Thứ Sáu, 15 tháng 9, 2017

Chiếc nón quai thao Kinh Bắc

Chiếc nón quai thao Kinh Bắc
Nhớ đêm giã bạn 
(Dương Lan Hương, Lê Mận)
Hội đã tan rồi, chia tay bên dòng sông
Chiếc nón quai thao xôn xao câu quan họ
Đến hẹn lại lên người ơi đừng quên nhé
Con đò bồng bềnh nhớ nhau em gọi câu: 
Mình ơi!

Nguyễn Tiến
Mời nghe: Nhớ đêm giã bạn 
sáng tác: Nguyễn Tiến 
biểu diễn: Lê Mận.


2006
Trong đĩa nhạc Nhớ đêm giã bạn của nhạc sĩ Nguyễn Tiến do ca sĩ Lê Mận biểu diễn, màn đầu chia tay là hai hàng liền anh liền chị đứng trước nhau, các anh nắm ô đen, các cô mang chiếc nón quai thao, một hình ảnh tuy giản dị lại gợi biết bao nỗi buồn lúc phân ly. Đối với một người bôn ba lâu ngày bên phương trời Tây như tôi, quen sống với những cảnh chia rời sống động, tay vẩy, mắt nhòe, tuy cũng cảm động không kém nhưng như thiếu một cái gì thiết tha trong lòng. Trong ký ức tôi luôn còn lưu luyến ấn tượng cái ô (tức là cái dù miền Trung quê tôi), cái nón quai thao mà trước khi xa xứ tôi chưa bao giờ được thấy. Thật vậy, nếu biểu tượng xứ Huế là chiếc nón bài thơ cùng với tà áo dài tha thướt tạo nên nét đẹp duyên dáng cho cô gái đất Thần kinh, cái nón quai thao đi đôi với chiếc áo tứ thân và cái khăn mỏ quạ chỉ có ở miền Bắc mà không phải ở vùng nào, ngày nào phụ nữ cũng mang. Và ngày nay ít còn thấy, nếu không là nơi có lễ lạt. Tôi may mắn được ngắm y phục này ở Hội Lim Bắc Ninh đầu xuân một năm trước và ở Paris trong những buổi biểu diễn của các đoàn truyền thống Việt Nam mời qua.
 2012
Nón quai thao (còn gọi nón ba tầm, nón dẹt, nón thúng, nón chủng, nón Nghệ,...) và áo tứ thân (còn gọi áo mớ ba mớ bảy) là hai bộ phận quan trọng nhất trong di sản văn hóa y phục quan họ Kinh Bắc. Nếu chiếc áo tứ thân nửa kín nửa hở làm xao xuyến đấng nam nhi, nón quai thao sang, đẹp được xem như mang nặng câu hát trữ tình. "Ai làm chiếc nón quai thao, Để anh thương nhớ ra vào không nguôi". Không biết nón quai thao ra đời lúc nào, ai là người sáng tạo. Tương truyền nón xuất hiện ở Hải Dương vào đời Trần (thế kỷ XVIII) sáng tạo cho cung nữ gọi là nón thượng. Qua đời Lê, nón được thêm quai thao. Dân gian tin là có viên quan trong triều, ông Vũ Đức Úy, trong khi được cử làm phó sứ sang Trung Quốc, bỏ công học nghề thủ công, dệt thao rồi về nước truyền nghề: nghề dệt, nghề dùng sợi tơ làm dây đàn, quai thao cho nón,...Ông được vua phong làm Cục trưởng Cục Thao. Dân làng nhớ ơn ông, trước thờ ông tại Đình Lớn cùng với vị Thành hoàng, sau xây Đền thờ Tổ ba gian trông ra hồ nước, cạnh chùa Hương Vân. Trên cánh đồng Miễu, có ngôi mộ ông, bằng gạch với hai hàng chữ: "Vũ Sứ thần chi mộ" và "Tổ thụ hoàng ân", trước có tấm bia thời Cảnh Hưng thứ VI (1765) kể sự tích vị Tổ. Trong chùa có tượng Vũ Sứ thần to như người thật và câu đối:
Lục nghệ thần thông, tứ dân hoài đức;
Song tinh nội chiếu, ngũ phúc kiêm toàn.

(Sáu nghề tinh thông, muôn dân nhờ đức;
Hai sao chiếu sáng, năm phúc vẹn toàn).

                      2011
Nón quai thao giống như một bánh xe lớn cở 70-80cm, lợp lá gồi hoặc lá cọ. Lá nầy cần phải chọn lựa kỹ càng: lá mỏng, sống nhỏ, không già vì màu vàng đậm, không đẹp, chỉ dùng để làm nón làm việc, không non vì chưa bền bĩ và lại màu vàng nhạt cũng không hợp, được dùng trong nón bài thơ ở Huế. Quanh nón là thành nón cao khoảng 10-12cm. Thành nón giúp che khuôn mặt người đội tuy vẫn giữ thoáng, mát. Giữa nón là khua nón, một vành tròn cao khoảng 8cm, ráp đúng vào đầu để đội cho chắc. Tuy nhỏ, khua nón đòi hỏi nhiều công phu để làm. Phải chuốt bóng sợi tre nhỏ trước khi lấy chỉ móc trắng và săn như dây cước may kỹ lại với nhau. Khua cần phải cứng để chịu đựng được nón nặng. Mặt trong nón được lợp giấy vàng hay bạc, ghép lại thành hình hoa lá, chim bướm, trang hoàng chiếc nón, gọi là hoa nón. Những cô cẩn thận sắm thêm một bộ "chiên, thẻ": chiên là miếng bạc vuông, trong đó có vòng tròn, chạm hai rồng chầu mặt nguyệt. Hai chiếc thẻ cũng bằng bạc, to như quân bài tam cúc, chạm hoa lá, ở giữa có cái vòng để buộc quai thao. Cắm hai cái thẻ vào bên trong nón rồi đặt cái chiên vào đáy khua. Cũng có thể đính vào gương soi lắm khi cần thiết. Tôi không biết mấy cô ngoài Bắc có chui một lỗ nhỏ như mấy o người Huế không để dù e lệ núp sau chiếc nón vẫn còn tò mò nhìn được mấy chàng trai tiếp tục chòng ghẹo. Thường ba loại nón được phân biệt: vành rộng, sườn cao hơn hết là nón ba tầm còn gọi nón Mười là nón lớn hơn nón Nhỡ hay nón Ngang và còn lớn hơn nữa nón Đấu. Mặc dù làng Chuồng (xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, Hà Nội hiện nay) có tiếng làm nón, khua nón khó làm nên vẫn có làng chuyên làm khua:
Nón này chính ở làng Chuồng.
Làng Già lợp nón, Khương Thường bán khua
Hà Nội thì kết quai tua
Có hai con bướm đậu vừa chung quanh.

2012
Trong nón quai thao, nếu chiếc nón là quan trọng, quai thao cũng không kém phần cần thiết vì về mặt vật chất nó giữ thăng bằng, vững chắc, bên phía thẩm mỹ nó làm tăng nét duyên dáng, dịu dàng. "Chưa chồng nón thúng quai thaoChồng rồi, nón rách, quai nào thì quai". Ðể quai thao có vẻ mềm mại, người làm đi mua những sợi tơ sần có cục gọi là mốt cục đem về nhuộm màu hay để nguyên: các cô gái thích dùng quai màu trắng ngà là màu gốc tơ tằm, các bà già cũng như những phụ nữ có gia đình thường dùng màu đen. Bện hai hay ba sợi dài 1,5-2m lại với nhau thì thành quai kép, giống như tim đèn, ngoài bọc tơ dệt, thả lỏng đến thắt lưng Nhiều đoạn quai được thắt lại, tết nút vừa làm chắc quai vừa đẹp mắt Có khi hai trái cù (quả găng), to bằng ngón tay cái, được đan thắt công phu ở hai đầu quai thao. Quai rủ xuống bờ vai thành tua dài từ 20 - 25 cm và có chừng chục túm tua nho nhỏ, trông rất ngoạn mục. Khi đội nón, các bà các cô phải đi từ từ, tạo nên vẻ chậm rãi, dịu dàng, lấy tay giữ quai trước ngực để tránh nón đong đưa, đồng thời giữ vững nón nhất là khi có gió hay khi nghiêng nón che nắng. Thời trước, khi nón quai thao đang còn giữ vị trí quan trọng trong trang phục lễ hội, ở Hà Nội, những "cô ả" mười lăm mười sáu, cái tuổi bắt đầu làm duyên, thường đi mua quai thao ở chợ phiên hàng tơ Trìều Khúc, nôm na gọi làng Đơ Thao để phân biệt với các làng Đơ Ðông, Ðơ Bùi chuyên làm ruộng. Cũng còn được giải thích vì làng Triều Khúc, tổng Thanh Oai (nay là huyện Thanh Oai, Hà Nội) ở trên đường Hà Nội - Hà Đông, mà tên cũ của Hà Đông là Cầu Đơ nên có câu "Nón Chuồng, khua lụa, quai thao làng Đơ"
Làng tôi công nghệ đâu bằng
Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân
Quai thao dệt khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần truyền cho.

2014
Tuy nổi tiếng là nghề làm nón, sau những năm chinh chiến, cho đến những năm 80, 90, những nghệ nhân già nhất trong làng mất hết, từ đó chẳng ai còn biết cách làm nón quai thao nữa. Ông Phạm Trần Canh là một người trở về làng tiếp tục nghề làm nón kiếm kế sinh nhai và nuôi sống gia đình. Vào những năm 90, một đoàn văn công về làng đặt làm những nón quai thao truyền thống. Không biết làm nón, không biết hỏi ai, nặng lòng với nghề, ông Canh quyết tâm đi tìm ờ vùng quê, rong ruổi lặn lội từ Nam Định đến Thái Bình. May mắn đã lại với ông vì ông mua được một cái nón quai thao cũ, đem về tháo ra, xem xét cách xếp nan tre, cách sắp đặt lá cọ,...Nhờ kinh nghiệm làm nón, nhờ lời động viên của bà vợ hiền, sau một thời gian kiên trì, ông mày mò làm lại được chiếc nón quai thao. Ngoài bát tuần, vẫn còn minh mẩn, tự mình xỏ kim không cần kính lão, ông được mệnh danh "người làm hồi sinh nón cổ", Ông không tự mãn mà còn bỏ công sưu tầm các kiều nón cổ khác. Ngày nay ông là chủ nhân 11 kiểu nón quai thao cổ, kể cả những mẫu người Tày, mẫu người Thái,...kích cỡ khác nhau: 22, 55, 66cm,...Làm nón quai thao nhiều đoạn: từ chạy kiếm mua chọn lựa lá cọ, ... cho đến khâu trang trí, chỉnh sửa, hun diêm sinh cho trắng, bền...biết bao công phu. Năm người con đều không theo nghề cha, ông Canh sợ ngành nón lại thất truyền. Ông mở lớp dạy làm nón miễn phí cho người dân quanh vùng, đến nay có cả trăm người theo học. Cùng với một ông bạn, ông quyết tâm phát huy rộng rãi hình ảnh nón quai thao, tham gia nhiều hội chợ triển lãm với những mẫu nón độc đáo. Năm 2001, ông tự tay đan hai chiếc nón khổng lồ 2m cho khách sạn Liên Hoa đem triển lãm "Hàng thủ công mỹ nghệ" tại Cộng hòa Séc và Đức. Mong muốn được quốc tế chú ý, ông Canh đã thỏa nguyện đưa văn hóa làng Chuồng ra năm châu. Tài năng của ông được công nhận năm 2007 qua bằng "Nghệ nhân làng nghề Hà Tây". Người ta bảo trong số các nón quai thao xuất khẩu từ 4000 hộ làm nón làng Chuồng ngày nay, không có cái nào đẹp bằng nón ông Canh, không chỉ về mặt hình thức mà còn về phía tinh thần, chứa chan tâm tư, tình cảm.
2014
Nón quai thao ngày nay rất tiếc chỉ còn thấy trong những cuộc biểu diễn các đoàn truyền thống, từ đấy nghề làm nón quai thao, tuy được hồi sinh, sợ dần dần sẽ mai một vì các đoàn văn công không đặt làm nhiều, khách du lịch mua rất giới hạn. Tuy nhiên, cùng với áo tứ thân, trong văn hóa quan họ, nón quai thao luôn còn tồn tại trong ký ức, trong những bài thơ, trong các bài hát, trong tiềm thức của người Việt Nam.
Theo câu ca, anh tìm về sông Đuống
Mái đình cong, những thửa ruộng con con
Người Kinh Bắc hay cười, duyên đến lạ
Nón quai thao như tình nghĩa vẹn tròn.

Kinh Bắc đâu rồi? Mai Đức Nghĩa
(*) Ảnh chụp các đoàn chèo, múa truyền thống Việt Nam được mời qua Paris những năm 2006 (Nhà hát Châtelet), 2011 (Parc Floral), 2012, 2014 (Trụ sở UNESCO).
Chợ xưa miền Bắc 
Tranh sơn mài Đinh Hương (Khải Hoàn)
Tham khảo
Dáng duyên nón quai thao, nonlavietnam.com 11.05.2012
- Hồ Sĩ Anh, Ðộc đáo nghề nón làng Chuông, thanglong.chinhphu.vn 21.09.2012
- Ðông Tuyết, Về làng Chuông, gặp nghệ nhân bát thập làm nón quai thaoanninhthudo.vn 10.1.2013
- Hồ Lê Ngọc Ngà, Thuyết minh về chiếc nón,diendan.hocmai.vn.28-7-2013
Cả đời tâm cang với nghề cổ, baomoi.com 4/11/2013
- Phạm Thị Phương Thảo, Để câu Quan họ xanh dòng Tiêu Tương, can com 24.1.2014
- Hoàng Dung, Tìm lại nét đep nón cổ làng Chuồng, Nhân dân Ðiện tử 3.4.2014
- Nguyễn Hùng Long, Phạm Trần Canh, người hồi sinh nón quai thao, thanglong.gocom.vn 4.4.2014
- Nam Anh, Vũ Ðức Úy - Tổ nghề nón quai thao, Tổ chức kỷ lục Việt Nam 04.04.2014
- Hữu Giới, Chiếc nón quai thao, mevietnam.org.
Thành Xô mừng Tết Ất Mùi 2015
 Bài và ảnh (*) Võ Quang Yến
Theo http://chimvie3.free.fr/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cô nhỏ Trúc quan âm

Cô nhỏ Trúc quan âm Cách nhà tôi nửa cây số, về phía trái, là một trường tiểu học. Cách trường tiểu học này chừng trăm thước lại có trường...