Ông là người luôn cẩn trọng với nhiều thứ, kể cả với sự hiểu
biết của chính mình. Với tầm nhìn rộng, những bài báo của ông đóng góp không nhỏ
vào việc tìm hiểu tinh thần khoa học đích thực, kể cả việc phân tích nội tại của
khoa học từ những tìm tòi và chiêm nghiệm bản thân. Đặc biệt, trên trang Khoa học - giáo dục báo Sài Gòn Tiếp Thị gần đây, những bài viết ký tên ông đều đặn xuất
hiện để giúp đại bộ phận công chúng hiểu rõ hơn về những kiến thức tưởng như
“chuyện trên trời”.
Ông đã có một tuổi thơ ly tán, “du mục”... đến giờ, ông có
cho rằng chính cuộc sống ấy tạo ra những điều kiện căn bản đưa ông đến với chân
trời khoa học?
Tôi rất e ngại nhiều người hiểu một số chi tiết trong cuộc đời
tôi không hoàn toàn chính xác nên đã làm cho chúng có vẻ hơi bi tráng. Thực ra
cuộc đời tôi không có những va chạm hay đổ vỡ nào đáng kể, ngược lại hình như
còn gặp nhiều may mắn.
Tôi mồ côi mẹ sớm, bố tham gia Việt Minh đi Việt Bắc nên giao
con cho ông bà nội. Thuở nhỏ sống với ông bà nội, tôi được ông bà chăm sóc đầy
đủ. Những phiêu bạt thời chiến tranh chống Pháp là phổ biến với hầu hết đám trẻ
lứa tuổi của tôi. Có thể do sớm không có mẹ nên tôi sống hướng nội nhiều hơn,
nhưng cũng có thể tôi đã có bản tính trời sanh như vậy. Nhưng bù vào đó, bố tôi
đã cho tôi được hưởng một nền giáo dục khá căn bản. Từ việc “ép” học tiếng Pháp
(bố tôi xuất thân là dân Tây học), ông dạy tôi bằng cách kể chuyện bằng tiếng
Pháp cho tôi nghe. Sau vài lần kể cho tôi thuộc làu, sau đó ông chỉ kể một nửa,
nửa còn lại tôi kể bằng tiếng Pháp.
Ham đọc sách cũng có từ truyền thống gia đình vì ông nội tôi
vốn là nhà báo nên nhà của ông có tủ sách rất lớn. Năm 12 tuổi, tôi lên Hà Nội
học trường Chu Văn An. Năm 19 tuổi tôi được chọn đi học ở Nga nhờ lý lịch có bố
đi kháng chiến. Tôi đi Liên Xô học từ năm 20 tuổi, đến 30 tuổi thì về nước làm ở
phân viện Vật lý. Tại đây tôi chủ yếu nghiên cứu vật lý lý thuyết và cũng gần
gũi, đụng chạm với triết học.
Ông chuyên chú vào những công trình khoa học và kiếm sống bằng
nghề dịch sách trong những năm mới về nước còn khó khăn. Rồi sau khi về hưu,
ông luôn nói về sự giác ngộ khi bàn đến tinh thần khoa học. Đó có phải là lý do
ông dịch bộ sách của Jonh Stuart Mill (Bàn về tự do, Chính thể đại diện) và sắp
tới là Feynman?
Tôi được đi học vật lý lý thuyết tuy không phải do tự mình chọn
lựa, nhưng hoàn toàn phù hợp với mong ước. Thời kỳ học đại học, làm luận án tiến
sĩ ở đại học quốc gia Kiev (Ukraine) (1960 - 1968) và sau đó làm cộng tác viên
tại viện Vật lý lý thuyết Kiev (1969) là thời kỳ say mê học tập và làm việc,
nhìn cuộc đời toàn màu hồng. Bên cạnh việc học chuyên môn, tôi ham đọc sách
báo, quan tâm nhiều đến văn học Nga và thế giới, quan tâm theo dõi các diễn biến
thời sự.
Phải chăng nhiều hiện tượng bất an trong xã hội là do quá nhiều
người hăng hái muốn cải tạo thế giới ngoại tại, nhưng lại thiếu săn sóc tâm hồn
mình khiến nó bị bỏ hoang phế?
Năm 1970 tôi được về làm việc tại phòng Vật lý lý thuyết thuộc
viện Vật lý (lúc đó mới thành lập tại Hà Nội) với cảm giác hạnh phúc. Những năm
sau đó tuy không có sự cố gì ảnh hưởng đến cuộc sống và công việc, nhưng là một
quá trình dài trải nghiệm cuộc sống, suy tư về những trải nghiệm của mình và đối
chiếu với những lý tưởng thời đi học, băn khoăn với những câu hỏi cho chính
mình về ý nghĩa cuộc sống.
Những năm 80 của thế kỷ trước, cùng với một vài bạn bè trong
giới văn chương, tôi tham gia dịch sách báo nước ngoài để cải thiện cuộc sống,
đồng thời để được thỏa mãn nhu cầu đọc của mình. Vào cuối những năm 90 thế kỷ
trước, tôi tình cờ tiếp xúc với bộ sách Great Books Of The Western World của
Encyclopedia Britanica ở thư viện đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM. Tôi chọn dịch
On Liberty (Bàn về tự do) của J. S. Mill vì cảm thấy cuốn sách đã giải đáp tuyệt
với mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong khái niệm tự do - một trong những
băn khoăn nội tâm của mình. Sau đó tôi dịch tiếp Chính thể đại diện cũng của
J.S. Mill.
Những năm trước khi về hưu (2005), tôi thấy cần tìm hiểu đầy
đủ ý nghĩa của khoa học vì biết rằng đây là một vấn đề quan trọng cho đất nước.
Làm khoa học (thực hành nghiên cứu khoa học cụ thể) và tìm hiểu ý nghĩa của tri
thức khoa học là hai công việc khác nhau. Cuốn sách của Feynman Ý nghĩa mọi thứ
trên đời là ba bài giảng ngoại khóa cho sinh viên khiến tôi thích thú vì tài sư
phạm tuyệt vời của Feynman: nói về những vấn đề phức tạp (ý nghĩa của khoa học)
rất sâu sắc mà giản dị như không.
Từ góc độ một nhà khoa học Việt Nam, ông có thể lý giải tại
sao cho đến giờ “cộng đồng khoa học” ở nước ta vẫn là một cụm từ xa lạ? Sự cô
đơn thường thấy của một con người khoa học là gì, thưa ông?
Tôi lại thấy cái mà chúng ta thiếu là “giới khoa học” hay còn
gọi là “cộng đồng các nhà nghiên cứu khoa học” nếu so với lịch sử phát triển của
cộng đồng khoa học phương Tây. Nhưng có lẽ một phần do sai sót từ thế hệ chúng
tôi, đã không ý thức về chuyện này, cũng không ai dẫn dắt. Thế hệ của tôi cũng
muốn hiến dâng và say mê với khoa học, những câu hỏi đặt ra là: tại sao cũng có
nhiều người được gửi đi đào tạo ở các nước mà hiện nay cộng đồng khoa học của
chúng ta thực sự chưa mạnh, nếu không nói là có phần tan hoang? Tôi không tin
là xét về nhân chủng học thì người phương Tây là chủng tộc văn minh hơn. Mặt
khác, ai cũng hiểu cái quan trọng của khoa học chính là việc xây dựng một cộng
đồng khoa học để đảm bảo tiềm lực lâu dài. Chỉ có những con người có tính cách
đặc biệt, thực sự dấn thân mới đi theo con đường này.
Chúng ta đang rất nhầm lẫn trong việc trả lương bao nhiêu thì
mới làm khoa học được. Với tôi có ba đặc thù quan trọng của cộng đồng khoa học:
thứ nhất là tính bất vụ lợi, thứ hai là tính trung thực và thứ ba là biết lắng
nghe, phê phán. Tuy nhiên, chính cộng đồng khoa học thế giới cũng có những bài
học cay đắng với đạo đức khoa học mà họ theo đuổi. Trước thế chiến thứ hai, các
nhà khoa học xa lánh giới chính trị. Nhưng khi thế chiến thứ hai nổ ra, quá hãi
hùng trước chủ nghĩa phát xít, họ đồng ý cùng Chính phủ Mỹ tạo ra bom nguyên tử.
Và hậu quả của nó là nỗi đau đớn sâu xa cho đến giờ, nhắc lại vẫn thấy bị tổn
thương vì phản bội giá trị đạo đức mà chính giới khoa học xây dựng lên.
Ở nước mình, lịch sử rất khác. Sau chiến tranh, Nhà nước chủ
yếu đào tạo những người ra làm việc được ngay, vì thế phải tìm được phương pháp
giáo dục ngắn nhất. Điều này mâu thuẫn với việc giáo dục nền tảng. Bản thân
chúng tôi sinh ra trong một đất nước không có cái nôi khoa học. Vì vậy mà mãi đến
khi về hưu, mới tự đặt câu hỏi cho chính mình: “Khoa học là gì?”
Trong quá trình chiêm nghiệm cuộc sống, tôi tự nhận ra mình
đã từng hiểu sai nhiều điều. Những hiểu sai của tôi đã không gây ra một hậu quả
nghiêm trọng nào cho người khác vì tình cờ tôi chưa bao giờ có một chút quyền lực
nào khả dĩ gây hại cho người khác. Những hiểu sai ấy gây cho mình những băn
khoăn nội tâm và khiến mình phải tìm đọc những tác phẩm hay của nhân loại để tự
khai minh. Khi hiểu ra được một vấn đề gì quan trọng thì có một cảm giác hân
hoan trong lòng và có nhu cầu chia sẻ với bạn bè. Gặp bạn bè hợp chuyện để nói
ra những thú nhận mới, khiến mình thấy vừa thú vị vừa nâng cao sự hiểu biết qua
trao đổi. Phải thú nhận là không phải lúc nào cũng tìm được những bạn bè như vậy
nên nhiều lúc cũng thấy cô đơn.
Ngoài những bộ sách mang tính gợi mở ý thức về thân phận con
người, bản thân ông những năm tháng qua đã chiêm nghiệm được điều gì ở cuộc sống?
Tại sao cũng có nhiều người được gửi đi đào tạo ở các nước mà
hiện nay cộng đồng khoa học của chúng ta thực sự chưa mạnh, nếu không nói là có
phần tan hoang.
Đến 50 tuổi, sau khi làm việc một thời gian ở Tây Đức, tôi mới
có điều kiện để trả lời câu hỏi: “Tôi làm việc này để làm gì?”. Rồi thấy việc họ
đứng độc lập với chính trị như thế nào, tôi lại tự hỏi: “Tại sao họ có phẩm chất
đó mà mình không có?”. Đây là lúc tôi vừa quan sát thế giới vừa giải quyết được
chuyện hết đói của gia đình. Trước đó tôi vừa dịch sách, vừa viết báo, vừa đi
làm để mua thịt, mua sữa nuôi con. Rồi tôi đọc sách để giải đáp cho mình những
băn khoăn nhân sinh là nhu cầu nội tâm. Tôi không có tâm thế hướng ngoại theo
nghĩa mong muốn làm những chuyện vĩ đại để tạo phúc cho muôn dân (ngoài việc
theo đuổi nghiên cứu khoa học vì cho rằng công việc ấy cần cho dân tộc).
Những ý nghĩ hướng ngoại luôn bị nội tâm tra vấn về ý nghĩa
đích thực của chúng với nhiều hoài nghi. Vì vậy nhìn bề ngoài cuộc sống của tôi
nhiều suy tư mà ít hành động (bị coi là con người thiếu năng động), tôi tự cho
rằng mình sống sót được trong cuộc sống nhân sinh đầy khắc nghiệt là nhờ may mắn
hay là do ân huệ của Thượng đế, hoặc là nhờ phúc đức được hưởng trong vòng xoay
nhân quả đầy huyền bí của tạo hóa…
Ông nghĩ thế nào về giá trị gia đình trong một xã hội đang rối
loạn về các giá trị đạo đức, từ gia đình đến học đường?
Gần đây tôi có quan tâm đến triết lý Phật giáo do muốn hiểu ý
nghĩa của “tâm an lạc” và những vấn đề xung quanh nó. Nhiều khuynh hướng triết
học và tôn giáo khẳng định công việc quan trọng nhất của con người là thay đổi
chính mình để có thể tạo nghiệp lành. Sự đồng quy này đáng chú ý. Phải chăng
nhiều hiện tượng bất an trong xã hội là do quá nhiều người hăng hái muốn cải tạo
thế giới ngoại tại, nhưng lại thiếu săn sóc tâm hồn mình khiến nó bị bỏ hoang
phế?
Ông có tin vào số mệnh không?
Đó là câu hỏi của tôi ba mươi năm về trước, khi còn là một
thanh niên. Vốn là dân khoa học, tôi vẫn tin vào sự phát triển của quy luật và
cả những quy tắc mà con người phải nương vào đấy mà sống. Tuy nhiên, tôi cũng
không phủ nhận con người cần có Thượng đế hay có một thế giới linh thiêng nào đấy
bên cạnh chúng ta. Chỉ có điều cái tôi chọn là đi tìm những câu trả lời để tự
giải đáp cho chính mình, và hành trình như thế vẫn chưa kết thúc.
“Ai muốn nhìn nhận đúng đắn thì trước hết phải biết nghi ngờ
đúng cách” - biến câu châm ngôn mà ai cũng thừa nhận là đúng ấy của Aristoteles
thành thói quen không phải là chuyện dễ. Hoặc người ta không chịu nghi ngờ, hoặc
nghi ngờ không đúng cách. Quen biết nhau từ lâu và cùng hợp tác chặt chẽ trong
hội đồng khoa học của quỹ Văn hóa Phan Chu Trinh, tôi học được ở GS Nguyễn Văn
Trọng đức tính quý báu ấy. Ở ông, luôn thấy có sự thao thức của việc tra vấn và
tự tra vấn, về mình, về khoa học, về con đường đi lên của đất nước. Trong cuộc
sống xô bồ và hời hợt hiện nay, những con người như thế thật hiếm và quý biết
bao!”
“Xuất thân từ một gia đình trí thức Hà Nội, anh Trọng là một
trong rất ít người Việt được đào tạo về vật lý lý thuyết một cách bài bản và
anh cũng hay xớ rớ đến những chuyện không phải của mình. Thật ra anh Trọng là
người có ý thức xã hội rất sâu sắc qua những cuốn sách anh dịch, những bài anh
viết trên báo chí và gần đây chúng tôi cũng nói nhiều đến Phật giáo. Điều chúng
tôi chia sẻ được chính là ở những buổi gặp gỡ ban sơ, khi cùng nhau ngồi nhâm
nhi ly trà sáng và luận về cuộc sống, cũng có đôi khi bản thân sự gặp gỡ đã là
thú vị chứ chẳng cần phải nói điều gì. Tôi may mắn khi có được một người bạn
như vậy trong đời”.
Ngân Hà
Chân dung hội họa Hoàng Tường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét