Suốt hai trăm năm nay, cứ đến mùa Xuân, trong khi hưởng thú vui ngày Tết, người
ta không quên nhắc đến chiến thắng lịch sử Kỷ Dậu (1789) với Vua Quang Trung,
một trong những anh hùng dân tộc.
Theo tư liệu đã phổ biến, như Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim... mùa xuân
Kỷ Dậu (1789) quân Tây Sơn do Vua Quang Trung cầm đầu đã bất ngờ tiến đánh
phá tan 20 vạn quân Thanh của Tôn sĩ Nghị, lúc đó đang trấn giữ miền Bắc để bảo
vệ triều đình Lê chiêu Thống. Dù cho số quân Thanh có thể ít hơn, vì không có
thống kê rõ ràng, nhưng chiến thắng lẫy lừng này chưa ai dám phủ nhận.
Gần đây, ông Nguyễn gia Kiểng, trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn (?) đã viết một bài,
bằng những suy luận riêng, - với dẫn chứng vu vơ- thâm ý có lẽ muốn làm giảm
giá trị chiến thắng này cùng vai trò của Vua Quang Trung.
Ðây là luận cứ của ông Nguyễn gia Kiểng, từ trang 155 sách đã dẫn:
“-... Thực ra các tài liệu của nhà Thanh (?) cho thấy một cách rất rõ ràng là
vua Càn Long không có ý định đánh chiếm nước ta. Không những thế vua... còn cấm
Tôn sĩ Nghị giao chiến... ý đồ của họ chỉ là dọa để Nguyễn Huệ thần phục nhà
Lê... (hay) giúp Lê Chiêu Thống có thanh thế... để chia đất với Nguyên Huệ mà
thôi!
-... Con số hai chục vạn quân Thanh cũng rất sai sự thực. Tôn Sĩ Nghị sang bằng
đưồng bộ, mà đường bộ thì bị vách núi dày đặc ngăn cách không thể di chuyển một
số quân khổng lồ như vậy.
-... Thành phố Hà Nội hồi đó có bao nhiêu dân cư? .. hai chục ngàn là cùng...
Các tài liệu còn giữ lại (?) chỉ nói quân Thanh đóng đồn ở vài làng nhỏ cạnh
Hà Nội.
Về tư liệu, NGK dẫn chứng giáo sư Ðài Loan Tưởng Quân Chương, - đã dựa vào tài
liệu của Thanh triều (?) - nói rằng: ”Tôn Sĩ Nghị đã đem sáu ngàn kỵ binh sang
Việt Nam để phô trương thanh thế và làm lễ thụ (hay tấn?) phong cho Lê Chiêu
Thống, nhưng đã bị Nguyễn Huệ đánh bất ngờ, thua chạy...” Con số này theo tôi
(NGK) là hợp lý. Tôi chưa thấy sử gia nào bác bỏ sự kiện của ông Tưởng..”
Tư liệu khác mà NGK dẫn ra là: ”Hoàng Lê Nhất Thống Chí”- HLNTC - một tiểu thuyết
lịch sử?- mà phủ đầu NGK đã gán cho là”một cuốn sách khá thuận cho Tây Sơn”.
Theo sách này, (lời NGK) thì tướng Tây Sơn, Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm bàn
với nhau rằng đánh quân Thanh không được vì dân chúng Bắc Hà ủng hộ quân
Thanh và ghét Tây Sơn... (Ðây cũng là một sự kiện rất quan trọng chứng tỏ dân
chúng không ngưỡng mộ Nguyễn Huệ như một số tác giả viết - Lời NGK).
Tư liệu khác nữa mà NGK dựa vào là thư từ của nhóm giáo sĩ ngoại quốc có mặt ở
đó (thuộc Mission apostolique en Extrême Orient), theo đấy, họ tỏ ý bênh vực
nhà Tây Sơn... ( vì) Tây Sơn không để ý đến tôn giáo. Theo một giáo sĩ mô tả lại
trận Ngọc Hồi (Ðống Ða), thì không thể(gọi) là lớn được. NGK cũng đưa ra vài
sự kiện, trích trong HLNTC.. rồi kết luận:” những dữ kiện này chứng tỏ trận Ðống
Ða chỉ là một trận nhỏ.”
Rồi NGK còn suy luận “ trong số quân Thanh kéo nhau qua sông, bị xập cầu chết,
có nhiều Hoa kiều.. vì họ chạy bộ- “ có lẽ để phù hợp với số 6 ngàn kỵ binh của
ông Tưởng Quân Chương đưa ra.
Về thân thế anh em vua Quang Trung, NGK dựa vào HLNTC cho rằng ông là con Hồ
Phi Phúc, thuộc giới giàu có, không phải xuất thân nông dân áo vải như Việt
Nam Sử Lược viết, (mà NGK cho là Trần Trọng Kim cũng dựa theo HLNTC nhưng
thêm bớt có lợi cho nhà Tây Sơn).
Theo ý NGK, “ba anh em Nhạc, Lữ, và Huệ lớn lên đi ăn cướp... Ba anh em
liên kết với hai đám cướp biển người Trung Hoa là Tập Dinh và Lý Tài và cùng
chiêu mộ nhiều người Thượng.” NGK cũng giải thích lý do các tướng Tây Sơn đều
được gọi là đô đốc, vì quân họ do đám cướp biển huấn luyện.
Cũng theo NGK, một sự kiện nổi bật mà các sử gia cố tình làm ngơ là quân Tây
Sơn thuần túy chỉ là giặc cướp, và từ lúc dấy lên.. cho đến lúc diệt Trịnh và
Nguyễn,.. họ không đưa ra bất cứ một chủ trương dựng nước nào (hịch hiệu triệu
quốc dân, chẳng hạn).. họ chỉ đánh phá và cướp bóc mà thôi, không nhân danh một
chính nghĩa nào!
Ông NGK viết: ”... Lúc đó, dù mới mười tám tuổi, Nguyễn Huệ đã bắt đồng đảng và
dân chúng gọi mình là “Ðức Ông Tám”. Cái lối tự xưng xấc xược này cũng là đặc
tính của đám thảo khấu. Nhưng dù sao, NGK cũng phải công nhận:” Nguyễn Huệ là
một tướng giỏi, nhiều công trận lại giữ mặt Bắc phòng họ Trịnh nên nắm phần lớn
quân Tây Sơn trong tay... Nguyễn Huệ mới chỉ làm vua được bốn năm, đang chuẩn
bị đánh Trung Hoa.. thì mất năm 1792).
Nguyễn Huệ là một con người hung bạo, đánh tất cả mọi ngưiời, đó là một sự thực...
Ðến cả Nguyễn Nhạc, Huệ cũng đánh. Nguyễn Huệ dùng bạo lực và sự tráo trở
trong mọi trường hợp đối với bất cứ ai có khả năng trở thành một đối thủ...
Nguyễn Huệ cũng rất tàn ác, các giáo sĩ thời ấy dù bênh Tây Sơn, cũng ghê sợ
về sự tàn ác của Nguyễn Huệ và gọi ông là một thứ “Atttila” mới. NGK còn biện
hộ cho hành động thô bạo “quật mồ” Nguyễn Huệ của Nguyễn Ánh là để báo thù sự
tàn sát họ Nguyễn và đào mả tổ tiên Nguyễn Ánh trước đây, của nhà Tây
Sơn.(?)”
Khả năng nhìn xa, trông rộng (tài dụng binh) của Nguyễn Huệ, theo NGK, cũng rất
giới hạn như trong vụ đánh Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ rồi để họ bị Nguyễn Ánh
tiêu diệt, ý đồ đánh Trung Hoa... trong khi chưa diệt tuyệt Ánh cũng bị NGK
phê là điên dại..
Sự chiến thắng Trịnh, Nguyễn... theo NGK, là do tinh thần phân hóa của dân
chúng, một phần do ảnh hưởng của đạo Gia Tô làm suy yếu lực lượng triều
đình... anh em Tây Sơn thắng không phải vì họ mạnh, mà vì thế lực địch tan rã,
(nên) không cần đánh một trận đáng kể nào
Vẫn theo NGK, một chuyên viên của Anh quốc, từ Ấn Ðộ qua quan sát, sau vụ Tây
Sơn chiếm Gia Ðịnh, 1778, đã báo cáo “chỉ cần đạo quân 100 người, có kỷ luật,
cũng đủ đánh tan toàn bộ quân Tây Sơn một cách nhanh chóng.” Nhưng ở một đoạn
khác, NGK lại nói: “Nguyễn Huệ trấn áp được thiên hạ nhờ có được một đạo
quân tinh nhuệ..” Và: ”Lý do thành công của Nguyễn Huệ là ông có một đạo quân
thực sự trong khi các đối thủ của ông không có. Những chiến thắng như vậy
không đòi hỏi một tài dụng binh nào”.
Tuy nhiên, NGK cũng công nhận: ”Ở trong Nam có trận thủy chiến tại Cần Giờ
là đáng kể. Nguyễn Huệ chỉ huy gần một trăm chiến thuyền, như vậy cũng là vài
ngàn thủy quân... Nguyễn Huệ cũng phá được quân Xiêm... (đông tới hai vạn người.)
Cả ba trận Cần Giờ, Mãn Thít và Ðống Ða đều ở rất dưới tầm cỡ của những trận
đánh thời Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi đánh đuổi quân Minh..
Nguyễn Huệ chỉ mới làm vua được gần bốn năm thì mất nên tài trị nước của ông
không thể bàn đến. Một việc triều đình của ông làm thường được ca tụng là hay
dùng chữ Nôm.Nhưng chữ Nôm thời đó đã phát triển lắm rồi. Chinh Phụ Ngâm và
Cung Oán đã ra đời trước đó. Và đã có Nguyễn Du... dụ khuyến nông... chỉ là một
dụ bình thường lập lại những gì các vị vua trước đã nói. Một biện pháp làm khổ
dân chúng rất nhiều là dùng Tín Bài, một thứ thẻ căn cước, để kiểm soát dân
chúng, trong mục đích bắt lính chuẩn bị đánh Trung Hoa... là điều mà một vị
vua sáng suốt không thể làm.”
... Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chặn đứng hẳn sự bành trướng của lãnh thổ Việt
Nam vào đất Cam Bốt.. Nếu không có anh em Tây Sơn chắc chắn nước Cam Bốt
không còn... Nhưng anh em Tây Sơn đã làm một việc khác rất lớn, rất tai hại
cho chúng ta và đã khiến chúng ta là chúng ta ngày nay: đó là phá tan và chấm
dứt hơn hai thế kỷ tiếp xúc và giao thương đầy hứa hẹn với thế giới bên
ngoài, nhất là phương Tây.
NGK có ý trách sử gia Trần Trọng Kim, khi viết Việt Nam Sử Lược, “đã không cảm
thấy có bổn phận phải tuyệt đối khách quan, và đặc biệt là đối với nhân vật
Nguyễn Huệ, ông đã để nhiều tâm tình và thiên kiến vào đó. Ông dựng đứng ra
chuyện Nguyễn Huệ ra Bắc” phù Lê diệt Trịnh”? để ca tụng Nguyễn Huệ “dứt họ
Trịnh, tôn vua Lê đem lại cương thường cho rõ ràng. Ấy là có sức mạnh mà biết
làm việc nghĩa vậy”sic”. Thật là đổi trắng thay đen! (?) Ông Trần Trọng Kim
cũng dựng đứng ra con số hai chục vạn quân Thanh, không có trong một sử liệu
nào để thổi phồng tầm vóc của trận Ðống Ða và ca tụng Nguyễn Huệ “đaị phá
quân Thanh”.
NGK cũng ghi là: ”Trong hịch của Tôn Sĩ Nghị có nói tới năm
chục vạn, nhưng đó theo HLNTYC chỉ là tờ truyền đơn mà mục đích là hù dọa làm
mất tinh thần quân Tây Sơn. Theo NGK, chính Nguyễn Huệ đã là nguyên nhân đưa
tới việc quân Thanh sang can thiệp (không phải cứu nước, như họ Trần kể
công!).
NGK còn chê những thủ đoạn của vua Quang Trung trong việc giao thiệp với nhà
Thanh, như sang chầu, lạy phục và ôm chân Càn Long, nhưng cho Phạm Công Trị
đi thay thế.. là tự hạ mình.
Tóm lại, theo NGK, chiến thắng quân Thanh... binh Trịnh, binh Nguyễn... của
Nguyễn Huệ không giá trị bao nhiêu, và có thể ông còn làm hại cho quyền lợi đất
nước (nhà Thanh mượn cớ can thiệp, ngưng cuộc Nam tiến...)
Tổng luận, theo NGK, thiên tài quân sự và những đức độ nhân ái, anh minh... của
Nguyễn Huệ theo lịch sử... chỉ là sự xuyên tạc, có dụng ý.
Thực sự, phải hiểu lịch sử như thế nào?
Trước hết, ông NGK không đưa ra được một tư liệu nào rõ ràng, khả tín để chứng
minh những phán xét của ông. Về sử liệu nhà Thanh, ông dựa vào để quyết đoán
mà không đưa ra bằng chứng cụ thể nào; bộ Hoàng Lê Nhất Thống Chí (HLNTC) ông
thường viện dẫn, thực ra là một tiểu thuyết lịch sử (dân gian) khó tin cậy;
còn những lá thư của nhóm giáo sĩ (có tính cách riêng tư) nghĩ cũng ít giá trị
thuyết phục.
Ðiều dễ nhận thấy là ông NGK hình như có chủ ý làm giảm giá trị chiến thắng của
nhà Tây Sơn, và hạ thấp vai trò lãnh đạo của vua Quang Trung.
Không hiểu ông căn cứ vào tài liệu nào của nhà Thanh để quyết đoán là vua Càn
Long không có ý định đánh chiếm nước ta. NGK cũng cả quyết “con số hai chục vạn
quân Thanh rất xa sự thực” mặc dầu ông viết, theo” hiệu triệu của Tôn Sĩ Nghị
có tới 50 vạn quân Thanh kéo sang” nước ta. Ông lý luận là vì Tôn qua bằng đường
bộ nên không thể đưa nhiều quân sang. Nhưng theo những sử liệu Việt Nam hiện
có, (và ngay cả HLNTC mà ông thường dựa vào), quân Tôn Sĩ Nghị kéo sang bằng
ba đường thủy bộ, như những cuộc xâm lăng các triều đại trước đây (Tống,
Nguyên, Minh...). Ông chỉ căn cứ vào lời của một giáo sư Ðài Loan - Tôn đem 6
ngàn kỵ binh qua Việt Nam- để tin chắc là: ”Con số này... là hợp lý.”
NGK dẫn lời của một giáo sĩ Tây phương viết trong thư riêng để phán đoán” “trận
Ðống Ða chỉ một là trận nhỏ” nhưng quên rằng chiến thắng Xuân Kỷ Dậu bao gồm
nhiều mặt trận ở nhiều địa phương.
NGK tính số binh sĩ khiêng tấm mộc đỡ tên đi trước (20 tấm, mỗi tấm 30 người
theo sau) để kết luận quân số chỉ chừng 600, không hiểu rằng đó chỉ là những
đội tiền phong, sau họ còn vô số những hàng ngũ khác tiến theo.
NGK dựa vào con số 20 kỵ binh mà Tôn phái đi cùng quân cứu viện, để quyết
đoán số quân tham chiến là ít, nhưng chắc ông không để ý là trong các viện
binh có cả đạo quân Quảng Tây của tướng Dương (hay Thang?) Hùng Nghiệp.
Ðiều NGK nói đúng là theo sử liệu, “lúc ấy quân Tây Sơn không được lòng dân
chúng Bắc Hà”, kể cũng dễ hiểu, vì qua hơn 200 năm trị vì của nhà Lê, dù sao,
dân Bắc Hà cũng còn chút lưu tình, nhưng việc quân Tây Sơn theo kế của Ngô
Thì Nhậm đồng kéo thủy bộ về trấn giữ Tam Ðiệp là một chiến thuật hợp lý và
khôn ngoan.
Theo thiển ý, Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim dù chỉ là sơ lược, ít nhất
cũng đã căn cứ vào 26 tác phẩm Hán, Quốc ngữ và Pháp văn, trong đó có Ðại Việt
Sử Ký, Khâm định Việt sử Thông giám, Lịch triều Hiến chương,đại Nam thực lục,
Trung quốc sử, Thanh triều sử ký... nên có giá trị khả tín- hơn là Hoàng Lê
Nhất Thống Chí, gần như là tiểu thuyết.
Gần đây, một số tài liệu mới về vua Quang Trung được phổ biến trong tuyển tập
“Một vài sử liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ”, đã giúp cho việc nghiên cứu sử
cận đại được thêm dễ dàng. Sách gồm có 10 bài sưu khảo của các tác giả Tạ
quang Phát, Tạ chí Ðại Trường, Hoàng xuân Hãn, Ðặng phương Nghi..
Trong bài “Vua Quang Trung qua chính sử của triều Nguyễn” do Tạ quang Phát dịch
từ phần Ngụy Tây Liệt Truyện, trong Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện (tập sơ,
q.30, trang 17b - 43b), chúng tôi nhận thấy dù Quang Trung là kẻ thù của Gia
Long, nhưng sử nhà Nguyễn cũng không thể phủ nhận hết những ưu điểm của vị
anh hùng dân tộc này. Theo bản dịch: ”... Nguyễn văn Huệ là em của Nguyễn Văn
Nhạc, tiếng nói như tiếng chuông to, mắt lập lòe như ánh điện, là người giảo
hoạt, đánh trận rất giỏi, người người đều sợ Huệ.. Nguyễn Huệ đã bốn lần đánh
phá Gia Ðịnh, lâm trận đi đầu các quân sĩ, hiệu lịnh rất nghiêm minh, quân sĩ
đều kính phục...”: Nguyễn Huệ tỏ ra giỏi thuật dụng binh, như trong vụ cướp thành Phú Xuân, đã
“cho một thuật sĩ đến lấy việc họa phúc để mê hoặc” tướng trấn thủ (Phạm ngô
Cầu)-không khác gì mấy lãnh tụ miền Nam trước đây. Trước lời khuyên nên thừa
cơ đem quân ra đánh Bắc Hà (vì hết nhân tài, trừ Nguyễn hữu Chỉnh), Nguyễn Huệ
tỏ vẻ thận trọng, đã đáp lại: ”Bắc Hà nhân tài nhiều nhất, há lại có thể khinh
dẻ?”. Ông cũng tỏ ra biết phải trái, nhân nghĩa, khi ngỏ ý: ”Một nước dựng từ
mấy trăm năm, một sớm mà mình trộm đoạt lấy, thì người ta bảo đạo quân ấy ra
sao?”. Nhưng cuối cùng, Nguyễn Huệ biết quyền biến , lợi dụng thời cơ, không
chờ lịnh Nguyễn Nhạc, lấy danh nghĩa Phù Lê, diệt Trịnh tiến quân sấm sét,
đánh chiếm Bắc Hà lần thứ nhất.
Khi chúa Trịnh Khải bị bắt, đã tự vẫn trên đường đến doanh
trại địch, Nguyễn Huệ đã vỗ thây Khải, nói: ”Ðáng tiếc cho một hảo nam tử, lúc
đầu nếu sớm đầu hàng thì hẳn không mất phú quý, sao lại tự hủy mạng?”. Rồi
cho lấy lễ bậc vương tống táng Trịnh Khải. Như vậy, cách Nguyễn Huệ cư sử
cũng không thiếu tình người, mặc dù, ông NGK cứ nhất định cho anh em Nhạc, Huệ
là bọn trộm cướp.
Nguyễn Huệ cũng tỏ là người cơ trí trong những vụ bố trí đối phó với Nguyễn hữu
Chỉnh và Vũ văn Nhậm, và đục thuyền giết Trần công Xán.. xem ra có vẻ tàn nhẫn,
nhưng đã ở trong thời chiến (giết hay bị giết) thì hình như cũng khó ai tránh
khỏi hành động này. Nguyễn Huệ cũng có con mắt tinh đời, khi biết sử dụng những
nhân tài của nhà Lê như Ngô thì Nhậm, Phan huy Ích..
Theo biểu sớ bắt được từ Tôn sĩ Nghị, khi vua Lê Chiêu Thống cho người qua cầu
cứu với quan viên nhà Thanh, Tôn sĩ Nghị đã tâu lên vua Càn Long (Cao Tôn):”An
Nam là đất cũ của Trung Quốc, nếu sau khi khôi phục cho nhà Lê rồi, ta nhân
đó cho binh đồn thú đất An Nam luôn. Ðó là giúp họ Lê và được luôn An Nam thật
là lưỡng đắc”. Như thế rõ ràng nhà Thanh đã có dã tâm lợi dụng tình thế để
đánh chiếm nước ta, trong khi NGK cứ cả quyết biện luận cho họ, kể cũng lạ.
Theo sử Nguyễn, Tôn sĩ Nghị vâng chiếu đem hai mươi vạn quân bốn tỉnh Quảng
Ðông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu sang nước Nam qua hai ngả Lạng Sơn (Tôn sĩ
Nghị) và Tuyên Quang (Tổng binh Qúy Châu), rõ ràng không phải chỉ có sáu ngàn
kỵ binh như ông NGK đã tin tưởng.
Về trận phá quân Thanh, sử nhà Nguyễn thuật lại như sau:
”... Nguyễn Huệ liền hạ
lịnh cất quân.Các tướng đều khuyên: “Trước tiên nên chính ngôi vị để kết chặt
lòng người.” Nguyễn Huệ bèn cho đắp đàn ở phía Nam núi Ngự Bình, lấy ngày 25
tháng 11 năm Mậu Thân (1788) tự lập làm Hoàng đế, đổi niên hiệu là Quang
Trung. Liền ngày ấy vua Quang Trung đem các tướng sĩ thủy bộ cùng tiến ra Bắc.
Ngày 29/11, đến Nghệ An, vua Quang Trung cho dừng lại hơn mười ngày để tăng
quân số. Dân Nghệ An cứ ba đinh tráng thì lấy một. Thân binh Thuận Quảng được
chia làm bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu. Tân binh Nghệ An làm Trung quân, Binh
Ðắc thắng? được hơn mười vạn (100.000), voi trận mấy trăm thớt...
Ngày 20 tháng chạp vua Quang Trung đến núi Tam Ðiệp .....
Năm quân đều lãnh quân lịnh. Ðến ngày trừ tịch (cuối năm) quân Nam qua sông
Giản Thủy. Quân của Hoàng phùng Nghĩa, tướng nhà Lê trấn thủ Sơn Nam đầu tiên
bị tan vỡ. Quân tình báo của giặc Thanh đều bị giết sạch để dứt tuyệt tin tức.
Từ Ô Môn thuộc Thăng Long đến Hạ Hồi thuộc Thượng Phúc, giặc Thanh dựng đồn
liền nhau, gác đại bác, ngoài đồn thì chôn địa lôi, phòng bị rất kiên cố.
Nửa đêm mùng 3 tháng giêng xuân Kỷ Dậu (1789) quân Nam đã đến Hà Hồi bí mật
vây kín lấy đồn, dùng ống loa truyền lịnh, quân sĩ dạ rần nghe như gần mấy
muôn binh. Quân giặc trong đồn run sợ, không đánh mà tự vỡ tan; quân Nam đoạt
hết quân tư, khí giới.
Hừng sáng mùng 5 quân Nam tiến lũy Ngọc Hồi. Trên lũy đạn bắn xuống như
mưa.Vua Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ lấy ván gỗ núp mà xung vào trận. Vua
Quang Trung tự đánh voi đốc quân ở phía sau.
Quân Nam đã phá được cửa lũy, liền bỏ ván gỗ xuống đất, dùng đoản đao đánh giết.
Quân giặc Thanh chống không nổi, tan rã bỏ chạy tứ phía mắc vào bẫy ngầm, địa
lôi phát nổ, tử thương rất nhiều. Vua Quang Trung giục trống thúc quân đuổi
nà (?) phá luôn mấy đồn Văn Ðiển, An Quyết. Ðề đốc Hứa thế Hanh, Tổng binh
Trương triều Long, Thượng duy Thăng, Tri phủ Ðiền Châu, Sầm nghi Ðống đều tử
trận.]
Tôn sĩ Nghị ở Sa Châu nghe báo, một người một ngựa chạy về hướng Bắc, tướng
sĩ tranh đua qua cầu, khiến cầu phải gẫy mà rơi xuống nước chết đuối gần muôn
người. Nước sông Nhĩ Hà không chảy được vì thây quân giặc Thanh chận lấp.
Ngày ấy vua Quang Trung xua quân vào thành. Chiến bào của vua biến thành màu
đen xạm vì thuốc súng.
... Vua Quang Trung cho quân đuổi theo đến cửa ải Lạng Sơn, và lên tiếng sẽ vượt
ải đuổi theo giết sạch không sót mạng nào và để tìm tung tích vua Chiêu Thống.
Người Tàu nhà Thanh kinh hoảng, từ cửa ải trở về Bắc, già trẻ dìu nhau chạy
trốn. Hàng mấy trăm dặm tuyệt nhiên người và khói bếp lạnh tanh. Ðạo quân Vân
Nam và Quý Châu vừa kéo xuống Sơn Tây, nghe tin Tôn sĩ Nghị đại bại, cũng
tìm đường trở về.
Vua nhà Thanh liền xuống chỉ cho quan Nội các Phúc Khang An thay Tôn sĩ Nghị
làm tổng đốc Lưỡng Quảng, đề đốc binh mã chín tỉnh, điều binh 50 vạn (500000)
nội ngày ấy đến Nam Quan kinh lý việc An Nam.
... Khi Tôn sĩ Nghị dìu dắt nhau chạy về Bắc, các sắc thư của hắn mang theo đều
rơi rớt dọc đường. Vua Quang Trung thu được, nói với Ngô thì Nhậm: ”... Việc
giúp nhà Lê không phải ở bản tâm chân thật, mà chỉ mượn đó là danh nghĩa để
mưu lợi. Nay sau khi thua trận, họ tất cho là nhục, hẳn là không chịu dứt can
qua. Nhưng hai nước giao binh cũng không phải cái phúc cho nhân dân. Nay chỉ
khéo ở lời thù tiếp ngoại giao mới có thể dứt được đao binh. Việc này phải do
khanh chủ trương.”
Những sự kiện nói trên nói gì nếu không là chứng tỏ đức nhân, trí và mưu thuật
của vua Quang Trung hết lòng vì nước vì dân, dù có khi phải dùng lời lẽ uyển
chuyển, có vẻ tự hạ mình qua văn từ, đâu có gì đáng chê trách như ý ông NGK?
Về việc đòi lại Lưỡng Quảng, sử nhà Nguyễn cũng nhắc đến:”
Vua Quang Trung thường nói với các tướng: - Ðược thêm vài năm bồi dưỡng uy lực,
nhuệ khí ta nào sợ chúng”.
Năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung sai làm tờ biểu cầu hôn (công chúa nhà
Thanh) để thăm dò ý vua Thanh và cũng để mượn cớ gây hấn. Nhưng vua lại bịnh
mà việc ấy phải thôi. (Nhà vua mất ngày 29 tháng chín năm Nhâm Tý (1792) ở
ngôi được 4 năm.)”
Cuối cùng, sử gia triều Nguyễn kết tội” Nguyễn Huệ tàn ngược vô đạo, lúc đó
thành Phú Xuân bị chiếm, các tôn lăng của chúa Nguyễn đều bị xâm phạm”; điều
này kể cũng dễ hiểu thôi, vì hai bên là kình địch. Vả lại, trong không khí
chiến tranh, sự tàn sát nhau là điều khó tránh, có khi do bản năng tự tồn, có
khi quá đà, nhiều lúc vì say máu lỡ tay... rất đáng tiếc; còn tính hung bạo
gán cho Nguyễn Huệ, nếu có thật, chỉ là bản chất, huận tập từ nhiều đời, nhiều
kiếp... rất khó có thể thay đổi.
Về tài chỉ huy quân sự của vua Quang Trung, ông Nguyễn Nhã, trong sách đã dẫn,
đã viết: ”... Thực ra thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ cũng đã được người cùng
thời với Nguyễn Huệ xác nhận như là một sự thực không thể chối cãi. Như các
giáo sĩ (Tây phương) là những người có nhiều thành kiến, không mấy thiện cảm với
quân Tây Sơn, họ lại thường ví Nguyễn Huệ như là Alexander (Alexandre le
Grand) - đại đế Hy Lạp, và Atilla (vua Hung Nô/Mông Cổ?), nổi danh bách chiến,
bách thắng.”
Xin độc giả tìm đọc bài “ Nguyễn Huệ, một thiên tài quân sự” để hiểu thêm về
nghệ thuật cầm quân của Nguyễn Huệ.
Trong bài “:Việt Thanh chiến sử” giáo sư Hoàng xuân Hãn viết:”.. Trong cuộc
Việt Thanh giao chiến, Quang Trung đã lập một vũ công đặc biệt, mà mọi sử
sách ta,tuy là do những kẻ phò nội địch là Nguyễn Ánh viết nên, đều ca ngợi.
Giáo sư Hãn đã trích dẫn một phần trong Càn Long chinh vũ An Nam ký của Ngụy
Nguyên nói về cuộc phản công của Nguyễn Huệ:” Giặc đều chở đại bác bằng voi
mà xông vào trận”, dụng ý để giải thích sự bại trận của quân Thanh.
Về cuộc tiến binh và quân số nhà Thanh, theo bản dịch-trang 142-SDD: ”... Ðường
tiến binh sang An Nam có ba: một là ra qua trấn Nam Quan thuộc Quảng Tây,..
hai là bởi Khâm Châu thuộc Quảng Ðông qua bể tới núi Ô Lôi, đến phủ Hải Ðông... ba là bởi thác Hoa Liên ở huyện Mông Tự thuộc Vân Nam đi bộ tới sông
Thao..
Tôn sĩ Nghị và đề đốc Hứa thế Hanh đem một vạn quân Lưỡng Quảng ra cửa quan..
Bấy giờ các thổ binh, nghĩa dũng đi theo. Tiếng rằng đại binh có vài chục vạn.”
Ở một đoạn khác, bản dịch ghi: ”tr.50/a-Nhưng Tôn sĩ Nghị tham lập công bắt
Nguyễn (Huệ). Quân không rút liền, mà lại khinh địch, không đặt phòng bị, sai
các thổ binh, nghĩa dũng đi tản mát, để quân ở yên trong thành nhà Lê trong
hơn tháng.
Họ Nguyễn (Huệ) dò biết thật hư. Cuối năm (1788) dốc tất cả binh lực ra, lại
đem quân đánh úp quốc đô (Thăng Long). Thế mà quân ta còn tin lời nói dối là
tới hàng, cứ êm đềm không biết gì sốt.
Ngày mồng một tháng giêng năm sau (Kỷ Dậu) trong quân đặt tiệc rượu, bày cỗ
nhạc,.Ðang đêm thình lình có tin báo rằng quân Nguyễn tới đông. Bấy giờ mới
thảng thốt ngăn địch.
Giặc đều chở đại bác bằng voi mà xông vào trận.Quân ta ít chống nhiều, không
địch nổi. Trong đêm tối tự dày xéo lẫn nhau.
Lê Duy Kỳ đem gia đình trốn trước. Quân Vân Nam (ở Sơn Tây) nghe tiếng súng rậy
trời, cũng lui chạy.
Tôn sĩ Nghị giành qua sông Phú Lương, rồi lập tức đẵn (chặt?) cầu phao để dứt
với phía sau mình. Bởi vậy, quân ở bờ Nam, đề đốc Hứa thế Hanh, tổng binh
Trương triều Long trở xuống, quan binh phu dịch hơn vạn người đều bị chết đuối.
Sĩ Nghị chạy về trấn Nam Quan, đốt hoặc bỏ hết ngoài cửa quan lương thực khí
giới thuốc súng vài mươi vạn (cân). Quân và ngựa trở về không đầy một nửa...
Xin lưu ý những con số này có thể bị giảm bớt để che đậy sự thất trận nhục
nhã của quân nhà Thanh.
... Cuối cùng, xin trích dẫn một vài thư từ trao đổi của giáo sĩ Tây phương thời
ấy, còn lưu giữ ở Văn Khố Quốc Gia Pháp-Paris, số f/5 A-22 qua bản dịch của
ông Ðặng phương Nghi để kết thúc bài nhận xét ngắn này.
Trong một nhật ký của Giáo hội (Thiên Chúa giáo) Bắc Kỳ .. có ghi:
”... Hoàng
đế (Càn Long) cho gửi 300.000 người vừa đi bộ lẫn đường bể sang (An Nam) cứu
vua Chiêu Thống chống quân Tây Sơn..”- tr. 194-SDD.” “Ngày 17/11, một phần quân
đội Trung Hoa vào thủ đô cùng với vua Chiêu Thống.... Viện binh Trung Hoa gồm
độ 280.000 người, một nửa đóng trong thành phố, nửa còn lại ở bên kia sông.”
Thuật lại trận đánh Hà Hồi? nhật ký ghi”... Quang Trung... đến chung sức,
khuyến khích đội ngũ ông nhưng khi thấy họ chiến đấu không được hăng hái lắm
ông liền bỏ voi và dùng ngựa. Theo lời đồn, ông đeo hai cái đoản đao (gươm)
và chạy ngang dọc chém rơi đầu nhiều sĩ quan và binh lính... Ông luôn mồm hô
xung phong và lúc nào cũng ở trận tuyến đầu...Theo bản trần thuật sát sự thật
nhất, quân Trung Hoa đã thiệt hại trong trận này hơn 10.000 người...”
Trong thư của ông La Mothe gửi ông Blandin, có đoạn ghi: ”... Ngay đến hoàng đế
Trung Hoa cũng có vẻ nể vì Tân Attila (ám chỉ Nguyễn Huệ) vì ngài mới vừa
phong ông làm vua Bắc Kỳ qua trung gian một vị đại sứ, quên cả việc 50.000
binh lính Trung Hoa đã chết vì tay Tiếm vương năm ngoái chỉ trong một cuộc
giao chiến (thôi); trận đó quân Trung Hoa được trang bị đầy đủ khí giới, từ
súng cho tới gươm và đông gấp mười quân Tiếm vương.”
Chúng tôi nghĩ những tư liệu dẫn trên đã tạm đủ nói lên sự thật về chiến thắng
Xuân Kỷ Dậu và tài đức vua Quang Trung, trái với ý kiến của ông Nguyễn Gia Kiểng
trong cuốn “Tổ Quốc Ăn Năn”.
NAM PHỐ & DƯƠNG HUỆ ANH
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét