Thưởng ngoạn mai vàng
Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai
là bạn cũ, hạc là người quen!
Tương truyền đây là câu thơ chữ Nôm do Sứ thần Việt Nam Nguyễn Du viết lên bộ đồ
trà Mai - Hạc làm năm “Giáp Tý niên chế” (1804) lúc đi sứ sang Trung
Quốc.
Vốn sinh trưởng trong một gia đình chơi cổ ngoạn ở Huế, ngay từ nhỏ, tôi đã ngắm
nghía những cánh mai vàng lác đác trên sập gụ cạnh những khay trà đĩa mứt...
Nay nhân chuyện bình chọn quốc hoa của Việt Nam, trên đường thưởng Hội hoa Xuân
2011, và Huế đang chuẩn bị cho Festival Cây kiểng & Ẩm thực, tình cờ nghe
bài nhạc “Anh cho em mùa xuân, nụ mai vàng mới nở...” mà trong
tôi lại bùng phát những ký ức xa xưa... Đúng “Mai là bạn cũ”...
Nói về Mai thì có hai loài Mai.
Một loài mai có tên khoa học là Prunus mume, thuộc chi Mận mơ (Prunus) thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae),
xuất phát từ Trung Quốc, lan qua Nhật Bản và miền Bắc Việt Nam, có hoa màu trắng
và trái hay gọi là mơ để làm ô-mai; đây chính là loài quốc hoa của Trung Quốc
mà các tao nhân mặc khách hay tả trong các điển tích, văn thơ Trung Quốc
như “Đạp tuyết tầm mai”, “Tuế hàn tam hữu”, “Tứ quý (Mai Lan Cúc
Trúc)”…
Loài mai thứ hai có tên khoa học là Ochnaceae, như
Mai chiếu thủy, Nhất chi mai,... và đặc biệt là Hoàng mai (hoa màu vàng). Trên thế giới khoảng 50 loại mai vàng rải rác ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, song tập
trung chủ yếu ở Đông Nam Á và châu Phi. Ở Việt Nam, mai vàng dễ tìm thấy ở rừng Trường
Sơn và là một loài cây cảnh phổ biến từ miền Trung trở vào. Loài này cũng có rất nhiều loại
như đã kể; ở đây, tôi chủ yếu đề cập đến loại mai vàng 5 cánh mà người ta hay gọi
là “Mai Huế, Mai ngự, Mai hương…”…
Việc miền Bắc chơi đào, miền Nam chơi
mai đón Tết, được người ta truyền rằng sau khi Nam tiến, mỗi lúc xuân về, những người
đi khai hoang nhớ đến cành đào ngoài Bắc nhưng không thể có được, vì
miền Nam vốn có khí hậu nóng không thích hợp với việc trồng đào, nên đã
chọn cành mai để thay thế.
Cổ tích Việt Nam kể rằng... Ngày xưa có cô bé rất yêu màu
vàng và chơi thân với ông Táo. Cô thường dũng cảm giúp cha đi giết ác thú để bảo
vệ xóm làng. Trong một lần thay cha chiến đấu với quái vật, cả hai đều chết.
Ông Táo thương cô bé có lòng nhân ái, liền xin với Ngọc Hoàng cho cô bé sống lại
mỗi năm 9 ngày từ chiều 29 Tết để đoàn tụ với gia đình. Sau khi cha mẹ cô qua đời,
cô không trở về hạ giới nữa mà biến thành cây mai vàng mọc trước đền người dân
lập thờ nàng; và cũng như trước, mỗi năm mai vàng nở hoa khoảng 9 ngày chính là
lúc cô về thăm làng xưa xóm cũ...
Truyền thuyết và Sự tích hoa mai kể trên, cho biết quá trình
thưởng ngoạn mai vàng được hình thành trong quá trình Nam tiến và khẩn hoang.
Trong lịch sử dân tộc có những đợt Nam tiến và khẩn hoang lớn: đó là đợt tiếp
nhận Ô và Lý để chuyển thành Thuận và Hóa vào năm 1306, và đợt thứ hai là trấn
thủ Thuận Hóa vào năm 1558 do Thái tổ Nguyễn Hoàng dẫn đầu. Nhưng theo Ô Châu Cận
Lục của Dương Văn An viết từ năm 1555 đã có ghi chép về cây mai vàng: “Mai
ở Lệ Sơn cốt cách phong lưu như ở Dữu Lĩnh. Trúc ở Lễ Sơn nào kém trúc ở Tiêu
Tương… Hoa cúc khinh sương, vào thu càng già cốt cách… Phàm cỏ hoa có điều ngụ
hứng, sản vật ấy đây đã có nhiều” (1). Điều này chứng tỏ trước đó rất lâu, việc
thưởng ngoạn mai vàng là do người Việt đã phát hiện được (2); và rất có thể
việc chơi mai ngày tết ở đây là do quân lính trấn giữ biên cương Đại Việt từ thời
Trần (1306), khi mang tâm sự:
Con biết bây giờ mẹ chờ tin con,
Khi thấy mai đào nở rộ bên hiên.
Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về...
Nay én bay đầy trước ngõ, mà tin con vẫn xa ngàn xa…
Từ lâu hoa mai đã đóng một vai trò quan trọng trong văn hóa Á
Đông, được mọi người chiêm ngưỡng, tượng trưng cho những gì đẹp đẽ thanh tao. Mỗi
khi mai nở rộ là dấu hiệu mùa xuân đang về làm lòng người nao nao hớn hở. Ngày
tết Nguyên Đán mà thiếu vắng bóng hoa mai là một sự thiếu sót rất lớn mà mọi
người đều mặc nhiên công nhận. Và rất có thể sự tích về hoa mai này đã được
thêu dệt từ thời Thái tổ Nguyễn Hoàng vào Ô châu ác địa năm 1558, còn thú thưởng
ngoạn mai vàng thì có thể đã xuất hiện ở Huế hơn 700 năm cùng lúc với sự ra đời
của Thuận Hóa...
Người xưa cho rằng có 3 hạng bạn hữu có ích là bạn ngay thẳng,
bạn rộng lượng và bạn hiểu biết nhiều; trên cơ sở đó đã mượn hoa để gởi gắm tâm
tư và xếp Mai, Tùng, Trúc thành 3 người bạn có ích, gọi là Ngự sử Mai, Trượng
phu Tùng và Quân tử Trúc; mà khí tiết của 3 loài cây này biểu hiện cho cái đẹp
chân - thiện - mỹ, chịu được sự khắc nghiệt của phong ba giá rét, nên còn gọi
là “Tuế hàn tam hữu” (3 người bạn của mùa đông). Ngoài ra, mai còn được
người xưa yêu quý xếp vào “Tứ quân tử” là:
- Mai: trong khi những loài hoa khác chưa nở ngay từ tiết Lập
xuân giá lạnh, mai là loài hoa nở đầu tiên (chiếm “bảng xuân”), nên được xưng tụng
là “Bách hoa khôi” (nở dẫn đầu của trăm hoa), tượng trưng cho cốt
cách thanh nhã của người quân tử; cho nên Nguyễn Trãi “ưa mày vì tiết sạch hơn
người” và cho rằng:
Huống lại bảng xuân xưa chiếm được,
So tam hữu chẳng bằng mày!
- Lan: còn gọi là “Vương giả chi hoa” khi nở giữa
đám cỏ dại mùa hè; bởi thế Lan tượng trưng cho người quân tử bất đắc chí.
- Cúc: còn có tên là “Tiết hoa”, không chịu nở cùng với
các loài hoa khác, chỉ nở vào tiết thu lạnh lẽo; do sự biệt lập đó mà tượng
trưng cho tiết tháo của kẻ sĩ, không a dua siểm nịnh.
- Trúc: “Tiết trực tâm hư” (bề ngoài thẳng thắn
nhưng trong lòng rỗng, vô tư) là một loài nửa thảo nửa mộc, không cương không
nhu... tượng trưng cho bậc chính nhân quân tử.
Riêng về mai vàng ở Huế, tên tiếng Anh là “Vietnamese
mickey-mouse plant”, tên khoa học là Ochna integerrima, thuộc họ Ochnaceae;
Đại Nam Nhất Thống Chí, phần Loại Hoa (Thổ sản) ở Kinh sư (Huế) viết: “Hoa
Bạch Mai: cây là lá giống cây mận, hoa trắng mà thơm… Hoa hoàng mai: Tục gọi
là bông mai vàng. Bản thảo chép là lạp mai. Kính xét: Bài thơ “Vịnh hoàng mai”
trong Minh Mệnh thánh chế có lược chú rằng: Thân cây cứng và thẳng, lá xanh lợt
mà sáng mịn, nhọn dài, hoa có năm cánh, nhị như ngọc, lòng hoàng đàn, cũng giống
mai trắng, nhưng sắc vàng thẫm và thơm hơn; khi hoa rụng thì cuống khô, biến
thành sắc hồng, lại giống như hoa, khác hẳn các loại hoa khác. Mai vàng ở Sa
Sơn đạo Quảng Trị có nhiều…”(3).
Ở đoạn sử liệu này có một vấn đề cần bàn. Có thể đây là loại
mai hoa trắng cùng họ với mai vàng, chứ không phải loài Mai Mơ của Trung Quốc;
nhưng người Việt kiêng cữ màu trắng nở ngày tết, do đó ít ai trồng nên loại này
ngày nay hầu như đã thất truyền. Song sự mô tả ở dòng sử liệu khá rõ là “Hoa
Bạch Mai: cây là lá giống cây mận”, tức sự ghi chép ở đây nghiêng về loài Mai
Mơ hơn. Chúng ta hoàn toàn biết rõ ở Huế không hề có mai trắng (mận mơ),
nhưng sử ghi về “Loại hoa” đã chép về “Bạch Mai”, trong khi ở miền Bắc Việt Nam
thì trồng đầy loại mai mơ này, nhưng phần “Thổ sản” ở đây không hề ghi chép gì
về chúng. Điều này chứng tỏ Quốc Sử quán triều Nguyễn đã biết chọn lọc rõ, mai
mơ (hoa trắng) xuất xứ từ Trung Quốc, nên không thể đưa vào thổ sản Việt Nam mà
chỉ nêu ra cây mai trắng mục đích để so sánh với mai vàng Việt Nam; vì như ta
thấy khi viết về “Hoa Hoàng Mai”, các sử gia đã nói “… cũng giống mai trắng,
nhưng sắc vàng thẫm và thơm hơn!”.
Chắc hẳn các bạn còn nhớ hương thơm của mai khi tỏa ra đã cho
lộc may đầu năm?! Và ở Việt Nam có loài mai vàng năm cánh hương thơm lại đậm
hơn những loài mai khác nên được gọi là “Mai Hương”. Tao nhân mặc
khách thưởng ngoạn hoa mai, không chỉ nhìn sắc màu vàng rực, mà là sự bâng
khuâng nơi hương ngầm của hoa: không thắm đượm như hoa Hồng, không nồng ngát
như Dạ lan, không âm thầm như hoa Ngâu… Hương mai rất nhẹ nhàng, thanh cao rất
khó thưởng thức. Phải người tinh nhạy lắm mới cảm thấy vì là một thứ “ám
hương”, nếu tâm tình con người vọng động thì khó mà cảm nhận được! Đặc biệt
khi tiết trời càng lạnh, khiến cho mai càng tỏa hương thơm nên còn gọi là “lãnh
hương”, và chính điều đó làm cho ta yêu quí mai vàng hơn. Thử đọc
bài “Mai hương” của Hoàng Mai Phi:
Mai cành búp nở chào xuân,
Hương vàng nắng tỏa từng cân trên ngàn.
Mai em có nhớ tiếng đàn,
Hương thơm đừng chất phũ phàng theo mưa.
Mai về anh nhớ năm xưa,
Hương thầm quyện lối so vừa bước chân.
Mai còn lắng đọng ngoài sân,
Hương thơm lơ lửng chào xuân hoa vàng.
Mai đây em có ngỡ ngàng,
Hương thơm đọng lại bóng chàng yêu thơ.
Mai em còn nhớ hay mơ,
Hương ơi! Hãy nhớ vần thơ anh làm.
Mai kia vẫn nở rộn ràng,
Hương êm vẫn khép nép vàng dễ thương.
Mai hoa còn khép mùi hương,
Hương thơm đọng lại liễu nhường hoa mai!
Hoa mai không những đã gây rung cảm tạo văn hóa thưởng ngoạn
mà còn là niềm ao ước của các cao nhân: Đào Tấn, khi lên đỉnh Mai
Phong tìm đất thọ, đứng trên mỏm đá lặng yên cười: “Mai sơn tha nhật
tàn mai cốt,
Ứng hữu mai hoa tác mộng hồn”.
Nghĩa là :
Núi mai rồi gửi xương mai đấy,
Ước mộng hồn ta hóa đóa
Mai.
Do mai vàng là hóa thân của người khai canh bảo vệ xóm làng,
nên thường được trồng ở sân đình chùa miếu mạo, và trong tâm thức người Việt, đây
là một loài hoa chưng tết chủ đạo, ai cũng mong nụ mai nở ngay vào đêm giao thừa
rồi kéo dài suốt những ngày xuân cùng những lá non nẩy lộc tươi mát mới, như thế
thì cây mai được xem như là linh vật cát tường mang lại may
mắn, là điềm thịnh vượng, phát lộc, phát tài, sự hạnh phúc, sung túc cho gia
đình hay đoàn thể khởi sự một chu kỳ mới. Ngược lại, người ta rất kiêng cữ nếu
cành mai không nở hoặc héo rũ đúng ngày Mồng Một tết. Từ đó
sinh ra tục “Bói Mai” để đoán hậu vận khi xem cây mai nở hoa như thế
nào!
Về triết lý nhân sinh, là hóa thân từ cô gái nên mai
thường biểu hiện cái nét duyên dáng, đoan trang, hiền hậu của người phụ nữ (Mai
nữ), nhưng cô gái ấy rất dũng cảm, có chí nam nhi nên cũng lại biểu hiện cho đấng
quân tử. Vì xuất thân từ núi rừng nên còn được gọi là “Mai núi”, và
do phải chen tìm đất sống với những cây khác ở địa thế khắc nghiệt trong cuộc
sinh tồn nên dáng cây có vẻ đẹp đặc biệt, hoa lại có nhiều cánh rực rỡ... có từ
5 đến 150 cánh. Cho nên Nguyễn Du đã dùng ba chữ “Mai cốt cách, tuyết
tinh thần”, ý nói bất cứ hoàn cảnh nào mai cũng là “người” có tiết tháo, cho
nên trồng ở loại đất gì cũng sống! Với ý nghĩa như vậy, mai được trồng rộng
rãi trong vườn nhà, làm cây cảnh trong chậu (bonsai).
Tuy nhiên để có được hoa mai nở như ý và khoe sắc suốt những ngày đầu xuân, và
có cây mai đẹp là điều không phải dễ dàng...
Mai vàng cũng còn được gọi là “Lạp mai”, vì “Lạp
nguyệt” là tháng chạp, lúc đó, người chơi mai vàng bắt đầu chuẩn bị dồn sức
để cuối tháng thì cây mai ra hoa... Nó chuộng ánh sáng và đất ẩm, người ta thường
canh ngắt lá đúng ngày để dồn nhựa cho các nhánh ra hoa vào đúng dịp Tết. Ngắt
lá là một nghệ thuật vì nếu lá ngắt đi không đúng lúc sẽ ảnh hưởng đến ngày hoa
nở.
Ngoại trừ trồng mai thẳng tự nhiên trước nhà, ta không bàn;
riêng về mai bonsai thì có thể nói đây là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc mà
chất liệu là thân cây, cành, tán lá, hoa, gốc và rễ cùng với môi trường (đất,
chậu). Người xưa bảo “Vô nữ bất thành mai, vô thập bất thành tùng” hay
nói gọn là “Mai nữ, tùng tử”, nghĩa là thân mai phải có những nét cong
thanh tú như người phụ nữ thì mới đẹp, còn cây tùng thì phải cứng cáp sần sùi
như người đàn ông thì đẹp… Và người ta thường tạo dáng theo chủ đề tư tưởng:
1. Thế “Trực”: thân cây thẳng đứng, đôi khi người ta còn
gọi là thế “Tùng lập, Nhất trụ kình thiên…” biểu hiện sự chính trực của
người quân tử.
2. Thế “Mai nữ”: thân cây có đường cong mềm mại như vẻ đẹp
người phụ nữ, song trọng tâm đỉnh ngọn cây vẫn nằm trên gốc cây, biểu hiện sự
đoan chính hiền thục.
3. Thế “Ngũ thường”: tổng cộng trên thân cây còn 5 tán,
tượng trưng cho 5 đức “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” của đạo làm người.
4. Thế “mẫu tử”: từ gốc đâm ra 2 thân, một lớn một
nhỏ như mẹ bồng con, biểu hiện “lòng mẹ bao la như biển thái bình”.
5. Thế “bạt phong hồi đầu”: thân cây bị ngả nằm ngang
nhưng ngọn vẫn hướng về gốc, biểu hiện người tự lập tự cường trước cơn bão đời
nhưng vẫn hướng về mục đích và quê cha đất tổ.
6. Thế “Quần thụ tam sơn”: gồm 3 cây, cây giữa cao hơn 2
cây 2 bên tạo chữ “山 (sơn)”, ý nói sự đoàn kết của
nhiều người cùng chí hướng để cùng gánh vác đại sự.
7. Thế “Hạc lập”: để biểu hiện tinh thần thanh cao như
loài hạc. Thân cây cong như Mai nữ, ít tán lá hơn, không nhất thiết đỉnh phải nằm
trên gốc, nhưng mảnh khảnh như “tiên hạc” (chim hạc múa như tiên), chính thế
nên Nguyễn Du mới ví Thúy Kiều “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai!”…
Trên đây chỉ giới thiệu một số thế kinh điển, không thể kể hết;
mà muốn chọn cây mai đẹp thì phải thuộc câu truyền khẩu: “Nhất thân, nhì đế,
tam tàn, tứ thế”. Nghĩa là khi đánh giá cây, đầu tiên phải xem thân cây có bị
sâu mọt không…, và do cây càng già, thân càng bóng láng, hoa lại càng đẹp, nên
người ta rất chuộng lão mai; sau mới xem đến phần bộ rễ có cân đẹp không, có bị
sâu từ gốc không…vì “cây có cội, nước có nguồn”; rồi đến xem tán lá có bị
nấm, bị rầy không…; cuối cùng mới xem thế của cây thì mới trọn vẹn và chính như
Cao Bá Quát nói:
“Nữa Mai xuân điểm bầu trời
Bức tranh tuyệt tác cho đời ngắm chung!”
Vì hoàng mai có hoa vàng, mang màu sắc trung ương thuộc
thổ là màu của đế vương và có 5 cánh (con số “cửu ngũ” cũng là của vua), lại
là thổ sản của nước Việt Nam thống nhất, được vua Minh Mệnh thánh chế ngự thi
ca tụng, nên được đúc vào Cửu đỉnh (4), cũng như được chọn trang trí trong mỹ
thuật triều Nguyễn (5) ở cung điện, lăng tẩm… dù lấy điển tích Tứ quý
từ Trung Quốc, nhưng không dùng mai trắng của Trung Quốc mà dùng mai vàng Việt
Nam để thay thế vì “phàm cỏ hoa có điều ngụ hứng, sản vật ấy đây đã có nhiều”.
Bởi dù ở Á Đông có chịu ảnh hưởng chung của văn hóa Hán, nhưng khi đón nhận những
cái hay của văn hóa Trung Quốc, người Việt đã lấy thêm cái riêng của mình, chỉnh
lý cho phù hợp để trở thành bản sắc riêng của dân tộc! Chính thế, loại mai
hương ở Huế này được vua chúa yêu thích và còn có thêm một tên nữa là “Mai
Ngự”. Ở đây, chữ “ngự” là dành riêng cho vua dùng, tuy không phải là khái
niệm quốc hoa như ngày nay, nhưng về mặt ý niệm thì tương đương; tức là rất có
thể triều Nguyễn đã chọn mai vàng làm loài hoa riêng, quốc hoa của Việt Nam (6).
Với một cốt cách như thế, Cao Bá Quát, một danh sĩ vô cùng
cao ngạo, từng thẳng thừng chê Hội thơ của vua Tự Đức là “Câu thơ thi xã” hôi
(dỡ) như nước mắm trên“Con thuyền Nghệ An”, nhưng đối với hoa mai, cũng phải
thốt lên:
“Thập tải luân giao cầu cổ kiếm,
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa!”
Nghĩa là:
Mười năm tìm bạn khó như tìm bảo kiếm,
suốt cuộc đời
chỉ cúi đầu trước một hoa mai !!!.
* Chú thích:
(1) Dương Văn An (Trần Đại Vinh, Hoàng Văn Phúc dịch), Ô
Châu Cận Lục, NXB Thuận Hóa, 2001. Trang 38. Chú giải thêm: Lệ Sơn ở Quảng
Bình (Việt Nam), Dữu Lĩnh ở Trung Quốc.
(2) Rõ ràng cây mai vàng nằm trên đất của người Champa, song
họ chưa biết thưởng ngoạn, vì người Champa đã có loài quốc hoa là “hoa
Champa” mà người Việt gọi là “hoa Sứ”.
(3) Quốc sử quán triều Nguyễn (Phạm Trọng Điềm dịch), Đại
Nam Nhất Thống Chí, NXB Thuận Hóa, 1992. Tập 1, Trang 281, 282.
(4)
Hình hoa mai được đúc vào Nghị đỉnh (“Nghị” nghĩa là kiên cường). Một số nhà
nghiên cứu dựa vào chữ Hán “梅 (mai)” trên Cửu đỉnh cũng như
trên đĩa trà Mai Hạc viết khác với chữ Hán “
(mai)” trong câu đối của Cao Bá
Quát để cho rằng Mai trên Cửu đỉnh là Mai Mơ (họ Rosaceae),
chứ không phải là Hoàng Mai (họ Ochnaceae). Điều này là nhầm lẫn, vì theo
Từ Nguyên thì hai chữ Hán viết khác nhau nói trên chỉ là một chữ nhưng có nhiều
cách viết theo lối chữ cổ và chữ mới mà thôi. Loài mai được chọn đúc ở Cửu đỉnh
chắc chắn phải là thổ sản của Việt Nam (xem thêm Đại Nam Nhất Thống Chí) còn được
gọi là “Mai Ngự” tức là Hoàng Mai. Hơn nữa, trong tác phẩm “Les
Bas-reliefs des Urnes Dysnastiques de Hue” (BSEI), R. P. Barnouin đã ghi
chú hình Mai trên Cửu đỉnh là “Ochna integerrima”, tức là Hoàng Mai chứ
không phải Mai Mơ. Còn đồ trà Giáp Tý niên chế do Thi hào Nguyễn Du thay mặt
nước Việt Nam làm năm 1804, lúc đó nước Việt Nam đã nhất thống từ ải Nam quan đến
tận Cà Mau, mà trước đó mấy thế kỷ thì mai vàng đã được dùng ở Đàng Trong (tiền
thân của triều Nguyễn), nên mai trong đồ trà này là mai Huế!, chứ không thể là
mai Trung Quốc được!
(5) Trong tác phẩm L’art à Hué (BAVH, 1919),
Cadière đã vẽ lại các hình thức trang trí mỹ thuật ở cung đình Huế có các loại
hình hoa mai cách điệu, mai - điểu, mai hóa phụng… như ông cho biết: “Thường
thường, sự biến đổi cây cỏ này đều bị quy theo ước lệ truyền thống: cành hoa
mai hoặc cành hoa đào biến thành chim phượng hoàng; cây tre và cây tùng thì biến
thành con rồng…”.
(6) Điều này được biểu hiện qua chữ “mai” đã ăn sâu
trong lòng Thế tổ Nguyễn Phúc Ánh: Truyền thuyết kể rằng, trong 25 năm bôn ba vận
nước, khi bị quân Tây Sơn rượt đuổi, ngài trốn núp trên cây mù u và được cây mù
u che chở. Sau khi thành công, ngài ban cho loài mù u một tên mới là “Nam mai (Cây
mai ở miền Nam)”, mặc dù mù u chẳng thuộc gì họ mai cả!.
Huế, Lập xuân, Tân Mão
Nguyễn Anh Huy
Nguồn: www.khoahoc.net
Theo http://www.saimonthidan.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét