1/ Vũ Bằng là một cây bút sở trường về truyện ngắn, tùy bút và
bút ký. Văn của ông vừa có nét tinh tế, đặc sắc của một cây bút am hiểu tường tận
về cuộc sống, vừa có cái đằm thắm, mặn mà của một tâm hồn yêu thương quê hương
đất nước tha thiết, nồng nàn. Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt là một sáng
tác tiêu biểu cho văn phong Vũ Bằng.
Thiên tùy bút Tháng riêng mơ về trăng non rét ngọt mở đầu bằng
những cảm xúc rạo rực, ngất ngây của nhà văn trước mùa xuân Bắc Việt.
Trong dòng cảm xúc của Vũ Bằng, không khí và cảnh sắc mùa
xuân đất Bắc trong những ngày đầu tháng giêng hiện lên thật đẹp- một vẻ đẹp
riêng biệt, độc đáo khó quên. Đó là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh,
có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn
xóm xa xa, có cầu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng…
Chao ôi, cái mùa xuân Bắc Việt, có lẽ là cái không khí và cảnh
sắc mùa xuân trước năm 1945 được gợi nhớ lại trong lòng một người con xa quê
như Vũ Bằng. Nó gợi ta nhớ đến những câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Bính:
Bữa ấy mưa xuân lất phất bay
Hoa xoan lớp lớp rụng
Vơi đầy hội chèo làng Đặng đi qua ngõ
Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay
(Mưa xuân)
Mùa xuân về đem đến bao sự đổi thay kỳ diệu, làm bừng lên bao
sắc xuân, và nhất là trỗi dậy bao sức sống trong lòng người. Nó làm cho người
ta muốn phát điên lên, muốn mở cửa đi ra ngoài, muốn có cái thú giang hồ đó đây
mà thưởng ngoạn mùa xuân, cảm thấy không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa. Mùa xuân
làm cho nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng trong lộc của loài nai,
như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải chồi ra thành những
cái lá nhỏ li ti. Đặc biệt, mùa xuân về làm cho người ta “sống” lại và “thèm
khát yêu thương.
Mùa xuân về khiến cho không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, lòng
người ấm lạ, ấm lùng, và trong lòng thì cảm thấy như có không biết bao nhiêu là
hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan.
Đó là cảm xúc say mê, rạo rực đến ngất ngây của một con người
luôn khát khao mong chờ mùa xuân, đón nhận mùa xuân với tất cả tình yêu nồng
nhiệt của mình. Giọng văn sôi nổi, tha thiết của Vũ Bằng đã truyền sang người đọc
khiến ta hình như cũng thấy rạo rực và ngất ngây.
Một mùa xuân thật đẹp (mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc
Việt thương mến) được cảm nhận bằng một tâm hồn rất tinh tế và nhạy cảm của Vũ
Bằng. Dường như tác giả đã hoà nhập lòng mình vào cảnh, để thấy được cái mưa
riêu riêu, gió lành lạnh, cả tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng chèo vọng
lại từ những thôn xóm xa xa và cả âm điệu trữ tình sâu lắng, ngọt ngào của câu
hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng.
Không chỉ cảm nhận mùa xuân bằng những giác quan quen thuộc,
nhà văn còn cảm nhận mùa xuân bằng tất cả những giác quan, những cảm xúc đặc biệt
nhất của tâm hồn. Sự cảm nhận ấy được diễn tả bằng những câu văn rất giàu hình ảnh
và gợi cảm với một loạt các hình ảnh so sánh liên tưởng đầy ấn tượng: “Thú
giang hồ” được cảm nhận êm ái nhớ nhung; nhựa sống trong lòng người căng lên được
ví như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nầm im mãi
không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp
uyên ương đứng cạnh; tình cảm gia đình đầm ấm khiến lòng người vui sướng được
nhà văn liên tưởng với cảnh không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở
hội liên hoan.
Ngòi bút của nhà văn đặc biệt tinh tế khi miêu tả cảnh sắc và
không khí mùa xuân từ sau ngày rằm tháng giêng. Con mắt tinh tường của ông đã
phát hiện ra những chuyển biến (dù rất là nhỏ) của màu sắc và không khí bầu trời,
mặt đất, cây cỏ trong một thời gian ngắn ngủi từ đầu tháng qua rằm: Đào hơi
phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh nhưng lại nức một mùi hương
man mát; bầu trời không còn đừng đục như màu pha lê mờ, sáng dậy thấy những vệt
xanh tươi hiện ra ở chân trời chuyển sang trong trong có những làn sóng hồng
rung động như cánh con ve mới lột; trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã
bay đi kiếm nhị hoa.
Cảnh sắc mùa xuân vốn đã đẹp vì mưa riêu riêu, gió lành lạnh,
tiếng trống chèo, câu hát huê tình, đến đây càng đẹp hơn. Đến mức chính tác giả
cũng phải thốt lên: Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – Mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của
Bắc Việt thương mến.
Mùa xuân ấy lắng động mãi, ngân nga mãi trong lòng người, để
hôm nay, xa quê hương, một nỗi niềm như thương quê hương đến cồn cào, da diết cứ
dâng lên hoá thành dòng cảm xúc ngọt ngào tươi mát, đằm thấm, dệt nên thiên tuỳ
bút kiệt tác này.
2/ Chúng ta từng biết và cảm thông với tấm lòng của những người
phải sống xa quê hương, trĩu nặng tình quê trong thơ Đường của Lí Bạch, Đỗ Phủ,
Hạ Tri Chương,… Ở Việt Nam, cách đây không lâu cũng có một nghệ sĩ do hoàn cảnh
riêng và yêu cầu công tác cách mạng phải xa rời quê hương miền Bắc vào sống ở
miền Nam mấy chục năm trời, nhà văn Vũ Bằng - một nhà văn từng nổi tiếng từ trước
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tấm lòng của Vũ Bằng đối với quê hương đã được gửi
gắm trong tác phẩm tùy bút - bút ký đặc sắc Thương nhớ mười hai mà đoạn trích
Mùa xuân của tôi là tiêu biểu.
Đoạn trích Mùa xuân của tôi là một phần trong thiên tùy bút
dài có tên Tháng giêng mơ về trăng non, rét ngọt, mở đẩu cho nỗi "thương
nhớ mười hai" của nhà văn Vũ Bằng. Đoạn trích đã tái hiện cảnh sắc thiên
nhiên và không khí mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc qua nỗi nhớ thương da diết của
một người xa quê. Vì là đoạn trích từ một thiên tuỳ bút nên không có bố cục
hoàn chỉnh của một tác phẩm. Tuy vậy, đọc bài văn Mùa xuân của tôi, chúng ta vẫn
hiểu và suy ngẫm về ý nghĩ và tình cảm của tác giả theo ba đoạn nhỏ:
Đoạn mờ đầu: từ đầu đến "… mê luyến mùa xuân": Con
người say mê lưu luyến mùa xuân là một điều tất yếu, tự nhiên.
Đoạn thứ hai: từ "Tôi yêu sông xanh…" đến "… mớ
hội liên hoan": Cảnh sắc và không khí mùa xuân ở Hà Nội, miền Bắc.
Đoạn ba: từ "Đẹp quá đi…" đến hết bài: Cảnh sắc,
đất trời mùa xuân miền Bắc từ sau rằm tháng giêng.
"Mùa xuân của tôi -mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội…". Ở
phần đầu đoạn hai, nhà văn Vũ Bằng đã nhớ về quê hương bằng một câu văn ngân
nga như những tiếng reo vui như thế. Sau đó, qua hồi tưởng của ông, cảnh sắc và
không khí ngày tết - mùa xuân Hà Nội - hiện ra đẹp quá, vui quá, đáng yêu, đáng
nhớ làm sao. Tín hiệu báo xuân về là: "Mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có
tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm
xa xa, có câu hát huê tình…". Mưa riêu riêu là mưa thế nào ? Tiếng hát huê
tình là gì? Mưa riêu riêu là mưa phùn, hạt nhỏ, kéo dài, mưa xuân âm ẩm, mát
lành. Tiếng hát huê tình là tiếng hát tỏ tình, tiếng hát của trai gái yêu nhau…
Trước cảnh sắc mùa xuân như thế, nhà văn Vũ Bằng - người đang sống ly hương - đã nhớ kỷ niệm xưa của mình và sống lại, kể lại bằng những câu văn trữ tình đàm
thắm. Nào là "Người yêu cảnh… khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu mở
cửa đi ra ngoài… không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa… sự sống!". Nào là "Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ớ trong người căng
lên như máu căng lên trong lộc của loài nai…". Nào là "Cùng với mùa
xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn… Y như những
con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy
nhót kiếm ăn, anh cũng "sống lại" và thèm khát yêu thương. Ra ngoài
trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa…".
Có thể nói, đối với mùa xuân quê hương, nhà văn Vũ Bằng mang một tình yêu nồng
nàn, đằm thắm. Ông đã tự vẽ lại hình ảnh của chính mình khi còn sống ở Hà Nội với
biết bao lời văn, bao cách so sánh đẹp đẽ. Ngỡ như, trước mùa xuân, ông đã hoá
thân thành muôn loài cỏ cây, muông thú để được tắm trong mùa xuân, hưởng thụ tất
cả sức sống tràn trề của mùa xuân để lớn lên, trẻ lại cùng mùa xuân. Đoạn văn
xuôi tuỳ bút, ngẫu hứng y như đoạn thơ trữ tình mà ở đó, cái tôi nhà văn trở
thành một thi sĩ đa tình, say đắm, đáng cảm thông. Đọng lại của cảnh sắc mùa
xuân Hà Nội và nỗi nhớ quê hương của Vũ Bàng là hình ảnh gia đình người Hà Nội
bày cỗ đón xuân, bái vọng tổ tiên trở vể vui xuân cùng con cháu : "Nhang
trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới
nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng
anh ấm lạ ấm lùng…". Cảnh sắc mùa xuân không chỉ hiện lên bằng vẻ đẹp
thiên nhiên mà còn hiện lên bằng nhũng nét đẹp trong cuộc sống nghĩa tình của
con người. Đó là nét văn hoá truyền thống của thủ đô Hà Nội, của đất Bắc, của
Việt Nam quê hương chúng ta.
Cảm nhận và ngợi ca quê hương miền Bắc mùa xuân bằng đoạn vãn
phóng túng vừa miêu tả vừa tự sự, miêu tả để biểu cảm, ngòi bút Vũ Bằng như
không muốn dừng lại. Do đó, xuống đoạn ba, ông tiếp tục khẳng định: "Đẹp
quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thươne mến".
Sau đó, cảm xúc và bút lực như lắng lại, trầm tĩnh hơn. Nhà văn tâm sự:
"Tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng…". Đến
đây, nhà văn phát hiện một vẻ đẹp khác nữa của mùa xuân đất Bắc. Đó là vẻ đẹp của
sự hồi sinh, của đất trời, cây cỏ trổ lộc, đơm hoa, kết trái. "Đào hơi
phai, nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh, nhưng… lại nức một mùi
hương man mác… mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn… Trên giàn hoa lí, vài
con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa… người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản
dị… các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm
đềm thường nhật…". Những hình ảnh thiên nhiên từ sau ngày rằm tháng giêng
không sôi động, rực rỡ bằng những ngày Tết mà như đang bình tĩnh trở lại, đang
tích tụ, chưng cất sức sống của mùa xuân để nối tiếp cuộc tuần hoàn kì diệu
trong đời sống con người và đất trời, cây cỏ. Ở đoạn này, cái tôi nhà văn không
trực tiếp hiện ra như ở đoạn trên mà đang nằm dài nhìn ra cửa sổ… để chiêm ngưỡng,
để nhớ thương, và khao khát ngày mai trở lại quê hương, về gặp lại mùa xuân đất
Bắc. Từ tình yêu mùa xuân thiên nhiên, tấm lòng thương nhớ quê hương, lòng yêu
Tổ quốc của nhà văn Vũ Bằng mỗi lúc một đắm sâu, thấm thìa. Từ ngữ, câu văn,
các biện pháp tu từ mỏi lúc một chắt lọc, vừa chính xác vừa in đậm phong cách
văn chương của tác giả, rất tài hoa, phóng túng.
Có thể nói, chỉ qua đoạn trích ngắn Mùa xuân của tỏi, chúng
ta đủ hiểu và cảm thông tấm lòng của nhà văn Vũ Bằng đối với quê hương, Tổ quốc.
Cảnh sắc thiên nhiên, khônq khí mùa xuân ở Hà Nội, miền Bắc đã được ông cảm nhận,
tái hiện trong nổi nhớ thương da diết của một người xa quê. Qua đó, bài tuỳ bút
biểu lộ chân thực và cụ thể tình quê hương, đất nước, lòng yêu cuộc sống và tâm
hồn tinh tế, nhạy cảm, ngòi bút tài hoa của tác giả. Và cũng qua đó, chúng ta
hiểu phần nào giá trị của tập tùy bút - bút ký nổi tiếng Thương nhớ mười hai của
Vũ Bằng, đúng như Tô Hoài nhận xét: "Thương nhớ mười hai là một nét anh
hoa của tấm lòng với cuộc đời". Đọc tuỳ bút Vũ Bằng, chúng ta nhớ lại hai
thiên tuỳ bút đã được học : Một thứ quà của lúa non: Cốm (Thạch Lam), Sài Gòn
tôi yêu (Minh Hương), ở một mức độ nào đấy, hai thiên tuỳ bút nói trên cũng đều
là những nét anh hoa của tấm lòng các nhà văn đối với cuộc đời. Tùy bút quả là
một thê văn xuôi trữ tình vô cùng thú vị…
3/ Có lẽ mùa xuân là đề tài gợi nhắc nhiều xúc cảm đối với văn
nghệ sĩ. Vũ Bằng là một trong số cây bút viết hay, viết sâu sắc về mùa xuân bằng
giọng thơ tinh tế và đầy chất thơ. Với sở trường tùy bút và bút ký ông đã vẽ
nên bức tranh mùa xuân đất bắc tuyệt vời qua “Mùa xuân của tôi”.
“Mùa xuân của tôi” là dòng tản mạn ghi chép lại những xúc cảm
sâu lắng và ngọt ngào nhất của Vũ Bằng về mùa xuân, về những giao thoa của đất
trời khi bước sang một năm mới, một mùa mới ấm áp. Với giọng văn nhẹ nhàng, dìu
dặt, tác giả đã kéo người đọc về với những mùa xuân bình yên, tươi đẹp, căng
tràn sức sống. Bởi rằng mùa xuân là mùa đẹp nhất, thi vị và duyên dáng nhất
trong một năm.
Trải dọc bài thơ chính là tấm chân tình của tác giả dành cho
mùa xuân đất bắc. Sự hòa quyện với thiên nhiên, với đất trời, với con người.
Từ những câu văn đầu tiên, tác giả đã vẽ nên đặc trưng của thời
tiết và khí xuân miền Bắc với “mưa rêu rêu gió lành lạnh” không nơi nào có được.
Chính đặc trưng này làm nền tảng để tác giả có thể vẽ thêm nhiều vẻ đẹp khác
nhau nữa. Những thanh âm như tiếng nhạn kêu, câu hát huê tình quyện với sự ấm
áp của nhang trầm, của không khí đoàn tụ gia đình khiến tác giả thổn thức nhớ
thương. Có lẽ chính những điều ấm áp và bình dị đó khiến tác giả không nguôi
khi nhớ về.
Mùa xuân đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên nhưng chính từ lòng người
cũng toát lên vẻ đẹp quyến rũ, nồng nàn đó. Tác giả đã viết “Ngồi yên không chịu
được. Nhựa sống trong người căng lên như máu”. Mùa xuân khiến cho trái tim con
người muốn cựa quậy, muốn thổn thức và muốn bùng cháy. Xuân đến “tim người ta
dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn những ngày đông giá”. Cái rét của
mùa xuân là cái rét ngọt ngào từ không “căm căm” như mùa đông xứ Bắc nữa.
Vũ Bằng ới những cảm nhận tinh tế, ngôn ngữ giàu chất thơ và
nhiều hình ảnh so sánh mới lạ đã khiến người đọc hồi tưởng về những mùa xuân đã
qua, mùa xuân của quê hương, của lòng người mênh mang.
Và xuân đến, tháng giêng chính là biểu tượng tươi đẹp nhất,
cũng là nơi hội tụ của những vẻ đẹp ngọt ngào. Như Xuân Diệu từng nói “Tháng
giêng ngon như một cặp môi gần”. Trong văn Vũ bằng không ngọt ngào, hối hả như
Xuân Diệu nhưng lại đằm thắm và da diết nhất khiến cho người đọc lâng lâng, mê
đắm. Khi tháng giêng về cũng là lúc đất trời bắt đầu có sự chuyển giao kì diệu
và đầy tinh tế. Nét đẹp tháng giêng đất bắc là nét đẹp dịu dàng mà đằm thắm, có
sự hòa quyện giữa con người với thiên nhiên đất trời. Và có lẽ lòng người cũng
đồng điệu theo những nhịp điệu của mùa xuân.
Thật vậy “mùa xuân của tôi” của Vũ Bằng là những dòng cảm xúc
nhẹ nhàng, tinh khôi và đầy tươi mới nhất khi viết về mùa xuân,. Nó gợi nhắc
cho người đọc về những thanh âm trong trẻo và ngọt lành của mùa xuân tươi đẹp.
4/ Mùa xuân là mùa đoàn tụ là mùa mọi người được đoàn viên với
gia đình, là khi con người chúng ta dành cho nhau những tình cảm ấm áp. Từng
đàn én bay liệng và hình ảnh những đóa đào đóa mai hiện ra là những dấu hiệu đầu
tiên cảu mùa xuân. Những hạt mưa phùn của mùa xuân cũng trở nên khác ngày
thương, không qua to không quá bé, nó như để làm dịu đi không khí và tăng thêm
cái se se của thời tiết ngày xuân. Những cành lộc non phơi phới trải mình ra
đón cái tươi mới, cái tinh tinh túy của trời đất, vươn ra đâm chồi nảy lộc. Mùa
xuân còn là mùa của ngày tết truyền thống, mọi người cùng quây quần bên nhau với
nồi bánh chưng, lửa đỏ rực, rồi tí tách cháy. Những mâm ngũ quả cùng với cành
đào chúm chím nụ, tạo nên một cái tết đậm chất truyền thống của người Việt. Và
với sự tinh tế và tài tình của mình Bằng Việt đã sáng tác ra bài Mùa xuân của
tôi như một kỷ niệm một khoảnh khắc, những kỷ niệm của tác giả về xuân Hà Nội.
Được trích từ tùy bút “Tháng giêng mơ về trăng non, rét ngọt“ in trong tập “thương nhớ mười hai”. Tác phẩm mùa xuân của tôi được viết khi
tác giả Bằng việt sống trong cảnh chia cắt đất nước, và hơn thế tác giả phải sống
trong vùng của Mỹ ngụy xâm chiếm. Trong tình trạng này, tình yêu dành cho quê
hương đất nước càng trỗi dậy, cháy bỏng và bằng cách thể hiện tình yêu và tình
cảm của mình trong những trang sách qua những câu chữ của mình để bày tỏ sự nhớ
mong da diết về những kỷ niệm ngày xuân đất trời Hà Nội. Với sự tài tình trong
sử dụng biện pháp so sánh, khi so sánh tình yêu dành cho mùa xuân Hà Nội với những
tình yêu lớn lao “ai bảo được non đừng thương nước, ong bướm đừng thương hoa,
trăng đừng thương gió, ai cấm được trai đừng thương gái, ai cấm được mẹ yêu
con, ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến
mùa xuân”. Những tình cảm như vô hình ấy lại hiện hữu rất rõ khi ai đó lại đọc
được những tâm tư tình cảm ẩn chứa dưới những từ ngữ.
Những hình ảnh về cuộc sống sinh hoạt đời thường cùng với những
cảnh vật thân quen của mùa xuân được tái hiện rõ ràng trong tác phẩm. Những
hình ảnh ấy thật giản dị, đó là hình ảnh những người Hà thành luôn mang trong
mình một khí chất, một phong thái thanh lịch, nhẹ nhàng. Hình ảnh mùa xuân “
mưa riêu riêu” hai từ riêu riêu khiến chúng ta xốn xang bao nhiêu. Không chỉ có
hình ảnh mưa phùn - một nét đặc trưng của mùa xuân mà còn cả những âm thanh
quen thuộc “ tiếng trống chèo” vang vọng lại từ xa và cả những câu hát thấm đượm
tình cảm mặn mà, mà bao năm gắn bó tác giả có được.
Với giọng điệu nhẹ nhàng nhưng lại thấm đầy chất văn chất thi
ca trong tác phẩm, mùa xuân của tôi gợi lại cho độc giả bao điều mới lạ về một
mùa xuân rất riêng mà cũng rất gần gũi thân thương ở Hà Nội. Tình yêu quê hương, yêu con người thấm nhuần vào từng câu chữ, với những hình ảnh và từ ngữ tả
thực, tác phẩm mùa xuân của tôi dễ dàng đi vào lòng người.
5/ Vũ Bằng tên thật là Vũ Đăng Bằng (1913 - 1984) sinh tại Hà Nội,
là nhà văn và nhà báo bắt đầu sự nghiệp sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám
1945. Ông có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào
Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tuỳ bút Tháng Giêng mơ về trăng
non rét ngọt in trong tập Thương nhớ mười hai. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh
đất nước bị chia cắt, tác giả phải sống trong vùng kiểm soát của Mỹ - ngụy, xa
cách quê hương đất Bắc, Nhà văn đã gửi vào trang sách nỗi niềm thương nhớ quê
hương, gia đình tha thiết và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Điều
đó thể hiện qua hoài niệm về cảnh sắc thiên nhiên và phong vị cuộc sống hằng
ngày của Thủ đô Hà Nội với vẻ đẹp mang đậm bản sắc văn hóa tinh tế của một vùng
và cũng là của chung đất nước.
Nói đến tình yêu nồng nàn của mình đối với mùa xuân, tác giả
mượn quy luật để khẳng định: Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng
giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì Lạ hết. Ai
bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai
cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ
chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Nhà văn nhớ về mùa xuân đất Bắc là nhớ về cảnh đẹp thiên
nhiên và những cảnh sinh hoạt đời thường mang nét đặc trưng nhất. Những hình ảnh
đẹp đẽ, khó quên tái hiện rõ ràng trong tâm tưởng nhà văn: Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành
lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những
thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cồ gái đẹp như thơ mộng…
Giọng văn du dương, trầm bổng, giàu chất thơ của Vũ Bằng đã
đưa chúng ta vào thế giới hồi ức miên man, dạt dào cảm xúc. Thế giới ấy là một
phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của kẻ tha hương. Nhà văn nhắc
đi nhắc lại như lời tỏ tình thiết tha, say đắm: Mùa xuân của tôi… mùa xuân thần
thánh của tôi… Điều đó chứng tỏ tình yêu mùa xuân đã thấm sâu vào tâm hồn, vào
máu thịt của người con đất Bắc. Để nhấn mạnh sức sống và sự cuốn hút kì lạ của
mùa xuân, tác giả đã dùng cách nói cường điệu; cường điệu mà vẫn rất tự nhiên:
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên
như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người cứ căng lên như
máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không
chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên
ương đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ
hơn ra, và đập mạnh hơn… Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến
nhà lại cũng thấy yêu thương nữa… Đẹp quá đi, mùa xuân ơi- mùa xuân của Hà Nội
thân yêu, của Bắc Việt thương mến.
Không khí ấm áp mùa xuân còn hiện lên trong khung cảnh gia
đình ngày Tết với bàn thờ, đèn nến, hương trầm… và tình cảm cha con, vợ chồng,
anh em quấn quýt, sum vầy. Viết về những cảnh này, giọng điệu của tác giả vừa
sôi nổi nhiệt thành, vừa da diết lắng sâu. Điều đó đã tạo nên âm hưởng trữ tình
và sức truyền cảm mạnh mẽ của đoạn văn.
Cuối bài văn, tác giả tập trung miêu tả những nét riêng của
trời đất, thiên nhiên vào thời điểm từ sau ngày rằm tháng giêng Âm lịch. Khả
năng quan sát sắc sảo và cảm nhận tinh tế của tác giả được thể hiện qua những
chi tiết, hình ảnh tiêu biểu và những từ ngữ trau chuốt, chọn lọc:
… Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm
tháng Giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ
không mướt xanh như cuối đông, đầu Giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương
man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu
thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ.
Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời,
mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lý, vài con ong
siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời
trong trong có những làn sóng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Qua bài văn hay và đẹp như một bài thơ trữ tình, người đọc thấy rõ tác giả là người không chỉ am hiểu kỹ càng mà còn rất yêu mến mùa xuân, yêu mến thiên nhiên; biết trân trọng sự sống và biết tận hưởng những vẻ đẹp kì diệu mà nó mang đến cho con người. Vũ Bằng quả là một cây bút tài hoa của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Qua bài văn hay và đẹp như một bài thơ trữ tình, người đọc thấy rõ tác giả là người không chỉ am hiểu kỹ càng mà còn rất yêu mến mùa xuân, yêu mến thiên nhiên; biết trân trọng sự sống và biết tận hưởng những vẻ đẹp kì diệu mà nó mang đến cho con người. Vũ Bằng quả là một cây bút tài hoa của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét