Viếng tháp Chăm trong tầm tay
Ôi Chăm Pa ngàn năm còn di hận.
Mảnh lụa đào phảng phất gái Chăm Pa.
Rầm rập phương nam một dải sơn hà.
Nhớ những lúc phất cờ Chiêm bắc tiến
Vân Trang (Nỗi buồn Chăm Pa)
Mảnh lụa đào phảng phất gái Chăm Pa.
Rầm rập phương nam một dải sơn hà.
Nhớ những lúc phất cờ Chiêm bắc tiến
Vân Trang (Nỗi buồn Chăm Pa)
Sau những buổi đi học lớp nghệ thuật Chăm Pa do hội
AFAO tổ chức ở Viện bảo tàng Á Đông Guimet tại Paris, vợ chồng chúng tôi quyết
định đi xem tận nơi những ngôi tháp Chăm ở Việt Nam thường được xem là có tiếng
nhất trong số những di tích độc đáo ở Đông Nam Á như Borobodur ở Nam Dương,
Pagan ở Miến Điện hay Angkor ở Cao Mên. Thế là trong hai năm liền (1998-99),
mỗi lần về nước là chúng tôi thuê xe đi từ Sài Gòn ra Đà Nẵng, ghé lại viếng
thăm những ngôi tháp nằm dọc bờ biển hay xích vào trong một chút trừ những di tích
trên Tây Nguyên hơi trái ngã đường. Thường xe chạy đến chân mỗi tháp, trừ vài
cái thì phải leo đồi như Po Romê, Po Klaung Garai, vượt đồng án như Bình Lâm.
Riêng Po Dam thì phải cuốc bộ dọc đường rầy, cẩn thận nhảy xuống cạnh bên trong
bụi rậm khi có tàu chạy ngang và nghe trước nhìn sau tránh qua cầu vào lúc tàu
gần đến. Sau mấy tiếng đồng hồ lặn lội dưới ánh nắng gắt gao tháng tám, nuớc
dừa mấy trái được dân làng hái xuống cho uống thật là ngon ngọt, mát dịu, xóa
bỏ mọi nhọc nhằn...
Tháp Chăm nằm rải rác khắp miền Trung, từ
Đèo Ngang vào đến Đèo Cả, được lần lượt xây dựng từ trước thế kỷ VIII rồi tiếp
tục trong luôn mười thế kỷ sau. Chỗ chọn xây thay đổi từ nơi: trên đồi như Po
Klaung Garai, Thốc Lốc, Po Dam, Po Romê; trên đồi gần cửa biển như Po
Nagar, Phú Hài; trên đồi ven sông như Bánh Ít - Tháp Bạc, Tháp Nhạn; ngay
giữa đồng bằng gần sông như Bằng An, Thủ Thiện, Khương Mỹ, Bình Lâm; hay trong
thung lũng dưới chân một ngọn núi - thường đuợc gọi "Núi thiêng" -,
quanh một con sông nhỏ như tổng thể Mỹ Sơn.... Những nhà khảo cứu tin trước kia
những đền tháp đều được dựng bằng gỗ, đến thế kỷ VIII mới xây bằng gạch nhưng
chỉ các điện thờ còn nhà trú thì vẫn còn bằng gỗ. Vật liệu nầy không chịu đựng
được sức tàn phá của thời tiết, chiến tranh nên nay không còn tồn tại. Độc đáo
của nghệ thuật Chăm là chế tạo một thứ gạch nung nhẹ lửa (khoảng 850°), không
cứng để có thể chạm trổ hoa văn nhưng lại vô cùng bền chắt. Họ ít dùng sa thạch
là vật liệu khan hiếm chỉ để trang trí ở các lanh tô, tym pan, khung cửa, trụ
cửa, chóp tháp, đỉnh tháp,... Để kết dính các viên gạch, họ không dùng thạch
cao, xi măng mà có sáng kiến dùng một loại hồ nhựa cây, có thể là dầu
nước Dipterocarpus alatus Roxb. còn gọi dầu rái là một cây mọc
nhiều ở miền Trung, rẻ tiền, thường dùng để trát ghe thuyền chống nước, trộn
với gạch vụn hay đất sét, khi khô trùng hợp trở nên rất cứng. Nhiều thế kỷ sau,
không còn dấu vết nhựa cây, chất kết dính nầy là một vấn đề nan giải cho các
nhà khảo cổ, một bài toán bận đầu cho các nhà khảo cứu. Khi tường dựng xong,
hoa văn đã chạm trổ, dầu trong suốt còn được phết lên một lớp trên gạch bên
ngoài. Phối hợp gạch nung nhựa cây nầy đã bảo vệ được vách tường mọi sức ăn
mòn, tác động của mưa nắng gió sương nhiều trăm năm sau.
Ở chốn thánh đô, kinh kỳ, đền tháp thường
đuợc xây dựng để thờ phụng tổ tiên, Phật-vua, chư thần hay vương quyền.
Những đền tháp Chăm không to lớn như những di tích khác ở Đông Nam Á nhưng
nhờ không đồ sộ, chúng có một tính chất duyên dáng như một vật trang sức hơn là
một thành trì kiên cố. Kiến trúc chịu ảnh hưởng nghệ thuật Ấn Độ, quần thể gồm
có phần chính là một ngôi đền kalan một cửa tượng trưng cho
ngọn núi Meru, trung tâm vũ trụ, bao quanh là những đền thờ nhỏ bimong hai
cửa, danaok (miếu nhỏ) các thiên thể, những bờ tường thấp, các
đại dương. Thường các kalan, nơi trú ngụ của thần linh, hướng về
phía đông, phía mặt trời mọc, có khi về phía tây như ở Mỹ Sơn, vì địa thế riêng
biệt, hay phía nam như ở Po Dam trên sườn núi. Bên trong kalan chứa
đựng trên chánh điện gharbarha hoặc bộ linh vật yoni-linga,
hoặc tượng hình một vị thần Ấn Độ, Phật giáo hay một ông vua Cham Pa. Dưới
chánh điện có một hầm vuông để rút nước thánh tẩy hay một lỗ soma-sutra thoát
nước thánh ra ngoài. Quanh chánh điện một lối hẹp để tín đồ đi vòng theo chiều
kim đồng hồ khi hành lễpradakshina-patha. Ở chánh điện nhiều kalan như
ở Po Klaung Garai, Po Romê, Po Nagar, còn tồn tại một cánh cửa bằng gỗ quý che
kín bên trong luôn bao trùm một màn bóng tối, thành tường lởm chởm như một hang
động. Chánh điện thông với bên ngoài qua một tiền điện hẹp, dài, u tối, có thần
Nandi canh giữ như ở các kalan Po Klaung Garai, Po Romê. Trước
cửa tiền điện, hai trụ bằng sa thạch hình tứ giác, bát giác hay tròn chạm trổ
hoa văn, có khi ghi khắc văn bia như ở Po Nagar, Po Klaung Garai. Trên hai trụ
có lanh tô cũng chạm trổ hoa văn, ngay dưới một tympan thể hiện hình tượng vị
thần được thờ, thường là Shiva múa điệu vũ trụ tandawa trong
khung đá ganuer mantri. Những phần nầy lúc trước được sơn đỏ
nay chỉ còn thấy chút ít ở Mỹ Sơn. Trước bậc cấp bằng đá vào cửa, một phiến đá
mỏng có chạm trổ những cánh sen.
Kalan hình vuông, có mái
tháp hình chóp ba tầng, đỉnh nhọn bằng sa thạch, được chia làm ba phần tượng
trưng cho thiên giới (đế tháp), thế giới tâm linh (thân tháp), thế giới thần
linh (mái tháp). Đế tháp chạm trổ hình tượng hoa lá, động vật như voi, sư
tử, kala-makara, vũ nữ, nhạc công, những hoạt cảnh thiên
giới. Thân tháp có bốn cột trụ tường pilastre đứng hai bên một
cái cửa giả lớn trang trí tinh vi, mang ở giữa hình tượng vị thần hộ trì lokapala ngôi
tháp, hai tay chắp ngực, cầm đóa hoa sen. Trên các cửa giả nhỏ có ba tấm tym
pan thường thể hiện hình tượng Laksmi, vợ thần Vishnu. Các cột trụ tường vượt
quá đế tháp xuống đến chân tháp cũng như coc nich tiếp giáp mái tháp đều chạm
trổ hoa lá. Ở góc coc nich thể hiện hình tượng thiên nữ apsara,
thủy quái makara hoặc ngọn lửa thiêng liêng. Mái tháp ba tầng,
càng lên cao càng thu hẹp như một ngọn núi, trang trí ngẫu tượng và vật cưỡi
của các vị thần Ấn Độ: chim thần Garuda, ngỗng thần Hamsa, bò thần Nandi, voi,
sư tử,...Tầng thứ ba là chóp tháp amalaka, gồm có một phiến đá hình
tứ giác, bát giác hay tròn chạm trổ mặt nạ thần Thời gian Kala, rắn thần Naga,
bò thần Nandi hoặc tám vị thần hộ trì tám phương Astadikpalakas. Trên cao chóp
tháp là đỉnh tháp, phần dưới trang trí những cánh sen, phần trên là khối đá
nhọn bốn cạnh, tượng trưng núi thiêng Kailasa, nơi ngự trị thần Shiva.
Nhóm Po Klaung Garai
Trái: tòa nam,mặt cắt
dọc và mặt hướng bắc.
Giữa mặt cắt ngang và đầu hồi đông
Mặt,trên: tháp vào và
cửa phòng, mặt bên phía đông;
dưới: kalan, mặt chính đông
Mỗi đền tháp gồm có lúc đầu một kalan ở
trung tâm, đối diện với một tháp cổng gopura có hai cửa hướng
đông-tây. Trước tháp cổng là một nhà dài mái ngói mandapa có
nhiều cửa sổ, hai cửa chính hướng đông-tây, nơi chuẩn bị lễ vật, múa hát cũng
là nơi cầu nguyện, tĩnh tâm trước làm lễ thánh tẩy trong kalan. Bên
mặt tháp này là kho lễ vật kosagrha bằng gạch, mái cong hình
thuyền, cửa chính luôn hướng bắc, tượng trưng kho báu và sự trù phú cho vương
quốc. Kho lễ vật, người địa phương gọi "Tháp lửa", còn là nơi nấu
nướng thức ăn dâng cúng chư thần. Ngoại trừ những nhóm riêng biệt Po Klaung
Garai, Po Romê, Tháp Bạc, Cánh Tiên hay những quần thể lớn Pô Nagar, Mỹ Sơn, có
những nhóm gồm có ba kalan xây sát nhau như Hòa Lai, Khương
Mỹ, Chiên Đàn, Dương Long, hay hai kalan như Hưng Thạnh. Hai,
ba tháp những nhóm này thường được xây dựng trên những gò đất thấp, không đồng
thời, trừ hai nhóm Hưng Thạnh (cuối thế kỷ XII) và Dương Long (giữa hai thế kỷ
XII và XIII), nhưng kéo dài nhiều thập kỷ: nhóm Hòa Lai giữa hai thế kỷ VIII
và IX, nhóm Khương Mỹ trong thế kỷ X, nhóm Chiên Đàn giữa hai thế kỷ XI và XII.
Lúc đầu, những ngôi đền nhỏ, phụ, được xây cạnh kalan lớn, dần
dần mới trở thành nhóm hai hay ba kalan. Chương trình cách thức xây
dựng này do ảnh hưởng nghệ thuật Khơ me giải thích vì sao ba ngôi tháp thường
không có kích thước giống nhau, đằng khác ngôi giữa không nhất thiết phải lớn
hơn hai ngôi kế cạnh.
Đền tháp Chăm Pa được khám phá từ những
năm cuối thập niên 1880. Những người nói đến đầu tiên, tuy không chuyên gia
nhưng sáng suốt, như Camille Paris, Charles Lemire, nhận ra một nền văn minh
gần như xa lạ. Đồng thời, ở Paris, Auguste Barth và Abel Bergaigne thành công
đọc được những văn khắc tiếng Phạn, khai trương cho ngành khảo cứu Cham Pa cổ.
Đầu thế kỷ 20, cho đến 1913, có đến 82 bản báo cáo bàn luận nền văn hóa Ấn giáo
trên đất Việt Nam nên từ 1904, Louis Finot và Henri Parmentier đã đưa ra bản kê
khai đầu tiên nghệ thuật Chăm Pa theo triều đại trong lịch Phật giáo: 1- Sambhuvarman (thế
kỷ V-VI), 2- Vikrantavarman I (thế kỷ VI-IX), 3- Harivarman
III (cuối thế kỷ X - đầu thế kỷ XI) và 4- Jaya Harivarman I (cuối
thế kỷ IX-đầu thế kỷ XII). Năm 1918, Henri Parmentier đề nghị chia hai thời kỳ
theo niên đại: I- Thời kỳ sơ đẳng (1- nghệ thuật nguyên
thủy, Mỹ Sơn A1, thế kỷ VII-X; 2- nghệ thuật lập thể, Hòa Lai,
thế kỷ VII-IX; 3- nghệ thuật hỗn hợp, Đồng Dương, thế kỷ X);
II- Thời kỳ trung đẳng (1- nghệ thuật cổ điển,
Tháp Bạc, thế kỷ XI; 2- nghệ thuật chuyển đạo, Po Klaung Garai,
thế kỷ XII-XIII; 3- nghệ thuật hình tháp, Po Nagar, thế kỷ X-XIV).
Bắt đầu từ đây, một số khám phá quan trọng buộc các nhà khảo cổ xem lại các
bảng kê khai kia: Jean-Yves Claeys ở Trà Kiệu (1927-1928), Tháp Mắm (1934),
khai quật ở Chánh Lộ (1938), trùng tu Louis Bezacier ở Mỹ Sơn (1938). Năm 1934,
Gilberte de Coral Rémusat, đề nghị trong danh mục viện Bảo tàng Guimet năm
phong cách: 1- phong cách Trà Kiệu (thế kỷ VII-VIII), 2- phong
cách Đồng Dương ((thế kỷ VIII-IX), 3- phong cách cổ
điển, 4- phong cách Bình Định (sau thế kỷ X), 5- phong
cách muộn. Năm 1938, Philippe Stern đặt cách chỉ định phong cách một tháp
theo trang trí trong tháp có cùng đặc tính với một đền đài đã được xác định.
Sau khi kiểm điểm tại chỗ những đền đài khmer cũng như Chăm, ông xếp mỹ thuật
Chăm thành bảy phong cách: Phong cách xưa (Mỹ Sơn E1, F1) và
phong cách chuyển tiếp; 2- Phong cách Hòa lai (Hòa
Lai, Po dam, Mỹ Sơn F3, A7) và phong cách chuyển tiếp; 3-
Phong cách Đồng Dương; 4- Phong cách Mỹ Sơn A;
5- Phong cách chuyển tiếp (Bình Lâm, Mỹ Sơn A4, Chiên Đàng,
tháp tây-bắc Po Nagar, Tháp Bạ, có thể Tháp Nhạn); 6- Phong cách Bình Định (Hưng
Thạnh, Tháp Ngà, Dương Long, ..); 7- Phong cách muộn (Po Klaung
Garai, Po Romê, Yang Mum, Yang Prong). Bắt đầu từ 1956, Jean Boisselier thêm
chi tiết vào bản kê khai của Philippe Stern: 1- Phong cách Mỹ Sơn A1 (#
629-757);
Chạm khắc miền nam, đồ đồng thanh Hòa Lai (# 758-859); 3- Phong cách Đồng Dương (# 875-915); 4- Phần đầu phong cách Mỹ Sơn A1 (thế kỷ 10): phong cách Khương Mỹ; 5- Phần nhì phong cách Mỹ Sơn A1: phong cách Trà Kiệu; 6- Phần tiếp phong cách Mỹ Sơn A1: phong cách Chánh Lộ; 7- Phong cách Tháp Mắm (cuối thế kỷ 10); 8- Tượng hình 1220-1307: phong cách Thắp Mắm kéo dài; 9- Phong cách Yang Mum, phong cách Po Romê (sau 1471, khi thành Vijaya bị chiếm).
Chạm khắc miền nam, đồ đồng thanh Hòa Lai (# 758-859); 3- Phong cách Đồng Dương (# 875-915); 4- Phần đầu phong cách Mỹ Sơn A1 (thế kỷ 10): phong cách Khương Mỹ; 5- Phần nhì phong cách Mỹ Sơn A1: phong cách Trà Kiệu; 6- Phần tiếp phong cách Mỹ Sơn A1: phong cách Chánh Lộ; 7- Phong cách Tháp Mắm (cuối thế kỷ 10); 8- Tượng hình 1220-1307: phong cách Thắp Mắm kéo dài; 9- Phong cách Yang Mum, phong cách Po Romê (sau 1471, khi thành Vijaya bị chiếm).
Sau đây xin trình bày thành 4 phần những
nhóm tháp chúng tôi đã viếng theo thứ tự niên đại, phỏng theo cắch xếp đặt của
Philippe Stern, thiếu những đền đài thuộc các phong cách Mỹ Sơn A, E, Đồng
Dương, Trà Kiệu, Chánh Lộ, Tháp Mắm, Yang Mum.
- Phú Hài, Po Dam, Hòa Lai: phong cách Hòa
Lai (thế kỷ VIII-IX)
- Khương Mỹ: phong cách Mỹ Sơn A (đầu thế
kỷ X)
- Bằng An, Po Nagar, Chiên Đàn, Bánh Ít,
Bình Lâm, Thủ Thiện: phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn - Bình Định (thế kỷ XI-XII)
- Tháp Nhạn, Hưng Thạnh, Cánh Tiên, Dương
Long, Phú Lốc: phong cách Bình Định (thế kỷ XII-XIV)
- Po Klaung Garai, Po Romé: phong cách
muộn (thế kỷ XIV-XVI)
- Thánh địa Mỹ Sơn: nhiều
phong cách (thế kỷ VIII-XIV).
Võ Quang Yến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét