tình cảm, người ta cũng vì đó mà bình dị, cứ phô diễn theo những quy tắc đời trước cũng đủ.
"Nhất đán, phải tiếp xúc với văn minh Âu Tây, bao nhiêu nền tảng kiên cố về lễ nghi, về tôn giáo, về xã hội, về chính trị, đều bị một phen rung rinh, điên đảo, trước mắt, bỗng bày ra những cảnh rực rỡ nguy nga, cũng như cảnh thảm mục, thương tâm chưa bao giờ thấy. Lúc đầu còn ngơ ngác chưa hiểu ra thế nào dần dần cũng uốn mình theo cuộc sinh hoạt mới để mưu lấy sự sinh tồn, ăn bận theo lối Tây, nhà ở xây theo kiểu Tây, cũng dùng ô tô cũng đi xe lửa, cũng mở thương điếm, công trường, đó là cuộc cải cách về vật chất.
"Tiếp đến cuộc cải cách về tư tưởng, người mình cũng có kỹ sư, cũng có bác sĩ, cũng nghiên cứu khoa học, triết học thái tây".
"Song cuộc cải cách chỉ ở trong vòng vật chất và tư tưởng thì chưa được sâu xa, hoàn toàn; còn phải có một cuộc cải cách về tình cảm nữa. Phong trào thơ mới là tiêu biểu cho cuộc cải cách này vậy, cũng bởi tình cảm là phần cốt yếu trong tâm tính người ta, khó thay đổi hơn lý trí cùng mọi tập quán sinh hoạt hàng ngày, nên mãi hơn nửa thế kỷ tiếp xúc với văn hóa Âu Tây mới thấy có sự thay đổi rõ rệt, sự thay đổi này không phải chỉ riêng vài người mà chung cho rất nhiều người. Các thi sĩ trong làng thơ mới đã được hoan nghênh một cách đặc biệt cũng vì hợp với lòng khát vọng của phần đông.
"Người ta thường nói "Nguồn thi cảm", mà quả thế, thi cảm là một dòng nước vô hình chảy ngầm ngầm từ đời này qua đời khác trong tâm hồn dân tộc. Lúc thường dòng sông phẳng lặng đi theo lối có sẵn từ ngàn xưa, gặp lúc giông tố, năm bảy nguồn nhóm lại, sức nước quá mạnh, tung bờ, vỡ đê, chảy tràn lan khắp đồng ruộng. Nhưng tràn lan một lúc rồi cũng phải tìm lối đi, nhân đó sẽ có thêm nhiều dòng sông mới, dần dần lại cùng phẳng lặng chảy hoài như xưa cho đến ngày có một cơn giông tố khác.
"Tôi muốn dòng sông kia như khuôn phép mà làng thơ mới sẽ tự tạo ra và buộc mình vào trong vì một lối thơ mới tồn tại không thể có quy tắc nhất định. Người có thiên tài thì tự nhiên sẽ lựa được những âm điệu có thể làm rung động lòng người nhưng thiên tài hiếm, lẽ tất nhiên làm cho không phải ai cũng có thiên tài, một người tìm ra được âm điệu hay, năm ngàn người cùng làm theo âm điệu ấy đã thành ra quy tắc rồi đó.
"Vậy bây giờ thơ mới đã có qui tắc gì chưa? Hiển nhiên là chưa có. Không theo phép tắc khuôn khổ xưa thì người ta gọi là mới, hai chữ thơ mới hiện nay chỉ có thể định nghĩa một cách tiêu cực như vậy, mà thôi, lối thơ sau này, câu thơ sẽ dài hay ngắn thể nào, điệu thơ sẽ thể nào, chưa ai biết được, song có điều chắc chắn, là thơ thì phải có vần. Những bài Nguyễn Du, Nietzche của Thái Can trong quyển Những Nét Đan Thanh, ý tứ dồi dào đều là những bài văn xuôi rất hay, nhưng không thể xem là thơ được, thơ phải có vần, phải chú trọng về âm điệu, phải mượn thêm âm điệu trao mối cảm cho người ta nhiều hơn là mượn ý tứ ly kỳ hay sâu sắc".
Sau cùng, cũng giống như Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh dầu có trách một ít sơ xuất của làng thơ mới vẫn bênh vực thơ mới, vẫn chịu rằng thơ mới đã có những thiên tài xứng đáng:
"Các ông trong làng thơ cũ thường hay có ác cảm với thơ mới đó là lẽ tất nhiên. Họ lại còn nói xấu nữa "mấy anh trẻ con không có nho học, không biết niêm luật thơ là thế nào cũng muốn kiếm một chỗ ngồi giữa đình làng thơ, nên mới phải bày ra lối thơ mới." Điều này quả là một điều vu oan. Tôi thấy phần nhiều các ông làm thơ mới đều có biết làm thơ cũ, chỉ vì quy tắc thơ cũ quá chật hẹp không đủ phô diễn những mối cảm xúc, những tính tình mới mẻ phức tạp của họ nên họ phải đi tìm những phép tắc rộng rãi hơn đó thôi. Một đôi khi vui vui, họ cũng làm thử lối thơ cũ thì thơ họ hay lắm. Những bài "Học trò đi học đã về" (1), "Hoa ái tình" (2), của Thái Can; "Túp lều cỏ" "Nhớ lại ngày" (3) của Lưu Trọng Lư; bài "Năm qua" (4) của Leiba, bài "Than thở của nàng Mỹ Thuận" (5) cùng nhiều bài khác của Thế Lữ đều là những bài thơ có giá trị, cùng với mấy bài này ta có thể kể luôn mấy bài thơ của Đông Hồ: "Bốn cái hôn" (6), "Cô gái xuân""Cái hôn lần đầu" (7) tuy ông Đông Hồ không tự nhận mình là một nhà thơ mới.
"Có một điều, nguồn thi cảm mới đầu có đi theo những phép tắc xưa vẫn giữ tính cách riêng của nó; mà những bài thơ tôi vừa kể trên này nếu gọi là thơ mới có lẽ đúng hơn là thơ cũ." (Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 31, 29-12-1934)
Văn Thức trên báo Loa ca ngợi thơ mới
Sau Tiểu Thuyết Thứ Bảy, đến báo Loa cũng bênh vực, ca ngợi thơ mới, được gọi bằng một tên đẹp "Nàng thơ"Trong bài "Mộng thơ" (Loa số 79, 22-8-1935), B.C. Văn Thức đã nhân hóa thơ thành một thiếu nữ trẻ, đẹp, duyên dáng, say sưa, yêu đương, si tình. Người thiếu nữ mới này bạo dạn, tự do chứ không e lệ, kín đáo, ít lời như người thiếu nữ xưa.
Cũng trên Loa số 79, 22-8-1935, nơi mục Văn Học Việt Nam hiện đại, Trương Tửu đã đem so sánh tài nghệ của ba nhà văn tả cảnh Thế Lữ, Lan Khai, Lưu Trọng Lư với các đại văn hào thời xưa như Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương rồi ông ghi nhận rằng nghệ thuật của ba nhà văn mới hơn hẳn các nhà văn xưa.
Trương Tửu đã phân tích nghệ thuật tả cảnh xưa kia của bài Đèo ngang của Hồ Xuân Hương. Bài thơ tuy có tài tình, nhưng không đặc sắc, không bao la như thơ mới, tức thơ bắt chước của Pháp:
"Thứ tả cảnh này vẫn có trong thơ Việt Nam từ ngày thành lập nền văn học. Những truyện có giá trị như Thúy KiềuHoa Tiênnhững ngâm khúc tuyệt bút như Chinh PhụCung Oán và phần nhiều những bài thơ hay của Hồ Xuân Hương, Thanh Quan nữ sĩ, của Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ... đều là những bức tranh đậm đà, lý thú của màu sắc thiên nhiên.
"Nhưng ta phải nhận rằng lối tả cảnh hồi xưa, thiếu ba tính cách cần yếu:
1 - Rõ ràng.
2 - Đầy đủ.
3 - Linh hoạt.
"Muốn chứng thực điều nhận xét của tôi vừa viết, tôi đơn cử ra đây một bài thơ tả cảnh một nhà văn, theo tôi thấy, ưa thích tả cảnh hơn tất cả những người khác, tôi muốn nói bài Đèo ngang của Hồ Xuân Hương nữ sĩ:
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạo cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ toét bùm tum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió dật
Đầm đìa lá liễu hạt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo
"Theo quan niệm văn học cũ về thơ, thì bài này tuyệt mỹ. Nhưng đã có ý kiến mới về lối tả cảnh thì nó không còn một mẩy giá trị nghệ thuật nào.
"Dùng những danh từ: đèo, cửa, nóc, đá, rêu, thông, liễu, gió, sương, những phẩm từ: cheo leo, đỏ toét, xanh rì... không phải là tả, chỉ là dán trên mỗi vật một mầu giấy kê tính chất (ce n'est pas prendre c'est poser des étiquettes).
"Ừ, đèo cheo leo, nhưng cheo leo ra làm sao? Cửa đỏ toét nhưng đỏ giống màu gì? Phải tả thế nào mà người xem văn trông rõ cảnh sắc ấy như ở trước mắt, không cần dùng đến những chữ cheo leo, đỏ toét...mà ai cũng có cảm giác tương đương...
"Tả cảnh không được nói trơn tính chất, màu sắc của vật chỉ cần bày ra tất cả những điều kiện thành lập của tính chất, màu sắc ấy.
"Một cái nhận xét này có thể ứng dụng vào cả bài thơ.
"Lấy một vài nét đơn sơ để thu tóm đại thể, một cảnh sắc, chủ ý ký thác vào thiên nhiên, một cảm tình tổng quát, đó là nguyên lý (le principe) của lối văn tả cảnh ngày xưa".
Sau khi đã giới thiệu và lấy thí dụ để mô tả nghệ thuật một phần nào giả tạo, tiểu xảo của thơ cũ, Trương Tửu đã phân tích và trình bày cái nghệ thuật uyển chuyển, bao la của thi ca Pháp mà thi nhân Việt Nam cần bắt chước:
"Tôi nói: hồi xưa, vì từ khi chịu ảnh hưởng của Pháp văn, nó đã thay đổi nhiều, nghĩa là tiến bộ nhiều.
"Dưới ngòi bút các nhà văn Pháp, cảnh vật trở thành rõ rệt, linh hoạt. Họ tả cặn kẽ, tỉ mỉ mà không bề bộn. Mỗi nét vẽ họ đặt trên tờ giấy là một cảm giác in vào hồn người đọc.
"Muốn có thí dụ thì phải vài mươi pho sách mới chép hết đuợc.
"Cũng một cảnh đăng sơn mà trong bài thơ của bà Huyện Thanh Quan ta chỉ thấy hình bóng lờ mờ: cỏ cây, vách đá, tiều phu, chợ... Với thi sĩ Pháp Léonce Dépont ta được nhìn rõ những vực sâu, hang thẳm những "đầu người đội mũ đá, mọc sừng thông, màn sương như tấm lụa đào che phủ cả bầu trời trái đất. Những đàn bò vừa đi vừa kêu dưới ánh xiên khoai của tà dương". Ta còn được nghe tiếng chuông, tiếng suối làm rung động cả thinh không tiếng nhạc rung vang khắp sườn núi trơ vơ...( !)
"Nữ sĩ của chúng ta, trước cảnh thần tiên của Đèo ngang, chỉ có cảm tưởng nhớ quê hương, trơ trọi. Léonce Dépont làm ta "cao hứng, say mê, khoát đạt, thấy mình trở lại cái thời kỳ ấu trĩ mang một tâm hồn trong sạch, thơm tho". Thi sĩ truyền cho ta cảm giác của "một con ong nở ra giữa mùa mật, tha hồ mà hút những bông hoa ảo tưởng..."
"Một đằng tả sơ sài, một đằng tả kỹ lưỡng.
"Một đằng cảm nông nổi, một đằng cảm sâu xa.
"Đó là hai cái sai biệt của hai lối văn tả cảnh Pháp Nam. So sánh hai văn chương, tôi thấy rằng dù tả cảnh hay tả tình, nhà văn Pháp cũng chuộng sự phân tách tinh vi. Còn ta chỉ sở trường sự tổng hợp xảo thủ.
"Như vậy, là vì hai văn hóa khác nhau.
"Một bên tôn sùng đạo lý, xã hội nên khinh bỏ và tỏa chiết cái sinh hoạt của thân, tâm (Nam).
"Một bên phụng sự nghệ thuật, cá nhân nên quý trọng và hỗ trợ sự phát triển tự do của giác quan, tình cảm (Pháp).
"Ngày nay muốn gây một văn học xứng đáng cho dân tộc, chúng ta phải phá đổ cái giáo lý khô khan tổ truyền để vun trồng chủ nghĩa cá nhân cho đâm bông nảy quả ".
Lê Tràng Kiều tính sổ thơ mới
Nhưng người đã viết nhiều nhất về thơ mới trên Hànội báo là Lê Tràng Kiều. Trong hơn ba tháng trời, ông viết một loạt 13 bài bàn về thơ mới hay bênh vực ca ngợi các nhà thơ mới.
Ngày mồng 8 tháng 4 năm 1936, Hànội báo 14, Lê Tràng Kiều viết bài "Thơ mới" để kiểm điểm về thành tích của thơ mới qua ba năm sóng gió bão táp. Lê Tràng Kiều đã ví ba năm thi ca của thế hệ 1932-1936 như một thế kỷ: "Cách đây hơn ba năm, trong Phong Hoá số mùa xuân (1933), ông Lưu Trọng Lư rụt rè, giấu mình dưới một cái mật hiệu, lần đầu tiên gieo một cách mạnh mẽ hạt giống thơ mới, vào đất Bắc...
"Ba năm qua...
"Cái lối "thơ mới" mà ông Lưu bấy giờ còn cho là một sự bí mật của lịch sử văn học, nay đã thành sự thật ai cũng công nhận, hơn thế nữa, một sự thành công vẻ vang.
"Ba năm qua, văn học ta đã bước được một bước dài. Một sự may mắn không ngờ! chỉ trong vòng ba năm mà lần lượt đua nhau xuất hiện ra không biết bao nhiêu tác phẩm có giá trị, mà trong cái dĩ vãng rất bằng phẳng mấy ngàn năm chỉ lơ thơ một vài cái.
"Từ bao giờ đến bây giờ, nguời ta đã có mấy lần một tâm hồn:
- Hùng tráng như Huy Thông
- Dồi dào như Thế Lữ
- Huyền diệu như Thái Can
- Âm thầm như Đông Hồ 
- Trong sáng như Nhược Pháp 
- Mơ màng như Lu Ba 
- Buồn bã như Nguyễn Vỹ
"Và một tâm hồn đầy âm nhạc, đầy mộng ảnh như Lưu Trọng Lư.
"Ba năm qua
"Như một thế kỷ đã qua!
"Bây giờ tôi tưởng đã đến lúc nên xoá bỏ hai chữ "Thơ mới" đi thôi.
"Hai chữ "Thơ mới" là biểu hiệu một cuộc cách mạng đương bồng bột.
"Cuộc cách mạng về thi ca ấy, ngày nay đã yên lặng như mặt nước hồ thu.
"Thơ mới không còn lạ lùng nữa.
"Thơ mới đã thuần thục rồi!
"Thơ mới đã trở vào khuôn phép rồi!
"Thơ mới đã quen với chúng ta rồi, và có lẽ "quen thân" nữa!
"Thơ mới không còn cái gì bỡ ngỡ và rụt rè lúc ban đầu..."
Hình như Lê Tràng Kiều đã hơi nói "phét" thì phải khi viết, vào khoảng tháng tư năm 1936 "Cuộc cách mạng về thi ca ấy, ngày nay đã yên lặng như mặt nước hồ thu". Là vì chính bài "Thơ mới" mà Lê Tràng Kiều viết tựa, cho cuốn "Những áng thơ hay", bài tựa mà ta vừa phân tích và trích mấy đoạn ở trên đây khiến cho Thái Phỉ nổi nóng, lên tiếng công kích Lê Tràng Kiều trên báo Tin Văn. Tài liệu báo Tin Văn tôi không có. Nhưng biết được sơ qua ý của Thái Phỉ qua bài trả lời Thái Phỉ của Lê Tràng Kiều (Hànội báo số 17, 29-4-1936). Lê Tràng Kiều phải công nhận rằng Thái Phỉ "phát biểu toàn là những ý kiến ngờ vực đối với phong trào thơ mới, đối với các nhà thơ mới mà thôi". Như vậy thì năm 1936 chưa hẳn là cuộc cách mạng về thơ mới đã chìm xuống.
Chẳng những có những cá nhân như ông Thái Phỉ còn chống thơ mới, mà Lê Tràng Kiều cũng còn phải nhận rằng còn có cả những cơ quan ngôn luận ở Bắc cũng như ở Nam hiện đang chống thơ mới.
"Không hẹn mà nên tờ Văn Học tuần san ở trong Nam và tờ Tin Văn ngoài Bắc, đối với thơ mới cùng đồng một ý kiến với nhau, mỗi khi nhắc đến "Thơ mới" là họ bỉu môi với nhau một cách khinh khỉnh.
"Tôi có thể nói một cách cả quyết rằng: một cơ quan văn học mà không nhìn nhận giá trị của "Thơ mới" là một cơ quan văn học không xứng đáng đại biểu cho nền văn học một nước! vì không nhìn nhận giá trị của "Thơ mới"- Tôi cần phải nói cả quyết thêm điều này nữa - tức là không hiểu gì về thơ mới cả.
"Không trách, những tờ báo văn học mà tôi vừa nói đó, không được các bạn thanh niên hoan nghênh một cách xứng đáng.
"Mỗi lần tôi đọc những bài công kích "thơ mới" ở trong Văn Học tuần san, hay ở Tin Văn tôi cứ bâng khuâng nghĩ ngợi mãi, tự hỏi một trăm lần" có thể như thế được ư? bọn họ có thể tầm thường đến thế ư? hoặc giả là lúc mới lọt lòng ra họ mang mối không đội trời chung với thơ mới rồi (Hànội báo số 18, 6-5-36).
Nhưng Lê Tràng Kiều cho rằng sở dĩ họ công kích thơ mới chẳng qua vì thiên kiến mà thôi. Cho nên ý ông là thuyết phục, đánh đổ thiên kiến đi, mà đánh đổ bằng lý luận cãi cọ ít hơn là bằng tình cảm, bằng sự phân tích, giới thiệu các bài thơ mới có giá trị.
"Rồi tôi biết họ công kích "thơ mới" là vì những thành kiến đã che mắt họ. Nghĩ vậy, hôm nay tôi mới trả lời cho họ bài này, có cái ý như làm cái công việc của một viên y sĩ đi chữa mắt người ta vậy. 
"Làm sao họ lại cần hỏi một câu lẩn thẩn rằng: "Thơ mới có khuôn phép không, và khuôn phép thơ mới là thể nào? Nhưng câu hỏi của họ tôi sẽ lần lượt trả lời sau, bây giờ tôi tưởng cần nói ngay một điều:
" Nếu họ thật quả là có nhận thấy giá trị của nhiều bài thơ mới, thì một cái kết quả tốt đẹp như thế, tất nhiên đã chứng một cách hùng hồn, một công phu dồi dào, một phương tiện rạch ròi, và thơ mới có một cái lẽ sống rất chính đáng vậy".
"Bằng như trái lại, thì cái câu hỏi của báo Tin Văn đã nêu lên đó, tôi cho là thừa.
"Một ông bạn của tôi thường nói: "Muốn cho người ta nhận cái giá trị của thơ mới không nên biện luận "con cà con kê" với người ta làm gì vô ích, chỉ nên bảo người ta ngồi im như ngồi thuyền đinh và đến đọc vào tai người ta, mấy bài thơ mà mình cho là có giá trị, rồi bảo người ta, một là gật đầu, hai là lắc đầu, người ta gật đầu thì cần phải nói thêm nữa, nếu người ta lắc đầu, thì mình quay lưng đi mà thôi. Thơ là một "giống thiêng liêng" người ta chỉ đọc trong giờ thiêng liêng, khi tâm trí trong trẻo và bằng phẳng như một tấm gương. Nói chuyện thơ mà chỉ hòng cãi lộn nhau thì còn bao giờ hiểu thơ được!"
"Tôi cũng công nhận như ông bạn tôi rằng: "Không có cái lý luận nào hùng hồn để bênh vực thơ mới cho bằng chính lại là những bài thơ mới... Nhưng với người không kịp hiểu, ta chớ vội quay lưng đi, ta phải làm cho tất cả mọi người cả những người thù ghét của thơ mới, cũng phải cúi đầu trước thơ mới và ăn năn vì sự ruồng rẫy trước kia của mình vậy. Một nhà thơ như Thế Lữ chẳng hạn, không phải là của anh, của tôi, của một người nào, mà là con công của một nước, của hiện tại, của hậu thế.
"Những bài thơ như bài "Tiếng thu" "Bao la sầu" "Một chiều thu" không phải là di sản của một gia đình nào, của một phái nào, của một thời đại nào, nó đáng cho mọi người trong nước ngâm nga, đáng dịch ra tiếng ngoại quốc cho người ta thấy rằng: cái dân tộc của ta, không phải là không còn có người hiểu cái hay cái đẹp ở đời.
"Lại những nhà thi sĩ có tâm hồn kỳ dị như Thái Can, như Huy Thông, như Nguyễn Vỹ không phải giống thường có ở nước ta.
"Mặc ai biểu môi, mặc ai khinh khỉnh chúng ta cũng có quyền kêu to lên rằng: "chúng ta ngày nay đã có những nhà thi sĩ xứng đáng vậy" (Hà Nội báo số 18).
Thái Phỉ có trách Lê Tràng Kiều ở báo Tin Văn rằng ông mâu thuẫn thì ta cũng chẳng lấy làm lạ. Ông đã từng cho rằng thơ mới đã làm một cuộc cách mạng sôi nổi mà nay đã lặng hẳn để rồi ông lại nhận thấy nó chưa có lặng tí nào. Đến nay, ngày 13 tháng 5 năm 1936, Hà Nội báo số 19, ông lại cho như từ khi có thơ mới chưa ai lên tiếng bênh vực thơ cũ, công kích thơ mới. Tưởng như Thái Phỉ là người đầu tiên thì quả thật là lầm chứ đừng nói là mâu thuẫn.
"Cách đây đã 6, 7 năm, lần đầu tiên ở Trung Đông Pháp thời báo, ông Phan Khôi là một nhà nho (thoát ly) quay giáo đánh lại đạo nho, viết nhiều bài để mạt sát đạo nho, hình như cốt khêu tức mấy nhà nho chơi, thế mà rồi, đáng phục thay, các nhà nho vẫn hững hờ như không, không có một ai chạy ra tiếp chiến, đến nỗi bên nghịch đánh mãi ở chỗ không, chán phải kêu: "tình đời bạc bẽo thay!".
Ý ông Phan bảo rằng: nhà nho hèn nhát đến nỗi một cái đạo đã nuôi sống mình mấy nghìn năm bây giờ bị nạn, cũng không ai ra cứu chữa!
"Kể thì tình đời bạc bẽo mà người đời hèn nhát thật! Nói như trong một vấn đề "thơ mới thơ cũ đây" ta cũng thế thấy cái tâm lý ấy một cách rõ rệt. Thử hỏi từ khi có phong trào "thơ mới" ở Bắc kỳ này, trong phái thơ cũ, bị người ta đưa ra công kích.
Có ai dám đường hoàng viết lên báo, lên sách một bài cỏn con để tự bào chữa cho mình; có ai dám đường hoàng bài trừ thơ mới mà theo các ông, là một cái dịch đáng sợ. Các ông chỉ được cái tài nói sau lưng người ta! Mỗi khi các ông tình cờ đọc được một bài thơ mới chẳng hạn, thì các ông nhăn mặt, bưng mũi, làm đủ thứ khó chịu và bỉu môi bảo một cách khinh khỉnh: "Thơ mới "cóc rác" gì thế này! lủng củng lủng ca.
"Đến đấy mới thấy một người: người ấy là ông Thái Phỉ, đục vào trong bụng các nhà thơ cũ, đưa những điều uất ức, âm thầm nén ở trong bụng họ, và đường hoàng viết lớn ra ở trong cơ quan văn học mà ông chủ trương.
"Ở đất này, giống thơ mới đã nẩy nở hơn ba năm rồi mà nay mới có một người, ở trong óc người ấy mới nẩy nở cái ý: phá cái giống ấy đi, vì là một giống xấu, kể thì cũng hơi muộn một chút! Nhưng ông Thái Phỉ ơi! ông hãy đợi cái cây ấy cao hơn một tí nữa, rồi hãy chặt, nếu như ông đủ sức chặt được. Cái công ông đối với nền văn học nước nhà mới lại càng to lớn vậy.
"Ông Thái Phỉ chỉ là tiếng của cả một đội tàn quân, liểng xiểng, cố thu toàn lực để đánh một trận cuối cùng" (Hà Nội báo số 19).
Chiến thuật của Lê Tràng Kiều từ đây để đối phó với "đội tàn quân, liểng xiểng, cố thu toàn lực để đánh trận cuối cùng" này là đưa các tay nghệ sĩ tài danh ra chiến trường.
"Xưa nay ta chỉ buồn vỉ đánh mãi ở chỗ trống, nay mới biết mình cũng có kẻ địch đáng sơ, thật là dịp tốt để thử cái oai lực của ngọn kiếm "thơ mới" của mình vậy.
"Nhưng tôi cần phải phân vua với các bạn một điều rằng với phái thơ cũ không cần đến người như tôi ra tiếp chiến: đã có những ngọn kiếm hùng mạnh thay tôi, ra mà chống cự với địch quân. Một người như tôi chỉ đáng ở nhà "khua chiêng, đánh trống" để ẩy người khác ra đánh thay mình mà thôi.
"Tôi sẽ ẩy ra mặt trận, lần lượt: ông Thái Can, ông Nguyễn Vỹ, ông Nguyễn Nhược Pháp, ông Thế Lữ, ông Huy Thông, ông Lưu Trọng Lư.
"Nếu trên mặt trận văn học sau này, họ cắm lá cờ Thơ mới thổi khúc khải hoàn: thì công ấy hoàn toàn công của ông vậy.
"Nhà thi sĩ tuy là trẻ tuổi mặc lòng nhưng mà...ông Thái Phỉ chắc cũng biết câu bất tuyệt của nhà kịch sĩ Corneille vậy...
"Họ trẻ tuổi nhưng mà... có múa gươm, mới biết tài nhau" (H.B. số 19, 13-5-1936).
Lê Tràng Kiều ca ngợi Thái Can
Lê Tràng Kiều hứa là sẽ ẩy ra mặt trận, lần lượt: Thái Can (H.B. số 20, 20-5-36), Nhược Pháp (H.B. số 21, 27-5-36), Đông Hồ (H.B. số 22, 3-6-36), Nguyễn Vỹ (H.B. số 23, 10-6-36), Thế Lữ (H.B. số 24, 17-6-36), Vũ Đình Liên (H.B. số 26, 1-7-36), Lưu Trọng Lư (H.B. số 30, 29-7-36).
Thế là đến ngày 20-5-36 (H.B. số 20), Lê Tràng Kiều tuyên bố "ẩy" Thái Can ra mặt trận. Lý do khiến ông "ẩy" Thái Can ra trước tiên vì, dù có chịu ảnh hưởng Tây, Thái Can vẫn gần gũi thơ cũ, gần gũi Tản Đà, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan. Nếu đem so với Tàu thì ông gần Lý Thái Bạch, còn nếu đem so sánh với Tây, thì ông giông giống Rignier hay Hérédia...
"Muốn cho cuộc bút chiến khỏi đột ngột, kỳ này tôi muốn "ẩy" Thái Can ra trước mặt trận, vì nếu trong các thi sĩ mới, có một thi sĩ gần Nguyễn Khắc Hiếu, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan hơn hết thi sĩ là Thái Can.
"Thái Can là một người trẻ tuổi về phái Tây học nhưng - điều này mới quí - trong thơ văn của ông không chịu ảnh hưởng Tây học mấy, hình như một đôi bài, một đôi câu ta cũng thấy có phảng phất chút ít Régnier, hay là Hérédia còn phần nhiều ở đâu, trong lúc nào, ta cũng thấy họ Thái là một đứa con cưng của Lý Thái Bạch, Bạch Cư Dị, lạc loài vào thời đại này vậy.
"Thật thế, nếu thi văn của đời Đường, cái đời có một không hai ở trong lịch sử Trung Hoa, còn có dấu vết gì ở xứ này, ở thời đại này, cái dấu vết ấy không thể tìm trong tâm hồn của một nhà nho nào khác mà chính là ở trong tâm hồn của Thái Can vậy.
"Một ông bạn tôi đọc thơ Thái Can thường bảo rằng: "Thơ họ Thái "Tầu" quá, chữ "Tầu" đây không có cái nghĩa của người Tây thường hiểu, chữ "Tầu" đây nói bằng một giọng thành kính, xuất tự một tấm lòng sùng bái những cái tinh hoa, cái đẹp đẽ của nước Tầu cổ.
"Một hôm tôi hỏi họ Thái: "Có nhiều người liệt anh vào phái thơ cổ, anh có cho vậy là đúng không?" Họ Thái cười và đáp: "Ấy là họ chứ hiểu nghĩa chữ mới đó mà thôi".
"Ý họ Thái cho rằng: những bài thơ của Lý Thái Bạch bao giờ cũng là "mới".
"Nói về văn thơ Thái Can, tôi tưởng phải hiểu chữ "mới" một cách hết sức rộng rãi.
Sau đấy Lê Tràng Kiều phân tích và mô tả cái mới cái cũ trong thơ Thái Can. Riêng về cái cũ, cái cổ điển ở Thái Can, Lê Tràng Kiều đã hạ những lời phê bình rất to tát:
"Nhất là nên hiểu chữ "mới" về phương diện tinh thần mà thôi. Về hình thức, thì ta thấy Thái Can chỉ "mới" một cách rụt rè, nhưng thực ra sánh với các nhà thơ cũ khác, thì Thái Can cũng đã là táo bạo lắm, có đủ những cái táo bạo để cho bọn này buộc tội, nội chỗ họ Thái nhất thiết không dùng lối gò chữ "đối ngẫu" là cái lối sở trường của một ông Trần Tuấn Khải, cũng đủ cho phái thơ cũ, họ không công nhận mình. Mà ngay cái lối tứ tuyệt là lối Thái Can thường dùng, cũng khác cái lối tứ tuyệt của nhà nho. Nó rộng rãi và phóng túng hơn nhiều.
"Nhưng ở Thái Can, còn có nhiều cái gì khác để lập cho họ Thái một cái địa vị riêng ở trong văn học sử nước nhà.
"Những nhà nho ở nước ta gần đây - ngay những người như Yên Đỗ, Tú Xương đều là những người học trò đã lạc bước của thầy. Tôi muốn nói rằng : trong sự cảm hứng của họ, không thấy phảng phất một tí dấu vết nào của Lý, Đỗ, là những bực thi thánh mà họ hết bực tôn sùng, có lẽ những nhà thi sĩ này chỉ giống họ Lý, họ Đỗ ở chỗ "uống ba trăm chén mà không hề ngừng" chỉ thế thôi; điều này hình như vô lý, nhưng mà sự thực là như thế.
"Với Thái Can đời Đường sẽ sống lại, nói thế không phải là có ý bảo rằng: Thái Can chỉ là một kẻ học trò trung thành nhai lại một cách vô ý thức, cái hay, cái đẹp của họ Lý, họ Đỗ đã phun ra một lần rồi".
Khen Thái Can là cái cầu bác vào dĩ vãng rồi, Lê Tràng Kiều ca ngợi ông đã đi vào sâu trong thế giới mới, làm công việc sáng tạo, chế biến ra cái mới.
"Không, Thái Can chỉ tìm cái nguồn cảm hứng của mình trong thơ Đường mà thôi, chứ Thái Can vẫn riêng có một cái tinh thần sáng tạo rất rõ rệt, rất chắc chắn.
Mà nói "sáng tạo" tức là nói "mới" vậy trong bài tựa cuối "Những áng thơ hay" tôi có bàn rằng: đã đến lúc nên xóa bỏ hai chữ thơ mới đi thôi.
Đọc thơ Thái Can ta thấy sự cần xoá bỏ ấy; lại càng tha thiết, vì một bài thơ có sáng tạo tức là một bài thơ "mới" vậy.
"Sự thay đổi thi thể chỉ là một việc nhỏ, đưa lại cho thi văn ta một cái tinh thần sáng tạo đó mới là cái công lớn của các nhà thơ mới vậy. Họ đã sáng tạo, họ đã đưa lại cho thi văn ta một cái tinh thần sáng tạo, văn học sử còn đợi gì nữa mới ghi chú tên tuổi họ.
"Nhưng tôi cứ thuyết lý mãi như thế này thì ai tin? Các bạn đọc hãy lặng im mấy phút. Trong cái im lặng của tâm hồn các bạn hãy để yên cho rơi vào từng giọt thánh thót, những tấm vỡ của tâm hồn nhà thi sĩ. Lặng im: vì những chị ấy là tiếng nói của nàng hoa, tiếng chân đi của cái xác thịt dã biến thành linh hồn, cái bóng thấp thoáng của ánh sáng".
Sang phần hai, Lê Tràng Kiều trích thơ của Thái Can để biện minh cho những điều ông đã nói ở trên.
Lê Tràng Kiều ca ngợi Nguyễn Nhược Pháp
Cũng ở trong tinh thần muốn là nhịp cầu thông cảm giữa cũ và mới và cũng ở trong chủ trương cho thơ hay không có cũ mới, sau khi " ẩy " Thái Can, Lê Tràng Kiều đã muốn " ẩy " Nhược Pháp vì ông cho Nhược Pháp gần Thái Can lắm. Thực vậy, ngày 27-5-36 (H.B. số 21), Lê Tràng Kiều viết về " Thơ mới Nhược Pháp " :
" Viết xong Thái Can, thì tôi liền nghĩ đến Nhược Pháp, cũng vì tôi không muốn đi từ sự đột ngột này qua sự đột ngột khác. Tôi chưa muốn nói về nội dung, về hình thức, tôi đã thấy Nhược Pháp và Thái Can gần nhau lắm : hai người đều " mới " một cách rụt rè như nhau, Thái Can thì thích lối thất ngôn, mà Nhược Pháp thì bình dị hơn nữa rất thích lối " ngũ ngôn ".
" Một sự bình dị về hình thức, tiêu biểu một sự bình dị về tinh thần " (H.B. số 21, 27-5-36).
Sau đấy, Lê Tràng Kiều lại cũng phân tích và mô tả những đặc tính của thơ Nguyễn Nhược Pháp, gồm có sự bình dị, trong sáng, nhí nhỏm, ngộ nghĩnh, hồn nhiên :
" Nhược Pháp là một tâm hồn bình dị.
" Hơn thế nữa, một tâm hồn trong sáng, nhí nhỏm, ngộ nghĩnh, hồn nhiên, trong sáng như mây mùa Thu, nhí nhỏm như đôi chim nhẩy truyền ở trên cành, ngộ nghĩnh như cô gái Saigon, hồn nhiên như rầu sắng mới hái ở nguồn.
" Với một tài nghệ không có gì, Nhược Pháp đã dựng lại một thế giới : Ngày xưa.
" Ngày xưa, cái tên nó nặng nề biết bao đối với ông đồ nho ! Ta hãy tưởng tượng một thế giới mà từ nam chí bắc, từ già đến trẻ, từ kẻ đại phu đến kẻ dân cầy, từ tâm hồn vô tri của cậu học trò nhỏ đến cái ngọn tre vô giác kêu kẽo kẹt ở bên sông, cũng như nhuộm một tư tưởng nặng nề, âm u đen xám như cảnh tang vậy, cái tư tưởng ấy, là cái tư tưởng Khổng giáo, linh hồn cái thế giới ngày xưa...
" Thế giới ấy gặp Phương Tây, đã tan như một giấc mộng chỉ còn lưu lại những dấu vết rất mơ hồ càng ngày càng nhạt để một ngày kia mất hẳn.
" Giữa lúc ấy, có một người trẻ tuổi...- cố nhiên không phải một ông đồ nho - vào cái thế giới cũ ấy nồng nàn tha thiết như một kẻ phương xa nay trở về với cố hương.
" Người trẻ tuổi ấy là một nhà thi sĩ.
" Vì là thi sĩ cho nên chàng chỉ là ... thi sĩ với những vật liệu của một nhà thi sĩ chàng dựng lại cái thế giới " ngày xưa ".
" Ngày xưa, đứng dậy.
" Ngày xưa " đã cởi bỏ cái bộ đồ tang phục của mình.
" Ngày xưa " đã rũ sạch những tư tưởng nặng nề của Khổng giáo.
" Với Nhược Pháp, cô gái " ngày xưa " đã biết cười, một nụ cười nửa miệng. Ô, duyên thầm tệ !
...Ta ngồi bên tảng đá
Mơ lều chiếu ngày xưa
Mơ quan nghè, quan Thám
Đi có cờ lọng đưa.
Rồi bao nàng yểu điệu
Ngấp nghé bay trên lầu,
Vừa leng keng tiếng ngựa,
Lẹ gót tiến gieo cầu.
Tay vơ cầu ngũ sắc
Má quan Ngè hây hây
Quân hầu reo chuyển đất
Tung cán lọng vừa quay.
Trên lầu mấy thị nữ
Cùng nhau rúc rích cười,
"Thưa cô đừng thẹn nữa
Quan Nghè trông lên rồi.
(Tay ngà)
Thật là ngây thơ và thật là giản dị.
"Ngây thơ không phải là khờ dại, không biết gì; biết nhưng mà vẫn ngây thơ như thường".
Lê Tràng Kiều ca ngợi Đông Hồ
Sau khi đã đẩy hai nhà thơ mới, rất mới mà lại có duyên rất nhiều với thơ cũ ra chiến trường, để minh chứng thơ mới là hay là đẹp, Lê Tràng Kiều đã làm một công việc phũ phàng, tai ác hơn thế là đẩy ra mặt trận một nhà thơ cũ, đã như " về hàng thơ mới " và được thơ mới đón nhận, tiếp rước linh đình. Người thi sĩ cũ đã bỏ hàng ngũ ấy là Đông Hồ (H.B. số 22, 3-6-36).
Lê Tràng Kiều đã mô tả rất tỉ mỉ sự lột xác của nhà thơ cũ Đông Hồ, một sự lột xác kỳ diệu, quái gở :
" Đọc hết thơ Đông Hồ, từ quyển " Thơ Đông Hồ " do Nam Kỳ xuất bản cho đến những bài thơ rải rác đăng các báo gần đây, ta nhận thấy sự thay đổi lạ lùng - tôi toan nói một cuộc cách mệnh vĩ đại - ở trong tâm trí, ở trong tâm tình, ở cái cách cảm xúc cũng như ở cái cách phô diễn của nhà thi sĩ.
" Thật có thể như thế được ư ?
" Cái mà người ta gọi là cái tài đó - cái phần thiêng mà trời riêng phú cho những con cưng của mình là các nhà thi sĩ đó - cái ấy nhất đán có thể thay đổi, có thể chịu ảnh hưởng một sức mạnh nào mà thay đổi được ư ? như vậy tức là tự mình tạo ra cho mình một cái " tài " được ư ? Như vậy là không có cái quyền nào là cái quyền của tạo hoá nữa ư ?
" Thật là một điều không thể tin được.
" Nhưng khi ta theo bên cạnh Đông Hồ, dò xét từng ly, từng tý, những cái triệu chứng phát ra ngoài, ta thấy ngay có một sự thay đổi ở trong, sự thay đổi giống như sự biến hoá của một con tằm, con tằm " Đông Hồ " đã ăn dối, đã nhả tơ, đã " kéo kén ", đã hoá thành " nhộng " và tưởng đã vô dụng rồi. Nhưng không ngờ con " nhộng " ấy, một ngày kia, trên lưng mọc lên những chiếc cánh nhẹ : nó bay được. Nó là là ở giữa vùng hoa lá xanh tươi, nhởn nhơ dưới bóng nắng. Nó là con bươm bướm của các cô thiếu nữ thân yêu...
" Nhà thi sĩ Đông Hồ đã trẻ lại.
" Đông Hồ ngày trước là một ông (cụ non) lụ khụ, bệ vệ, đạo mạo - chỉ còn thiếu một bộ râu nữa, thì nhà thi sĩ của chúng ta đã là một ông lão hoàn toàn.
" Cái ông Đông Hồ ấy, trong chúng ta ai là chẳng biết. Ai có đọc qua những bài thơ của ông ở tạp chí Nam Phong, ai có đọc qua cuốn thơ Đông Hồchắc cũng phải nhận điều tôi nói đây, quả không ngoa chút nào. Nói ra thì mất lòng, chớ sự nghiệp của ông về trước, chỉ là con zéro to ".
Lê Tràng Kiều đã chê bai, khinh thường nhà thơ cũ Đông Hồ bao nhiêu thì lại say mê nhà thơ mới Đông Hồ bấy nhiêu :
" Thử hỏi ông đã làm được cái gì, ông đã sáng tạo ra được cái gì gọi là đặc sắc của ông, khả dĩ sau này còn có người nhắc đến tên ông ? Ngoài những bài thơ thù tạc, đi lại, nay tặng cho ông Đồ Nam, mai tặng cho ông Tùng Vân. Ngoài những câu sáo về thời thế, về nhân sinh, về vũ trụ mà ông " phỏng " của Tô Đông Pha, của Bạch Cư Dị vân vân...Ngoài những thứ không đáng kể ấy, mà tôi không nhắc lại đây, ông đã làm được gì ? Thỉnh thoảng cũng có một đôi câu " được " mà đôi câu " được " ấy, không đủ tỏ ra rằng : ông là một thi sĩ có tài. Có người bảo " thơ Đông Hồ " không có hồn, và Đông Hồ chỉ là một anh thợ ghép vần khéo. Thật trước kia, tôi cũng không nghĩ khác người ấy. Muốn chứng điều ấy ra đây, tôi tưởng không khó gì. Nhưng ta hãy để yên cho dĩ vãng, hơi đâu xới lại đống tro tàn.
" Vì Đông Hồ ngày nay là một người khác rồi ! "
Như vậy, dưới mắt Lê Tràng Kiều, Đông Hồ chẳng phải chỉ đổi khác mà còn đổi giống : đang là một ông lão, Đông Hồ đã được giải phẫu thành một cô gái trẻ đầy duyên dán ; chính Thơ Mới đã làm cuộc giải phẫu thành công ấy. Còn gì chua chát cho thơ cũ hơn nữa !
" Đông Hồ ngày nay là mùa xuân, là " cô gái xuân ", là con bướm trắng, là " cái hôn đầu tiên ", là tình yêu, tình yêu trẻ trung, đẹp đẽ, ngây thơ với bao nhiêu cái đức tính và đặc tính của tuổi trẻ.
" Bác sĩ Voronofb đã " ghép hạch " cho thi sĩ Đông Hồ.
" Bác sĩ Voronofb ấy chẳng ai khác là cái Phong trào mà người ta đã quen gọi là " thơ mới ". " Thơ mới " như một làn khí xuân nhuộm tươi cái huyết đen chạy ở trong toàn thân nhà thi sĩ... " thơ mới " sẽ thành một danh từ thừa, nhưng có lúc nó đã biểu hiệu cho một cuộc cách mệnh có thực, cuộc cách mệnh ấy đã đưa lại cho ta những bài thơ có giá trị, hơn thế nữa, nó đưa lại cho ta một tinh thần sáng tạo mới, một cách cảm xúc mới, một cách phô diễn mới - nói tóm lại, là : một quan niệm mới và một nghệ thuật mới. Cái quan niệm mới ấy về thi ca, đã giúp cho biết bao thi sĩ biểu lộ được hết cái tài của mình - nếu như quả là có tài thật.
" Trái lại, thơ cũ, với những khuôn khổ bó buộc với một quan niệm hẹp hòi đã dìm biết bao là cái tài.
" Biết bao thi sĩ đã ngẩng đầu không nổi dưới cái làn không khí nặng nề ấy.
" Bảo rằng : Đông Hồ là một người không có tài thì thật là vô lý, nhưng bảo rằng cái tài ấy không nẩy nở được ở trong cái hoàn cảnh cũ, thì đó quả là một sự hiển nhiên không một nhà phê bình nào, mà ngay cả tác giả nữa cũng không thể chối được...
" Cái tài của Đông Hồ đến nay mới phát triển kể cũng đã chậm lắm. Nhưng là một sự rất hiếm có ở trong lịch sử thi ca, và còn cái thú nào hơn, là khi người ta quá thì rồi mà bỗng được " xuân " lại như gái 15, 16, đó, tôi tưởng là một cách làm cho cái ngày Xuân thêm dài, cái ngày xuân mà biết bao thi sĩ thương hay tiếc. Vì mỗi khi ngày ấy đi qua, nhà thi sĩ đương nhắm mắt lại để lặng hưởng cho hết cái thanh thú, thì nó đã vụt đâu rồi... khi bừng mở mắt ra.
" Cái " ngày xuân " ấy đã trở về với nhà thi sĩ " (H.B. số 22).
Thật là với trường hợp Đông Hồ, Lê Tràng Kiều đã đánh vào thơ cũ một đòn nặng nề : tác giả bài thơ mới Đông Hồ xem ra khoái trá về việc điều khiển mặt trận chống thơ cũ mà có Đông Hồ trợ chiến.
Lê Tràng Kiều ca ngợi Nguyễn Vỹ
Để bênh vực cho thơ mới, Lê Tràng Kiều đã dùng một tên lính khá nguy hiểm, tên lính khá nguy hiểm ấy là Nguyễn Vỹ. Thực vậy, Nguyễn Vỹ là một nhà thơ mà làng thơ cũ ghét cực điểm đã dĩ nhiên rồi bởi vì ông mới lắm, mới quá nữa. Khốn nỗi Nguyễn Vỹ cũng bị làng thơ mới chối bỏ, không chịu cho Nguyễn Vỹ nhập tịch. Vậy mà Lê Tràng Kiều cứ đưa Nguyễn Vỹ ra làm lính để bênh đỡ thành trì thơ mới, cho Nguyễn Vỹ nhập đoàn quân tấn công thơ cũ.
Ngày 10-6-36 (H.B. số 23), viết bài thơ mới Nguyễn Vỹ, Lê Tràng Kiều đã phản đối Thế Lữ để bênh Nguyễn Vỹ. Lê Tràng Kiều bảo Nguyễn Vỹ có nhiều câu thơ không hay, nhiều bài thơ không ra gì, nhưng tất cả sự nghiệp thơ mới của Nguyễn Vỹ chẳng phải chỉ có như vậy mà thôi...
" Kể bây giờ mà mới nói Nguyễn Vỹ đã là chậm lắm rồi, người ta nói đến Nguyễn Vỹ nhiều lắm, nhiều quá...
" Chỉ một cái được người ta nói tới nhiều, cũng đủ vinh dự cho nhà thi văn, vì vô duyên nhất, đau đớn nhất cho kẻ hao tổn không biết bao tâm trí, biết bao thời giờ, để làm nên một bài thơ, in lên một cuốn sách mà không ai nói tới. Đã đành rằng những lời nói tới đó, chẳng đẹp lòng ông Nguyễn Vỹ, nhưng...người ta công kích ông ta, chỉ chứng rằng ông ta sống...
" Thơ ông Nguyễn Vỹ đã là một cái đầu đề để cho người ta viết, một câu chuyện cho người ta bàn, thơ Nguyễn Vỹ đã sống một cách đầy đủ ở trên mặt các tờ báo "...(H.B. số 23, 10-6-36).
Theo Lê Tràng Kiều, Thế Lữ công kích Nguyễn Vỹ có lẽ chỉ vì lòng ganh ghét vì cùng là thi sĩ như nhau :
" Quyển " Tập thơ đầu " mới ló đầu ra đã bị ông Lê Ta ở báo Phong Hoá, công kích một cách tàn tệ...cũng lại chỉ vì cái lẽ ông Lê Ta (Thế Lữ) cũng làm thơ mà ông Nguyễn Vỹ cũng làm thơ đó thôi. Chứ công kích như kiểu ông Lê Ta trong cái thời kỳ văn học đương phôi pha này, có nhà văn nào, có tác giả nào là không đáng công kích ? Cứ theo cái phương pháp phê bình của ông Lê Ta, thì ông Thái Can, ông Lê Trọng Lư, ông Huy Thông, ông Thế Lữ trong các văn thơ của các ông ấy, ta cũng thấy nhan nhản những điều đáng công kích. Phê bình mà chỉ tìm cái kém, cái dở, chưa hẳn là phê bình. Một nhà phê bình có tiếng đã nói :" Cố ý để mà hiểu lấy tác giả...Vì lẽ rằng : không có cái gì hoàn toàn ở đời này, ta hãy tìm lấy ở trong cái thiếu kém một viên gạch, một miếng vôi để mà góp vào sự xây dựng cái toà lầu Nghệ thuật, cái toà lầu ấy không thể do độc lực một người mà xây nổi, vì nó phải dầu dãi nhiều mưa gió, chịu sự vùi dập của bao thế kỷ. Cái toà lầu ấy phải là công xây dựng của Quá khứ, của Hiện tại, của Tương lai ".
" Ông Nguyễn Vỹ chẳng hạn, đưa lại cho sự xây đắp ấy, một mảnh vôi nhỏ, cũng đã là nhiều lắm rồi. Ta có cần gì hơn nữa ở họ một sự hoàn toàn không bao giờ có. Thật là không biết người biết của vậy ! Giả như tôi đưa mấy quyển " Mấy vần thơ " của ông Thế Lữ, tôi bỏ ra ngoài vài ba bài " được ", rồi tôi cứ đưa những bài " lủng củng lủng ca " đầy dẫy ở trong sách, ra mà bắt mà bẻ (điều ấy khó gì mà không làm được), thì chừng ấy ông Thế Lữ còn gì mà lên mặt " thi sĩ " với đời.
" Ai đã thấy Nguyễn Vỹ một lần rồi, đã có gặp ông ấy một lần nào ở trong cái nhà ấy, thì sẽ không ngạc nhiên chút nào, khi thấy văn thơ của ông ấy nhiễm đầy một vẻ buồn thảm não nùng ! cái cuộc đời buồn thảm của ông đi qua, để lại ở trên cái mặt ông cũng như ở trong thơ văn của ông, những nếp răn, những nếp răn đã thành cái dấu hiệu cho ông ở trong đám người chen chúc ở chợ trần đám người mà ông đem lòng khinh thị không bờ bến...
" Cứ một hôm, lối 9-10 giờ đi qua xóm Khâm Thiên, vừa khỏi phố cô đào rực rỡ ánh điện, và lộng lẫy như cô tiên, gần đến Ô chợ dừa, ta ngẩng lên sẽ thấy có một cái gác nhỏ...mù mờ ở dưới một ngọn đèn liu hiu, trong cái gác ấy có một cái bóng đen đi đi lại lại, cầm một cái que gõ vào tường như muốn làm nẩy ở trong cái vật vô tri, một cái tư tưởng linh động, mấy câu thơ, mấy cái linh hồn.
" Cái bóng ấy là cái bóng của một thi sĩ.
" Cái que ấy là cái quản bút thân yêu của thi sĩ.
" Cái gác nửa sáng nửa tối ấy là cái tâm hồn thi sĩ.
" Cái tâm hồn ấy là một bể sầu não, những " giọt thơ "từ đấy rơi ra là những giọt sầu não, những tư tưởng ở đấy bay ra đều có đôi cách đen, đen một mầu đen thảm đạm, như đôi cánh quạ.
" Con quạ đen ấy đã hơn một lần, đưa sự buồn não cho thi sĩ, chính ngay lúc thi sĩ đương triền miên trong giấc mộng ái tình,
Lần đầu hai ta hôn nhau
Đứng so đôi trên cành dâu
Một cặp bồ câu trắng gáy
Em buồn...và em ngẩn ngơ
Hỏi anh... " mình yêu em ơi
Ngày ta yêu nhau được mấy ?
Hai ta yêu nhau lần đầu
Lần đầu hai ta hôn nhau.
Một cặp bồ câu trắng gáy.
Ái tình ru bên tai ta.
Ta sẽ yêu nhau đến già.
Như cặp bồ câu trắng ấy...
(Tiếng quạ kêu)
Sau khi đã công kích Thế Lữ (ngày 10-6-36) để bênh vực NguyễnVỹ, thì một tuần sau, ngày 17-6-36 (H.B. số 24) Lê Tràng Kiều lại viết bài cực tán Thế Lữ và đẩy Thế Lữ ra mặt trận. Kể ra Lê Tràng Kiều đã biết dụng binh cho nên việc tấn công vào thành trì thơ cũ lần này được coi như là thanh toán chiến trường.
Lê Tràng Kiều ca ngợi Thế Lữ
Tuy chẳng dám ngạo nghễ đặt Thế Lữ ngang hàng với Nguyễn Du trên mọi địa hạt, Lê Tràng Kiều cũng muốn ví Thế Lữ với Nguyễn Du ở một ít điểm.
"Trước đây, phê bình ở trong báo Tràng An, có người nói một câu rằng: "Tài nghệ của hai người (Nguyễn Du và Nguyễn Thế Lữ) vị tất đã có hơn kém " làm cho nhiều nhà thơ cổ phải bỉu môi...
"Cố nhiên là Nguyễn Thế Lữ không thể phun ra được những câu:
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Con oanh học nói trên cành mỉa mai...
Hay là :
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha...
" Cố nhiên là Nguyễn Thế Lữ còn xa lắm, hay là không bao giờ viết ra được những câu nhẹ nhàng bay bổng, những câu thơ như có đôi cánh nhẹ, bay là lượt ở trên đám ruộng mạ xanh trong một cảnh chiều xuân êm và trong như mộng.
" Cố nhiên là ta không bao giờ khờ khạo đến nỗi đặt ông Nguyễn Thế Lữ ngang hàng với ông Nguyễn Du, nhưng ta có thể so sánh mà không ngượng, ông Thế Lữ và Nguyễn Du ít nhất về một phương diện " (H.B. số 24, 17-6-36).
Lê Tràng Kiều muốn so sánh với Nguyễn Du nghệ thuật tả tiếng, bắt chước âm thanh tự nhiên của Thế Lữ. Ông trích và đối chiếu thơ tả âm thanh của hai nhà thơ :
"Ở đây, tôi muốn so sánh những câu thơ tả "tiếng" ở trong mấy vần thơ và ở trong "truyện Kiều". Tôi xin chép hết ra đây để cho độc giả đối chiếu:
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
(Kiều)
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn giây đổ máu, năm đầu ngón tay
Ve kêu vượn hót vào tay...
Phím đàn dìu dặt tay tiên
Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa
Khúc đâu đượm ấm dương hoà
Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Đế, hay mình Đỗ Quyên
Trong sao châu rõ ghềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông.
(Kiều)
Theo chim tiếng sáo lên khơi
Lại theo giòng suối bên người tiên nga
Khi cao vút tận mây mờ
Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh
Êm như lọt tiếng tơ tình
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không
Thiên Thai thoảng gió mơ mòng
Ngọc Trân buồn tưởng tiếng lòng xa bay...
(Tiếng sáo Thiên Thai)
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
Mây bay...gió quyến...mây bay...
Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may...
(Tiếng trúc tuyệt vời)
Trong khi lật đật rẻo sông Mê
Trận gió heo may, đuổi nhạn về...
Bụi cuốn, đường xa, chinh khách mỏi
Bỗng nghe tiếng hát vẳng bên kia
Tiếng hát trong như nước Ngọc Tuyền
Êm như hơi gió thoảng cung tiên
Cao như thông vút buồn như liễu
Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên...
(Tiếng hát bên sông)
Vất hết những thành kiến trong óc, cứ bình tĩnh mà đọc những đoạn thơ trên, chắc ai cũng phải nhận rằng: Cái tài nghệ của Thế Lữ về một phương diện này quả không kém Nguyễn Du là mấy.
"Nếu tiếng sáo của Thế Lữ kém thâm trầm réo rắt, thì nó lại "lơ lửng" "véo von" hơn...ta đọc những câu :
Khi cao vút tận mây mờ
Khi buồn vắt vẻo bên bờ cây xanh
Hay là:
Cao như thông vút, buồn như liễu.
"Thì ta thấy cái "tiếng" là cái vô hình, trở nên có hình có bóng, khi bay vụt lên cao, khi lưởn vưởn giữa đám cây bên bờ...Thơ như thế mới thật là hoạt...vậy.
" Không những "tiếng" cỏ cây, mây nước, những vật vô tri vô giác, thì sẽ đã khéo làm cho linh động như con người ta.
" Nhưng câu :
Mây hồng dừng lại sau đèo
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.
Làm cho ta phải nhớ đến cái nghệ thuật tả cảnh của Chateaubriand trong bài " Đêm ở rừng Mỹ ". Trong bài ấy, những dòng sông, bóng trăng, cây cối " hoạt động " một cách lạ thường khiến cho ta đương ở trong cái rừng sâu tịch mịch mà không thấy tịch mịch chút nào...(H.B. số 24).
Sau khi mải mê đi theo Thế Lữ người tiến dẫn mình vào thế giới tiên, Lê Tràng Kiều đã quay trở lại trần để đi theo Vũ Đình Liên dẫn ông đi vào dĩ vãng, vùi mình trong những cảnh đổ vỡ hoang tàn. Thật vậy, Lê Tràng Kiều đã giới thiệu thiên tài mới Vũ Đình Liên trong việc làm sống lại dĩ vãng, làm sống lại những hình ảnh điêu tàn.
Lê Tràng Kiều ca ngợi Vũ Đình Liên
Để làm nổi cái điêu tàn rã rời mà Vũ Đình Liên đang cố vẽ lên trên lụa, Lê Tràng Kiều đem so sánh Vũ Đình Liên với Nguyễn Nhược Pháp :
" Nếu có nhà thi sĩ khêu gợi lại những cái nhí nhỏm, ngộ nghĩnh của cái thế giới cũ như Nguyễn Nhược Pháp thì cũng phải có một nhà thi sĩ như Vũ Đình Liên đưa ta về cái dĩ vãng thân yêu, đầy tuyết đẹp sương trong, đầy lá thu và hoa xuân, đầy những dịu dàng và êm ái.
" Những bức tranh xưa ấy do nhà thi sĩ phác họa ra treo trên vách trong cái tòa lầu mới mẻ ngày nay để làm gì, - nếu không phải để cho người ta những nỗi nhớ nhung, mến tiếc, mến tiếc hão huyền, mà đã từng phải tổn hao biết bao giọt lệ thắm.
" Với Nhược pháp, miệng ta chỉ muốn mỉm một nụ cười hồn nhiên.
" Với Vũ Đình Liên...thì thấy buồn buồn một cách buồn man mác, có khi réo rắt nữa, như buổi chớp choáng ta nhìn những núi sông lờ mờ ở trên trời xa, đương biến hình đổi dạng.
" Ta thấy ta nhớ những cảnh cũ niềm xưa...Ta thấy ta là một kẻ mãi bước giang hồ, chợt nhớ đến cảnh quê hương.
" Quê hương ! cả một dĩ vãng ở trong ấy đã êm đềm sống những tâm hồn mộc mạc và hồn nhiên cả cái thế giới của cha ông ta đó chẳng phải mới thực là cái quê hương của những bọn chúng ta còn sống sót ngày nay. Sống một cách chật vật giữa những cái thực trạng mới mẻ mà khô khan tựa hồ như là ty tiện nữa, vì là vật chất, những cái thực trạng do Âu tây mang lại.
" Trong lúc tâm hồn ta cuốn theo làn sóng Âu tây, làn sóng, than ôi ! không biết còn đẩy ta đến chỗ nào nữa, mà được trong giây lát, đứng im lặng để hồi tưởng cái dĩ vãng đã xa mờ thì cái giây lát ấy nó thành kính, nó long trọng, nó ý nghĩa biết bao, hơn thế nữa, nó cho ta một luồng mát mẻ làm rơi cả tâm hồn,
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết đi đâu ?
Giấy đỏ, buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Ông Đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay.
Lá vàng rơi trên giấy.
Ngoài giời mưa bụi bay.
(Ông Đồ)
Ta cảm thấy cả một thế giới điêu tàn đã rời rạc, đổ vỡ... "(H.B. số 26).
Lê Tràng Kiều ca ngợi Lưu Trọng Lư
Cuối cùng ngày 29-7-36 (H.B. số 30), Lê Tràng Kiều đã dành cho nhà thơ yêu dấu của ông một sự giới thiệu đặc biệt : Lưu Trọng Lư, người chiến sĩ cuối cùng được đẩy ra trận để dọn dẹp chiến trường. Có lẽ không ai chiếm trọn vẹn cảm tình của Lê Tràng Kiều như Lưu Trọng Lư. Lê Tràng Kiều đã chọn Lưu Trọng Lư để trả lời phái thơ cũ ở điểm mà họ từng công kích thơ mới mạnh mẽ nhất : thơ mới không có âm điệu. Lê Tràng Kiều lặp lại luận điệu của phe bênh thơ cũ thường kết án thơ mới :
" Những người phản đối thơ mới đều nói một cách hồ đồ : " Thơ mới là một thứ thơ không niêm, không luật, đọc lên nghe " lủng ca lủng củng ", rồi họ kết luận : Thơ mà không có âm điệu là thơ bỏ đi, vâng, thật có thế ! Nhưng " thơ mới " đâu phải như lời họ nói - là thứ thơ không có âm điệu. " Thơ mới " có âm điệu lắm chớ. Nhưng là một thứ âm điệu riêng, khác hẳn âm điệu của thơ Đường, của Lục bát, của Song thất lục bát. Âm luật của một thứ tiếng rất là dồi dào, và huyền diệu, ai bảo rằng ngoài điệu Đường luật, Lục bát, Song thất lục bát, không còn có nhiều điệu khác nữa, những điệu vô danh mà hữu thực, lại rất hợp với sự tiết tấu thiên nhiên của thanh âm ?...
Chẳng qua vì trước kia người ta không nghĩ tới, cho nên người ta bảo là không có mà thôi ".
Lê Tràng Kiều cho rằng muốn chứng tỏ thơ mới có âm điệu hẳn hoi, mà thường khi còn là âm điệu du dương, réo rắt, không gì bằng lấy thơ Lưu Trọng Lư ra mà làm chứng. Vì không quá khích nên Lưu Trọng Lư đã dung hoà và thừa hưởng tất cả âm điệu cũ mới, cổ kim, Lê Tràng Kiều viết:
"Lưu Trọng Lư chính là một người đầu tiên gieo hạt.... "Thơ mới" vào đất Bắc. Trong một số mùa xuân của báo Phong Hoá lần đầu Lưu quân cho đăng mấy bài thơ của mình...rồi từ đó, mỗi kỳ luôn luôn trên mặt báo ấy người ta thấy đăng những bài của Nguyễn Thế Lữ, của Tân Việt và của Vũ Đình Liên. Độc giả làm quen với Thế Lữ dần dần quên lãng Trọng Lư. Điều ấy rất dễ hiểu, vì bao giờ người ta cũng thích những cái thái quá hơn là những cái vừa chừng...Người ta ưa " thơ mới " người ta lại ưa cho thật " mới ". Cứ bình tĩnh mà xét thơ Trọng Lư không phải là không mới, nhưng cái mới ở trong thơ " Trọng Lư " rất khó nhận vì nó mới ở tình cảm, ở âm điệu, ở hình ảnh (images), thơ Thế Lữ, thơ Huy Thông thì phần nhiều " mới " ở tư tưởng, ở ý tứ " mới " một cách rõ ràng hơn, " mới " một cách táo bạo.
" Thơ Trọng Lư thì những ý tưởng cũ biết pha vào điệu mới, nó cũng còn có nghĩa và cảm người ta một cách mới mẻ. Vì thế Lưu Trọng Lư chú trọng phương diện âm điệu hơn các phương diện khác ví dụ như bài " Bên thành " mà tôi chép lại đây :
Bên thành con chim con
Hát nỉ non.
Giục lòng em bồn chồn
Buổi hoàng hôn.
Em trách gì con chim con ?
Em oán gì con chim con ?
Em chỉ hận
Sao em ngớ ngẩn
Đã để tình lang em lận đận
Chốn xa xôi...
Nơi tuyệt vời...
Trong lúc con chim giời
Bên em nó hót những lời
...nước non...
" Về ý tưởng thì không có gì đặc sắc lắm, tình cảm thì không có gì sâu xa lắm, bài này ta sở dĩ đọc thích là vì nó có một cái điệu mới, một cái điệu riêng, một cái điệu ngộ.
" Cái điệu ngộ ấy, ta thấy hầu hết trong những bài thơ của Lưu Trọng Lư (H.B. số 30).
" Thường thường người ta không hiểu được họ Lưu là vì hồn nhà thi sĩ như chỉ bàng bạc, phưởng phất trong cái thế giới vô hình : trong một hơi thở, trong bóng trăng mờ, trong một vài vong hồn hay là những cái nhỏ nhặt quá mà mắt người thường bỏ qua...anh bước nặng, anh hát lớn, anh sẽ không bao giờ tìm nhà thi sĩ động mạnh, là hồn nhà thi sĩ sẽ tan ngay.
" Cũng đồng tả tiếng, mọi thi sĩ thì thích những tiếng đàn sáo thâm trầm, réo rắt, làm rung chuyển cả tâm hồn. Trọng Lư thì riêng thích " những tiếng " rạo rực, ríu rít những tiếng mà người thường không nghe thấy...
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực:
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
(Tiếng thu - I.H.)
Những tiếng mà chúng ta không nghe, đều lọt vào tai nhà thi sĩ? Xưa nay, trong văn chương Tàu và ta có mấy ai dám tả "tiếng thổn thức" của trăng mờ?
"Ai dám bảo rằng: "Cái hình ảnh của người chinh phụ lại" kêu rạo rực" ở trong lòng người cô phụ? Ai dám tả mùa thu, bằng "tiếng kêu xào xạc" của chân một con nai ngơ ngác đạp lên trên những lá khô?
"Ta có thể nói rằng : đây là một bức tranh phả vào một khúc nhạc, hay là một khúc nhạc vẽ thành một bức tranh...Đọc bài thơ này, ta không còn phân biệt được Thơ...Hoạ và Nhạc...nữa? "
E - Phản ứng làng thơ cũ
Thái độ chung các nhà thơ cũ
Chẳng hiểu dựa vào đâu mà có người cho rằng trước sự tấn công của làng thơ mới, làng thơ cũ đã chịu thua ngay từ đầu không có một ai lên tiếng. Hình như đó cũng là ý tưởng mà Lê Tràng Kiều đã biểu lộ trong bài trả lời ông Thái Phỉ, Hànội báo số 19, 13-5-1936.
Sự thực đã không hẳn như vậy. Trong khi tường thuật những vụ diễn thuyết ủng hộ thơ mới ở Nam và ở Bắc, tôi đã đọc cho các bạn nghe những bài tường thuật của báo Phong Hoá và báo Phụ Nữ Tân Văn. Cả hai tờ báo đều tố cáo thái độ quyết sống quyết chết của phái bênh thơ cũ. Chẳng thế mà khi cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết mấy lần ở Nam kỳ và ở Bắc kỳ, phe phản đối thơ mới như các ông Nguyễn Văn Hanh chẳng những huy động bạn bè đi nghe để gây rối, để đăng đàn phản đối cô Kiêm tại trận mà ta còn thấy có lần cô Kiêm bước vào phòng diễn thuyết đã được người ta trao cho cô một túi đầy ắp những thơ hăm doạ. Cô Kiêm quyết liệt đối với thơ mới thế nào thì ông Hanh hăng say đối với thơ cũ như vậy. Thực là trong cuộc chiến tranh này chẳng những cá nhân chọi với cá nhân mà còn các cơ quan ngôn luận chọi với các cơ quan ngôn luận nữa: trận tuyến lan tràn từ Nam ra Bắc kéo dài suốt mấy năm trường. Nếu bênh thơ mới có Phong Hoá, Phụ Nữ Tân Văn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Hànôi báo, Loa, Ngày Nay.. thì bênh thơ cũ có An Nam tạp chí, Văn Học tạp chí, Công Luận, Tiếng Dân, Văn Học tuần san, Tin Văn...Xét số đông thì bên thơ cũ buổi đầu chắc là ăn đứt bên thơ mới.
Tản Đà, tuy chẳng ưa gì thơ mới, nhưng xem ra nhà thi sĩ của chúng ta tế nhị lắm : chính ông không để cơ quan ngôn luận của ông là An Nam tạp chí tấn công thơ mới. Còn đối với thơ cũ, ông thản nhiên bênh vực nó một cách gián tiếp bằng việc cho đăng thơ cũ, bình giảng thơ cũ. Đề cập thẳng đến thơ mới với luận điệu mỉa mai có lẽ có trường hợp Vân Bằng trong bài "Tôi thất vọng về ông Phan Khôi" (An Nam tạp chí số 39, 30-4-1932).
"Vừa đây, ông lại ra công "sáng chế" ra một lối thơ "tân thời, tự do đặc biệt", không cần niêm luật, tự ý vắn dài, làm cho nhiều người "hoài cổ" phải ngậm ngùi thương tiếc, "tám vế" luật Đường! Có lẽ vì sự phát minh lối thơ mới này mà phải mai một đi chăng? " 
Chất Hằng đả kích thơ mới của Phan Khôi
Ngoài An Nam tạp chí, tờ báo thứ nhất ở Bắc tỏ vẻ chống thơ mới là tờ Văn Học tạp chí của Chất Hằng Dương Tự Quán.
Trong bài "Ấm Hiếu Không thể làm Tú Khôi" hay là "Một cái tỉ hiệu luận giữa Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu",Chất Hằng, trong lúc đả kích Phan Khôi ở nhiều phương diện, đã mỉa mai lối thơ mới do Phan Khôi khai mào. Nói về Phan Khôi làm thơ, Chất Hằng viết: "Người ít tình cảm thì sự cảm giác về cái bản ngã cũng kém cho nên Phan Khôi không hay làm thơ mà chỉ ưa nghiên cứu về thơ. Đôi khi Phan Khôi cũng làm thơ, nhưng thơ của ông cũng "hùng hổ" như ông... hay khắc khổ như văn xuôi của ông, hoặc nhạt nhẽo vô duyên như hình dáng của ông.
"Có lẽ vì thế mà Phan Khôi muốn thay đổi cái hình thức của thơ mà xướng xuất ra một thể thơ mới nó thật ra chẳng mới chút nào, và cũng ít người cùng ông hưởng ứng" (V.H.T.C. số 18, 1-6-1933).
Sau khi chế giễu thơ mới một cách nhẹ nhàng ngày 1 tháng 6 năm 1933, Chất Hằng viết liên tiếp ba bài công kích thơ mới đăng Văn Học tạp chí các số 22 (1-8-1933), số 23 (15-8-1933), số 24 (1-9-1933). Bài đăng số 22, với tựa đề "thơ mới", đề cập đến cuộc cải cách thơ của Phan Khôi từng được mệnh danh là cuộc cải cách của thơ mới. Chất Hằng cho rằng cái mà Phan Khôi nhận là mới ấy, chẳng phải Phan Khôi là người đầu tiên xướng xuất ra, người đầu tiên xướng xuất ra là Nguyễn Văn Vĩnh :
"Phá cùm và cắt xích cho những nhà thơ, công cuộc giải phóng đó không phải là chẳng hợp lý và chẳng thích thời.
"Nhưng khi ấy cũng ít người hưởng ứng, trong số tôi thấy có ông Thượng Minh mà các bạn độc giả của Văn Học tạp chí chắc còn nhớ là một người vì quá hâm mộ ông Phan Khôi mà liệt ông Nguyễn Khắc Hiếu vào hạng nhà văn điên cuồng, gàn dở.
"Mới đây một tờ báo có tính cách hài hước "lại đem cái vấn đề thơ mới ấy đặt lên thảm xanh" và hết sức cổ động cho "lối thơ Phan Khôi" như lời ông Thượng Minh đã nói trong báo Đông Tây.
"Nhưng trước khi bàn về việc đổi mới cho thơ, ta hãy nên "trả cho César cái gì của César" đã. Tôi muốn nói rằng ông Phan Khôi chẳng phải là người thứ nhất đã có cái sáng kiến làm thơ quốc văn theo lối tây vậy.
"Người ấy có phải ai đâu mà chính là ông Nguyễn VănVĩnh. Ta hãy đọc mấy câu trong bài ngụ ngôn "Con ve và con kiến" dịch của La Fontaine ra đây:
Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè.
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Một miếng cũng chẳng còn
Ruồi bọ không một con
Vác miệng chịu khúm núm
Sang chị Kiến hàng xóm
Xin cùng chị cho vay
Giăm ba hạt qua ngày.
Đối với Chất Hằng, Nguyễn Văn Vĩnh hay Phan Khôi cũng thế thôi, toàn là người lập dị, phản động: vẫn biết phải đổi mới cho thơ, nhưng chỉ nên đổi mới tinh thần thôi chứ ai lại kỳ cục mà sửa đổi hình thức theo đây:
"Song tôi không đồng ý hẳn với người hay những người đã và sẽ sáng tạo ra các lối thơ mới, tuy trên kia tôi nói rằng công cuộc giải phóng cho thơ không phải là chẳng hợp lý và không thích thời.
"Tôi thích đổi mới cho thơ, nhưng tôi chú trọng về tinh thần của thơ hơn là là đường hình thức. Về đường hình thức của thơ, tôi dám nói rằng những nhà thơ cổ của Trung quốc đáng là thầy ta. Lối thơ Đường luật tuy bị giam hãm vào trong cái thi pháp chặt chẽ nhưng ta thử hỏi có lối thơ nào là chẳng phải bó buộc bởi những luật lệ nhất định. Ngay như thơ tây cũng còn phải theo phép tắc rất phiền phức. Vì nếu không thế thì không phải là thơ nữa.
Và ngoài thể thơ Đường luật nghiêm nhặt ra, ta há lại không còn thể nào rộng rãi nữa hay sao?
Còn như coi thể thơ Đường luật có chật hẹp quá, thì có thể cổ phong cũng là rộng rãi lắm chứ, việc gì phải lập dị. Tinh thần hướng dẫn nhà thơ hiện đại phải là "dùng lối cổ mà diễn những tư tưởng mới":
"Thì thể cổ phong đó thật đủ tư cách để ứng phó cho sự nhu yếu của ta. Cổ phong là lối văn có vần mà không đối nhau. Nếu có đối nhau là tùy ý của nhà làm văn, không phải là một luật nhất định. Cổ phong không có niêm luật, không hạn câu, tự bốn câu cho đến bao nhiêu câu cũng được. Cả bài dùng một vần tức là độc vận, như:
Hôm qua có bạn, rượu lại hết
Hôm nay có rượu, bạn không biết,
Cất đi, đợi bạn đến lúc nào,
Cùng uống, cùng vui trời đất tít
Khi say, quên cả ai là ta
Còn hơn lúc tỉnh nhớ mà mệt
Cả bài dùng nhiều vần là liên vận, như:
Đá xanh như nhuộm, nước như lọc
Cỏ cây hoa lá dệt như vóc
Trời hoang mây tạnh gió hiu hiu
Ai thấy cảnh này mà chẳng yêu
Mới biết Hóa công tay khéo vẽ
Tuy người điểm xuyết ra nước non
Bể cạn non bộ nhỏ con con
Sao bằng tiêu giao cùng Tạo hoá
Bốn mùa phong cảnh thật không giả.
Đọc qua mấy bài thơ thể cổ phong tôi lục ra trên đây, chắc phần nhiều các bạn độc giả sẽ nghĩ như tôi rằng những người khởi xướng và cổ động cho lối thơ mới chỉ là "cho máy chạy thụt lùi" mà thôi, chứ có chi là đặt ra mới đâu.
Vì vậy tôi cho cái hình thức của thơ chẳng phải đổi mới. Việc các nhà thơ nên làm ngay bây giờ là cứ theo cái hình thức thơ cổ và diễn những tư tưởng mới.
Sang đến bài "Làm thế nào để đổi mới cho thơ" (V.H.T.C. số 23, 15-8-1933), về vấn đề hình thức, ngoài việc đề nghị hình thức cổ phong, còn đề nghị thêm hình thức lục bát và song thất lục bát nữa, nhưng ông không ưng cho người ta đi xa hơn nữa. Thế rồi ông kịch liệt tấn công sự nghèo nàn của thơ hiện tại về phương diện nội dung. Ông hô hào phải đổi mới cho thơ về mặt đề tài, về nội dung. Ông bảo:
"Sao người ta không vịnh cái máy bay, cái tàu thủy, cái ô tô, cái xe lửa, mà cứ quanh đi quẩn lại hết cái điếu, cái chổi lại đến cái nón hay cái hỏa lò?
Giá ông thi sĩ nào vịnh cho tôi cái toa máy xe lửa cũng linh động như mấy câu sau này:
Sur le taureau de fer qui fume, souffle et beugle
L'homme a monté trop tôt...
Mais il faut triompher du temps et de l'espace
Arriver ou mourir...
...Mais aucun n'est le maitre
Du dragon mugissant qu'un savant a fait naitre, của thi sĩ Alfred de Vigny tả những toa máy thứ nhất (Les premières locomotives) thì có phải ông ấy đã mở được cho thơ quốc văn một con đường mới không. Tôi lại ước ao có nhà thơ nào đem con mắt biết quan sát mà ngắm những nhà máy và cảnh sinh hoạt anh em chị em lao động rồi vẽ nên được những bức tranh tuyệt xảo giống như của thi sĩ Verhaeren nước Bỉ, thì lúc này chúng ta còn có thể lạc quan, trong khi dự đoán tiền đồ của thơ quốc âm."
Thương Sơn bênh thơ cũ
Chẳng những bảo thơ mới của Phan Khôi chẳng có gì mới mà còn cho thơ mới của bọn các ông chẳng qua chỉ là một thứ từ khúc hết sức cổ lỗ, lời thời trước đây đã có biết bao nhiêu người làm rồi. Bài này tựa đề là "Thơ mới tức là Từ Khúc" ký Thương Sơn một bài bổ khuyết bài "thơ mới" của Chất Hằng và được ông Chất bàn góp thêm ở phần cuối (V.H.T.C. số 24, 1-9-1933). Theo cả hai ông Thương Sơn và Chất Hằng thì thơ mới thực ra chỉ mới ở mỗi cái chỗ gieo vận. Vậy mà các lối vận của cái thơ được mệnh danh là thơ mới, lại chỉ là vận của các lối từ khúc mà thôi. Ông Thương Sinh phân tích các vần của hai bài: bài "con ve và con kiến" của Nguyễn Văn Vĩnh, cũng như bài "Tình già" của Phan Khôi, rồi đem so sánh với cách gieo vần của nhiều bài Từ Khúc để kết luận: thơ mới là một hình thức đi giật lùi.
"Kể ra thì trong bài "con ve và con kiến" cái lạ ở nơi cách bắt vần, cách này cũng hai câu một vần với nhau, đến hai câu khác lại vần khác, có giống như lối vần "liên tiếp" (rimes suivies) của tây. Ấy, cũng vì cái giống ấy mà chúng ta tưởng lầm rằng, cách bắt vần này mới lắm, song kỳ thực trong văn Tàu nó đã có từ lâu, nó đã cũ, tôi nói cũ để khỏi nói xưa đó thôi.
"Thì cứ xem bản dịch Tỳ bà của Tản Đà thư điếm cũng đã thấy cách bắt vần ấy rồi, nên bản Tỳ bà của Cao Đông Gia ở tận đời Nguyễn. Đây xin trích mấy vần:
Thám hoa (đọc):
Bác chẳng thấy năm ngoái quan nghè Bùi?
Ngã ngựa đứt băng một bên đùi.
Lại chẳng thấy năm trước quan đốc Phùng
Ngã ngựa vẹt hẳn một bên mông?
Ở đời có ba sự rất sợ,
Chở đò, đánh đu cùng cưỡi ngựa.
lại điệu từ "Bồ tát Man" dịch đăng ở Nam Phong:
Bảng lảng non vàng cảnh minh diệt
Mây in mái tóc, thân pha tuyết
Ủ dột nét mày ngài
Điểm trang cùng với ai?
Cánh hoa lồng trong kính
Mắt hoa cùng lấp lánh
Mới mẻ...
Đôi chim ai thêu thùa?
Cùng điệu "Mộc Lan Hoa"
Đàn ai tiêu sái
Khiến khách giang hồ tình ái ngại;
Lơ lửng trăng sân,
Bóng mình mình ngỡ bóng giai nhân
chẳng phải là bắt vần như bài dịch của ông Vĩnh ru?
"Tôi còn nhớ như bài "Khóc Lâm Tứ Nương" đăng ở tạp chí này, nguyên Hán văn cũng bắt vần như thế.
"Vậy thì cách vần ở bài "Tình già" cũ lăm lắm chứ có cũ vừa đâu ! - ông Chất Hằng lại rõ thật là sơ ý. Ông không thấy rằng bài ông Vĩnh cũng bài cổ thể thứ hai mà ông chép ở đoạn sau bài là giống nhau lắm ru? Bài trên là một bài ngũ ngôn; cái lạ chắc không ở đó, mà ở cách bắt vần, song cách bắt vần lại giống bài dưới mất, nghĩa là người ta đã làm rồi, thì còn gì là sáng kiến nữa đâu! Họa chăng chỉ còn ở mấy chữ "suốt mùa hè".
"Từ trên tới đây, đó là tỏ một phần cũ của bài thơ ông Phan. Trước khi nói đến phần cũ khác của nó, ta hãy thử xem vì sao cách bắt vần "liên tiếp" nó đã có từ lâu rồi mà người ta lại ít làm tới, cho đến bây giờ người ta ngộ nhận rằng nó là "tân thời". Ấy cũng vì nó không hay gì cho lắm, không êm ái bằng cách bắt vần như thơ Đường vậy, ấy nó cũng sắp vào vòng" đào thải "rồi."
Rồi Thương Sơn đem so sánh bài "Tình già" của Phan Khôi với bài "Mối tình ngầm "của Trần qu Thường H.T., để quả quyết rằng thơ Phan Khôi còn cổ hơn là Từ Khúc nữa kia:
"Ông Chất Hằng chép bài "Tình già" sai với nguyên văn, nên chỉ chú đến cách bắt vần, mà không biết đến cái tự do của nó. Như thế, những người đã "lại đem cái vấn đề thơ mới ấy đặt lên thảm xanh" chắc sẽ không khỏi nói qua nói lại. Vậy xin thay ông chép lại mấy câu thơ gốc của "lối mới" rồi chỉ một chỗ "cũ" khác của nó, mà chỗ này quan hệ hơn.
Hai mươi bốn năm xưa
Một đêm vừa gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ trong gian nhà nhỏ
Đôi cái đầu xanh kề nhau than thở
Ôi! đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng
Mà lấy nhau hẵn đà không đặng,
Để đến nỗi tình trước phụ sau
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau
Đọc bài ấy rồi, độc giả đọc bài này:
Lá liễu xanh
Hoa hồng đỏ
Trăng rạng tỏ
Thấp thoáng trong mành ai to nhỏ
Ai to nhỏ?
Vườn xuân cỏ cây tươi tốt
Khi xuân đầm ấm dương hoà
Dan díu cùng ai lời thề thốt
Hẹn dưới hoa.
"Ở trên bài đây, ta nếu thử đề rằng "Thơ mới" mà gửi cho mấy tờ báo vẫn chắc rằng lối "thơ Phan Khôi" là mới, họ sẽ đăng ngay, vì nó có theo luật lệ gì đâu, người ta cũng tự do đặt nó ra, nó là thơ "mới" vậy. Nhưng nó "mới" từ độ mười năm nay, trong Hữu Thanh khi xưa; tôi đã trích ở trong bài nói về từ khúc của ông Nguyễn Ửng, nó là Từ khúc vậy. Từ khúc lúc ấy rất thịnh trong thi ca. Ấy là một lối thơ tự do, nhưng "tự do" ở trong "giới hạn" âm nhạc câu thơ, tự do phải đường".
Động Đình đả thơ mới
Cũng trên Văn Học tạp chí số 49, 11-8-1934, Động Đình viết bài "Bàn thêm về lối thơ mới"lời lẽ có vẻ còn cay nghiệt hơn trước đây. Trước hết, Động Đình cho rằng luật thơ cũ chẳng có gì là khó khăn gò bó cả:
"Ít lâu nay cái phong trào thơ mới sôi nổi dữ. Các báo thường thấy hô hào cải cách về thơ. Nào bài xích lối thơ Hàn luật, đổ tội cho thơ cũ của ta phải tội niêm luật quá nghiêm khắc, làm cho mất cả tinh thần tự do của văn chương đi. Nhưng nói thế là lầm, ta hãy xét lại những lời xưa ý cũ của các thi sĩ đời xưa xem có diễn được hết ý tứ, ngụ được đủ tính tình của người làm thơ, tả được hết cái trạng thái của vũ trụ, của cảnh vật không".
"Đem so với thơ mới bây giờ thì thơ cũ hơn vô cùng, thơ mới vô vị thế nào thì thơ cũ thi vị và ý vị như vậy:
"Cái thi tứ thi vị ngày xưa so sánh với thơ mới bây giờ ra sao. Thật là thơ Hàn luật vẫn ý vị vô cùng, thanh tao biết mấy, bóng bảy dường nào, đọc lên, nghe đến ai mà không hiểu. Tuy, cái niêm luật, thể vần, lối thơ cũ của ta nó hơi khó, hơi nghiêm một chút, nhưng âm điệu vẫn thâm trầm, mà tinh thần vẫn hàm xúc đủ các ý tưởng, tình tứ".
Động Đình cho rằng những lẽ người ta viện ra để bảo thơ cũ luật lệ chật hẹp là không đúng, có thứ chặt chẽ như thất ngôn bát cú, nhưng lắm thứ chẳng có luật lệ gì gò bó như "ca, hát, từ, khúc, trường thiên, cổ phong:
"Vả lại thơ cũ có thật niêm luật khắc khổ nghiêm ngặt thì sao từ trước đến giờ thi sĩ có ai chịu không theo nổi cái niêm luật thể thức ấy đâu?
"Kể thơ Hàn luật còn lắm điệu, nhiều thể rộng lắm như các bài ca, hát, từ, khúc, trường thiên, cổ phong, chữ và vần vẫn tự do chẳng cũng là đặc điểm khoan hồng cho thi luật lắm đó sao? Bất tất phải thay đổi chi thêm phiền, thêm rắc rối. Còn lối thơ mới bây giờ, xét ra cũng bất ngoại cái khuôn sáo cũ. Thể cách tuy có hơi khác, nhưng cái tinh thần vẫn cũ rích.
Động Đình đồng ý phải đổi mới cho thơ, nhưng chỉ đổi mới về nội dung mà giữ y nguyên về hình thức chứ, theo ông, thơ mới, ngược lại, chỉ có mới về lời mà ý thì cũ rích và lạc hậu:
"Tưởng đã duy tân cho thơ thì cần ở chỗ tinh thần hơn là hình thức thì mới nên. Chứ chỉ bỏ có niêm luật thể vận cho dễ viết mà thôi, thì e rằng rừng thơ thêm gai góc, hồn thơ tổ vẫn đục.
"Duy có một điều mà tôi muốn bàn đây là chỉ nên cải cách nguyên cái tinh thần cũ. Vì ít lâu nay thơ ca nhường như phần nhiều đều phải chung cái bệnh không hồn. Phàm gọi là thơ, văn phải có tình, có tứ, có khí, có hồn, ấy thế mà chỉ thấy giọng sầu oán bi ai cả là nghĩa lý gì.
"Sao lại có thứ văn chương phù phiếm ấy, nhu nhược thế. Hay là vận thế đến lúc suy, mà văn chương cũng suy theo chăng .
"Văn tức là hồn nước, rất có ảnh hưởng đến nền tiến hoá".
Cuối cùng Động Đình chê thơ mới yếu đuối, phản động vì buồn bã, ủy mị, hại dân hại nước, không bổ ích cho ai:
"Ta nên rèn dũa sao cho văn chương được hùng hồn, có vẻ hoạt động, thực tế, thì ở thế kỷ 20 này mới thích dụng. Lại còn phải thông thường thì mới bổ ích. Bởi thứ văn sầu cảm đã không bổ ích gì cho đường thực tế, mà lại làm thêm ủy mị đi, mất cả cái nhuệ khí phấn đấu, cái mãnh lực tiến thư, dẫu có hay mấy cũng là vô dụng".
Nếu ở ngoài Bắc có Văn Học tạp chí đố kỵ thơ mới thì trong Nam có Văn Học tuần san chửi bới thơ mới. Hai nhà văn của Văn Học tuần san bênh thơ cũ chửi thơ mới quyết liệt hơn cả là Tùng Lâm Lê Cương Phụng và Thiết Diện.
Để bênh vực thơ cũ là thứ thơ có âm điệu, có tiết tấu, nghĩa là có chất thơ, tức là đáng gọi là thơ, Tùng Lâm Lê Cương Phụng viết bài "Nói chuyện văn vần : lịch sử và giá trị của nó " (V.H.T.S. số 5, 1-5-1935).Trước hết Tùng Lâm phân biệt văn vần với văn xuôi:
"Tình cảm ở trong, phát lộ ra tiếng nói, tiếng nói có tăng thứ, có ý vị, có âm hưởng, làm cho người ta dễ cảm xúc được, ấy là nguồn gốc của văn vần.
"Tiếng chim hót mùa xuân, tiếng ve ngâm mùa hạ, tiếng dế khóc mùa đông, tiếng cao, tiếng thấp, tiếng nhặt, tiếng khoan, ấy là manh mối của văn vần.
"Văn vần có cái đặc điểm khác văn xuôi là câu đặt gọn gàng mà bóng bảy, lời đưa uyển chuyển mà tiêu dao. Nay xin kể qua lịch sử và giá trị của nó".
Thế rồi ông ngược dòng lịch sử mà phác vẽ nguồn gốc của thi ca từ Tây phương qua Đông phương, từ đời thượng cổ cho đến nay, đâu đâu người ta cũng thấy văn vần là thứ văn của thần linh:
"Lịch sử văn vần ở Thái tây phát sinh từ đời nào tôi chưa được chắc; chỉ theo thần thoại Hy Lạp, tôi được biết rằng Apollon là một đứng thi thần (Dieu de la poésie); còn theo lịch sử văn chương Ý Đại Lợi thì tôi thấy người ta tôn sùng Daute làm thi tổ, vì cuốn La divine comédie của Daute.
"Ở Pháp hình như bài vận văn đầu tiên thì thuộc vào thế kỷ thứ IX (chỗ này chúng tôi đương còn tra cứu). Ở Tàu thì trước kỷ nguyên Thiên Chúa hai nghìn năm vào đời Nghiêu, Thuấn đã nứt mầm rồi, đại để như bài ca Cao Dao, bài đờn Ngu Thuấn, bài hát Khang Cù...đều là câu có vận cả.
"Trải qua một khoảng thời gian khá dài hơn hai ngàn năm nữa, từ đời Thành Chu tới đời Lục Triều, lúc bấy giờ văn vần mỗi ngày một tiến lên, và biến thể rất nhiều, từ lối Quốc Phong, Nhã, Tụng mà tiến dần tới thi Ngũ ngôn, Thất ngôn. Dẫu rằng các nhà học giả sinh vào thời kỳ ấy có trứ tác lối văn lý thuyết như Tiêu dao thiên của Trang Chu, Đạo đức Kinh của Lão Tử, và các sách của Tuân, Dương, Quản, Án...nhưng đó chỉ là một thể văn, không thể đánh đổ nổi lối văn gọi là văn tánh tình như vận văn được".
Tùng Lâm ví thơ với hội họa: cái khó của đôi bên làm nên chính cái giá trị của cả đôi bên. Hội họa tài tình vì những nét tỉ mỉ, thơ kỳ diệu vì những luật lệ tinh vi. Bỏ tất cả các thứ đó đi, họa không còn là họa và thi cũng hết là thi:
"Nhà làm văn vần, cũng như nhà hội họa, nét bút nhà hội họa càng tỉ mỉ, tinh tế, bóng bẩy đúng mẫu mực, thì mới thấy cái khéo của nét bút thần tình. Trái lại nếu không có cái sở thích (gớt) và không thường để ý thưởng thức nó thì không bao giờ nên một nhà danh họa được. Nhà làm văn không có cái đặc tánh sở thích thì bao giờ làm nổi văn vần?"
Sau đó ông bác bẻ những lý lẽ người ta viện ra để chê trách các luật lệ gò bó, câu thúc của văn vần, tức của thơ cũ. Theo ông, thơ là cái gì tinh hoa nhất trong nghề văn:
"Tôi đã có thường thấy nhiều người phản đối văn vần. Họ cho rằng : lối văn ấy câu thúc trong quyền sáo, tẳn mẳn đẽo gọt, mất hết tự nhiên, và nhiều khi vì vận mà ép câu vì lời mà hại ý, mà nhất là phí mất cả thì giờ.
"Phải, chính lúc ban sơ tôi đây cũng nghĩ như thế. Nhưng rồi sau tôi nghĩ lại: Văn vần đứng trong các thứ văn cũng như một mỹ thuật đứng trong các nghệ thuật.
"Văn vần như cánh hoa cắm để chơi, bức tranh treo để ngắm, cây đờn đờn để nghe. Nếu cắm cành hoa không sắc không hương, treo bức tranh vẽ vụng về thô tháp, nghe tiếng đờn không nhịp không nhàng, thì cái giá trị đặc biệt nó ở chỗ nào? Thà đừng có còn hơn.
"Một lẽ nữa: văn vần là một lối văn để thưởng thức mà chơi. Muốn chơi đến nó, tự nhiên phải theo niêm luật, vận âm của nó, nghĩa là phải nằm trong khuôn sáo của nó; cho được câu văn chải chuốt bóng bảy, tự nhiên phải phí mất thì giờ. Cái đó để riêng phần cho các nhà tao ông, mặc khách là những nhà tài tử phong lưu, lúc nhàn du ngâm vịnh, chớ mình, thày lay chơi đến nó làm gì mà bảo rằng tốn công tỉ mỉ, phí uổng thì giờ? ".
Cuối cùng Tùng Lâm kể ra tất cả thể thơ của ta, từ lối bắt chước Tàu (hễ Tàu có gì thì ta có nấy) đến các lối riêng của ta như lục bát, song thất lục bát, ca trù, ca Nam, xoang xẫm, trống quân...rồi ông kết luận rằng thi ca Việt Nam phải là theo truyền thống ấy.
Theo ông, thơ mới chẳng qua chỉ là sự lập dị của một người (chắc ám chỉ Phan Khôi) không thể lấy đó làm khuôn phép :
"Thì tôi dám nói quả quyết rằng, lối văn vần chẳng hạn ở Tàu, ở Tây, hay ở Ta, cứ mỗi ngày mỗi tiến mãi lên vì no cóù cái giá trị đặc biệt, cho nên nhà làm văn vẫn chú ý đến nó và muốn bồi bổ cái gốc nó mà khuyếch trương mãi, trừ ra một ít người không muốn dụng công đặt để tìm theo cách dễ dàng, mau lẹ, khuynh hướng về lối thơ mới. (Chúng tôi sẽ có bài nói riêng về thơ mới). Còn riêng ra những hạng người thích ngâm vịnh, chuộng tài hoa thì thật không bao giờ bỏ qua các lối văn vần để có quy tắc như từ lâu nay chúng ta thường thấy đó" (Văn Học tuần san số 5, 1-5-1935).
Tùng Lâm Lê Cương Phụng 
đả kích thơ mới
Sang đến Văn Học tuần san số 6, 1-6-1935, Tùng Lâm tấn công thơ mới ra mặt.Vì chưa có trích tuyển ở đâu nên tôi trích vào đây toàn bài để cácbạn tiện bề so sánh. Trong bài này Tùng Lâm đề cập đến các điểm sau đây:
1) Chỉ có hạng dốt mới muốn thơ mà lại thơ dễ dãi không niêm luật.
2) Thơ mới là thứ thơ bừa bãi,vô kỹ luật.
3) Minh chứng những chỗ dở của các bài thơ mới.
4) Trách Đông Hồ đã đi lầm đường bỏ thơ cũ là chỗ sở trường của ông để đi vào thơ mới với những bài thơ vô vị:
"Thi vẫn một món trong các thứ văn vần, nhưng đối với các thứ ấy nó lại rắc rối mắc mỏ hơn nhiều. Người đã từng chơi với nó và nếu được ý vị nó ít nhiều, thì lại càng thấy cái khó của nó; trừ ra những hạng "bướng" hoặc chưa có nhà "đại gia" "căng nọc" ra chỉ vạch những chỗ khuyết điểm cho, thì bao giờ họ cũng vẫn cho là dễ.
"Mà thật thế, có khó chi, cứ đủ vần đủ chữ, đừng thất niêm thất luật, ấy là thi đó chứ gì. Đó là nói về lối thi ngũ ngôn, thất ngôn, chớ còn cái lối thi như hiện thời gọi là " thơ mới " đó, lại càng dễ hơn thập bội nữa. Cứ việc kéo, tha hồ kéo, kéo lượt bượt, mấy vần cũng được, mấy chữ cũng xong, không có khuôn sáo nào, luật nào bó buộc, dễ biết bao nhiêu, không trách gì hạp với thời thượng cũng phải.
"Họ bảo rằng: Cái thời đại này là thời đại máy móc, trăm ban vạn sự gì cũng cần sự mau chóng tiện lợi, đâu có phải như cái đời cũ kỹ trước kia, bất kỳ việc gì cũng chần chờ, chậm chạp, làm phí mất thì giờ, nhà văn cũng thế, ngồi rung đùi tối ngày, tằn mằn tỉ mỉ, đẽo gọt từng câu từng chữ, đối với thời buổi này không dùng lối ấy được đâu "Nghe có lý lắm! Nhưng có người cắc cớ hỏi vặn lại một câu: "Thi là một món chơi, để tiêu khiển thì giờ, nó đối với nhân sanh thực tế không quan thiết gì, có cũng được, không không sao, ai bảo đeo đuổi nó làm chi, rồi chê bai nó, ghét ghen nó, mắng nó là lối văn chặt chịa, ở trong quyền sáo niêm luật, không được tự do? Nếu muốn dễ dãi thì hẳn cứ viết văn xuôi đi, cho người ta dễ hiểu, việc gì phải ngụy tạo ra cái lối văn "cổ chẳng ra cổ, kim chẳng ra kim"? Thì đây, tôi xin đem ra một bài này để làm đại biểu cho trăm nghìn bài khác:
CẢNH TRỜI XUÂN
"Cảnh trời xuân,
"Em dạo ra sân,
"Đứng trông, em càng khoan khoái tinh thần.
"Kìa kìa, con chim nó hót cái giọng
"Thảnh thót như một vị mỹ nhân, khảy khúc đờn.
"Khúc đờn này, tiếng nhặt tiếng khoan, tiếng cao tiếng
"Thấp, dường như khêu gợi mối xuân tình của em
"Từ bấy lâu nay dồn dập
"Rồi em nghĩ vơ nghĩ vẩn, tâm hồn em lẩn thẩn.
"Nghĩ cái tuổi xanh này, là cái tuổi thơ ngây
"Một mai xuân này đã qua, thân em già
"Lúc bấy giờ, em tưởng tượng lại,
"Em chi xiết ngậm ngùi, nỗi ngậm ngùi.
"Mây bay, nước chảy, hoa trôi ".
(Xin dấu tên của tác giả)
"Đó, thơ mới đó! Tác giả chính là tín đồ của thơ mới, thật tôi ráng đọc; tôi muốn nói thơ, thì thơ chẳng ra thơ, tôi muốn nói ca, thì ca cũng chẳng ra ca. Tôi chỉ hiểu cái bài ấy là bài ấy đó thôi!
"Song, cái bài này đây, nghe ra còn có câu, có nghĩa, chỉ hiềm nó không ở trong một khuôn sáo là "thể" gì cả.
"Tác giả bài này trước kia là tín đồ của thơ luật, có nhiều bài thần tình lắm, chẳng biết bị cái phong trào thơ mới nó lôi cuốn thế nào, nay lại xoay sang làm tín đồ thơ mới?
"Lại gần đây, có nhiều nhà phỏng theo điệu thơ Tây làm ra nhiều bài, cũng tự cho là thơ mới.
Như bài này:
BÊN GỐC CÂY DỪA
"Ánh nắng trời thu dịu dàng êm mát,
"Bên gốc dừa, cô em ngồi lặng buông câu.
"Trên thảm cỏ xanh, bên sông bát ngát,
"Cô đăm đăm nhìn dưới nhịp cầu.
"Phong cảnh đẹp bóng cây in bóng nước,
"Lá rung rinh, tàn xanh lả lướt.
"Mặt cô em tròn trắng xinh tươi,
"Dưới vành khăn, phơ phất mái tóc mai.
"Mắt lóng lánh, làn môi tươi thắm;
"Khiến cho tôi nhìn cô em say đắm.
"Nhẹ nhàng tôi bước lại một bên.
"Ngồi gần cô, tôi lẳng lặng ngắm xem,
"Giờ lâu tôi mới tìm lời ướm thử
"Rằng" câu cá vẫn là một cái thú:
"Những người thanh tao ẩn dật xưa nay,
"Chỉ biết thanh nhàn với cỏ cây,
"Sớm vác cần câu bên khóm trúc...
"Buông cần cô em ngoảnh nhìn tôi:
"Cặp mắt ngây thơ, cô trả lời:
"Em nào phải thanh nhàn phong phú,
"Mượn cảnh thiên nhiên làm vui thú.
"Nhà nghèo sớm tối em nhọc nhằn,
"Lúc dưới nắng hạ, lúc mưa xuân,
"Lúc gió đông thổi lạnh lùng rét mướt,
"Và sương thu rơi thấm ướt,
"Em vẫn phải làm với ngày tháng cho qua,
"Bên gốc cây, câu để nuôi nấng mẹ già,
"Trong túp lều tranh, sớm mong chiều đợi.
"Hai mắt đã lòa, hai chân đã mỏi,

"Chỉ trông vào em, kiếp sống chiều tàn...
"Cần lòng yêu, để che nỗi khóc than...
"Em nào phải thanh nhàn phong phú,
"Mượn cảnh thiên nhiên làm vui thú,
"Sớm câu, chiều câu, lại mai câu.
"Mong có cá nhiều và mong mẹ sống lâu,
"Bữa qua bữa với tấm lòng vui vẻ,
"Của một mẹ già trông mong ở con trẻ.
"Thể thơ đó, bắt vần như thể thơ Tây, nhưng tác giả phun châu nhả ngọc, muốn bao nhiêu tuỳ ý. Có bài gấp đôi, lại cũng có bài ngắn bằng nửa.
"Mà rồi ta thử  lẳng lặng ngâm coi, coi cái giọng ngâm nó ra sao? Ngâm như ngâm thi thì ngâm thế nào được, hay là phải ca như ca Văn Thiên Tường? Hoặc phải bắt giọng như giọng ca Tiều của cô Phùng Há?
"Xét cho kỹ, chẳng qua tác giả chán nản cái công phu đặt thi luật, nó chỉ có bốn câu tám câu năm vần, ba vần mà phải cho đủ ý, đủ lời, không thất niêm, không phản luật, không lạc vần, thấy khó chơi, rồi thì băng qua một con đường khác đặng cho dễ dãi, nhưng không ngờ lại đâm ra cái bãi đại sa mạc minh mông!
"Muốn cho dễ dãi một ít, khỏi mất công phu đẽo gọt, thì tôi xin hiến cho một kế là hẵng làm theo lối thơ Đường, mà thể Đường cổ phong. Thì như bài này:
THƠ VUA SIAM MỚI GỬI CHO VUA CŨ
"Năm xưa chú bảo chú đau mắt;
"Bà con ai cũng cho là thật;
"Cả nước chờ chú về làm vua;
"Ai ngờ tin chú ngày một mất
"Bây giờ thơ chú gửi về nhà,
"Rằng chú ở lại nước người ta,
"Ngôi vua chú không muốn ngó đến,
"Thịnh suy mặc kệ nghiệp ông cha.
"Không lẽ nước có, vua không có,
"Đình thần mới chọn cháu lên đó,
"Cháu đã nghĩ tới rồi nghĩ lui,
"Cháu biết làm vua là chuyện khó
"Vì rằng trong nước đảng phái nhiều,
"Quân chủ, dân chủ biết bao nhiêu,
"Rầy nhất là chính sách lập hiến,
"Quyền vua chỉ còn có một thiu.
Cũng vì mẹ cháu bàn giải mãi,
"Cháu không làm vua cháu cũng dại,
"Dầu chỉ có vị không có quyền,
"Nhưng mình ăn tiêu còn rộng rãi.
"Huống chi kinh tế buổi khó khăn,
"Tay làm không đủ cho miệng ăn,
"Ai chê ai cười chi cũng mặc,
"Làm vua còn sướng hơn làm dân.
ĐƯỜNG QUANG
(Trích ở báo Ánh Sáng)
"Đó cũng là lối thơ dễ dãi, mà nghe hay, lại có lý thú nữa. Nếu muốn văn hoa thêm thì phỏng như bài này:
HOA THẬT HOA GIẢ
(Lời cô hàng hoa)
"Cô em hàng xóm sinh nhà nghèo,
"Trồng hoa tưới hoa sớm lại chiều,
"Gió đông vừa thổi hoa vừa nở,
"Cắt bó vội vàng đem bán chợ,
"Chợ chiều lác đác người hồ quang,
"Gánh hoa còn nặng cô bàng hoàng.
"Nào đâu quà em, nào cháo mẹ,
"Mẹ yếu em thơ lòng những thương!
"Đổ hoa xuống rãnh bưng mặt khóc,
"Khóc ra giọt lệ như giọt ngọc.
"Cúi đầu gạt lệ sợ người cười,
"Nhìn hoa dưới rãnh mắt khôn rời.
"Thương hoa thương cả công vun xới,
"Sương nắng công trình biết mấy mươi!
"Ô hay! người đời riêng tính lạ!
"Hoa thật chẳng thích, thích hoa giả,
"Hoa thật hỏi mua nào mấy người?
"Hoa giả đắt hàng như tôm tươi,
"Cô em ngẫm nghĩ bụng sực nhớ,
"Vì nghèo nên phải liệu chiều đời,
"Mua lụa mua phẩm, mua giây sắt,
"Nhuộm đủ các màu đem kéo cắt,
"Nào cành, nào cánh, nào đài trang,
"Khéo làm chẳng khác chi hoa thật.
"Làm xong hoa giả bán nhiều tiền,
"Lãi lời tấn tới ngày một lên.
"Mẹ khỏe, em học, chị buôn bán,
"Tay không bỗng chốc dư bạc nghìn!
"Có khi thong thả thăm vườn cũ,
"Mắt trông trăm hoa chiều ủ rũ,
"Tàn tàn, nở nở biết bao lần,
"Mưa mưa, gió gió ai là chủ?
"Tần ngần ngắm nghía cô thương tâm!
"Chứa chan dòng lệ khôn ngăn cầm!
"Thương hoa, thương cả nghề buôn bán,
"Lai láng tình riêng năm lại năm.
NHƯỢNG TỐNG
"Gần đây lại nổi cái phong trào thi bình dân. Thấy có nhiều tờ báo đăng những bài thi, trong đó tác giả dùng nhiều tiếng rất tục tĩu khó nghe quá. Như là : ỉa phẹt phẹt, ăn ngủ đ..., bày mổng trôn...Bảo rằng đó là thơ bình dân. Lại còn ngụy biện bảo là lối tả chân. Gớm thật!
"Đâu có hiểu rằng, thơ bình dân nghĩa là thơ có tính chất bình dân, không cái "mốt" thưởng nguyệt xem hoa, đề non vịnh nước, tiêu sầu khiển hứng như những trang tài tử phong lưu, không mơ mộng lên cung quế, gặp Hằng Nga, uống rượu đào, nghe khúc sinh ca, như phái thi ông lãng mạn. Chỉ cốt lời văn mộc mạc, tả ra cái phong vị của hạng bình dân mà thôi.
"Muốn tập làm thi bình dân thì hẵng bắt chước như bài dưới này:
ĐI LÀM THUÊ
"Miền tôi ở lở dở,
"Đã cách với nguồn lại xa chợ.
"Muốn buôn, không có đồng vốn nào,
"Muốn cày ruộng, không có một sở;
"Học mới học cũ cũng dở dang,
"Không phải thầy, cũng không phải thợ.
"Trong tay không có nghề,
"Thêm nạn khủng hoảng gớm ghê!
"Ma đói dục thúc mãi
"Buộc mình bước chân đi làm thuê
"Nghe nói miệt trong đường xe lửa,
"Các ông đứng thầu làm nhiều sở.
"Lật đật mang gói đi ngay vào,
"Cùng bạn cô li làm dọi bữa.
"Đào đất đập đá,
"Công việc vất vả.
"Mong rằng mồ hôi đổi bát cơm.
"Đồng công đồng nợ có tiền trả,
"Nào hay vài tháng nay,
"Làm rồi tiêu rồi, không có đồng nào còn dính tay.
"Chỉ lưa cái mình mộc,
"Đi về lỡ cười lại lỡ khóc!
Người Làm Thuê
(Trích ở báo Tiếng Dân)
"Đó, xem có chữ nào quê kịch, sống sượng, tục tỉu không?
"Luôn dịp nói chuyện thơ, tôi xin nói đến thơ Đông Hồ:
"Đông Hồ tiên sinh, một nhà thi sĩ đã viết ra nhiều tập, in ra nhiều cuốn, hình như tác giả có cái sở thích về thơ.
"Tôi để ý xem thì đoán được ngay nhà thi sĩ này có mấy cái đặc tính:
"Mấy năm trước, nhà thi sĩ vẫn là tín đồ của phái thi niêm luật, khoảng trung gian lại ít chuyên về lối ấy, thường dùng "Thơ tản văn".
"Tôi không hiểu lối này là lối gì. Xin trích ra một hai bài dưới đây:
BÓNG TRĂNG TÀN
"Bàng hoàng tỉnh giấc, mảnh trăng khuya chấp chới giải bên màn, ngửa mặt nhìn trăng, lầu sầu quấn quít. Cùng ai dưới bóng trăng này: Gió hắt, sương bay, đêm thu lạnh. Cảnh xưa tình cũ nào đâu : tay ngọc ai cầm, lòng son ai tựa, tóc mây ai buông toả bên vai.
"Vói bóng bắt trăng, bức màn rung động, nào phải đâu tay ngọc ai đưa, để âu yếm mối ân tình trên đầu năm ngón...gối nghiêng trằn trọc suốt canh dài!"
CÀNH HOA HỒNG
"Bình pha lê lóng lánh, cắm cành hoa hồng, tay ai vừa cắt trước sân nhà, buổi tan sương sớm. Đôi má hây hây, kề tựa đóa hoa mơn mởn, vẻ đẹp như lấn, khiến cho bông hoa hồng thèn thẹn nụ cười. Một ngày qua trở lại, cánh hồng bay tơi tả khắp bàn...
"Một năm qua trở lại, đôi má hây hây đâu đã vắng, cánh hoa hồng năm trước đã héo khô rồi. Đôi má hây hây, nay có lẽ, đang kề tựa đóa hoa mơn mởn nào đâu, nhưng vẻ đẹp biết có như lấn, mà khiến cho bông hoa hồng thèn thẹn nụ cười nữa không?"
"Còn nhiều nữa, vô khối! Tôi chỉ trích ra hai bài đó cũng như các bài khác.
"Tản văn là tản văn, mà thơ là thơ, đâu có thơ với tản văn chung với nhau làm một được? Nếu bảo thơ thì tất nhiên phải có vần nghe mới được chớ, dầu cổ, dầu kim, dầu Đông, dầu Tây, chưa tầng thấy lối thơ nào mà thơ không vần, xin hỏi Đông Hồ tiên sanh?
"Gần đây, nhà thi sĩ lại cũng chịu ảnh hưởng "thơ mới" ít thấy làm tứ tuyệt, bát cú như trước nữa, hoặc giả bị cái trào lưu thời thượng nó lôi cuốn rồi chăng? Nhưng xem thơ mới của tác giả thì có phần kém hơn thơ luật nhiều. Tôi chưa nói chỗ hay chỗ dở, ý thì ít mà lời thì nhiều, đại khái như bài thơ này:
TRƯỚC GIÓ
(Tặng Thanh Lan)
"Chập tối hôm qua, ta gặp một người trong mộng.
"Người có cái đẹp dịu dàng, xinh tươi lồng lộng.
"Là cái đẹp mặn mà, đằm thắm của người con gái đến thì,
"Cái đẹp dễ khiến cho người nhìn đắm đuối say mê.
"Nàng đứng chỗ ào ào cơn gió rét,
"Hơi gió lạnh như thấm vào trong xương thịt,
"Chiếc áo lụa phong phanh màu tuyết trắng bong, giải khăn san phơn phớt màu hồng bay lả lướt, phất phơ theo chiều gió lốc, như một áng mây tàn lờn vờn trên cành cây ngọc.
"Ta, bấy giờ, thấy người giá buốt, mà trông nàng thì như chẳng chút lạnh lùng. Âu yếm, ta sẽ hỏi: Em ơi ! Lạnh nhỉ ? Mỉm cười, đáp lại lời ta : Anh ơi ! Tuổi trẻ ! tuổi trẻ là tuổi êm đềm, đầm ấm, nồng nàn, thì chi có sợ nỗi lạnh lùng của sương gió, của thời gian.
"Mặc gió thổi, sương gieo, thời gian lãnh đạm, ánh than hồng của lòng ta vẫn ấm và vui với văn chương, trăng gió, cỏ hoa,với non sông, ánh sáng và nhất là với tình ái của đôi ta?
ĐÔNG HỒ

"Tôi xin mạn phép tác giả, cũng trong bài ấy, bấy nhiêu chữ, tôi xin rút lại tám câu như thế này :
Gặp người trong mộng tối hôm qua,
Trạt tuổi xuân xanh nét mặn mà.
Chiếc áo phong phanh màu tuyết nhuộm,
Giải khăn phơn phớt áng mây qua.
Lạnh lùng chẳng quản cơn sương gió,
Đầm ấm như say thú cỏ hoa.
Âu yếm, ta vừa lên tiếng hỏi,
Mỉm cười, liền tỏ tấm tình ra.
"Như vậy cũng đủ ý, đủ nghĩa, mà chẳng gọn hơn sao?
"Tôi đã đọc qua các tập thơ Đông Hồ, tôi có để ý đoán xét được tác phẩm của nhà thi sĩ này hầu hết chín phần mười là thư tình, mà là tình mơ mộng cả, thành ra hão và phù phiếm quá, ít có bài nào vịnh vật hoặc kỷ sự như mấy nhà thi nhơn khác. Thử lật một tập "Thơ Đông Hồ" ra xem, thì nhan nhản những bài: Chơi hoa, Khóc hoa, Nhớ Mai, Trông trăng nhớ người, Dưới hoa, Buồn nhớ người xưa, Buồn vơ buồn vẩn, Gặp nhau, Trách nhau...chan chứa cả giọng bi sầu ảo não.
"Rồi xem đến cuốn "Cô gái xuân" cũng thấy rặt những bài:
"Ngấn lệ, Quả tim, Cái hôn lần đầu, Giấc mộng tình, Đưa nhau, Hôn em, Dưới cây, Hỏi nhỏ, Gió buồng xuân...cũng là lai láng cả tình là tình!
"Thì ra cái tâm hồn nhà thi sĩ này thường vơ vẩn ở cõi "Cánh hoa thủy nguyệt "cùng là tiêu dao nơi hận hải tình thiên" trừ ra không mấy khi thấy lối văn nào khác nữa. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cũng bị mấy cái tật ấy mà Phạm Quỳnh tiên sanh tặng cho cái tiếng "văn chơi" "Ngông" chỉ nghĩa là không thiết thực.
"Vậy xin thi sĩ Đông Hồ cũng nên bớt bớt cái lối văn tình đi, xin luôn đừng chơi thơ mới nữa, hãy khôi phục lại lối thơ như các bài mấy năm trước đã từng làm, mong sau này sẽ trở nên một thi gia thằng mặc"
Sau khi chửi bới thơ mới và khuyên Đông Hồ nên bỏ thơ mới trở về với thơ cũ, Tùng Lâm Lê Cương Phụng còn lên tiếng cực tán thơ Đường mà ông cho là hơn hết mọi thứ thơ vì năm lý do sau đây (xem bài Những cái đặc sắc của Đường thiV.H.T.S. số 9 tháng 9 năm 1935).
1) Là nấc tiến cuối cùng, tột đỉnh của thi ca Tàu.
2) Là vì nó là thể thơ được xã hội cực văn minh Trung Hoa trau dồi tô điểm trong mấy trăm năm.
3) Là vì nó là một kho tàng văn chương vô cùng phong phú, đủ màu, đủ sắc.
4) Là vì nó là thể thơ thuần nghệ thuật chứ không phải là thể thơ đạo đức.
5) Là vì lắm khi nó còn bao hàm ý nghĩa bình dân, phô thông.
"Đều là thi, trước đời Đường thì Hán, Tấn, Nguỵ cũng có thi, sau đời Đường thì Tống, Nguyên, Minh, Thanh cũng có thi. Thế sao lại Đường thi vẫn có giá trị hơn? Các nhà thi sĩ phê bình nhau cũng lấy thi Đường làm căn cứ, các nhà nho học, cũng lấy thi Đuờng làm thi pháp nhập môn. Cho đến mấy câu sáo ngữ ở Tàu thường nói "Đường thi, Tống Tự, Hán văn chương" "Đường nhân phong vị" v.v... Thì biết thi Đường có giá trị hơn các thi khác. Nhưng, ta nên biết cái đặc sắc của nó ở chỗ nào?
"Có người nói : Lục triều vẫn có thi, nhưng thi ấy phần nhiều phức tạp, Tống, Nguyên, Minh vẫn có thi, nhưng thi ấy không được phong tao, không bằng Đường thi gồm đủ các thể tài. Nói thế, vẫn có lẽ, song chỉ lấy một phương diện chớ sự thật thì còn nhiều chứng tá. Muốn biết cái đặc sắc của Đường thi, nên xem lời phê phán của ông Hồ Vân Đực thì mới biết rõ là xác đáng hơn.
"Ông Hồ là một thi sĩ có tiếng ở đời nhà Thanh, người có công nghiên cứu về thi học, có viết ra cuốn nghiên về Đường thi, trong có nhiều đoạn bài bác các nhà thi sĩ xưa nay nhiều chỗ ngộ giải ; nay tôi chỉ xin lược trích ra một chương nói về chỗ đặc sắc của Đường thi, hiến cho các thi nhân được biết một ít Đường nhân phong vị.
"Đường thi sở dĩ hơn các thi khác, có bốn cái đặc sắc :
"Một là do thể thi của Tấn, Nguỵ mà biến thành mới, có niêm luật, có cổ, cận thể, có trường đoản thiên. Tức như các bài đã tuyển trong bộ Đường thi tam bách thư.
"Hai là đời Thạch Đường từ vua Cao Tôn về sau, hơn ba trăm năm triều đình chỉ chăm một mặt dùng thi phú từ chương làm nấc thang cho sĩ phu trong nước. Đại để như ông Lý Thái Bạch làm ra bài "Thanh bình Điệu" thì được vua Huyền tôn yêu quí lạ thường, ông Bạch Cư Dị làm bài Trường Hận Ca thì vua Hiến Tôn vời làm chức Hàn lâm học sĩ, vua Mục Tôn thấy tập thi ca của Nguyên Thận thì vời làm chức xá nhân, cho đến các cung phi, hoàng hậu như Võ Hậu, Vi Hậu, Mai Phi, Dương Phi đều là các bà thích ngâm vịnh cả. Người bề trên đã ham chuộng, tự nhiên kẻ bề dưới phải lấy đó làm con đường tiến thân, thành ra một phong khí tập quán.
"Ba là ảnh hưởng của thời cuộc; vì đời Đường từ khai nguyên Thiên hửu sắp về sau, trong nước thường gặp nhiều cảnh éo le, những cảnh ấy dễ làm đề tài cho thi nhơn đề vịnh, đại khái như việc An Lộc Sơn đời Minh Hoàng, việc Sử Tư Minh đời Túc Tôn, việc Trần Hoàng Chí đời Hiến Tôn, việc Chu Toan Trung đời Chiêu Tôn, thảy thảy những đại biến trong nước, nhà làm thi hay dùng sử liệu vào thi ca, mở xem một bộ Đường thi bao nhiêu bài đáng ca tụng, đều là những bài thời thế, như Điếu chiến trường, Yên ca, Tùng quân, Khuê oán, Cung Trung từ ...Có nhiều cảnh nên thơ, thơ mới nảy ra nhiều tình tứ, mới thấy chỗ đặc sắc.
"Còn một lẽ nữa, đời nhà Đường lấy thi làm tác phẩm văn chương, chứ không như Hán, Nguỵ và Tống chỉ lấy thi làm tác phẩm đạo đức, vì người đời ấy cho rằng đã là thi mà ngụ cái giọng đạo đức thì lời văn không được thôi xao, thành ra không lưu truyền được rộng, xem như thi của Châu Mậu Thúc, Thiệu Nghiên Phu ở Tánh Lý thì đủ biết.
"Vả lại, Đường thi thì có cái đặc sắc là phần nhiều chứa chất nhiều qua niệm văn học bình dân. Đại khái như thi của Nguyên Thận, Vương Xương Linh, Bạch Cư Dị, Cao Thích, Vương Duy... Phần nhiều thi của các ông ấy lời văn giản dị mà thâm, ý tứ dồi dào càng dễ cảm, thành ra một lối thi phổ thông trong đám bình dân. Lục trong thi Đường có nhiều bài miêu tả cảnh thống khổ của xã hội, như là trọng phú (thuế nặng), Phụ nhơn khổ (cái khổ của người đàn bà), Mãi thán ông (ông bán than) Chiết tí ông (ông gãy tay)...Nay tôi xin trích mấy câu trong bài Ông bán than dịch ra đây, để cho các bạn đọc biết rằng lối thi bình dân đã xuất hiện từ đời Đường :
"Mãi thán ông, phạt tân thiêu thán nam san trung, mãn diện trần khôi yên hỏa sắc, lưỡng mấn thương thương thạp chỉ hắc, mãi thán đắc tiên hà sở dinh, thân thượng y phục khẩu trung thực, khả liên thân thượng y chánh đan, tâm ưu thán tiện nguyện thiên hàn"...
"Ông bán than, đốn củi đốt than núi Nam san, mặt mày khói khém lem lọ bôi, mái tóc xanh kịt, tay đen thùi, bán than kiếm tiền lo mưu sanh, lo ăn trong miệng, mặc trong mình, thương hại mình ông áo mỏng lét, ông lo than ế, cầu trời rét...". Lối thi đó đủ chứng là một lối thi bình dân".
Thế rồi, để kết luận bài "Những cái đặc sắc của Đường thi", Tùng Lâm kết luận bằng việc hô hào các ông làm thơ mới hãy thôi lập dị:
"Hỡi các nhà thơ mới của ta! Đừng tưởng rằng Đường thi là thi cổ hãy chịu khó tìm kiếm trong thi Đường mà xem thử coi, không có lối nào mà thi Đường không có, cái đặc sắc của nó là gồm đủ các phương diện, các thể tài, cảnh có, tình có, tả chân có, quí phái có, cần gì phải bịa ra thơ mới làm chi, làm cho nhiều bạn trẻ em học cách háo kỳ, tập làm theo, đã bất thành cú, mà rồi một ngày kia không còn ai biết Đường thi là gì, chẳng là uổng cho văn nghệ ba trăm năm của một đời toàn thạnh lắm sao? "
Thiết Diện tỏ ác cảm đối với thơ mới 
Cùng một quan điểm như Tùng Lâm, Thiết Diện bày tỏ thái độ ác cảm của ông đối với thơ mới ở bài: "Quan niệm của tôi đối với thơ mới" (V.H.T.S. số 8, tháng 8 năm 1935). Trong bài này Thiết Diện cực lực chê trách thơ mới, coi nó chỉ là thứ đồ rác rưởi, trò múa máy quay cuồng của bọn người ngu dốt, nào có khác gì bọn du đãng mặc áo rằn ri, bọn lẳng lơ đi giày cao gót. Theo ông đã gọi là thơ mới thì phải mới như thơ của Hồ Thích bên Tàu, chứ đàng này thơ mới Việt Nam, chỉ mới có mỗi một cái là bỏ niêm luật, còn tất cả đều cũ, đều xưa. Cái cũ và xưa ấy là cách dùng chữ, cách chọn đề tài, nhất là cái tinh thần từ chương, bạc nhược, thua trận, thiếu hẳn tinh thần bình dân, xa cái đại chúng vô sản lam lũ.
"Trong vũ trụ này, không có gì là không thay đổi! Trái đất này vẫn xoay, thì tư tưởng người ta vẫn tiến! Chúng tôi có lý nào không biết đến lẽ tuần tự tiến hóa mà lại đi nhận rằng thi phải ở trong khuôn mẫu chật hẹp của luật Đường và chỉ có thi nào ở trong khuôn mẫu ấy mới gọi là thi.
"Nhưng muốn làm một nhà thi chân chánh trong phái mới, thì ít ra cũng phải biết thi là gì đã, và cũng phải biết qua những luật Đường, làm được một bài thi cổ, dầu không hay cũng phải đúng với thi pháp. Như thế, nghĩa là tôi muốn nói nhà thi sĩ, phải có một cái khiếu về thi, phải có một cái học chắc chắn, chớ chẳng phải cóp nhặt năm bảy câu vô ý thức làm thành một bài vô nghĩa lý mà đã lên mặt thi hào đâu!
"Một ông bạn già của tôi thường hay nói: "Thời hư quỷ lộng, bọn ranh con thường hay cho mình hủ lậu, nhưng cái mới của chúng chỉ mới ở hình thức, mà mới một cách lố lăng theo cái kiểu áo rằn ri không khỏi đầu gối, và đôi giầy cao gót cao gần một tấc tây :
"Tôi hiểu ông bạn ấy lắm. Theo ông bạn, thì dầu mới dầu cũ, cũng đều có khuôn phép cả, nếu không thì 20 triệu người ý muốn của mỗi người!
"Chắc ai cũng biết bác sĩ Hồ Thích là người đề xướng ra thơ mới ở Tàu, trong cuốn "Thường thi tập" tiên sanh có đặt tám luật cho thơ mới, gọi là luật "Bát Bất":
1)- Không dùng điển tích,
2)- Không dùng chữ sáo,
3)- Không buộc đối vế
4)- Có thể dùng chữ tục,
5)- Phải biết văn pháp,
6)- Bỏ lối không đau mà rên,
7)- Không buộc theo người xưa,
8)- Phải nói có sự thật.
"Thơ mới của ta đã có luật gì chưa, hay là mạnh ai nấy đặt luật?
"Ông bạn già yêu quí của tôi lại một phen chíp miệng thở dài:
"Than ôi! Mấy ông làm "thơ mới" ở nước ta miệng còn hôi sửa thì đâu phải là Hồ Thích ở nước Tàu!"
"Thơ phải kể cái hồn của nó đã rồi sẽ kể đến cái hình thức. Cái hồn chưa thoát khỏi sáo cũ, cũng còn nghe "Tiếng sáo Thiên Thai", "Tiếng trúc tuyệt vời", "Tiếng nhạn kêu sương" v.v...thì đổi cái hình thức phỏng có ích gì? Đó cũng chẳng khác chi bắt một bà già mặc áo rằn ri, đi giày cao gót. Độc giả thử tưởng tượng trong trí, coi có được không?
"Tiếng nhạn ở đâu, kêu sương hồi nào? và sao gọi là Tiếng sáo Thiên Thai?
"Thế là ở trong những bài thi cũ, người ta còn dung thứ; chớ đã tự xưng là "thơ mới" mà còn sáo hư như vậy, thì đâu phải là những "chiến sĩ chắc chắn" để đỡ gạt những mũi tên của những người đại biểu cho thơ cổ có cái tên như "Nguyễn Khắc Hiếu", "Trần Tuấn Khải"...?
"Tôi vẫn biết rằng văn chương thi phú chỉ là cái phản ảnh vật chất, trên chỗ vật chất đã có điều cải cách thì trên chỗ văn chương làm sao cũng không khỏi có điều biến dịch. Nhưng một nhà thi chân chánh, ngoài việc biểu lộ tư ý ra, còn phải làm một người hướng đạo cho quần chúng nữa.
"Nhà thi phải nhắm đến quyền lợi của quần chúng trước nhứt, chứ chẳng phải chỉ biết có mình mà không biết có ai. Vậy thì thi ca không phải chỉ dùng để biểu diễn cái tâm hồn của cá nhân mà đủ; cái quan niệm của phái thi sĩ lối mới như thế nào?
"Nếu có dịp "giải phẫu" những tác phẩm của họ ra, thì cũng chỉ thấy đầy cả sự yêu đương mơ mộng, vì họ chỉ biết phát biểu tâm hồn đau khổ của một giai cấp "thua trận", không nữa thì họ cũng chỉ biết sùng bái một vài cử chỉ anh hùng, sự sùng bái ấy chỉ là cái óc nô lệ của thời đại phong kiến còn sót lại mà thôi.
"Thiệt nhắm ra chẳng bổ ích gì cho hạng bình dân nghèo khổ, vì đối với cái quan niệm trên ấy thì hạng người sau này vẫn không ham muốn thứ ái tình mơ mộng viễn vong của một số người phong lưu đài các và cũng không có tư tưởng giống với tư tưởng sùng bái anh hùng, yêu nhà yêu nước của số ít người kia, đời bây giờ biết bao nhiêu đấng vô danh anh hùng đã phơi thây giữa đám bình nguyên để mua cái tiếng anh hùng cho một mình Mussolini, Hitler, hay Tưởng Giới Thạch.
"Đời bây giờ, không có tư bản thì không có nhà, và anh lao động ở đâu sống được thì ở đó là quê hương, vậy thuyết yêu nước yêu nhà có còn đứng vững không?
"Cái quan niệm của mấy ông "thi sĩ mới" đối với cuộc thiệt tế sinh hoạt tôi chẳng thấy có chút gì là mới cả, mới chăng là mới với các ông ở giai cấp tiểu tư sản chớ chẳng mới gì với giai cấp bình dân.
"Xét về phương diện vật chất, thì những bài thơ mới của một vài ông bạn thiếu niên thi sĩ mà ông Nguyễn Triệu Luật ngoài Bắc đã gọi là "một tụi văn sĩ non hứng lấy mà vung vẫy những áng văn xuôi không vần", xem ra chưa có những niêm luật gì nhất định. Thế nghĩa là thơ mới có kỷ cương đáng ở riêng vào một học phái. Đọc phần nhiều những bài thơ mới bây giờ, người ta đều có cái cảm tưởng rằng nhà thi sĩ bỏ cái khó tìm cái dễ để mạnh ai nấy viết, mạnh ai nấy ngâm. Đó là chưa nói đến sự dùng chữ sai (như nàng Ly Tao là nghĩa lý gì!).
"Xét về phương diện tinh thần, thì những bài thơ mới ngày nay đó chỉ là cái tiếng nói của giai cấp tiểu tư sản, là một giai cấp bại trận không có sức phấn đấu hẳn hòi như cấp bình dân. Chính giai cấp sau này mới là nguyên động lực tiến hóa của xã hội.
"Mấy ông bạn trong làng "thi mới" nếu có cho tôi hủ tôi xin chịu, nhưng tôi không sợ mất lòng mấy ông mà dám nói lớn với anh em bình dân rằng:
"Cái phái thi mới ấy vừa xác, vừa hồn không có ích gì cho anh em, chị em chúng ta cả! Hãy tẩy chay đi!"
"Không tẩy chay cái tinh thần bạc nhược của giai cấp thua trận thì anh chị em ta sẽ gặp lắm điều trở ngại trên con đường tiến thủ của chúng ta.
"Chừng nào thi mới của các ông có một khuôn khổ "mới" nhứt định, và thứ nhứt, chừng nào thi mới có một tinh thần bình dân đặc biệt, không có cái lối ru ngủ, cái lối mơ mộng hão huyền và biết ca tụng sự phấn đấu của chúng tôi thì chừng ấy chúng tôi sẽ hoan nghinh ngay.
"Rồi đây chúng tôi sẽ lần lượt đem những bài thi mới mà một số người làm thi mới đã ca tụng để bình phẩm, chúng tôi sẽ chỉ cho tác giả các bài thi kia thấy rằng tinh thần và thể chất mình là cũ.
"Xin ai kia đừng trách rằng chúng tôi cay nghiệt với phái thi mới, mà biết cho chúng tôi chỉ muốn làm một người bạn "ngang bằng sổ thẳng" mà thôi.
"Chúng tôi không chê thi cổ là sáo, bởi vì mấy ông đã chê nó là sáo rồi".
Hoàng Tân Dân chê thơ mới phản động
Mang nặng óc đảng phái, có khuynh hướng thiên tả, Hoàng Tân Dân, không công kích thơ mới vì thơ mới bỏ phép tắc cũ, mà chê thơ mới có thái độ phản động, phản cách mạng ở chỗ chỉ phục vụ cho tư bản, không đau mà rên, cho nên lúc nào cũng xướt mướt (V.H.T.S. số 9, tháng 9 năm 1935).
Đẩu Tiếp chê thơ mới
Sau cùng, Đẩu Tiếp, vào tháng 11 năm 1936 (V.H.T.S. số 26), lại lên tiếng "Nói chuyện về thi". Trong bài này, Đẩu Tiếp kết án Phan Khôi rất nặng nề. Theo ông, chính vì ganh ghét Tản Đà hơn mình về thi mà Phan Khôi phải lập ra thơ mới để được thiên hạ biết đến tên tuổi mình. Và bọn thanh niên ngu dốt không làm nổi trò trống gì đã ùa chạy theo Phan Khôi. Thành thử bên thơ cũ gồm bao nhiêu thiên tài thì bên thơ mới gồm bấy nhiêu tụi nhãi con, ngu dốt, bất tài. Giới thuyết như vậy rồi, Đẩu Tiếp đưa ra các điểm mà người ta chê thơ cũ để lại bênh vực thơ cũ, từng điểm một, như việc dùng điển, dùng sáo ngữ, lặp lại tư tưởng của tiền nhân.
"Từ ngày ngọn cờ ba sắc đã dựng nên giữa cõi trời Nam, muốn hiểu biết ngôn ngữ của người Pháp để tiện ra hợp tác với họ, hòng giành lại trong muôn một, một ít quyền lợi của ông cha để lại, quốc dân ta đều đua nhau xu hướng về đường văn học. Chữ Hán, một thứ chữ trước kia người mình vì dùng quen đã lâu đời, đã hầu thành ra một thứ tiếng mẹ đẻ, từ đó theo cớ chuyển vận đã hầu lọt ra ngoài vòng đào thải. Nhân tài nước ta bây giờ tây học càng rộng, thì Hán học càng hẹp; Hán học đã hẹp thì quốc văn phải kém, vì chữ hán mà có người đã gọi là chữ Hán Việt, nghĩa là chung của Tàu và Ta, vắng nó thì chữ An nam nói ra hầu không thành tiếng nữa.
"Tuy vậy mỗi khi đọc đến những tác phẩm bằng tiếng mẹ đẻ của các cụ Nguyễn Tiên Điền, Nguyễn Công Trứ, tâm hồn ta tự thấy rung động rồi đem lòng khao khát, thèm thuồng, nhưng cố làm cho được một bài thơ như người xưa thì ngồi bóp trán mãi cũng chẳng thấy ra được chữ gì, hoặc được thì lổ đổ vài chữ kết lại cũng chẳng thành câu! Thẹn thuồng và tức giận, bọn thanh niên ta đổ ra ghen với cổ nhân hầm hầm, toan đạp đổ những xiềng xích trong lối thơ Đường.
"Đương lúc ấy, thì Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu hai ngài không biết tại sao lại có điều xích mích nhau, rồi nổi giận cãi nhau, mắng nhau, rồi ghét bỏ nhau!
"Tự nghĩ Nguyễn Khắc Hiếu là kẻ thù của mình, mà trên đàn thơ lúc nào mình cũng nhường hắn đứng trước, Phan Khôi bèn muốn rẽ ra một con đường khác, bụng bảo dạ rằng dẫu hắn có đi trên con đường ấy, thì ta cũng được đi trên con đường này, cũng như một bên làm tướng nước Nhật, một bên làm tướng nước Xiêm, nghe nói hai bên làm tướng cả thì người đời cho là hai bên nghịch nhau, nào ai biết tài bên nào cao, trí bên nào thấp mà phân biệt trên dưới. Nghĩ thế rồi Chương Dân tiên sinh vung văng vác bút chạy ra một con đường mới "Đả đảo Đường luật, làm thơ theo lối mới". Bọn thanh niên nói trên nghe được câu nói của Chương Dân tiên sanh liền hăm hở bắt hơi nối gót theo tiên sinh. Phái thơ Đường diễu cợt họ càng cay thì họ lại châm chích phái thơ Đường càng độc. Phái thơ Đường gồm những bậc lão thành hay thanh niên kiêm thông cả tân học cựu học, hay riêng giỏi về một món học thì cho họ là "một tụi văn sĩ non hứng lấy mà vùng vẫy một thứ văn không xuôi không vần". Hoặc có người độc hơn thì lại thuật bài thơ cổ người ta vịnh con cóc để cười những kẻ làm thơ không ra thơ.
"Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra,
Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó,
Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi!
"Rồi kêu bọn "thơ mới" mà cười rằng tôi tưởng thơ mới của các anh ra thế nào té ra cũng như thơ con cóc mà có người đã làm hơn trăm năm trước. Lời công kích có thú vị và cay độc quá. Tôi xin giả làm một nhà thơ mới đáp lại.
"Người làm bài thơ con cóc, là vì ngó thấy con cóc như vậy mới làm thơ, người không biết cóc thì biết gì mà bình phẩm thơ cóc ! Không, những nhà thơ mới gồm có những kẻ mới học tòm tèm được 3 chữ Pháp, không hề hiểu một giọt (ne comprendre goutte) về hán văn họ không thèm đáp lại một cách vu vơ như vậy đâu. Trái lại câu trả lời của họ có nhiều khi nghe ra cũng có phần xác thực lắm.
"Họ nói: các ông chỉ là những bọn nô lệ chịu trói buộc trong những luật pháp nghiêm khắc của thơ Đường.
"Nhưng họ quên rằng chính nhờ ở chỗ pháp luật nghiêm khắc đó mà thơ Đường rất dễ nhớ. Vì trong bài thơ đã hẹn trước rằng "chữ nào trắc chữ nào bằng", nên khi ta đọc mà thấy sai thì tự nghĩ liền và đổi lại, tuy vậy ta cũng đừng nệ theo Đường luật lắm, chịu thất luật một đôi chỗ mà câu thơ thấy già hẳn lên ta cũng thấy vui lòng, nhưng chỉ khi nào bất đắc dĩ không dùng chữ ấy mà dùng chữ khác thay vào không thú bằng thì ta mới chịu dùng chữ ấy và cam tiếng thất luật vậy. Phái thơ mới lại chê : thơ Đường của các ông chỉ biết khóc trăng khóc gió. Thơ Đường luật cũng có nhiều bài khẳng khái lắm chứ. Các ngài hãy đọc thử lại những thơ văn cổ ngày nay quốc dân hãy còn truyền tụng mà xem. Người xưa dầu có nhiều khi họ than khóc thì trong tiếng than tiếng khóc của họ cũng nghe rất là giọng trượng phu. Tả một cảnh đang rơi châu đau ruột, như trong Chinh phụ ngâm, họ chỉ biết dùng ngòi bút vẽ ra một bức tranh khiến ta trông vào mà tự đau ruột rơi châu, chứ trong bài nào họ có hề dùng tới một chữ rơi châu đau ruột? Các ngài không nhận rằng sầu là một cái bệnh chung của con nhà văn nhà thơ mà nở công kích kẻ đa sầu đa cảm? Ấy thế mà các ngài chỉ biết làm những lối thơ phóng đãng là gì? Các ngài thường "ôi"! Thấy hoa bay các ngài cũng "ôi"! Thấy lá rụng các ngài cũng ôi"! Thậm chí có ngài viết "tôi đau đớn, ôi huyền diệu"! Các ngài lại nói thơ Đường luật hay dùng những điển tích mơ hồ, như có người làm bài thơ "Vịnh Trương Lương":
Mình dịu dàng như gái,
Bao trời một lá gan!
Bốn trăm năm nghiệp Hán,
Ba tấc uốn trong màn.
Vẫn biết ba tấc đây là ba tấc lưỡi, nhưng ba tấc lưỡi uốn trong màn, thì có thể khiến cho mọi người hiểu được không? Cách dùng điển như vậy coi cũng mơ hồ lắm, nhưng đó là tay vụng chớ tay khéo thì nhiều khi họ dùng điển chẳng những đã rõ mà lại hay; có một cách dùng điển mà tự lấy làm thú lắm khi họ dung hoà hai điểm lại một. Như nguyên trong sách Thúy Kinh của Tàu có nói: Giống cá Gáy hễ đến tháng ba thì đua nhau nhảy lên thác Long Môn (cách Trường Yên cao 900 dặm, con nào nhảy lên được thì hóa ra rồng, cho nên người đời hễ ai thi đậu thì người ta ví như cá Gáy nhảy lên được Long Môn, còn con cá Gáy nào mà không nhảy lên được thì phải vạch cả trán mà phải trở về chỗ cũ).
"Nhân vậy rồi Lý Bạch có câu thơ nói người thi hỏng :
"Điểm ngạch bất thành long "vạch trán chẳng ra rồng! thú vị biết là bao nhiêu, còn trong đám thi sĩ ta thì có người làm câu: "Lò đời thổi gió un mây..." thì ai cũng biết rằng là đời là một điển, gió mây là một điển, nhưng tác giả khéo biết dung hòa vào trong một câu "gió thổi un mây " ứng với lò đời cũng như câu thơ của Lý Bạch ra rồng ứng với vạch trán, điển tuy cũ mà tứ vẫn mới đó vậy. Dùng điển mà dùng được như vậy thì cũng đáng dùng lắm chứ, còn như không thêm được cái ý mới vào chỉ biết lập lại những tư tưởng cũ của người thì xem ra cũng nhạt. Ví dụ bậc thi bá đời Đường đã nói "xử thế nhược đại mộng" rồi ta lại lập lại: Trăm năm giấc mộng cười thân thế; lời thơ tuy cứng nhưng phái thơ mới họ bảo dở đó kìa.
"Họ lại chê thơ Đường luật quen lập lại những tư tưởng của tiền nhân.
"Vẫn có thế nhưng cũng chỉ có những kẻ bất tài mới có thế thôi, chứ phàm người có tài năng họ cũng biết rằng trong mỗi bài thơ ít nhất cũng phải có một câu tứ mới. Đừng nói đến thơ nôm, nói ngay đến một số câu thơ chữ của người xưa cũng đủ thấy rồi. Khi trong bài "Đi chơi đêm với cụ Nguyễn Hàm Ninh ở núi Tuỳ Vân"ngài Tùng Thiện Vương có câu:
Ngư xướng trời thanh ngoai,
Chung minh thọ sắc trung.
Chài reo ngoài tiếng sóng,
Chuông điển giữa màu cây!
"Trong bài mừng được ân ban một chiếc thẻ ngà khắc Tứ Nguyễn Hàm Ninh nhập các, được ra vào tự do trong các, của cụ Nhâm Sơn có câu:
Cung nhật hồi xuyên ảnh,
Giai hoa phật bội thanh.
Dịch:
Vầng nhật trên cung xây bóng vách,
Cành hoa quanh lối gõ bài ngà,
"Mấy câu thơ đó ông Cao Bá Quát đã khuyên đặt cả mặt giấy chẳng phải đều có tứ mới sao?
"Phái thơ mới lại chê: các cụ ấy chỉ ngồi mà đẽo gọt từng chữ.
"Lạ chưa! thơ đã gọi là một môn mỹ thuật thì dầu cho đẽo gọt chạm trỗ cũng là lẽ thường. Nhưng bao giờ câu thơ cũng được vẻ tự nhiên, nhà thơ vẫn dư biết thế! Mở lời ra mà gặp liền được chữ đối xứng thì cụ Dương Bá Trạc cũng đối chơi:
Ta giã núi bụi hồng đeo đẳng,
Núi xa ta mây trắng mịt mờ!
"Bằng không, thì cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng chỉ cười một hơi mà thành ra bài thơ vậy.
Tớ đẻ tháng mười năm bính tí,
Năm nay bính tí sáu mươi năm!
Kể vòng hoa giáp quanh đà khắp,
Còn nợ non sông chết chửa cam v.v...
"Nhưng các bạn thơ mới lại nói rằng : Các ông có học chữ tàu mà làm thơ nôm thì chúng tôi học chữ tây lại không có quyền bắt chước thơ tây mà chế ra một điệu thơ riêng để chúng tôi ngâm vịnh ?
"Đã bắt chước thì hễ ai có cái hay ta cũng có thể bắt chước được cả. Song thử hỏi lối thơ ta phỏng theo lối thơ tây, thì có thể ngâm nga được như lối thơ ta đã phỏng theo lối thơ Đường không? Nói thế tất sẽ có người lấy làm lạ mà hỏi rằng vậy sao ta vẫn ngâm được thơ tây? Vì ngâm thơ tây ta vẫn ngâm theo giọng tây, còn khi ngâm thứ thơ mới kia ta không thể ngâm theo giọng tây được, mà ngâm theo giọng ta thì nào có âm hưởng gì đâu. Đến như thơ Đường luật sở dĩ mình ngâm lên mà nó réo rắt như tiếng đờn nguyệt là vì hợp với tiếng ta đó vậy.
"Tóm lại, dầu chi ta cũng nên hoan nghinh lối thơ Đường luật, nếu có chê nó là khó thì cứ làm theo lối tứ tuyệt, lối song thất lục bát hay lối thượng lục hạ bát, cùng đi nữa thì những từ khúc.
"Thơ Thế Lữ, những bài xuất sắc cũng vẫn làm theo những điệu ấy, thế sao vẫn gọi là thơ mới?
"À phải! Ông Lê Tràng Kiều có nói: Vô luận thì làm theo điệu thơ gì có tứ mới thì đều gọi là thơ mới. Song tôi lại xin trừ ra lối thơ mà ta vẫn mô phỏng theo thơ tây một cách vô ý thức, vì ngoài một đôi người như Thế Lữ là vẫn có một chút tài, còn thì lối thơ lố lăng ấy chỉ tạo ra được những nhà thơ non như là Phúc Nhuận, ông Đỗ Phủ (ông Đỗ Phủ người Bắc chứ không phải cụ Đỗ Phủ người Tàu đâu !). Nhưng điều đó ta cũng chẳng cần lo, vì ông Phan Khôi thì đã ngỏ lời từ biệt lối thơ "không xuôi không vần" kia trên báo Trường An độ nọ, còn những đồ đệ của ông mỗi ngày mỗi vắng dần. Nhiều kẻ hô hào đào thải thơ Đường luật, ngày nay lại muốn trở về với nó. Đáng khen thay những kẻ biết rộng thấy xa, lâu nay vẫn dốc một lòng thờ phụng thơ Đường" (Văn Học tuần san, số 26, 1-11-1936). 
Tản Đà lần đầu tiên lên tiếng về thơ mới
Trong cuộc tranh luận thơ mới thơ cũ này, Tản Đà xem ra có căm tức lắm, nhưng Tản Đà khôn lắm, ít khi lâm trận đánh thẳng vào địch, dù địch đó là Phan Khôi. Trong mấy lần đụng độ với Phan Khôi, như vụ Nho Giáo, vụ Cái Cười Con Rồng Cháu Tiên..., Tản Đà đã hăng hái, quyết liệt, phũ phàng nữa là khác. Vậy mà trong vụ thơ cũ thơ mới, Tản Đà xem ra đứng ở ngoài. Bài Tản Đà đả kích thơ mới mạnh nhất có lẽ chỉ là một bài chửi mát, mà cũng chỉ là chửi mát Phan Khôi trong bài "Hài đàm của Tản Đà: Thơ mới" đăng ở Phụ Nữ Tân Văn số Xuân năm 1934. Tản Đà đem so sánh Phan Khôi với Lý Bạch cũng như so sánh một họ Quách nào đó phải chăng là Quách Tấn với Bá Nha để rồi kết luận: đàn của chàng Quách thỉ "ngớ ngẩn" còn thơ của chàng Phan thì "vẩn vơ"
"Hài đàm của Tản Đà:
"Thơ mới
"Từ khi Lý Bạch chết, thiên hạ không chuộng thơ mà thơ kém hay: Bởi thế mới có Phan tiên sinh ra đời.
"Từ khi Bá Nha chết, thiên hạ không chuộng đờn, mà đờn kém hay: Bởi thế mới có Quách tiên sanh ra đời.
"Phan tiên sinh cải lương về nghề thơ, ở đời chưa gặp ai tri kỷ:
"Quách tiên sinh cải lương về nghề đờn, ở đời chưa gặp ai tri âm.
"Một hôm, kỳ ngộ duyên may, hai tiên sinh gặp gỡ.
"Trong một nhà ở phố Khâm Thiên, Phan đương nằm hút ở trên gác, bỗng nghe ở dưới gác có tiếng đờn gẩy, nhân lâu rất thấy khác thường; tiếng đờn thực hay mà như không có cung bực do bụng hoài nghi, Phan tiên sinh bước xuống bực thang, ngó thử coi thấy người nẩy đờn đó chừng cũng là một du tử mà coi ra có vẻ cao nhân, nhân bước luôn xuống thang, làm quen nói chuyện chơi. Người đó là ai? Tức là Quách tiên sinh vậy. Rồi đó, Quách tiên sinh nói chuyện đờn, Phan tiên sinh nói chuyện thơ.
Rồi Quách đờn một chập, Phan thơ một hồi.
Rồi Quách lại đờn; Phan lại thơ.
Rồi Phan, Quách lại truyện thơ, truyện đờn.
"Cái thú gặp tri kỷ, khó bút mực nào vẽ cho hết. Chi chủ đó nguyên là một tay tài tình, văn thơ âm nhạc, đều có hiểu qua, nhân bàn quanh một cuộc cầm thi, cũng cảm tác một bài "Thơ Mới":
Đờn là đờn
Thơ là thơ
Thơ thời có chữ, đờn có tơ.
Nếu không phá cách vứt điệu luật,
Khó cho thiên hạ đến bao giờ!
Bá Nha xa.
Lý Bạch khuất.
Thơ có họ Phan, đờn có họ Quách,
Thơ có chữ
Đờn có tơ:
Đờn thời ngơ ngẩn, thơ vẩn vơ
Tài tử văn nhân nhường rứa rứa,
Bách huê ngao ngán bận đề thơ"
Sau bài nói kháy, chửi mát Phan Khôi và thơ mới trên Xuân Phụ Nữ Tân Văn, Tản Đà viết một thôi năm sáu bài về thơ mới đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy vào cuối năm 1934 :
1)- Phong trào thơ mới muốn cùng ai trong bạn làng thơ (T.T.T.B. số 26 ngày 24-11-1934).
2)- Cùng các bạn làng thơ (T.T.T.B. số 28)
3)- Tính chất của thơ (T.T.T.B. số 30 và số 32)
4)- Một chữ trong nghề thơ (T.T.T.B. số 40)
Bài "Phong trào thơ mới muốn cùng ai trong bạn làng thơ" là để thương xác với Lưu Trọng Lư về bài diễn thuyết ông đọc ở nhà Học hội Qui NHơn.
Với một tâm hồn cởi mở, và những lời lẽ rất ư là khiêm tốn, Tản Đà đã bày tỏ thái độ của ông đối với thơ mới, thơ cũ. Tản Đà cho rằng giữa lúc xảy ra vụ tranh chấp thơ cũ thơ mới thì Tản Đà không có mặt ở Hànội, cho nên không theo dõi được sự diễn biến của cuộc chiến. Phải chăng đây là thời kỳ Tản Đà đang buồn chán vì An nam tạp chí của ông bị chết lần thứ tám, tức là lần chót. Biến cố đau thương đó đã khiến Tản Đà tủi dỗi đời nên tự đặt mình ra bên ngoài xã hội:
"Mới đây một người bạn tôi gởi cho bài diễn thuyết của ông Lưu Trọng Lư đọc ở nhà Học hội Qui Nhơn, tôi đọc tới bài đó, tâm hồn xúc động, không thể lại lẳng lặng mà ngồi yên. Cứ như bài diễn văn của ông Lư, cảm tưởng và kiến giải, phần nhiều thiệt tôi lấy làm phải, có nhiều chỗ lại thấy rất là tinh.
"Song mà trong sự quan sát cũng còn có chỗ không tường xác ; cái kiến giải để hướng đạo cho quần chúng coi chưa đủ phát dương hiệu lệnh trên thi đàn. Bài tôi viết đây, không chuyên cùng ông Lưu Trọng Lư biện luận, cho nên không dẫn đến những chỗ mà tôi cho hơn kém ấy. Nay tôi chỉ cần muốn biện bạch trước độc giả, công chúng vì thấy có mấy lời trong bài diễn văn của ông Lư.
"Trong bài ông Lư nói, ngay một đoạn mở đầu rằng: "gần đây, trong văn học nước nhà thấy có một cái phong trào mạnh danh là" thơ mới". Cái phong trào ấy dư luận chia ra làm hai, phái hoan nghênh và phái phản đối. Tôi không cần nói, các ngài cũng dư hiểu rằng phái hoan nghênh là phái thanh niên tân học, phái phản đối là các cụ nho học. Hai bên đương sừng sộ nhau đương giằng co nhau".
"Ông Lư đã nói, chắc là ông có thấy như thế, mà lâu nay tôi xa đất Hà Thành, thực tình trạng trong văn giới như sao, ít có tiếp đến tai mắt, riêng về phần tôi, thời như lời ông Lư nói đó, tôi quả không phục tình."
Sau đó, gián tiếp Tản Đà muốn bảo rằng cái mà người ta gọi là thơ mới, Tản Đà vẫn làm, làm từ lâu, từ 20 năm nay mà chỉ khác là ông không gọi nó là thơ mới. Ông trích mấy bài thơ ông đã làm trên dưới hai chục năm:
"Cứ văn vận của tôi đã làm ra trong khoảng 20 năm nay, kể có không ít; mà nay nếu có người hỏi tôi rằng: bài nào hay hơn hết? Thời phải lấy một bài trong cuốn tiểu thuyết Giấc mộng con thứ hailàm cho Dương Quí Phi, Tây Thi...ở Bồng Lai, bài ấy rằng:
Non xanh xanh
Nước xanh xanh
Nước non như vẽ bức tranh tình.
Non nước tan tành
Giọt lệ tràn năm canh.
Đêm năm canh
Lụy năm canh
Nỗi niềm non nước,
Đó ai quên cho đành!
Quên sao đành?
Nhớ sao đành?
Bồng lai non nước xanh xanh?
"Cuốn tiểu thuyết ấy viết ra, trong khi tôi giúp việc Đông Pháp thời báo của ông Diệp Văn Kỳ ở Nam, là khoảng năm 1926 cách đây đã 8 năm.
"Lại như bài "Cảm thu liễu thư" của tôi, một đoạn tả cảnh ở đầu rằng:
"Từ vào thu đến nay
Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Trăng thu bạch
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về...

"Mấy câu đó, riêng tôi thật ngâm mãi không chán; mà bài văn đó tới nay ở trong báo Saigon lại có người lại đem ra để phê bình, kể cái thời gian tôi viết ra thời vào khoảng năm 1921, trong lúc tôi làm việc cho báo Hữu Thanh, cách đây có 14 năm.
"Lại như những bài "Hoa rụng" in ra ở Khối tình con, lời văn rằng:
"Hoa ơi, hoa hỡi, hoa hời !
Đang ở trên cành bỗng chốc rơi !
Nhị mềm cành úa,
Hương nhạt mầu phai
Sống chưa bao lâu đã hết đời
Thế mà hoa lại sướng hơn người.
"Bài này viết ra, kể cách nay có tới 20 năm.
"Những điệu văn thơ đó, thật tự tôi đặt ra, không theo niêm luật ở đâu hết, duy tôi không gọi nó là thơ mới mà thôi."
Ngày 8-12-1934, Tản Đà viết bài "Cùng các bạn làng thơ" (An nam tạp chí số 28), bàn về ý nghĩa của thơ mà ông phân biệt làm nghĩa rộng, nghĩa hẹp.
Về nghĩa rộng của thơ, Tản Đà viết:
"Theo nghĩa rộng mà nói, thì thơ là lương năng của mọi người, cho nên không có hạng người nào đều có thể nên thơ. Như thế, phạm vi của thơ thật rất rộng, hàm người ta nói ra mà hơi có vần, đều là thơ, không thể cách phi hết. Những thơ đó, theo ý kiến của người quan sát, chỉ có thể nhận cho những câu nào, những bài nào là hay; mà không thể phán đoán bảo như những câu nào, những bài nào là dở".
"Hiểu theo nghĩa rộng, thơ là thú tiêu khiển ai cũng có thể làm được. Nhưng hiểu theo nghĩa hẹp, thơ là "một thứ kỹ thuật phải người có học mới biết làm, mới làm được; ví như đánh đàn phải có cung bực, đánh cờ phải sạch nước cản, nếu không thì không là thơ".
Đối với Tản Đà, thơ hiểu nghĩa hẹp là các lối thơ thất ngôn, ngũ ngôn, cổ phong, tứ tuyệt. Như vậy mà trong cuộc tranh luận thơ cũ thơ mới, chữ "thơ mới", theo Tản Đà là một danh từ lạm dụng, hiểu sai nghĩa.
Sau khi bàn về danh nghĩa của thơ, Tản Đà dành hai số báo để bàn về "Tính chất của thơ" (TTTB số 30 và 32). Theo Tản Đà, thơ có hai tính chất: tài và tình. Tài là tài nghệ, tức là thuộc về nghĩa mỹ thuật; tình là tình hoài, tức là thuộc về nghĩa lương năng " (TTTB số 30). Tản Đà đã dựa vào hai tính chất tài và tình để tìm ra cái đẹp trong các câu thơ cũ. Không nói rõ ra, nhưng cứ theo lối trình bầy, người ta cũng nhận ra rằng thơ mới thiếu hẳn tính chất "tài", cho nên thơ, mới là thứ thơ lệch lạc, là thứ thơ không hoàn toàn.
Những tài liệu tôi trích trên đây chưa phải là tất cả các tài liệu liên quan đến cuộc tranh luận gay go giữa thơ mới và thơ cũ và có lẽ cũng chưa phải là những bài quyết liệt nhất. Chẳng hạn ba bài diễn thuyết nảy lửa của Nguyễn Văn Hanh bênh vực thơ cũ, của Thái Phỉ công kích Lê Tràng Kiều, của Tường Vân và Phi Vân tác giả tập "Những bông hoa trái mùa".
Sự trưởng thành của thi ca Việt Nam
Qua những tài liệu trên đây, ta thấy cuộc tranh luận có vẻ gay gắt, quyết liệt vào khoảng từ 1932 đến 1937. Nhưng từ năm 1938 trở đi, tình hình lắng hẳn xuống. Vấn đề thơ mới thơ cũ, không phải người ta không nói đến nữa, nhưng người ta nói đến bằng luận điệu khác, ôn hòa chứ không có vẻ bắt bẻ, chửi bới nhau nữa: người ta vẫn yêu những áng thơ cổ tuyệt tác, và người ta không ngớt ca ngợi những bài thơ mới kỳ diệu của hàng trăm nhà nghệ sĩ trẻ.
Một điều cảm động nhất là trước đây, ai nấy đều đổ xô vào mà chửi, mà chê Tản Đà, châm biếm hài hước nhà thơ lúc nào cũng như say sưa, thì từ năm 1938, nhất là sang năm 1939, 1940 trở đi, Tản Đà được coi như vị thánh sống của làng thơ. Người ta chia nhau viết về Tản Đà, ca ngợi thơ của ông.
Nguyên một mình Ng Tiến Lãng đã viết một thôi một hồi về Tản Đà:
1)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà Ng Khắc Hiếu (Tràng An số 315, 20-4-1938).
2)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 317, 3-5-1938)
3)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 319, 10-5-1938)
4)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 320, 13-5-1938)
5)- Nhân ngày giỗ Tản Đà (Tràng An số 164, 5-6-1943)
6)- Đọc lại một kỹ thuật nói về Tản Đà (Tràng An số 167, 12-6-1943)
7)- Mùa xuân với Tản Đà (Tràng An số 253, 20-1-1944)
Ngay đến Tự Lực Văn Đoàn trước kia thù hằn Tản Đà, luôn luôn bông đùa, bới móc Tản Đà vậy mà năm 1939, báo Ngày Nay đã dành không biết bao nhiêu bài nói về Tản Đà:
1) Thi sĩ Tản Đà do Văn Bình viết (Ngày Nay số 147, 28-1-1939).

2) Công của thi sĩ Tản Đà do Xuân Diệu viết (Ngày Nay số 166, 17-6-1939).
3) Một tháng với Tản Đà do Lâm Tuyền Khách viết (Ngày Nay số 171, 22-7-1939).
4) Vài truyện vui về thi sĩ Tản Đà do Khái Hưng viết (Ngày Nay số 167, 24-6-1939).
5) Cái duyên của Tản Đà cũng do Khái Hưng (Ngày Nay số 166, 17-6-1939).
Báo Tao Đàn, số 9, 1-7-1939, ra số đặc biệt về Tản Đà :
1) Lưu Trọng Lư viết "Bây giờ đây khi cái nắp quan tài đã đậy lại".
2) Trương Tửu viết 
"Sự thai nghén một thiên tài".
3) Nguyễn Tuân viết 
"Chén rượu vĩnh biệt"

4) Nguyễn Triệu Luật viết "Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn lớp sau".

5) Trức Khê viết "Tản Đà triết học".
6) Xuân Diệu viết "Một vài kỷ niệm về yêu thơ Tản Đà".
7) Nguyễn Xuân Huy viết "Tản Đà dịch văn".
8) Nguyễn Tuân viết "Tản Đà một kiếm khách".
9) Nguyễn Công Hoan viết "Ông Tản Đà đi bàn việc để tái bản An nam tạp chí".
10) Ngô Tất Tố viết "Tản Đà ở Nam Kỳ".
11) Nguyễn Nhất Lang 
"Tản Đà tửu điếm".
12) Nguyễn Công Hoan viết 
" Ông soát vé xe lửa với thi sĩ Tản Đà".
13) Lê Thanh viết 
"Mộng và mộng".
Từ cuối năm 1936, sang đầu 1937, nhất là từ 1939 trở đi, không còn có vấn đề cũ mới nữa mà chỉ có vấn đề nghệ thuật, đẹp hay không đẹp: người ta đã giải thoát được cái mặc cảm mới cũ.
Lưu Trọng Lư đặt giá trị đích thực 
của thơ không phân biệt mới cũ
Một người say mê thơ mới trước tiên, làm thơ mới chỉ sau có Phan Khôi, và lên tiếng đả kích thơ cũ kịch liệt ngay sau Phan Khôi, người đó là Lưu Trọng Lư, thì, nay, chính người đó như lơ là với thơ mới quay trở về dĩ vãng. Cuối năm 1942 sang đầu năm 1943, trên báo Tràng An, Trọng Lư viết nhiều bài phân tích cái hay cái đẹp của thi ca cổ điển Việt Nam, và công kích sự đi quá trớn trong việc Tây hóa. Đó là ý kiến Lưu Trọng Lư trong bài "Đàn Nam giaomột nền văn chương Việt Nam" (Tràng An số 34, 9-7-1942):
"Tôi không nhớ vị giáo sư Pháp nào, ở lâu bên ta, đã nói: "Những thanh niên Việt Nam đào tạo ở trường học mới, không có một tinh thần sáng tạo chắc chắn ". Lời bình phẩm có vẻ vội vàng, gắt gao nhưng không phải là không có một phần sự thực. Vì sự thực: cái bệnh ỷ lại là cái bệnh của ta và dã ăn sâu trong xương tủy người nước ta, cơ hồ không gột rửa được nữa.
"Không phải bây giờ mà từ bao giờ, không phải ở văn chương mà ở khắp các địa hạt, người Việt Nam đã tỏ ra mình là một giống người sống lười biếng và cẩu thả.
"Nếu dân Pháp được người ta khen là một thứ dân "biết sống", thì dân Nam rất đáng cho người ta chê về phương diện ấy. Dân Nam cẩu thả và biếng nhác trong sự ăn, sự mặc, sự ở, nhất là trong sự phô diễn về tư tưởng. Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến cái điều cuối cùng này mà thôi, vì tôi không muốn ra ngoài phạm vi văn học.
"Cái tinh thần lười biếng và cẩu thả ấy đã làm cho văn chương ta nghèo nàn gần như "không có". Tự ta, ta không hề cố gắng và tạo tác ra một cái gì hoàn toàn của ta; ta chỉ muốn hưởng thụ những "của sẵn", và cam tâm làm kiếp con ve của thơ Ngụ Ngôn. Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo lý cao xa.
"Hồi xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là những người Tây, và chưa có một lúc nào chúng ta là người Việt Nam cả.
"Nếu ông cố đạo kia không có cái ý hay hay, ngộ ngộ áp dụng vào tiếng ta cái lối viết la tinh, thì ta đến nay có lẽ cũng chưa có chữ quốc ngữ. Và nền văn học của ta không biết còn nghèo nàn đến thế nào nữa.
"Nhưng ta cũng không nên bi quan lắm, và thứ nhất là phải hết sức công bình. Cách đây độ vài mươi năm, ở nước ta đã có một phong trào sùng bái quốc văn, cầm đầu là Phạm Quỳnh tiên sinh.
"Người ta kiểm soát lại các giá trị hiếm có, và "phát minh" ra truyện Kiều. Người ta mới bắt đầu tin ở mình, tin ở tài lực mình, tin ở cái thiên tài của dân tộc, tin ở những cái khả năng ghê gớm của quốc âm. Một tương lai rất mênh mông và rất gần gũi. Người ta hăng hái, người ta nhiệt thành, người ta chỉ xin "cúc cung tận tụy" cho quốc văn. Một sự nỗ lực đáng đánh dấu lại trên cái lịch trình tiến hóa của dân tộc. Nhưng cái bệnh của nhà Nho ngày xưa vẫn chưa tuyệt nọc: ta vẫn đi vay mượn của người xưa. Xưa kia người ta vay mượn vì quá siêng năng. Và vì một nguyên lý khác: Làm cho tiếng Việt Nam được giầu thêm. Nhưng chẳng khác nào người ta đã "ghép " một giống cây tốt vào một thân cây đã khô héo. Người ta ham vay mượn mà nhãng quên cái gia tài sẵn có của mình. Phải chăng tại những người lúc bấy giờ quá sùng thượng truyện Kiều và coi nó là một cái khuôn vàng cho sự đúc nặn Quốc văn. Mà truyện Kiều, dầu sao ta cũng phải nhận là một tác phẩm chứ thoát khỏi lề lối Tàu: từ cốt truyện cho đến triết lý cuốn sách, nhất là lời thơ, đầy những điển cổ Tàu.
"Truyện Kiều là cái thí nghiệm tốt đẹp thứ nhất của tiếng Việt Nam mà còn bị phải "cố tật" ấy huống hồ là những người sùng bái truyện Kiều, lấy truyện Kiều làm "kinh nhật tụng". Không những người ta không nhìn nhận cái bệnh ấy của truyện Kiều mà người ta còn coi đó là một sự vẻ vang cho truyện Kiều. Chẳng thế mà ta thấy những nhà chú giải truyện Kiều bắt những câu thơ hay, hay một cách vô tình và tự nhiên, cũng phải từa tựa với những câu văn xưa nào ở trong các Kinh truyện Tàu, nghĩa là họ đã cố làm cho bực thiên tài Việt Nam không sản xuất được một cái gì thật là của riêng mình, của dân tộc Việt Nam. Họ đã gán cho Nguyễn Du những sự vay mượn mà tiên sinh không hề làm.
"Theo cái óc của nhà Nho thì một bậc thiên tài trước hết phải là một "bồ chữ" động một cái gì cũng có thể "dẫn sách" được. Họ không biết rằng: cái giá trị của mình chỉ có thể có bởi mình. Và những câu thơ hay đẹp nhất ở trong truyện Kiều lại là những câu thơ thuần tuý Việt Nam. Những nhà nho chú giải truyện Kiều vô tình đã gây nên một lề thói rất không tốt cho sự gây dựng quốc văn mà chính họ chủ trương: vô tình ngưòi ta vẫn khuyến khích sự vay mượn những danh từ, những điển tích Tàu. Họ có biết đâu rằng tinh thần sáng tạo của ta vì thế trở nên lười biếng và quốc văn không tiến được như ý nguyện. Cái thời kỳ vay mượn của Tàu đến nay đã qua rồi, nhưng điều di hại vẫn còn từ nhà nho Tàu người ta trở nên nhà nho Tây. Ta hãy để lại một bên những người mê say viết Pháp văn ta chỉ nói đến những ngọn bút vẫn một niềm phụng sự tiếng mẹ đẻ và chỉ nên tiếc rằng : Cũng như xưa, tiếng mẹ đẻ không được phụng sự một cách toàn vẹn hơn? Họ là những người học Tây; họ có cái khuynh hướng "Âu hóa" những danh từ, những điệu ngữ, cả cái cách xuất diễn tư tưởng. Họ còn dám làm một việc không thể làm được, họ sửa đổi cả những tiết tấu thiên nhiên, những âm luật huyền bí của tiếng Việt Nam. Nhiều khi, việc ấy cũng có thể coi như là một sự cải cách cần thiết, một sự nhu cầu của cuộc đời mới.
"Nhưng cái gì cũng có một giới hạn: cái giới hạn đã bị vượt, điều hay lại trở nên dễ dàng một điều rất xấu. Xưa kia, chúng ta có những chữ sáo rỗng không mượn ở Tàu, thì bây giờ chúng ta cũng lại có những chữ sáo vô nghĩa dịch ở Tây. Thật là không nên nói, mà thật là có như vậy. Những ngữ điệu bị " Pháp hóa " đó hay những danh từ bị Việt hóa đó chính không phải là tai nạn, mà chỉ chứng tỏ một cái bệnh về tinh thần, nguy nan hơn : Chúng ta đã cảm xúc, đã tư tưởng theo người Tây. Cái hình thức kia chỉ là kết quả đương nhiên của biến đổi của một tâm hồn. Trong một bài nói đến thơ Xuân Diệu, tôi có tự hỏi: " ...đã từng ở giữa những xóm dừa, ăn rau sắng, ngửi mùi lúa ngự, ta có thể nhất đán trở nên một người Tây, một người Tây thành thực và trọn vẹn được không?". Ở đây, ta hãy thí dụ là có thể được nữa, nhưng đó không phải là một cái lý để "âu hóa" nền văn chương Việt Nam. Nền văn chương ấy nếu nó đã có thì nó phải có mãi, và phải độc lập mãi mãi, đứng riêng ra một địa vị ngoài sự chi phối của chính trị hay kinh tế. Chúng ta có thể mất hết, trừ văn chương. Và chúng ta chỉ mất "văn chương" khi ta muốn "ngoại hóa" nó đi mà thôi, nghĩa là muốn lột hết những tính cách riêng của nó.
"Với sự "Âu hóa", tôi sợ nền văn chương Việt Nam sẽ mất những tính cách riêng, rồi sẽ không thành thực nữa vì bị "mất gốc". Mà sự "mất gốc" ở địa hạt văn chương rất nguy hiểm. Văn chương không cần phải có những sự phiêu lưu nguy hiểm mới to lớn. Điều trái lại có lẽ đúng hơn. Một ngày rời khỏi khí hậu, cái cây ấy sẽ héo ngay. Nó phải hút chất màu ở ngay chỗ nó mọc. Thật ra nhiều khi nó cũng có thể mang trồng qua chỗ khác được; nó cũng vẫn sống như thường.
"Cây cam Xã Đoài dời qua làng cạnh nó vẫn sống, nhưng không còn là cây cam xã Đoài nữa. Văn chương Việt Nam chỉ có thể có giá trị khi nó là văn chương Việt Nam mà thôi.
"Chúng ta là lớp người cuối cùng được dự xem một thế giới đương suy tàn: Cái cuộc đời Việt Nam đương trở nên một cuộc đời khác... Đó là ta muốn gọi là một sự tiến bộ cũng được, nhưng khi trèo bước tới một cuộc đời quốc tế đó, ta phải nhận rằng: cái gì sâu xa, chân thật trong tâm hồn, trong cuộc đời Việt Nam đã rơi rụng hết, để nhường chỗ cho những cái khác ở ngoài vào... Đó có thể là một sự rất may mắn cho cuộc sinh hoạt của cả dân tộc, nhưng là một điều rất không may cho văn chương. Cái nhiệm vụ của nhà văn Việt Nam trong lúc này thiệt là nặng nề mà cũng thật rõ ràng: được chứng kiến một giai đoạn độc nhất trong lịch sử, nhà văn Việt Nam với sự tai nghe mắt thấy trong giờ phút này phải tạo tác ra một nước Việt Nam trong văn chương.
"Một nước Việt Nam còn ngân mãi bởi những câu hát đúm của các cô gái quê, còn sống mãi bởi cái phong vị say sưa của các cô gái quay tơ (vì cái chế độ đại kỹ nghệ sắp làm chết cái nghề tầm tang đầy thi vị) và lưu giữ mãi bởi cái này và cái kia đã làm nên những cái đặc sắc của một nền văn chương.
"Nhà văn Việt Nam trong lúc này có cái sứ mệnh phải tiếp tục quá khứ, và truyền giao quá khứ ấy lại cho hậu lai, làm cho người Việt Nam bất diệt trong tinh thần, trong tư tưởng.
"Xưa kia ta đã sống một cách rụt rè, lười biếng.
"Đã đến lúc ta phải siêng năng trong sự phô diễn tư tưởng cố gắng trong sự sáng tạo. Với những tài liệu hoàn toàn Việt Nam, ta sáng tạo lại những cảnh đời Việt Nam sắp sụp đổ.
"Tôi cầu nguyện cho sớm xuất hiện một cuốn thơ hay một cuốn tiểu thuyết xây dựng với những tài liệu lấy ở đất nước và một thiên tài của xứ sở, một cuốn thơ hay là một cuốn tiểu thuyết có thể nói với thiên hạ rằng: "Đây là một tác phẩm của người Việt Nam, một giống người đã nghĩ và đã cảm".
"Cái tác phẩm mong mỏi ấy, ta phải can đảm mà nhận rằng hiện nay ta chưa có, nhưng rồi ta phải có - nếu quả Trời chưa muốn nước Việt Nam ta phải diệt hẳn ở trong tư tưởng của người đời".
Trên Tràng An số 69 (3-10-42) Lưu Trọng Lư viết bài "Sự hài hước trong dân chúng Việt Nam", lên tiếng cực tán nền văn chương dân gian, một nền văn chương thuần túy dân tộc, không chịu ảnh hưởng Tàu hay Tây.
"Nước ta là trong những nước có một nền phong tục thuần nhã và trang nghiêm vào hạng nhất. Ảnh hưởng Khổng giáo với một luân lý chặt chẽ đã đi sâu vào tâm hồn mỗi chúng ta; những khuôn phép, lề lối đã làm cho ông cha chúng ta trở nên những trang văn nho lễ độ và đài các.
"Văn chương vì vậy lúc nào cũng đượm một vẻ nghiêm nghị, thận trọng, và nhà văn sĩ hay thi sĩ trước nhất là một nhà đạo đức. Người ta ít tìm thấy những cử chỉ hài hước, bông lơn. Hồ Xuân Hương là một ngoại lệ.
"Nhưng đó phải chăng là tính cách đặc biệt Việt Nam. Văn chương ấy là do một số thượng lưu, tinh ba trong nước, được thấm nhuần văn học, những lời lẽ của Thánh Hiền. Họ là số ít. Ta phải đi xuống thấp hơn, đến những hạng người mà sách vở là non sông, cây cỏ, những người chỉ được học trong quyển sách thiên nhiên: đất đai, đồng ruộng, là nơi họ sống - Tôi muốn nói đến bình dân - Chỉ có bình dân là hình ảnh rõ rệt của một dân tộc...Chỉ ở đó ta mới nhận thấy tâm hồn chất phác, tự nhiên nẩy nở, không bị ràng buộc bởi những tục lệ quá cầu kỳ.
"Đó ta thấy họ ca tụng ái tình, họ biết yêu, và không dấu diếm cõi lòng.
"Cả một văn chương chân thật, cảm động, súc tích trong những câu ca dao mộc mạc, mà bà mẹ hát ru con hay đứa mục đồng nghêu ngao trên lưng trâu giữa những lề ruộng um cỏ, trong những câu hò bên sông, trong những điệu hò khoan, mà ta đã nghe trong những cuộc giã gạo dưới trăng, giữa những làng quê bình lặng, hay trong những truyện cổ tích mà ta đã được nghe bà hay mẹ kể lại cho.
"Tôi để riêng những tính cách đạo tình - người ta đã nói nhiều - tôi, chỉ nói riêng về tinh thần hài hước. Họ châm biếm nhau trong những lời hát ứng khẩu giữa trai gái...Đây ta thấy người dân Việt Nam ranh mãnh, lanh trí, nhận xét rõ ràng về thực tế, thấy rõ những tật xấu, tính hư của người bên cạnh và rất sẵn lòng nêu ra cho kẻ khác thấy. Thực họ cũng hơi ác thật...Đây là người học trò " dài lưng tốn vải " bị diễu:
"Nhất sĩ nhì nông, không gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ".
"Đây người trọc phú hà tiện bị đem ra làm trò cười, đây một ông già có hầu non, đẹp bị họ chế nhạo...
"Nhưng những tính cách ranh mãnh, mồm mép, đùa bỡn, hơi cay nghiệt ấy không đâu rõ rệt bằng trong một bộ sách - ta có thể gọi đó là một bộ sách, dầu không ai biết nó dầy mỏng bao nhiêu - một bộ sách mà ít người để ý đến, tuy nó rất có giá trị để hiểu biết rõ ràng tâm lý của người Việt Nam dân giả...Quyển sách đó, có lẽ là quyển sách hài hước bực nhất trong tất cả các văn chương, là quyển "Tiếu lâm". Và đó có lẽ là bộ sách đặc biệt Việt Nam nhất.
"Tương truyền rằng tác giả Tiếu lâm là một người học trò thi mãi không đậu, phẫn chí, viết ra để công kích, chế diễu thiên hạ. Khi làm xong, vì châm biếm tất cả trời đất nên lăn ra cười rồi chết...Tuy nhiên, đó không phải là công việc của một người. Nó cũng như ca dao ngạn ngữ, là của chung của nhiều người, lần hồi truyền tụng cho nhau.
"Người ta đã buộc nhiều về "Tiếu lâm". Nhưng tại sao lại bắt người ta phải dấu diếm những cái mà lòng họ nghĩ ra...Người ta thường nói đến tính cách quá sỗ sàng, hay cứ nói thẳng...tục tằn của bộ sách ấy, - nhưng nó là cái biểu thị dĩ nhiên của những hạng người sống tự nhiên giữa ruộng lúa, giữa khoảng đất rộng trời cao, không bị một bó buộc tinh thần nào cả.
"Nhưng nếu công việc của "Tiếu lâm" là làm cho cười, những câu chuyện cỏn con, lý thú ấy đã rất thành công. Cái cười tuy thô tháp, nhưng nó là cái cười nở trên những cặp môi bình dị, tự nhiên, nó không như chiếc hoa tỉa vẽ, uốn nắn trong những chiếc chậu kiểng xưa, nó là cây đại thụ bao quát cả một khoảng non sông.
"Ta đã nói bộ "Tiếu lâm" cho ta biết rõ tâm lý của người dân Việt Nam. Trước hết đó là một người vui vẻ, thích diễu cợt, bông đùa. Họ lại rất tỉ mỉ về khoa nhận xét...vạch rõ những bí ẩn của những đời tư...của ái tình...Và họ cười...Họ cười không phải để cải tạo xã hội, để sửa sang tính nết của người họ cười, theo như quan niệm của nhà triết học, họ cười vì họ ưng cười...Nhưng cái cười ấy có vẻ chua cay lắm. Họ nhận xét quá rõ ràng thành ra họ không còn tin tưởng gì nữa. Họ không tin đến cả ái tình, mà ta cho là thiêng liêng, đáng quí.
"Từ chỗ thiếu tin tưởng, họ đến chỗ không biết kính nể ai cả. Cả đến trời đất, quỷ thần họ cũng đem ra châm biếm...
"Sự dĩ nhiên đó không phải là tánh tốt, nhưng đó là sự thật.
"Và cũng như bài ngụ ngôn của thời phong kiến Pháp (Roman de Renart, Les Fabliaux) ta không nhắc đến thơ của La Fontaine, vì đó là văn chương, lời lẽ quá đẹp, ý tứ quá sửa sang, khuôn phép là tinh thần của người dân giả Pháp... "Tiếu lâm" là hồn của dân giả Việt Nam.
"Ta có quyền khinh họ, nhưng ta phải công nhận rằng họ không dối lòng họ. Việc gì phải che đậy những cái không đáng che đậy.
Tuy nhiên tôi không khuyên đọc " Tiếu lâm ", biết đó là những sự thật nhưng có những sự thật ta không cần biết đến. Và ta chỉ nhắc đến tên "Tiếu lâm" để biết rằng nước ta không phải thiếu tinh thần hài hước" (Tràng An số 69, 3-10-1942).
Tràng An số 107 (5-1-43), Lưu Trọng Lư nói về Nguyễn Công Trứ và coi ông có một cái gì chưa từng có ở trong văn chương Việt Nam, một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử:
"Nguyễn Công Trứ không chỉ là một thi sĩ của Quốc gia, mà còn là một bậc công thần xứng với nền Quân chủ, một nhà nho xứng với Thánh đạo, hơn thế nữa, một võ tướng có thao lược, một nhà chính trị có tài kinh luân, một người có tiết tháo. Cái sự nghiệp của tiên sinh ai cũng biết rõ, không cần phải nhắc lại nữa. Ta chỉ nên ký nhận rằng trên tâm hồn của tiên sinh, trên thân thể của tiên sinh, đã un đúc, đã tụ kết lại bao nhiêu cái hay, cái đẹp, cái hùng, cái mạnh của cái tinh hoa chủng tộc.
"Thật là sự điều hoà của những cái tương phản nhau: sự điều hoà của Mộng với Thực, cái ngông cuồng của một kẻ lãng tử, với cái nề nếp của một nho sinh, và cuối cùng là một sự điều hoà của thơ văn với Khổng giáo. Nguyễn Du muốn là người bạn hoàn toàn của thơ văn, đã phải lảng Nho mà theo Phật...Nguyễn Công Trứ vẫn ở trong cái phong khí khắc khổ của Nho, mà vẫn khoáng dật thích thảng như một đồ đệ của lão Trang. Tiên sinh vừa hành binh, trị nước, vừa ngâm hoa vịnh nguyệt mà cái này không hại đến cái kia.
"Thành thực ta phải nhận rằng Nguyễn Công Trứ không có cái nghệ thuật điêu luyện của Chu Mạnh Trinh, Nguyễn thị Điểm, không có cái tâm hồn uyển chuyển của Nguyễn Du, hay cái giọng điệu dễ dàng của Hồ Xuân Hương, nhưng ở trong thi văn của Nguyễn Công Trứ, một cái gì chưa từng có ở trong văn chương Việt nam - một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử. Cái thể ca trù nhờ pháp thần của Nguyễn Công Trứ đã trở nên một thể cách hoàn toàn Việt Nam, rất thích hợp với sự diễn xuất hùng mạnh...Tôi nhớ như có một lần ông Huỳnh Thúc Kháng ví cái điệu thơ ấy với thuỷ triều - thật không phải là một lời nói vu vơ. Điệu ca trù còn hơn là một sức mạnh nữa. Nhưng khi những bài thơ ấy, ngâm lên với điệu phách nhịp đàn, thì ta lại thấy nó có một vẻ hào phóng vừa trả lời vừa kín đáo, vừa gắn bó, vừa sỗ sàng. Nó là một thứ sản vật hoàn toàn Việt Nam, nó phải lâu dài với đất nước. Một ngày kia, năm bảy trăm năm sau, trong cái đám hậu lai man mác, nếu có một người nào còn ngâm được một bài ca trù của Nguyễn Công Trứ chẳng hạn, tôi tin rằng người ấy có một mối u sầu nặng bâng khuâng nhớ tiếc một thời khoáng dật to nhớn, rộng rãi và kiêu sa. Cái thời buổi của những nhà nho tuy vẫn nhọc nhằn cặm cụi với nhân sinh, nhưng cũng là những kẻ "bốc giời" phung phí mà không tiếc tay, những kho tàng vũ trụ, những kẻ biết sống mà cũng biết chơi, biết làm trọn nghĩa vụ mà cũng biết rõ cái đùi non mà giốc hớp rượu cuối cùng...
Cho nên sau một cuộc đời sóng gió, hoạt động, Nguyễn Công Trứ hàng ngày thường thắng một cái xe bò mà ngao du sơn thuỷ. Đó cũng chỉ là để tỏ một lần nữa rằng: sau khi là một bậc công thần, một tay thao lược, một kẻ "chiến sĩ", Nguyễn Công Trứ ung dung và thích thảng, đánh xe đi ra ngoài cõi thế, vừa phẩy quạt vừa mỉm cười, để đùa với cuộc đời, đùa với số mệnh.
"Nguyễn Công Trứ vào đời nghiêm trang như đức Trọng Ni, ra đời hiền vui như thầy Trang Tử. Không phải chỉ là một thi nhân đáng lưu truyền hậu thế, mà là một quan niệm về nhân sinh đáng truyền bá ra giữa cuộc đời âu tây chật vật.
"Một người như Nguyễn tiên sinh, khi là một vị đại thần, rồi khi chỉ còn là một tên lính nhỏ, rồi từ một tên lính, lại nhẩy lên một địa vị tướng quân, đánh Nam dẹp Bắc, cho đến khi về già thắng một cái xe bò, và cô hầu non, ngao du khắp chín mươi chín đỉnh Hồng sơn, mà người như thế hẳn có thể dạy ta được một cái gì mới về sự sống của con người. Thật là "Lãng mạn", thật là ngông nhưng mà người ấy đã là một kẻ giúp đời, và có công lớn với Tổ quốc. Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra cho chúng ta thấy rằng : văn chương và hành động là hai điều biệt lập, và một tâm hồn lãng mạn cũng không thể hại đến chí chiến đấu, nếu quả người ta muốn chiến đấu" (Tràng An, số 107, 5-1-1943).
Hán Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp
Trên Tràng An số 108 (24-3-1936), Hán Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp mà ông coi là giống Lamartine, giống V. Hugo, giống Musset :
"Những cuộc cãi nhau về "thơ cũ" và "thơ mới" đã qua. Nay chúng ta chỉ biết có thơ. "Thơ mới" chỉ là một hình thức của Thơ để diễn tả những tính tình và cảm giác của tâm hồn người ta ở thời đại mới.
"Thơ mới" đã đứng vững với tác phẩm giá trị của những thi sĩ có tài : Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp.
"Cũng ba tên ấy gợi cho tôi ý viết bài này. Đây tôi không phê bình. Tôi chỉ là một người yêu thơ, ham đọc thơ nói chuyện cùng các bạn những điều hay hay mình đã thấy.
"Xem thơ của ba thi sĩ trên kia, trong trí tôi nẩy ra một sự so sánh : Thi ca Việt Nam vào hồi này cũng tựa như thi ca nước Pháp vào khoảng 1830. Tôi không nói Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp giống đủ phương diện những thi sĩ Pháp hồi đó. Nhưng phong trào thơ bên Pháp hồi 1830 và thơ ta bây giờ có chỗ so sánh được.
"Với Lamartine, thi ca lãng mạn xuất hiện. Lamartine đem lại cho văn chương Pháp một lối thơ mới về tình cảm và âm điệu, hợp với tâm hồn người đương thời, nên được công chúng cực lực hoan nghênh. Cái buồn vẩn vơ, nỗi ước ao một đời cực lạc, những tiếng than não nuột trong thơ Lamartine đã làm "mê" cả một xã hội. Nhưng bên cạnh thi sĩ cái hồi đó người ta đã để ý đến một thi sĩ trẻ tuổi khác. Victor Hugo trong hai tập Odes et Ballades  Les Orientales đã từ thơ ly tao đi đến thơ hùng tráng. Buồn vẩn vơ và mơ ước cuộc đời lý tưởng cùng Lamartine người ta theo trí tưởng tượng của Hugo sống lại thời xưa mãnh liệt cùng những cảnh lộng lẫy của "phương đông". Đến năm 1830 Musset bước lên văn đàn, cười rộ. Tập Contes d'Espagne et d'Italie của ông là một tiếng cười hóm hỉnh và tinh quái lẫn giữa giọt nước mắt não nùng của Lamartine và những cảnh rực rỡ oai nghiêm của Hugo.
"Ba thi sĩ đi ngang nhau làm thi ca Pháp rực rỡ một thời.
"Nhưng ta hãy để công việc phê bình ba thi sĩ ấy cho nhà văn học sĩ nước Pháp...
"Mỗi lúc đọc thơ Thế lữ, tự nhiên tôi nghĩ đến Lamartine. Cũng như nhà thi sĩ Pháp, Thế Lữ bắt đầu một kỷ nguyên mới về thi ca. Ông Hoài Thanh đã bàn rõ điều này trong một bài phê bình thơ Thế Lữ. Tôi chỉ nhắc qua rằng: Lamartine là thi sĩ xã hội Pháp mong đợi sau những cuộc binh lửa khắp Âu Châu dưới triều Napoléon 1er, cũng như Thế Lữ đã "ru" người ta "dạy cho cả một thời đại yêu" (Hoài Thanh), kiếm sự an ủi trong tình yêu và mơ mộng, tìm một lý do để vui sống sau những vụ đổ máu năm 1930. Thanh niên ta hồi đó đang bỡ ngỡ trước những tấn kịch thảm khốc dễ làm họ chán đời vì chán nản. Thi sĩ Thế Lữ kịp thì ra an ủi họ. Những bài thơ đầu của Thế Lữ đăng ở báo Phong Hóa được người ta hoan nghênh cũng như tập Méditations của Lamartine được dân chúng Pháp ca tụng hơn một trăm năm về trước (1820).
"Nếu thơ Thế Lữ "ru" người ta thì thơ Huy Thông mạnh mẽ và mới lạ hơn. Ông Lê Tràng Kiều đã ví Huy Thông nhà thơ ly tao và hùng tráng với V. Hugo. Sự so sánh ấy tôi tưởng đúng lắm từ cái tuổi cho đến cái tài và nàng thơ "Siêng năng" của thi sĩ Phạm Huy Thông.
"Như Alfred de Musset, Nguyễn Nhược Pháp đã dám cười khi người ta đang mơ màng theo Thế Lữ hay hậm hực như mang hận chiến sĩ theo Huy Thông Musset nói truyện Y Pha Nho, Ý Đại Lợi thì Nhược Pháp kéo chúng ta về "ngày xưa", ngày xưa cũng là một xứ lạ đối với hiện tại của nước ta. Trong cảnh lạ và khác ấy, thi sĩ Nhược Pháp ấy xen lẫn nụ cười của ông, nụ cười "hóm hỉnh" và có duyên rồi ông giục chúng ta cười theo...
"Chỗ giống nhau giữa thi ca nước Pháp một trăm năm về trước vần thơ ta hiện giờ không làm tôi ngạc nhiên. Văn chương lãng mạn Pháp ảnh hưởng sâu xa đến văn chương hiện đại của ta. Vả lại thi ca ta cũng ở vào một trường hợp giống như thi ca Pháp vào hồi 1820-1830.
"Thế Lữ, Huy Thông...cũng là những nhà thơ lãng mạn thành thử đối với Pháp về thi ca ta sống thụt lùi một thế kỷ. Sự chậm trễ đó không có gì đáng trách vì ta theo gót người - nếu có thể nói được như thế. Mà trách sao được? Chúng ta không có quyền kết án thơ lãng mạn. Tuy thế, xã hội ta ngày nay không phải là xã hội Pháp hồi năm 1830. Ta không thể cấm đoán thi sĩ lãng mạn, mơ màng song ta có quyền mơ ước: ngoài những giờ mơ màng đắm say trong giấc mộng các thi sĩ nên nhìn cảnh đời xung quanh mình mà ca lên cho ta nghe những bài ca nói đến người nghèo, đứa con ghẻ xã hội, một thi sĩ có chân tài thì dù trong giấc mộng đẹp đẽ hay trước một cảnh thực tế thảm khốc dơ dáy, cũng tìm được những vần hay ý mới. Cuộc đời hàng ngày là một kho tài liệu cho thi ca, cho thi ca lãng mạn nữa.
"Về tiểu thuyết ta đã có những quyển như Kép tư Bền của Nguyễn Công Hoan, Giông Tố của Vũ Trọng Phụng. Ta cũng mong các thi sĩ vẽ cho ta đọc những bài thơ nói đến sự thực gần ta như thế" (Tràng An, số 108, 24-3-1936).
Xuân Phương ca ngợi tập Xác Thu của Hoàng Điệp
Bây giờ không còn phải là lúc một tờ báo chỉ bênh thơ mới hay thơ cũ nữa. Trên mặt báo Tràng An, nhà thơ mới Lưu Trọng Lư, bỏ thơ mới, quay về dĩ vãng, ca ngợi, phê bình thơ cũ. Cũng trên mặt báo Tràng An nhiều người vẫn tiếp tục tán dương thơ mới của nhiều nhà thơ mới, có điều họ không khen thơ mới như là thơ mới mà chỉ khen như là thơ hay, thơ có giá trị không đả động gì đến mới hay cũ.
Xuân Phương, trên Tràng An số 314 (22-4-38) phê bình và ca tụng ba tập thơ: Hận chiến trường, Điêu tàn, Xác thu là ba tập thơ ra đời năm 1937:
Với tập Xác thu, ta không phải theo ông Hoàng Điệp ra bãi chiến trường đầy cả xương, tanh cả máu, hay bay lên cung Hằng để nghe ngóng hơi thơ của muôn tiên, để hớp lấy dòng trăng đương chảy. Ta chỉ nhẹ bước theo sát ông, nhập vào ông để cùng ông nuốt lấy cái Đau thương, vồ lấy cái Chán nản trong người ông. Ta hãy nghe tim ông hồi hộp, hồn ông rung chuyển khi mùa thu tới:
Tất cả mùa thu vàng xám lại
Chán chường cũng lại giết hồn tôi
(Xót xa)
Và trong lúc ông thất thểu đi tìm lại cái linh hồn trong sạch ngày xưa, ông chỉ thấy trơ vơ những xác chết trên vệ đường: Hẻo lánh bên đường ít quán tranh.
Nầy đây sắp sửa lá xa cành
Vài ba cánh cửa không buồn mở,
Khói nhẹ lan chùm cỏ xám xanh
(Xác thu)
"In hình như ông Hoàng Điệp bị hoàn toàn thất bại trên đường tình, nên ông chỉ lấy cái Đau khổ làm Nàng Thơ để ôm ấp, nâng niu trong những đêm buồn nản ông đã quá tàn ác mà đặt tên người yêu ông là Nàng Đau đớn để kêu gọi, van xin:
Hỡi nàng Đau đớn của ta ơi!
Khổ lắm, cho ta một nụ cười,
Hãy nắm tay ta thêm chút nữa
Để truyền cảm giác xuống đầu môi.
(Đau đớn)
"Nhưng càng van xin chừng nào, người yêu ông vẫn không buồn trở lại, nàng vẫn là một hình ảnh đau xót trong trí tưởng tượng của ông mà thôi:
Anh chỉ yêu em...ngồi xích lại
Cho anh gạn hỏi một đôi điều,
Cho anh lọc hết giòng cay đắng
Có phải em là : xác quạnh hiu.
(Đau đớn)
"Từ cái buồn rướm máu ở đáy lòng ông cho tới cái buồn bao la của vũ trụ, của những buổi chiều vàng úa, của một đêm trăng nhạt nhạt, ông đều tả ra với những lời thơ thật dễ thương và mới lạ:
Trong tôi:
Mặt trăng mờ nhạt.
Ngôi chùa đổ nát
Con đường quạnh hiu.
Một buổi chiều,
Tôi đón lời tiêu,
Tôi đưa lá chết
Tôi nhìn đám tang,
...Xác thu vàng!
(Đám tang)
"Với ông Hoàng Điệp, ta được thấy những khung cảnh nho nhỏ, xinh xinh và bao gồm được lắm ý nghĩa sâu xa.
Ai đi nhặt tiếng vàng rơi
Trong trăng trong gió, trong người, mùa Thu.

"Ta cũng đủ hiểu tác giả muốn đi tìm những tấm ảnh tầm thường, giản dị và diễn tả được cái tầm thường "Không màu sắc" ấy, là tài riêng của ông Hoàng Điệp.
"Mùa Thu của ông mới và lạ lắm, đầy những lá vàng đẫm máu, vang dậy cả tiếng lòng u uất, hình ảnh của một đời tình đau khổ (Nếu tôi không lầm).
"Về nghệ thuật, tập Xác Thu hẳn có phần kém hơn hai tập Hận chiến trường và Điêu tànNhững lối thơ tám chữ của ông Hoàng Điệp cần phải sửa đổi thêm nhiều.
"Nhưng nói về ý tứ sâu xa để giải phẩu tình yêu, nói đúng hơn, một mối tình tuyệt vọng, tràn cả mùi "xót xa", cả vị "cay đắng", tập "Xác Thusẽ là một tập thơ có giá trị riêng về chỗ đó.
Xuân Phương ca ngợi Hận Chiến Trường của Thanh Tịnh
"Ông Thanh Tịnh với tập Hận chiến trường đã tả hết sự tàn ác của chiến tranh, đã níu hồn ta lại những nơi tràn cả thây người, nặc cả mùi tanh của máu xương và sặc sụa cả hơi thuốc súng. Có lúc ông lại nhịp đàn lòng theo điệu trầm bổng của một chiều mong đợi, của nỗi niềm thương tiếc dưới bóng trăng chênh, hay là một linh hồn "Lạc lối giữa thành sầu mù mịt ".
Xuân Phương ca ngợi Điêu Tàn của Chế Lan Viên
"Giữa lúc ấy, ông Chế Lan Viên lại ranh mãnh hơn, gan dạ hơn. Ông sụy xuống mồ vô tận để đánh thức yêu ma. Ông bay lên nguyệt điện để sai biểu tinh tú. Ông lang thang đi tìm người chiêm nữ lúc ẩn lúc hiện trong đêm biếc, giữa dòng trăng. Ông điên hẳn lên, ông không phải là ông nữa, ông là cái sọ dừa vỡ rạn, ông là đám dân chiêm sống lại, ông là muôn sao đang chới với, ông là máu, là xương, là tủy, là trăng là mây, là gió vv...
"Ông Hoàng Điệp lại thầm kín, rụt rè quá. Ông không dám bước nặng, ông không dám la to, vì ông sợ phải lay đổ cả, cái im lặng đầy bí mật của đêm thâu của khói hương bay, của làn sương mỏng. Ông đi nhặt những mảng trăng rơi lả tả trên tà áo của thiếu nữ, ông ngừng hơi thở để nghe những xác cây nẩy nở những lời thán oan của chiếc lá lìa ngành. Ông lại một mình lẳng lặng xây đắp trong hồn ông một cảnh thu kết bằng lá Đau Thương và Cảnh Chán Nản.
"Các thi sĩ thường sung sướng hay đau khổ và thường sống trong những cảnh tưởng tượng. Họ sống riêng trong những thế giới riêng của họ. Nhưng thế giới ấy là bãi Chiến Trường của ông Thanh Tịnh, là cái tháp điêu tàn của ông Chế Lan Viên, là những xác lá chết của ông Hoàng Điệp.
"Nói tóm lại, làng thơ năm 1937 đã hiến cho ta ba viên ngọc quí:
"Hận chiến trường, Điêu tàn và Xác thu(Xuân Phương, Tràng An, 22-4-1938, số 314)
Lương An ca ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận
Lương An, trên Tràng An số 12 (tháng 3 năm 1941) ca ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận và nhìn nhận có một nguồn thơ bất diệt:
"Đọc những bài thơ này, người ta ngỡ đâu như đọc bài "Premières Solitudes" của Sully Prudhomme, tả bọn học trò còn nhỏ phải đưa vào trường, đêm khuya nhớ nhà ôm nhau mà sụt sùi.
"Tuy nhiên cái đời học sinh trẻ thơ ấy có bao giờ lâu dài được đâu, người ta chỉ có thể vô tư vào độ hai mươi trở xuống; từ tuổi ấy trở lên người ta đã bắt đầu bước vào cuộc đời và nhấm vị chua cay của nhân tình thế sự. Tâm trí, hoài bão, ý niệm người ta cũng đổi khác đi. Lúc này là lúc phải lo âu, phải suy nghĩ để tìm lấy một xu hướng.
"Thi nhân của ta cũng thế. Tuy sự thay đổi trong đời chàng chỉ là một sự thay đổi không khí cỏn con nhưng cái tuổi không cho phép chàng ngây thơ như trước nữa. Bởi lẽ ấy người ta bắt đầu thấy Huy Cận buồn buồn. Mối buồn của thi nhân bao giờ cũng là một mối buồn vô hạn. Huy Cận cũng trở nên thi sĩ của tình cảm thống thiết, cũng tham lam đòi hỏi tình yêu, nhưng chàng thực chưa nặng tình cùng yêu mến như "Bạn chàng Xuân Diệu".
"Chàng cũng yêu tất cả, nhớ tất cả. Tâm hồn chàng là một khu vườn cũng theo mùa mà nở hoa hoặc hiu quạnh. Tâm hồn chàng bây giờ là đối tượng của những hiện tượng của thời tiết. Một điều đáng chú ý là cái nhớ của chàng rất đỗi mênh mông và ôm trùm cả vũ trụ.
"Nuôi một mối tình muôn dặm, yêu vẩn vơ một nàng cỡi ngựa trong rạp xiếc, nằm trông lên thả mộng ra khắp phương trời, nếu không phải chàng Huy Cận đang độ vô tư lự thì là ai nữa! Những hành động thơ ngây, những mối tình trẻ trung ấy phải là của một chàng thi nhân sống ngoài nhân tình thế sự; chàng thi nhân ấy nếu không phải Huy Cận thì là ai nữa! Nhưng ngày thơ ấu ấy bây giờ không còn nữa. Bây giờ là độ thanh xuân chạm trán với cuộc đời, bây giờ là lo âu, là nghĩ ngợi. Bắt gặp cảnh biệt ly mà sầu, đi giữa đường thơm mà lo tình mất, thấy dấu chân trên đường mà thẩn thờ, nghe mưa rơi lác đác mà buồn buồn, chao ôi, sao lòng chàng thi nhân của ta thiết tha và dễ cảm xúc đến thế.
"Sở dĩ Huy Cận buồn thương như vậy là vì chàng lo sợ một ngày rất gần hạnh phúc sẽ không cười duyên với chàng nữa, mà chàng thì ham sống và tin vào cuộc đời quá. Chàng sầu vì tâm can chàng bắt chàng phải thế. Đó là một trong những lý do đã đưa chàng lên lầu thơ bất tuyệt. Mối sầu của chàng có thể cho là một mối sầu vạn cổ.
"Từ đây Huy Cận là một con người nặng tình sông núi, cảm gió sầu trăng. Bây giờ chàng đã thấy những sự mâu thuẫn của đời nên thơ chàng cũng rẽ vào lối "đoạn tràng". Chàng chạy theo dõi một mối tình mất mà thương tiếc; Chàng ngậm ngùi khi nắng chiều xế vàng trên bãi; chàng nhớ nhà vì một cảnh tràng giang; chàng ngơ ngẩn khi bắt gặp một cảnh thu trên núi rừng; chàng thẫn thờ sau một cái xe tang; chàng đau khổ khi nghĩ đến một ngày sắp tới người sẽ mất hết linh hoạt để "bước vào mồ nhỏ tí" Chàng đã bị những sự mắt thấy tai nghe hàng ngày cảm hoá và làm cho xúc cảm nhiều quá. Ý nghĩ của chàng chỉ quanh quẩn trong cõi sầu thương; chàng là thế đó, trọn một đời thương nhớ và hồn bị thiên hạ bỏ đìu hiu; chàng than thở với Thượng Đế, đã làm ra thân thể con người để đau khổ và để làm nên tội lỗi.
"Huy Cận sinh ra với một tấm linh hồn đơn chiếc, đa sầu đa cảm. Chàng than van không có bạn bè tri kỷ, chàng đi bơ vơ trên đường đời âm thầm và đau đớn. Tình yêu không lưu luyến chàng, mọi việc gợi ra trước mắt chàng sự ê chề, sự chán ghét. Tất cả những nguồn sống ở đời đối với chàng đơn sơ quá nên không thể làm cho cái tinh thần sinh hoạt của chàng (vie intellectuelle) đầy đủ được.
"Tả một phong cảnh tráng lệ biết bao. Mây đun núi bạc chim nghiêng cánh nhỏ, nhẹ nhẹ ánh chiều sa, tưởng ngần ấy cũng đã đầy đủ như một bức tranh của một họa sĩ tài hoa. Chính thi nhân cũng nhận rằng cái cảnh tràng giang ấyđã làm cho mình ca tụng và mê mẩn. Ta hãy nghe thi nhân nói cảm giác của mình:
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
"Ngày xưa, Thôi Hiệu đứng trước cảnh lầu hoàng hạc mà ngậm ngùi và thấy khói sóng trên sông mà nhớ nhà.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Nhưng ở đây, Huy Cận thấy trời nước mông mênh quá tráng lệ quá mà nhớ nhà. Vì lẽ ấy mà cảnh không tang thương, lòng không hoài cổ, sông không đùn sóng mà cũng ngậm ngùi mối tình lữ thứ.
"Tả một buổi chiều xuân, Huy Cận viết:
Hai hàng cây xanh
Đâm chồi hy vọng...
Nhạc vươn lên trời
Đời măng đang dậy
Thật là nói đủ tất cả hy vọng, trẻ trung, êm dịu của một mùa xuân.
"Tả một cảnh thu ở núi rừng:
Non xanh ngây cả buồn chiều
Nhân gian nghe cũng tiêu điều dưới kia
"Xem chữ "ngây" nó nhẹ nhàng, thấm thía biết bao. Không, mùa thu đến non xanh có buồn gì đâu; non xanh chỉ thấy trời buồn mà buồn lây mà thẩn thờ lây đấy thôi.
"Đại để chỉ đơn cử ngần ấy tỉ dụ kể cho hết thì quá dài. Những chữ vừa trích ra đây trong tập "Lữa thiêng" không phải ít. Đọc nó lên là thu được một cảm giác, thấy được một cử động, nghe được một dư thanh. Thực là những chữ "thần tình".
"Thơ Huy Cận nhờ thế mà trong như thuỷ tinh và đẹp như ngọc thạch. Đọc Xuân Diệu thấy trong người sôi nổi ngọn trào lòng rào rạt; đọc Huy Cận thấy trong người lâng lâng, tâm hồn khoan khoái. Trí phán đoán sáng suốt mắt nhận xét tinh vi, cách dùng chữ thần tình. Đó là ba đặc điểm của Huy Cận.
"Văn Huy Cận là một thứ văn chải chuốt; tình Huy Cận là một tấm tình đơn giản mà thấm thiết.
"Đừng thấy chàng buồn buồn mà cho chàng là người lạnh nhạt hững hờ; đừng thấy văn chàng chạm trổ quá mà cho là mất vẻ tự nhiên. Huy Cận viết văn rất điêu luyện ; song không bao giờ để rơi những ý niệm của mình. Bởi vậy khi đọc thơ Huy Cận ta thấy trong người nhẹ nhàng nhu khoái. Đã lâu lắm từ ngày "Thơ thơ" ra đời đến nay mới lại có một tập thơ đã khiến người phải đọc đến mà sinh vô hạn cảm tình với tác giả.
"Tập thơ "Lửa thiêng" là một tập thơ rất đáng chú ý về tình cảm cũng như về văn pháp. Không cần so sánh cũng đủ nhận thấy đó là một tập thơ hay và tác giả là một thi nhân có đặc tài. Trong công cuộc xây đắp thi giới nước nhà, một tập thơ như thế là tất cả một sự gắng công, và có lẽ là một công trình văn nghệ rất đáng chú ý nữa.
"Huy Cận hiện đang đi tới giữa chúng ta với một tài hoa đương thời nảy nở. Tương lai của chàng chắc hẳn càng tốt đẹp và sáng lạn hơn nữa.
"Lửa thiêng" ra đời, được hoan nghênh nhiệt liệt, cái đó không phải nghi ngờ gì nữa. Nhưng phần thưởng đích đáng nhất cho Huy Cận là tác phẩm của chàng sẽ được sống lâu (Lương An, Tràng An, tháng 3 năm 1941, số 12).
Xuân Tâm ca ngợi Xuân Diệu
Trên Tràng An số 405, 21-5-1939, 406, 24-5-1939, Xuân Tâm phê bình thơ thơ của Xuân Diệu với lời lẽ rất to tát và coi "Thơ thơ" là "một quyển sách để đầu giường" của ông:
"Như tôi đã nói, nghệ thuật của Xuân Diệu rất lão luyện bên nhà thi sĩ có tài tâm hồn muôn điệu, lại có nhà thợ thơ tinh xảo, có kinh nghiệm nhiều và nhất là rất tận tuỵ với nghề mình.
"Tuy lối thơ lục bát của Xuân Diệu không được mềm dẽo và du dương như của Thế Lữ, nhưng trái lại lối thơ hoàn toàn mới với những câu tám chữ và vần liên tiếp, hay lối thơ gồm có từng đoạn bốn câu hoặc tứ tuyệt, hoặc thơ mới với vần song hành, lại rất xuất sắc.
"Đọc những bài Cảm xúc, Vì sao, Trăng, Huyền Diệu, Yêu xa cách, Phải nói, Đây mùa thu tới, Hẹn hò, Vô biên, Tương tư, Chiều, Với bàn tay ấyvà gần hết những bài khác, người ta thấy lời thơ chảy song suốt từ đầu đến cuối, không bỡ ngỡ không khó đọc, mà rất dễ dãi. Lắm đoạn vụt lên rất tự nhiên rất nhẹ nhàng, khiến ta thấy nó từ đáy hồn vụt ra như những tia sáng.
"Những đoạn ấy nhiều lắm, không thể không chép ra đây được, các bạn đọc qua cũng thấy, không phải tìm kiếm.
"Mà những đoạn thơ rất tự nhiên ấy có phải Xuân Diệu phun ngay ra như thế đâu. Chính thi sĩ đã trao dồi rất công phu, sửa đi sửa lại từng câu hay từng chữ nhỏ. Chính những bài thơ đã đăng ở báo Ngày Nay hay Tinh Hoa rồi, mà nay in trên sách lại khác đủ tỏ rằng Xuân Diệu là một người thợ thơ cần mẫn, biết thận trọng nghệ thuật, và khi nào cũng cố gắng đạt được mục đích là sự hoàn mỹ.
"Ví dụ trong bài "Cảm xúc"câu thứ sáu bây giờ:
Đây là bình Thu Hợp trí muôn hương
"Khi trước:
Đây là bình Thu Nhận trí muôn hương
"Chữ thu nhận chỉ có một nghĩa là thu vào mà thôi nên kém chữ thu hợp, có nghĩa thu vào mà còn chung đục còn trộn lẫn với nhau nữa.
"Trong bài "Đây mùa thu tới "câu thứ 4, khi trước:
Với áo Chùng Thâm Mặt Dám Vàng;
Bây giờ:
Với áo Mơ Phai Dệt Lá Vàng,
"Mùa thu mà có mặt thì cũng hơi kỳ thật. Chứ áo của mùa thu dệt bằng lá vàng thì hợp lý và hay hơn nhiều.
Cũng trong bài ấy, câu thứ 13 khi trước:
Én bỏ từng không, Oanh bay đi.
Bây giờ:
Mây vẫn từng không, Chim bay đi.
"Mùa thu là mùa của chim én ở xa về bay lượn ở đồng nội mà lại bảo nó bỏ từng không thì sai quá. Huống gì mấy chữ "mây vẫn từng không" đã đúng mà còn may mắn hơn nữa.
"Không cần phải đưa ra nhiều, ba cái ví dụ trên đây chứng thật một cách rộng rãi rằng Xuân Diệu trau dồi nghệ thuật rất công phu.
"Bên nhà thi sĩ đặc sắc, bên nhà thợ thơ có lương tâm ấy, lại thấy có đèo thêm một nhà họa sĩ. Xuân Diệu đã thấy "màu hoa mới thắm như kêu" (Nụ cười xuân), đã thấy "sắc đỏ của màu xanh" (Đây mùa thu tới). Phải có con mắt của họa sĩ mới thấy được những tế nhị của màu sắc như vậy.
"Với những câu:
Lũ mây già, nghìn vạn khối lâm ly,
Đứng giữ lưới bủa vây trời nhỏ hẹp,
Vài chiếc quạ, Mình Thân cong Mỏ Thép,
Quạ vừa kêu, đến tự xứ đêm nào,
Những cây bàng là những bộ xuơng cao,
Nét ngớ ngẩn đã rèn bằng Sắt Cũ.
Tét cắn lá - lá nằm trên Đất Ủ,
Màu Lặng Yên không còn mộng xa ba ;
Đất Đen kêu như sắt dưới chân giầy
Tiếng rắn rỏi có pha màu Mực Đậm.
(Sắt)
Xuân Diệu đã vẽ ra một cảnh màu đông nếu tôi không lầm, với những mùa chết, hay nói cho đúng hơn là màu đất và mùa tét. Những chữ "sắt cũ", "tét cắn lá", "màu lặng yên", "Tiếng rắn rỏi pha màu mực đậm " làm ta thấy thật màu đỏ nâu vàng úa của bàng, da bàng về mùa đông là mùa thay lá, và nhận thấy tác giả đã biết hoà hợp tiếng màu để làm nên một cảm giác nặng nề mệt nhọc phảng phất trong bài thơ từ đầu đến cuối.
"Nhà họa sĩ đã vẽ ra bằng thơ những bông hoa xinh đẹp, đầy vẻ sống, linh hoạt một cách khác thường trong bài "Lạc quan"và hiến cho ta bức tranh tuyệt mỹ có cả tình cảm:
Một tối bầu trời dăm sắc mây,
Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy,
Hoa nghiêng xuống, cỏ trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu một toi đầy.
Những lời huyền bí tảo lên trăng
Những ý bao la đủ xuống trần,
Những tiếng ân tình hoa bảo gió,
Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân.
(Với bàn tay ấy)
"Đó là chưa nói đến mánh khóe nhà nghề mà nhà thơ đã dùng để tả những ý tưởng của mình. Với hai câu:
...Và làm sai tơ nhịp trăng Đang,
Dịu Dàng Đàn những ánh tơ xanh.
(Trăng)
"thi sĩ đã được một điệu đàn bằng thơ.
"Với câu:
Những luồng Run Rẩy Rung Rinh lá.
(Đây mùa thu tới)
Xuân Diệu đã tả nổi cho ta nghe những lá run rẩy thật, nhờ ở cách sắp khôn khéo và tìm tòi bốn chữ đi với nhau.
"Về cách dứt mạch câu (césure) Xuân Diệu cũng tỏ ra mình nhanh nhẹn lắm. Khi đọc mấy câu:
Thong thả chiều vàng thong thả lại...
Rồi đi... Đêm xám tới dần dần...
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân.
(Giờ tàn)
"Ta tưởng như nghe cả chiều lại, đêm đi và ngày tháng bay thật, nhất là câu cuối cùng, nhờ cắt làm ba mạch nên đọc lên một âm điệu đưa đẩy rất đầy đủ.
"Còn những hình ảnh (images) mới mẻ may mắn, mà tôi đã nói rồi, và nhất là những chữ dùng rất ngộ nghĩnh, rất táo bạo mà không bao giờ đến lỗ mãng, như Huy Thông, thì Xuân Diệu giầu lắm. Bất cứ bài nào cũng có, và chính đó là những chấm đặc sắc nhất của thơ thi sĩ. Thành thử khi ta đọc đi đọc lại càng thấy thấm thía thâm thuý mà không bao giờ chán.
"Sau hết tôi mách các bạn một cái đặc điểm mà chỉ có một mình Xuân Diệu có, lối thơ ngây thơ và dễ yêu: Các bạn hãy nghe:
Ờ nhỉ ; sao hoa lại phải rơi?
Mất...
Thực là dị quá - Mà tôi nữa:
Sao nhỉ làm chi chuyện lại phai?
- Nếu không biết những câu thơ ấy của Xuân Diệu, người ta hẳn phải cho là những lời ngây thơ của một thiếu nữ nào mới biết yêu và chưa hiểu đời với những thống khổ là gì.
- Cùng một loại thơ ngây ngô ấy, bài "Đơn sơ" hẳn là một tác phẩm bất hủ. Nó cám dỗ hồn ta với những chữ thông thường, rất tự nhiên, và nhất là với vẻ "có duyên" của nó.
"Một thi sĩ giầu tình yêu, hiểu thấu đáo âm nhạc, giầu tình cảm, giầu sức tưởng tượng, và có một nghệ thuật tinh vi như Xuân Diệu, hẳn là một thi sĩ hoàn toàn nhất mà ta có đến bây giờ.
"Và quyển Thơ Thơ tác phẩm hoàn toàn như tác giả của nó là một quyển sách để đầu giường (livre de chevet) mà chẳng bao lâu sẽ trở nên một người bạn thân ái của chúng ta.
"Phải chăng tôi đã xem Thơ Thơ với một tâm hồn "rất bạn" của thi sĩ Xuân Diệu? (Xuân Tâm, Tràng An, 21-5-1939, số 405).
Trên Tràng An số 494 (15-3-1940) H.X.T. khen nữ thi sĩ Thu Hồng, tác giả Sóng Thơ:
"Tôi xin thú thật rằng đối với những tập thơ mới xuất bản của nhiều thi sĩ thanh niên ta ngày nay, ngoài một vài người tôi đã quen làm bạn, như ông Thế Lữ, ông Lưu Trọng Lư, ông Xuân Diệu, ông Huy Thông, ông Thái Can, ông Huy Cận v.v...tôi thấy tôi lo sợ mỗi khi tôi cầm một tập thơ mà xem. Lo sợ mà lại thấy lạnh lùng nữa. Không phải là tôi thờ ơ với thi ca mới cũng không phải là tôi yên trí rằng nhiều thi sĩ thanh niên ngày nay không có biệt tài trong sự làm thơ.
"Có lẽ vì tôi dành để quá nhiều thì giờ để xem các thi ca xưa. Có lẽ là vì tôi thấy thi ca trong văn chương chúng ta hiện đương trải qua một thời kỳ phân vân, về đường thể cách cũng như về đường lý tưởng, làm cho độc giả chẳng biết lấy đâu mà căn cứ để suy nghĩ, để so sánh, chẳng biết lấy thái độ nào mà thấu hiểu và cảm động theo cái thâm tứ của mỗi thi sĩ trong mỗi bài thơ.
"Đối với quyển Sóng Thơ mới ra đời, trước hết tôi cũng lạnh lùng như vậy. Tôi cầm tập thơ nhỏ xinh kia, lật những trang giấy nhanh chóng, rồi tự nói: Lại một tập thơ mới. Lại thi sĩ nữa ra đời. Mà là một nữ thi sĩ, ở Đế Đô, một người trong Hoàng phái...Rồi tôi xem qua cũng nhanh chóng như thế thấy câu hay, câu không hay; nhưng không để ý lắm. Chẳng khác lúc đi qua một vườn hoa của người xa lạ nhìn vào để ngắm cảnh rồi thản nhiên trong giây lát đã bước qua vườn hoa ấy, và đôi mắt đã đưa nhìn khúc đường xa lạ khác.
"Vậy là tôi đã xa lìa tập Sóng Thơnhư tôi đã xa lìa nhiều tập thơ mới khác. Có lẽ tôi không nghĩ đến nữa, nếu một sự tình cờ không xui giục tôi quay lại vườn hoa cũ, quay lại với Sóng Thơ của nữ thi sĩ Thu Hồng.
"Một buổi hội họp tại nhà một ông bạn, tôi đã được gặp nữ thi sĩ Thu Hồng, một thiếu nữ trẻ tuổi, và nói chuyện rất tự nhiên và vui vẻ. Lẽ tự nhiên là nói chuyện "thơ". Rồi trong câu chuyện, nữ sĩ Thu Hồng đọc cho chúng tôi nghe một đoạn của một bài thơ nàng mới làm và chưa in trong tập Sóng Thơ mới ra đời.
...Vì hiểu lầm nên mới mong đừng nên hiểu;
Mong chán nản chớ len vào niên thiếu,
Chờ len vào sớm quá tội em mà,
Em nghe như thời ấy vẫn còn xa.
Em chầm chậm để mong còn xa mãi,
Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái,
Hoa nồng hương, mà trái có khi chua...
"Đoạn thơ được nghe đó, cùng nhiều câu thơ khác, của nữ sĩ Thu Hồng đọc ra hôm ấy, tôi thấy có ý vị, và có một sự giản dị hoà với một âm điệu dịu dàng. Vì cái cảm tưởng hôm ấy nên tôi mới đọc lại tập Sóng Thơbà Đạm Phương nữ sĩ có viết một câu phê bình rất ngắn, nhưng rất đúng: Ngòi bút của Thu Hồng tuy chưa sành nghề cho lắm, nhưng có vẻ tự nhiên tao nhã. Tôi xin thêm rằng: có vẻ giản dị và êm đềm tỏ ra một tâm hồn giầu cảm tình, hay thổn thức với cảnh đẹp của tạo hoá, yêu văn chương, không hề oán hận, không hề than van. Vì vậy thơ cô không phải là tiếng kêu gào của những tấm lòng bị đau thương, không phải lời oán trách của những người ê chề, chán nản. Chỉ như là những làn "sóng" dịp dàng uốn mình dưới một ngọn gió nồm thanh thanh mà mát mẻ; chỉ như những tiếng động rì rào trong lá.
Gió qua, lá động rì rào,
Khuya trăng chi chít muôn sao dệt trời.
"Không phải là cô không có lúc lo sợ hay buồn bã. Nhưng sự lo sợ hay buồn bã của cô không bao giờ khốc liệt, có rồi rào cũng vẫn êm đềm mà thôi.
Buồn ngày xưa em buồn thêm một chút...
Hoặc là:
Vì đâu thoi thóp với canh tàn?
Rời rạc kia mây cũng muốn tan!
Tan tác lòng em bao mộng đẹp,
Cái tình vô hạn, khéo đa mang!
"Sự tan tác không phải tấm lòng của cô; chỉ là bao mộng đẹp mà thôi. Khối tình cô khéo đa mang, chỉ là "Cái tình vô hạn", một mối tình mênh mông bát ngát, nó không chung đúc vào một người, một vật nào, có thể làm đau đớn gắt gao được.
Vì vậy cho nên một tấm yêu,
Lui không nẻo bước, tới cam liều
Khi yêu nào nghĩ xa xôi nữa,
Mà khổ tình thêm cũng rất nhiều!
"Đối với ái tình, xem bốn câu thơ nầy, chúng ta thấy nữ sĩ Thu Hồng, vẫn dùng lời êm dịu mà phân giải, mà nghị luận. Chúng ta có thể nói rằng "thi cảm" của cô không phải là của người mê say; nó còn ở trong vòng khuôn của lý trí nhiều hơn của tình cảm.
"Sự giản dị, một sự giản dị mà chúng ta có thể gọi là tầm thường, cái "nên thơ" trong mỗi ý nghĩ hằng ngày trong mỗi câu nói đầu lưỡi, trong mỗi cử chỉ xung quanh ta, trong mỗi tư tưởng thông thường, ấy là chốn nữ sĩ Thu Hồng đã khéo đi lượm những vần thơ, đi hái cho ta những cành hoa thơm đẹp.
"Đó là các đặc điểm, tôi sơ lược theo ý kiến riêng của tôi viết ra sau khi đọc xong tập Sóng Thơ của nữ sĩ Tôn nữ Thu Hồng. Tập thơ in đẹp, có tựa của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa sĩ Mộng Hoa.
"Chúng tôi xin giới thiệu quyển Sóng Thơ với độc giả (H.X.T., Tràng An, 15-3-1940, số 494).
Trên mặt báo Ngày Nay, từ năm 1938 trở đi, Xuân Diệu và Thế Lữ phê bình thơ rất nhiều. Cũng như báo Tràng An, báo Ngày Nay hình như cũng đã xóa bỏ chữ cũ mới trong khi nói đến thơ. Đặc biệt là Thế Lữ trong mục "Tin Thơ" đã chỉ phê bình thơ như là thơ, bởi vậy, rất nhiều bài thơ cũ được ca ngợi và bài thơ mới bị công kích, cũng như vô vàn bài thơ mới được khen lao và bài thơ cũ bị chê bai.
Cuộc tranh luận thơ mới thơ cũ như vậy là đã đi hẳn vào lịch sử. Qua cuộc tranh luận kéo dài có hằng mười năm, chẳng những làng thơ mới hăng say thảo luận mà ngay đến làng thơ cũ cũng bỏ cái thói quen dè dặt, thẳng thắn bày tỏ và bênh vực lập trường. Chẳng những thi ca mà cả nền văn học Việt Nam, nhờ vậy, đã tiến rất mạnh mẽ.
Thanh Lãng
Theo http://chimviet.free.fr/








  Gió mùa – Tạp bút Phương Uyên 25 Tháng Mười Một, 2023 Một mình lang thang chiều cuối thu. Cơn gió đầu mùa đã về mang theo những không ...