Thứ Tư, 14 tháng 2, 2018

Chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789) và vua Quang Trung

Chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789) 
và vua Quang Trung
Suốt hai trăm năm nay, cứ đến mùa Xuân, trong khi hưởng thú vui ngày Tết, người ta không quên nhắc đến chiến thắng lịch sử Kỷ Dậu (1789) với Vua Quang Trung, một trong những anh hùng dân tộc.
Theo tư liệu đã phổ biến, như Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim... mùa xuân Kỷ Dậu (1789) quân Tây Sơn do Vua Quang Trung cầm đầu đã bất ngờ tiến đánh phá tan 20 vạn quân Thanh của Tôn sĩ Nghị, lúc đó đang trấn giữ miền Bắc để bảo vệ triều đình Lê chiêu Thống. Dù cho số quân Thanh có thể ít hơn, vì không có thống kê rõ ràng, nhưng chiến thắng lẫy lừng này chưa ai dám phủ nhận.
Gần đây, ông Nguyễn gia Kiểng, trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn (?) đã viết một bài, bằng những suy luận riêng, - với dẫn chứng vu vơ- thâm ý có lẽ muốn làm giảm giá trị chiến thắng này cùng vai trò của Vua Quang Trung.
Ðây là luận cứ của ông Nguyễn gia Kiểng, từ trang 155 sách đã dẫn:
“-... Thực ra các tài liệu của nhà Thanh (?) cho thấy một cách rất rõ ràng là vua Càn Long không có ý định đánh chiếm nước ta. Không những thế vua... còn cấm Tôn sĩ Nghị giao chiến... ý đồ của họ chỉ là dọa để Nguyễn Huệ thần phục nhà Lê... (hay) giúp Lê Chiêu Thống có thanh thế... để chia đất với Nguyên Huệ mà thôi!
-... Con số hai chục vạn quân Thanh cũng rất sai sự thực. Tôn Sĩ Nghị sang bằng đưồng bộ, mà đường bộ thì bị vách núi dày đặc ngăn cách không thể di chuyển một số quân khổng lồ như vậy.
-... Thành phố Hà Nội hồi đó có bao nhiêu dân cư? .. hai chục ngàn là cùng... Các tài liệu còn giữ lại (?) chỉ nói quân Thanh đóng đồn ở vài làng nhỏ cạnh Hà Nội.
Về tư liệu, NGK dẫn chứng giáo sư Ðài Loan Tưởng Quân Chương, - đã dựa vào tài liệu của Thanh triều (?) - nói rằng: ”Tôn Sĩ Nghị đã đem sáu ngàn kỵ binh sang Việt Nam để phô trương thanh thế và làm lễ thụ (hay tấn?) phong cho Lê Chiêu Thống, nhưng đã bị Nguyễn Huệ đánh bất ngờ, thua chạy...” Con số này theo tôi (NGK) là hợp lý. Tôi chưa thấy sử gia nào bác bỏ sự kiện của ông Tưởng..”
Tư liệu khác mà NGK dẫn ra là: ”Hoàng Lê Nhất Thống Chí”- HLNTC - một tiểu thuyết lịch sử?- mà phủ đầu NGK đã gán cho là”một cuốn sách khá thuận cho Tây Sơn”. Theo sách này, (lời NGK) thì tướng Tây Sơn, Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm bàn với nhau rằng đánh quân Thanh không được vì dân chúng Bắc Hà ủng hộ quân Thanh và ghét Tây Sơn... (Ðây cũng là một sự kiện rất quan trọng chứng tỏ dân chúng không ngưỡng mộ Nguyễn Huệ như một số tác giả viết - Lời NGK).
Tư liệu khác nữa mà NGK dựa vào là thư từ của nhóm giáo sĩ ngoại quốc có mặt ở đó (thuộc Mission apostolique en Extrême Orient), theo đấy, họ tỏ ý bênh vực nhà Tây Sơn... ( vì) Tây Sơn không để ý đến tôn giáo. Theo một giáo sĩ mô tả lại trận Ngọc Hồi (Ðống Ða), thì không thể(gọi) là lớn được. NGK cũng đưa ra vài sự kiện, trích trong HLNTC.. rồi kết luận:” những dữ kiện này chứng tỏ trận Ðống Ða chỉ là một trận nhỏ.”
Rồi NGK còn suy luận “ trong số quân Thanh kéo nhau qua sông, bị xập cầu chết, có nhiều Hoa kiều.. vì họ chạy bộ- “ có lẽ để phù hợp với số 6 ngàn kỵ binh của ông Tưởng Quân Chương đưa ra.
Về thân thế anh em vua Quang Trung, NGK dựa vào HLNTC cho rằng ông là con Hồ Phi Phúc, thuộc giới giàu có, không phải xuất thân nông dân áo vải như Việt Nam Sử Lược viết, (mà NGK cho là Trần Trọng Kim cũng dựa theo HLNTC nhưng thêm bớt có lợi cho nhà Tây Sơn).
Theo ý  NGK, “ba anh em Nhạc, Lữ, và Huệ lớn lên đi ăn cướp... Ba anh em liên kết với hai đám cướp biển người Trung Hoa là Tập Dinh và Lý Tài và cùng chiêu mộ nhiều người Thượng.” NGK cũng giải thích lý do các tướng Tây Sơn đều được gọi là đô đốc, vì quân họ do đám cướp biển huấn luyện.

Cũng theo NGK, một sự kiện nổi bật mà các sử gia cố tình làm ngơ là quân Tây Sơn thuần túy chỉ là giặc cướp, và từ lúc dấy lên.. cho đến lúc diệt Trịnh và Nguyễn,.. họ không đưa ra bất cứ một chủ trương dựng nước nào (hịch hiệu triệu quốc dân, chẳng hạn).. họ chỉ đánh phá và cướp bóc mà thôi, không nhân danh một chính nghĩa nào!
Ông NGK viết: ”... Lúc đó, dù mới mười tám tuổi, Nguyễn Huệ đã bắt đồng đảng và dân chúng gọi mình là “Ðức Ông Tám”. Cái lối tự xưng xấc xược này cũng là đặc tính của đám thảo khấu. Nhưng dù sao, NGK cũng phải công nhận:” Nguyễn Huệ là một tướng giỏi, nhiều công trận lại giữ mặt Bắc phòng họ Trịnh nên nắm phần lớn quân Tây Sơn trong tay... Nguyễn Huệ mới chỉ làm vua được bốn năm, đang chuẩn bị đánh Trung Hoa.. thì mất năm 1792).
Nguyễn Huệ là một con người hung bạo, đánh tất cả mọi ngưiời, đó là một sự thực... Ðến cả Nguyễn Nhạc, Huệ cũng đánh. Nguyễn Huệ dùng bạo lực và sự tráo trở trong mọi trường hợp đối với bất cứ ai có khả năng trở thành một đối thủ... Nguyễn Huệ cũng rất tàn ác, các giáo sĩ thời ấy dù bênh Tây Sơn, cũng ghê sợ về sự tàn ác của Nguyễn Huệ và gọi ông là một thứ “Atttila” mới. NGK còn biện hộ cho hành động thô bạo “quật mồ” Nguyễn Huệ của Nguyễn Ánh là để báo thù sự tàn sát họ Nguyễn và đào mả tổ tiên Nguyễn Ánh trước đây, của nhà Tây Sơn.(?)”
Khả năng nhìn xa, trông rộng (tài dụng binh) của Nguyễn Huệ, theo NGK, cũng rất giới hạn như trong vụ đánh Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ rồi để họ bị Nguyễn Ánh tiêu diệt, ý đồ đánh Trung Hoa... trong khi chưa diệt tuyệt Ánh cũng bị NGK phê là điên dại..
Sự chiến thắng Trịnh, Nguyễn... theo NGK, là do tinh thần phân hóa của dân chúng, một phần do ảnh hưởng của đạo Gia Tô làm suy yếu lực lượng triều đình... anh em Tây Sơn thắng không phải vì họ mạnh, mà vì thế lực địch tan rã, (nên) không cần đánh một trận đáng kể nào
Vẫn theo NGK, một chuyên viên của Anh quốc, từ Ấn Ðộ qua quan sát, sau vụ Tây Sơn chiếm Gia Ðịnh, 1778, đã báo cáo “chỉ cần đạo quân 100 người, có kỷ luật, cũng đủ đánh tan toàn bộ quân Tây Sơn một cách nhanh chóng.” Nhưng ở một đoạn khác, NGK lại nói: “Nguyễn Huệ trấn áp được thiên hạ nhờ có được một đạo quân tinh nhuệ..” Và: ”Lý do thành công của Nguyễn Huệ là ông có một đạo quân thực sự trong khi các đối thủ của ông không có. Những chiến thắng như vậy không đòi hỏi một tài dụng binh nào”.
Tuy nhiên, NGK cũng công nhận: ”Ở trong Nam có trận thủy chiến tại Cần Giờ là đáng kể. Nguyễn Huệ chỉ huy gần một trăm chiến thuyền, như vậy cũng là vài ngàn thủy quân... Nguyễn Huệ cũng phá được quân Xiêm... (đông tới hai vạn người.) Cả ba trận Cần Giờ, Mãn Thít và Ðống Ða đều ở rất dưới tầm cỡ của những trận đánh thời Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi đánh đuổi quân Minh..
Nguyễn Huệ chỉ mới làm vua được gần bốn năm thì mất nên tài trị nước của ông không thể bàn đến. Một việc triều đình của ông làm thường được ca tụng là hay dùng chữ Nôm.Nhưng chữ Nôm thời đó đã phát triển lắm rồi. Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán đã ra đời trước đó. Và đã có Nguyễn Du... dụ khuyến nông... chỉ là một dụ bình thường lập lại những gì các vị vua trước đã nói. Một biện pháp làm khổ dân chúng rất nhiều là dùng Tín Bài, một thứ thẻ căn cước, để kiểm soát dân chúng, trong mục đích bắt lính chuẩn bị đánh Trung Hoa... là điều mà một vị vua sáng suốt không thể làm.”
... Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chặn đứng hẳn sự bành trướng của lãnh thổ Việt Nam vào đất Cam Bốt.. Nếu không có anh em Tây Sơn chắc chắn nước Cam Bốt không còn... Nhưng anh em Tây Sơn đã làm một việc khác rất lớn, rất tai hại cho chúng ta và đã khiến chúng ta là chúng ta ngày nay: đó là phá tan và chấm dứt hơn hai thế kỷ tiếp xúc và giao thương đầy hứa hẹn với thế giới bên ngoài, nhất là phương Tây.
NGK có ý trách sử gia Trần Trọng Kim, khi viết Việt Nam Sử Lược, “đã không cảm thấy có bổn phận phải tuyệt đối khách quan, và đặc biệt là đối với nhân vật Nguyễn Huệ, ông đã để nhiều tâm tình và thiên kiến vào đó. Ông dựng đứng ra chuyện Nguyễn Huệ ra Bắc” phù Lê diệt Trịnh”? để ca tụng Nguyễn Huệ “dứt họ Trịnh, tôn vua Lê đem lại cương thường cho rõ ràng. Ấy là có sức mạnh mà biết làm việc nghĩa vậy”sic”. Thật là đổi trắng thay đen! (?) Ông Trần Trọng Kim cũng dựng đứng ra con số hai chục vạn quân Thanh, không có trong một sử liệu nào để thổi phồng tầm vóc của trận Ðống Ða và ca tụng Nguyễn Huệ “đaị phá quân Thanh”.
NGK cũng ghi là: ”Trong hịch của Tôn Sĩ Nghị có nói tới năm chục vạn, nhưng đó theo HLNTYC chỉ là tờ truyền đơn mà mục đích là hù dọa làm mất tinh thần quân Tây Sơn. Theo NGK, chính Nguyễn Huệ đã là nguyên nhân đưa tới việc quân Thanh sang can thiệp (không phải cứu nước, như họ Trần kể công!).
NGK còn chê những thủ đoạn của vua Quang Trung trong việc giao thiệp với nhà Thanh, như sang chầu, lạy phục và ôm chân Càn Long, nhưng cho Phạm Công Trị đi thay thế.. là tự hạ mình.
Tóm lại, theo NGK, chiến thắng quân Thanh... binh Trịnh, binh Nguyễn... của Nguyễn Huệ không giá trị bao nhiêu, và có thể ông còn làm hại cho quyền lợi đất nước (nhà Thanh mượn cớ can thiệp, ngưng cuộc Nam tiến...)
Tổng luận, theo NGK, thiên tài quân sự và những đức độ nhân ái, anh minh... của Nguyễn Huệ theo lịch sử... chỉ là sự xuyên tạc, có dụng ý.
Thực sự, phải hiểu lịch sử như thế nào?
Trước hết, ông NGK không đưa ra được một tư liệu nào rõ ràng, khả tín để chứng minh những phán xét của ông. Về sử liệu nhà Thanh, ông dựa vào để quyết đoán mà không đưa ra bằng chứng cụ thể nào; bộ Hoàng Lê Nhất Thống Chí (HLNTC) ông thường viện dẫn, thực ra là một tiểu thuyết lịch sử (dân gian) khó tin cậy; còn những lá thư của nhóm giáo sĩ (có tính cách riêng tư) nghĩ cũng ít giá trị thuyết phục.
Ðiều dễ nhận thấy là ông NGK hình như có chủ ý làm giảm giá trị chiến thắng của nhà Tây Sơn, và hạ thấp vai trò lãnh đạo của vua Quang Trung.
Không hiểu ông căn cứ vào tài liệu nào của nhà Thanh để quyết đoán là vua Càn Long không có ý định đánh chiếm nước ta. NGK cũng cả quyết “con số hai chục vạn quân Thanh rất xa sự thực” mặc dầu ông viết, theo” hiệu triệu của Tôn Sĩ Nghị có tới 50 vạn quân Thanh kéo sang” nước ta. Ông lý luận là vì Tôn qua bằng đường bộ nên không thể đưa nhiều quân sang. Nhưng theo những sử liệu Việt Nam hiện có, (và ngay cả HLNTC mà ông thường dựa vào), quân Tôn Sĩ Nghị kéo sang bằng ba đường thủy bộ, như những cuộc xâm lăng các triều đại trước đây (Tống, Nguyên, Minh...). Ông chỉ căn cứ vào lời của một giáo sư Ðài Loan - Tôn đem 6 ngàn kỵ binh qua Việt Nam- để tin chắc là: ”Con số này... là hợp lý.”
NGK dẫn lời của một giáo sĩ Tây phương viết trong thư riêng để phán đoán” “trận Ðống Ða chỉ một là trận nhỏ” nhưng quên rằng chiến thắng Xuân Kỷ Dậu bao gồm nhiều mặt trận ở nhiều địa phương.
NGK tính số binh sĩ khiêng tấm mộc đỡ tên đi trước (20 tấm, mỗi tấm 30 người theo sau) để kết luận quân số chỉ chừng 600, không hiểu rằng đó chỉ là những đội tiền phong, sau họ còn vô số những hàng ngũ khác tiến theo.
NGK dựa vào con số 20 kỵ binh mà Tôn phái đi cùng quân cứu viện, để quyết đoán số quân tham chiến là ít, nhưng chắc ông không để ý là trong các viện binh có cả đạo quân Quảng Tây của tướng Dương (hay Thang?) Hùng Nghiệp.

Ðiều NGK nói đúng là theo sử liệu, “lúc ấy quân Tây Sơn không được lòng dân chúng Bắc Hà”, kể cũng dễ hiểu, vì qua hơn 200 năm trị vì của nhà Lê, dù sao, dân Bắc Hà cũng còn chút lưu tình, nhưng việc quân Tây Sơn theo kế của Ngô Thì Nhậm đồng kéo thủy bộ về trấn giữ Tam Ðiệp là một chiến thuật hợp lý và khôn ngoan.
Theo thiển ý, Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim dù chỉ là sơ lược, ít nhất cũng đã căn cứ vào 26 tác phẩm Hán, Quốc ngữ và Pháp văn, trong đó có Ðại Việt Sử Ký, Khâm định Việt sử Thông giám, Lịch triều Hiến chương,đại Nam thực lục, Trung quốc sử, Thanh triều sử ký... nên có giá trị khả tín- hơn là Hoàng Lê Nhất Thống Chí, gần như là tiểu thuyết.
Gần đây, một số tài liệu mới về vua Quang Trung được phổ biến trong tuyển tập “Một vài sử liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ”, đã giúp cho việc nghiên cứu sử cận đại được thêm dễ dàng. Sách gồm có 10 bài sưu khảo của các tác giả Tạ quang Phát, Tạ chí Ðại Trường, Hoàng xuân Hãn, Ðặng phương Nghi..
Trong bài “Vua Quang Trung qua chính sử của triều Nguyễn” do Tạ quang Phát dịch từ phần Ngụy Tây Liệt Truyện, trong Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện (tập sơ, q.30, trang 17b - 43b), chúng tôi nhận thấy dù Quang Trung là kẻ thù của Gia Long, nhưng sử nhà Nguyễn cũng không thể phủ nhận hết những ưu điểm của vị anh hùng dân tộc này. Theo bản dịch: ”... Nguyễn văn Huệ là em của Nguyễn Văn Nhạc, tiếng nói như tiếng chuông to, mắt lập lòe như ánh điện, là người giảo hoạt, đánh trận rất giỏi, người người đều sợ Huệ.. Nguyễn Huệ đã bốn lần đánh phá Gia Ðịnh, lâm trận đi đầu các quân sĩ, hiệu lịnh rất nghiêm minh, quân sĩ đều kính phục...”: Nguyễn Huệ tỏ ra giỏi thuật dụng binh, như trong vụ cướp thành Phú Xuân, đã “cho một thuật sĩ đến lấy việc họa phúc để mê hoặc” tướng trấn thủ (Phạm ngô Cầu)-không khác gì mấy lãnh tụ miền Nam trước đây. Trước lời khuyên nên thừa cơ đem quân ra đánh Bắc Hà (vì hết nhân tài, trừ Nguyễn hữu Chỉnh), Nguyễn Huệ tỏ vẻ thận trọng, đã đáp lại: ”Bắc Hà nhân tài nhiều nhất, há lại có thể khinh dẻ?”. Ông cũng tỏ ra biết phải trái, nhân nghĩa, khi ngỏ ý: ”Một nước dựng từ mấy trăm năm, một sớm mà mình trộm đoạt lấy, thì người ta bảo đạo quân ấy ra sao?”. Nhưng cuối cùng, Nguyễn Huệ biết quyền biến , lợi dụng thời cơ, không chờ lịnh Nguyễn Nhạc, lấy danh nghĩa Phù Lê, diệt Trịnh tiến quân sấm sét, đánh chiếm Bắc Hà lần thứ nhất.
Khi chúa Trịnh Khải bị bắt, đã tự vẫn trên đường đến doanh trại địch, Nguyễn Huệ đã vỗ thây Khải, nói: ”Ðáng tiếc cho một hảo nam tử, lúc đầu nếu sớm đầu hàng thì hẳn không mất phú quý, sao lại tự hủy mạng?”. Rồi cho lấy lễ bậc vương tống táng Trịnh Khải. Như vậy, cách Nguyễn Huệ cư sử cũng không thiếu tình người, mặc dù, ông NGK cứ nhất định cho anh em Nhạc, Huệ là bọn trộm cướp.
Nguyễn Huệ cũng tỏ là người cơ trí trong những vụ bố trí đối phó với Nguyễn hữu Chỉnh và Vũ văn Nhậm, và đục thuyền giết Trần công Xán.. xem ra có vẻ tàn nhẫn, nhưng đã ở trong thời chiến (giết hay bị giết) thì hình như cũng khó ai tránh khỏi hành động này. Nguyễn Huệ cũng có con mắt tinh đời, khi biết sử dụng những nhân tài của nhà Lê như Ngô thì Nhậm, Phan huy Ích..
Theo biểu sớ bắt được từ Tôn sĩ Nghị, khi vua Lê Chiêu Thống cho người qua cầu cứu với quan viên nhà Thanh, Tôn sĩ Nghị đã tâu lên vua Càn Long (Cao Tôn):”An Nam là đất cũ của Trung Quốc, nếu sau khi khôi phục cho nhà Lê rồi, ta nhân đó cho binh đồn thú đất An Nam luôn. Ðó là giúp họ Lê và được luôn An Nam thật là lưỡng đắc”. Như thế rõ ràng nhà Thanh đã có dã tâm lợi dụng tình thế để đánh chiếm nước ta, trong khi NGK cứ cả quyết biện luận cho họ, kể cũng lạ.
Theo sử Nguyễn, Tôn sĩ Nghị vâng chiếu đem hai mươi vạn quân bốn tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu sang nước Nam qua hai ngả Lạng Sơn (Tôn sĩ Nghị) và Tuyên Quang (Tổng binh Qúy Châu), rõ ràng không phải chỉ có sáu ngàn kỵ binh như ông NGK đã tin tưởng.
Về trận phá quân Thanh, sử nhà Nguyễn thuật lại như sau: 

”... Nguyễn Huệ liền hạ lịnh cất quân.Các tướng đều khuyên: “Trước tiên nên chính ngôi vị để kết chặt lòng người.” Nguyễn Huệ bèn cho đắp đàn ở phía Nam núi Ngự Bình, lấy ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788) tự lập làm Hoàng đế, đổi niên hiệu là Quang Trung. Liền ngày ấy vua Quang Trung đem các tướng sĩ thủy bộ cùng tiến ra Bắc.
Ngày 29/11, đến Nghệ An, vua Quang Trung cho dừng lại hơn mười ngày để tăng quân số. Dân Nghệ An cứ ba đinh tráng thì lấy một. Thân binh Thuận Quảng được chia làm bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu. Tân binh Nghệ An làm Trung quân, Binh Ðắc thắng? được hơn mười vạn (100.000), voi trận mấy trăm thớt...
Ngày 20 tháng chạp vua Quang Trung đến núi Tam Ðiệp ..... Năm quân đều lãnh quân lịnh. Ðến ngày trừ tịch (cuối năm) quân Nam qua sông Giản Thủy. Quân của Hoàng phùng Nghĩa, tướng nhà Lê trấn thủ Sơn Nam đầu tiên bị tan vỡ. Quân tình báo của giặc Thanh đều bị giết sạch để dứt tuyệt tin tức. Từ Ô Môn thuộc Thăng Long đến Hạ Hồi thuộc Thượng Phúc, giặc Thanh dựng đồn liền nhau, gác đại bác, ngoài đồn thì chôn địa lôi, phòng bị rất kiên cố.
Nửa đêm mùng 3 tháng giêng xuân Kỷ Dậu (1789) quân Nam đã đến Hà Hồi bí mật vây kín lấy đồn, dùng ống loa truyền lịnh, quân sĩ dạ rần nghe như gần mấy muôn binh. Quân giặc trong đồn run sợ, không đánh mà tự vỡ tan; quân Nam đoạt hết quân tư, khí giới.
Hừng sáng mùng 5 quân Nam tiến lũy Ngọc Hồi. Trên lũy đạn bắn xuống như mưa.Vua Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ lấy ván gỗ núp mà xung vào trận. Vua Quang Trung tự đánh voi đốc quân ở phía sau.
Quân Nam đã phá được cửa lũy, liền bỏ ván gỗ xuống đất, dùng đoản đao đánh giết. Quân giặc Thanh chống không nổi, tan rã bỏ chạy tứ phía mắc vào bẫy ngầm, địa lôi phát nổ, tử thương rất nhiều. Vua Quang Trung giục trống thúc quân đuổi nà (?) phá luôn mấy đồn Văn Ðiển, An Quyết. Ðề đốc Hứa thế Hanh, Tổng binh Trương triều Long, Thượng duy Thăng, Tri phủ Ðiền Châu, Sầm nghi Ðống đều tử trận.]
Tôn sĩ Nghị ở Sa Châu nghe báo, một người một ngựa chạy về hướng Bắc, tướng sĩ tranh đua qua cầu, khiến cầu phải gẫy mà rơi xuống nước chết đuối gần muôn người. Nước sông Nhĩ Hà không chảy được vì thây quân giặc Thanh chận lấp. Ngày ấy vua Quang Trung xua quân vào thành. Chiến bào của vua biến thành màu đen xạm vì thuốc súng.
... Vua Quang Trung cho quân đuổi theo đến cửa ải Lạng Sơn, và lên tiếng sẽ vượt ải đuổi theo giết sạch không sót mạng nào và để tìm tung tích vua Chiêu Thống.
Người Tàu nhà Thanh kinh hoảng, từ cửa ải trở về Bắc, già trẻ dìu nhau chạy trốn. Hàng mấy trăm dặm tuyệt nhiên người và khói bếp lạnh tanh. Ðạo quân Vân Nam và Quý Châu vừa kéo xuống Sơn Tây, nghe tin Tôn sĩ Nghị đại bại, cũng tìm đường trở về.
Vua nhà Thanh liền xuống chỉ cho quan Nội các Phúc Khang An thay Tôn sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng, đề đốc binh mã chín tỉnh, điều binh 50 vạn (500000) nội ngày ấy đến Nam Quan kinh lý việc An Nam.

... Khi Tôn sĩ Nghị dìu dắt nhau chạy về Bắc, các sắc thư của hắn mang theo đều rơi rớt dọc đường. Vua Quang Trung thu được, nói với Ngô thì Nhậm: ”... Việc giúp nhà Lê không phải ở bản tâm chân thật, mà chỉ mượn đó là danh nghĩa để mưu lợi. Nay sau khi thua trận, họ tất cho là nhục, hẳn là không chịu dứt can qua. Nhưng hai nước giao binh cũng không phải cái phúc cho nhân dân. Nay chỉ khéo ở lời thù tiếp ngoại giao mới có thể dứt được đao binh. Việc này phải do khanh chủ trương.”
Những sự kiện nói trên nói gì nếu không là chứng tỏ đức nhân, trí và mưu thuật của vua Quang Trung hết lòng vì nước vì dân, dù có khi phải dùng lời lẽ uyển chuyển, có vẻ tự hạ mình qua văn từ, đâu có gì đáng chê trách như ý ông NGK?
Về việc đòi lại Lưỡng Quảng, sử nhà Nguyễn cũng nhắc đến:” Vua Quang Trung thường nói với các tướng: - Ðược thêm vài năm bồi dưỡng uy lực, nhuệ khí ta nào sợ chúng”.
Năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung sai làm tờ biểu cầu hôn (công chúa nhà Thanh) để thăm dò ý vua Thanh và cũng để mượn cớ gây hấn. Nhưng vua lại bịnh mà việc ấy phải thôi. (Nhà vua mất ngày 29 tháng chín năm Nhâm Tý (1792) ở ngôi được 4 năm.)”
Cuối cùng, sử gia triều Nguyễn kết tội” Nguyễn Huệ tàn ngược vô đạo, lúc đó thành Phú Xuân bị chiếm, các tôn lăng của chúa Nguyễn đều bị xâm phạm”; điều này kể cũng dễ hiểu thôi, vì hai bên là kình địch. Vả lại, trong không khí chiến tranh, sự tàn sát nhau là điều khó tránh, có khi do bản năng tự tồn, có khi quá đà, nhiều lúc vì say máu lỡ tay... rất đáng tiếc; còn tính hung bạo gán cho Nguyễn Huệ, nếu có thật, chỉ là bản chất, huận tập từ nhiều đời, nhiều kiếp... rất khó có thể thay đổi.
Về tài chỉ huy quân sự của vua Quang Trung, ông Nguyễn Nhã, trong sách đã dẫn, đã viết: ”... Thực ra thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ cũng đã được người cùng thời với Nguyễn Huệ xác nhận như là một sự thực không thể chối cãi. Như các giáo sĩ (Tây phương) là những người có nhiều thành kiến, không mấy thiện cảm với quân Tây Sơn, họ lại thường ví Nguyễn Huệ như là Alexander (Alexandre le Grand) - đại đế Hy Lạp, và Atilla (vua Hung Nô/Mông Cổ?), nổi danh bách chiến, bách thắng.”
Xin độc giả tìm đọc bài “ Nguyễn Huệ, một thiên tài quân sự” để hiểu thêm về nghệ thuật cầm quân của Nguyễn Huệ.
Trong bài “:Việt Thanh chiến sử” giáo sư Hoàng xuân Hãn viết:”.. Trong cuộc Việt Thanh giao chiến, Quang Trung đã lập một vũ công đặc biệt, mà mọi sử sách ta,tuy là do những kẻ phò nội địch là Nguyễn Ánh viết nên, đều ca ngợi. Giáo sư Hãn đã trích dẫn một phần trong Càn Long chinh vũ An Nam ký của Ngụy Nguyên nói về cuộc phản công của Nguyễn Huệ:” Giặc đều chở đại bác bằng voi mà xông vào trận”, dụng ý để giải thích sự bại trận của quân Thanh.

Về cuộc tiến binh và quân số nhà Thanh, theo bản dịch-trang 142-SDD: ”... Ðường tiến binh sang An Nam có ba: một là ra qua trấn Nam Quan thuộc Quảng Tây,.. hai là bởi Khâm Châu thuộc Quảng Ðông qua bể tới núi Ô Lôi, đến phủ Hải Ðông... ba là bởi thác Hoa Liên ở huyện Mông Tự thuộc Vân Nam đi bộ tới sông Thao..
Tôn sĩ Nghị và đề đốc Hứa thế Hanh đem một vạn quân Lưỡng Quảng ra cửa quan.. Bấy giờ các thổ binh, nghĩa dũng đi theo. Tiếng rằng đại binh có vài chục vạn.”

Ở một đoạn khác, bản dịch ghi: ”tr.50/a-Nhưng Tôn sĩ Nghị tham lập công bắt Nguyễn (Huệ). Quân không rút liền, mà lại khinh địch, không đặt phòng bị, sai các thổ binh, nghĩa dũng đi tản mát, để quân ở yên trong thành nhà Lê trong hơn tháng.
Họ Nguyễn (Huệ) dò biết thật hư. Cuối năm (1788) dốc tất cả binh lực ra, lại đem quân đánh úp quốc đô (Thăng Long). Thế mà quân ta còn tin lời nói dối là tới hàng, cứ êm đềm không biết gì sốt.
Ngày mồng một tháng giêng năm sau (Kỷ Dậu) trong quân đặt tiệc rượu, bày cỗ nhạc,.Ðang đêm thình lình có tin báo rằng quân Nguyễn tới đông. Bấy giờ mới thảng thốt ngăn địch.
Giặc đều chở đại bác bằng voi mà xông vào trận.Quân ta ít chống nhiều, không địch nổi. Trong đêm tối tự dày xéo lẫn nhau.
Lê Duy Kỳ đem gia đình trốn trước. Quân Vân Nam (ở Sơn Tây) nghe tiếng súng rậy trời, cũng lui chạy.
Tôn sĩ Nghị giành qua sông Phú Lương, rồi lập tức đẵn (chặt?) cầu phao để dứt với phía sau mình. Bởi vậy, quân ở bờ Nam, đề đốc Hứa thế Hanh, tổng binh Trương triều Long trở xuống, quan binh phu dịch hơn vạn người đều bị chết đuối.
Sĩ Nghị chạy về trấn Nam Quan, đốt hoặc bỏ hết ngoài cửa quan lương thực khí giới thuốc súng vài mươi vạn (cân). Quân và ngựa trở về không đầy một nửa...
Xin lưu ý những con số này có thể bị giảm bớt để che đậy sự thất trận nhục nhã của quân nhà Thanh.
... Cuối cùng, xin trích dẫn một vài thư từ trao đổi của giáo sĩ Tây phương thời ấy, còn lưu giữ ở Văn Khố Quốc Gia Pháp-Paris, số f/5 A-22 qua bản dịch của ông Ðặng phương Nghi để kết thúc bài nhận xét ngắn này.
Trong một nhật ký của Giáo hội (Thiên Chúa giáo) Bắc Kỳ .. có ghi:
”... Hoàng đế (Càn Long) cho gửi 300.000 người vừa đi bộ lẫn đường bể sang (An Nam) cứu vua Chiêu Thống chống quân Tây Sơn..”- tr. 194-SDD.” “Ngày 17/11, một phần quân đội Trung Hoa vào thủ đô cùng với vua Chiêu Thống.... Viện binh Trung Hoa gồm độ 280.000 người, một nửa đóng trong thành phố, nửa còn lại ở bên kia sông.”
Thuật lại trận đánh Hà Hồi? nhật ký ghi”... Quang Trung... đến chung sức, khuyến khích đội ngũ ông nhưng khi thấy họ chiến đấu không được hăng hái lắm ông liền bỏ voi và dùng ngựa. Theo lời đồn, ông đeo hai cái đoản đao (gươm) và chạy ngang dọc chém rơi đầu nhiều sĩ quan và binh lính... Ông luôn mồm hô xung phong và lúc nào cũng ở trận tuyến đầu...Theo bản trần thuật sát sự thật nhất, quân Trung Hoa đã thiệt hại trong trận này hơn 10.000 người...”
Trong thư của ông La Mothe gửi ông Blandin, có đoạn ghi: ”... Ngay đến hoàng đế Trung Hoa cũng có vẻ nể vì Tân Attila (ám chỉ Nguyễn Huệ) vì ngài mới vừa phong ông làm vua Bắc Kỳ qua trung gian một vị đại sứ, quên cả việc 50.000 binh lính Trung Hoa đã chết vì tay Tiếm vương năm ngoái chỉ trong một cuộc giao chiến (thôi); trận đó quân Trung Hoa được trang bị đầy đủ khí giới, từ súng cho tới gươm và đông gấp mười quân Tiếm vương.”
Chúng tôi nghĩ những tư liệu dẫn trên đã tạm đủ nói lên sự thật về chiến thắng Xuân Kỷ Dậu và tài đức vua Quang Trung, trái với ý kiến của ông Nguyễn Gia Kiểng trong cuốn “Tổ Quốc Ăn Năn”.
NAM PHỐ & DƯƠNG HUỆ ANH 
Theo http://www.vietbang.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  “Trăm năm một thuở”: Lời tri ân sâu sắc đến người thầy của bao thế hệ 7 Tháng Tư, 2023 264 Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Giáo sư, N...