Thứ Sáu, 13 tháng 4, 2018

Giai thoại của thi sĩ 1

Giai thoại của thi sĩ 1
1/ PHÁT MINH CỦA THI SĨ
Về trí nhớ của tôn sư Lê Quý Ðôn
Hồi nhỏ tôi rất phục Lê Quý Ðôn, thần đồng về mặt trí nhớ. Theo truyền thuyết ông có thể đọc vanh vách những gì mình chỉ nhìn thoáng qua hoặc nghe qua một lần, ông đã từng cứu bồ một bà chủ quán rượu bị mất sổ ghi nợ chép trên vách vì cháy nhà. Ông cũng đã từng thoát một trận đòn của thân phụ nhờ ứng đối trước mặt khách của cha một bài thơ Ðường Luật về rắn mà câu nào cũng đề cập đến từng chủng loài bò sát.
Tôi không “xịn” như tiên sinh Lê Quý Đôn, nhưng theo lời bạn bè thì trí nhớ cũng thuộc hàng cao thủ. Từ lúc 11 tuổi đến nay tôi đã làm trên 1000 bi thơ đủ nội dung thể loại và tự hào thuộc tối thiểu cũng hơn 800 bài mình ưa thích. Khác với bậc trí giả Lê Quý Đôn, tôi bắt buộc phải thuộc thơ mình vì yếu tố thời thế. Nói hú họa, chẳng may tôi bị bọn cường quyền bạo chúa nào đó bịt miệng thì với trí nhớ trời cho, ít ra tôi cũng để dành một số lượng thơ cần thiết để lại cho thế nhân qua ghi chép hoặc khạc thơ truyền khẩu trong bàn rượu thân hữu.
Năm nay bước qua tuổi ngũ thập tri thiên mệnh đáng lẽ trí nhớ kém dần, nhưng cũng may roi vọt cuộc đời không ngừng quất vào nên trí nhớ của thi sĩ lần lượt lại khôi phục. Nếu thiên tài Lê Quý Đôn có bài thơ thất ngôn bát cú câu nào cũng nói về RẮN thì tôi cũng nối chí cha ông bằng bài thơ năm chữ câu nào cũng nói về CHÓ, vừa mua vui trong bàn rượu, vừa được chủ quán cho “xù” trong việc trả tiền. Nhân đây, bằng trí nhớ cá nhân, tôi chép lại bài thơ RẮN của Lê Quý Đôn và bài thơ CHÓ của tôi để mọi người tủm tỉm cười chơi.
BÀI THƠ RẮN ĐẦU BIẾNG HỌC
Chẳng phải LIU ÐIU cũng giống nhà
RẮN đầu biếng học lẽ không tha
Thẹn đèn, HỔ LỬA đau lòng mẹ
Nay thét, MAI GẦM rát cổ cha
RÁO mép chỉ quen lời lếu láo
LẰN lưng cam chịu vệt năm ba
Từ nay TRÂU lỗ siêng năng học
Kẻo HỔ MANG danh tiếng thế gia
BÀI THƠ VỀ CHÓ
Sáng sớm nghe tiếng KHUYỂN
Giữa trưa bén mùi CẦY
Chiều bước vào quán CẨU
Chú TUẤT nằm đâu đây
Tiếng ÐỒNG QUÊ là NAI
Tiếng giang hồ là CỚM
Gần MỰC thì chú đen
Gần đèn thì chú ÐỐM
Thăm chú nhớ BÁNH TRÁNG
Mới nhất BẠCH nhì VÀNG
Nhâm nhi dăm XỊ ÐẾ
Mới tứ VỆN tam KHOANG
Về bà Hồ Xuân Hương, thủy tổ thơ tiếng lái
Ngoài trường hợp độc đáo của tôn sư Lê Quý Đôn về mặt trí nhớ như đã nói ở trên, còn một nhân vật nữa trong văn học sử Việt Nam mà tôi cực kỳ ngưỡng mộ. Ðó là nữ sĩ Hồ Xuân Hương, từng được mệnh danh là “Bà Chúa thơ Nôm”, từng được coi là một trong những người phụ nữ hiếm hoi trên trái đất dám thực hiện nữ quyền một cách triệt để nhất trong thời đại phong kiến trên đe dưới búa bất chấp có thể bị nguy hại đến tính mạng. Tuy nhiên, những danh xưng ấy vẫn chưa đủ để nói về sự mở mang ngôn ngữ của bà. Theo tôi, thiên tài Hồ Xuân Hương còn là thủy tổ làm thơ về tiếng lái, là chưởng môn nhân đầu tiên của môn phái “đảo ngữ” một cách kỳ ảo tạo nên tứ thơ đối nghịch khôn lường mà những người đi sau như Bùi Giáng tha hồ kế thừa để phát huy nghệ thuật chơi chữ.
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ ngôn ngữ hai mặt, người đời thường truyền tụng là thơ “đố tục giảng thanh”. Nhưng thơ tiếng lái của bà lại chơi đòn tréo ngoe là “chuyển thanh sang tục”.
Một minh chứng trong bài “KIẾP TU HÀNH” như sau:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
Nếu chịu khó đọc kỹ và có máu giang hồ một chút, ai nấy phải bật cười bởi “đá đeo” tức là “đéo đa”, “trái gió” tức là “chó dái”, “lộn lèo” tức là “lẹo… l”
Một thí dụ khác trong bốn câu đầu bài thơ “CHÙA QUÁN SỨ”:
Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình, tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo…
Tương tự bài trước, nếu chiết tự ba chữ “đáo nơi neo” tức là “đéo nơi nao”, “suông không đấm” tức là “đâm không sướng”, “đếm lại đeo” tức là “đéo lại đêm”.
Sự tài hoa của nữ sĩ họ Hồ biến thành phát minh mở đường cho các thi sĩ. Tôi không có máu ngông cuồng như Bùi Giáng khi xài tiếng lái bắt chước bà, tôi cũng không sử dụng tiếng lái trong chốn phòng the, tôi “thảy” tiếng lái của thế kỷ 21 vào những nỗi đau thế thái nhân tình, những trận phong ba cơm áo tạo nên tiếng cười cay đắng cho những ai đang bị áp bức. Ít nhất tôi cũng thu thập từ truyền khẩu, giai thoại của nhân dân để viết hơn 10 bài thơ tiếng lái, xin chép ra đôi bài sau để mọi người thưởng lãm. Ðó là 2 bài thơ mang tựa “QUỐC KỲ” và “ĐẢO NGỮ HÀNH”.
QUỐC KỲ
CỜ VÀNG thì tình CÀNG VỜ
CỜ XANH sao rụng CÀNH XƠ xác cành
CỜ ĐỎ ông CÒ ĐỠ anh
CỜ HỒNG cái CÒNG HỜ nhanh lắm bồ
Treo CỜ GÌ đỡ KỲ GIỜ?
Ê, CỜ TÂY hạ CẦY TƠ ra đời!
ĐẢO NGỮ HÀNH
Hành đảo ngữ kể từ GIẢI PHÓNG
Thi ca làm PHỎNG DÁI niêm vần
Muốn in báo phải làm đầy tớ
Nhưng ta nào phải kẻ lòn trôn
Ta nào phải là ông Hàn Tín
Phò Lưu Bang phản bạn lừa thầy
KỸ SƯ vì thế thành CƯ SĨ
THẦY GIÁO từ đây chịu THÁO GIÀY
Họp ĐỒNG CHÍ thấy toàn ĐÌ, CHỐNG
XÔ VIẾT ngày nay khoái XIẾT VÔ
Hình treo LỘNG KIẾNG như LIỆNG CỐNG
Ðể thằng TO DỰ hét TỰ DO
Chú đeo BẢNG ĐỎ mà BỎ ĐẢNG
Mượn SAO VÀNG che đậy SANG GIÀU
CĂNG BỒNG nhờ nói CÔNG BẰNG nhỉ
LƯU MANH nào lại chẳng LANH MƯU?
Theo CHÍNH PHỦ ai ngờ CHÚ PHỈNH
Vào CHIẾN KHU thì bị CHÚ KHIÊNG
Mồm ĐÁNH MỸ mà tâm ĐĨ MÁNH
TIỀN ĐÂU? chú chặn họng ĐẦU TIÊN
GIÁO CHỨC đói meo đành DỨT CHÁO
Làm NHÀ THƠ vô bót NHỜ THA
THIÊN TÀI không đủ THAI TIỀN hả?
CẤT ĐUỐC về quê CUỐC ĐẤT à!
KHIẾN CHÁN ta làm thơ KHÁNG CHIẾN
Gào THI ĐUA chú bịp THUA ĐI
LÀM THƠ mà LỜ THAM mới nhục
THÌ CẤY cày mất đất THẤY KỲ
LÃNH TỤ sạch nhờ ôm TỦ LẠNH
BẨN NGƯỜI DO bác BỎ NGƯỜI DÂN
BÁC ĐI quá sớm thành BI ĐÁT
NGHỆ SĨ tụi con NGHĨ XỆ quần…
Về loại thơ “bỏ dấu xuống chữ” của chính tôi
Sau những cơn stress nặng về cơm áo gạo tiền công danh địa vị phù phiếm hư ảo, con người ta luôn cần có sự thư giãn. Nối tiếp tiền nhân, tôi tự thể nghiệm mình qua kiểu thơ chơi chữ đời mới cho thanh thản tâm hồn. Cụ thể tôi bỏ các dấu gồm “dấu huyền, dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng” xuống các mẫu tự của 24 chữ cái hoặc các từ để chúng thành thơ.
Xin giới thiệu cùng các bạn một số bài thơ về chữ A, B, C, các từ bão, quậy, thớ như sau:
A
Con gái ta thường kêu bằng: ả
Ðôi khi đụng “xẩm” đổi thành: a
Các em xinh đẹp thì ta: á
Giống Chung Vô Diệm thì ta: ạ
Á ạ gặp ta cũng phải: à
B
Nhìn em, ta muốn: bế
Muốn bế thì phải: bê
Bê em như bê: bệ
Bê bệ dễ rớt: bể
Ðặt xuống giường, ta: bề
C
Trong tình yêu không xài: xể
Làm như thế hai đứa: xệ
Thà rằng giận nhau, ta: xê
Ta đi bộ, em đạp: xế
Lúc gối chăn, bụng sẽ: xề
BÃO
Giữa cuộc đời giông: bão
Ta ruột xé gan: bào
Văn miếu nuôi cường: bạo
Triều đình nuôi hổ: báo
Mình ta nuôi chiêm: bao
QUẬY
Ở biển ta là cá: quẫy
Sao ngươi đem bỏ mặt: quầy
Giang hồ có câu phải: quấy
Lẽ nào ta chịu lăn: quay
Lẽ nào ta không dám: quậy
THỚ
Có con ong: thợ
Không thèm hít: thở
Khí hậu đền: thờ
Cho nên có: thớ
Mật thành ra: thơ 
19.7.2008
2/ GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, PHẦN 1
Vừa rồi sau khi ra mắt hai tập THƠ TÌNH BÙI CHÍ VINH và THƠ ĐỜI BÙI CHÍ VINH trong nước lẫn trên mạng, tình cờ tôi được nghe một số giai thoại hay hoặc không hay của thiên hạ bàn tán về mình. Đối với tôi, hay hoặc không hay đều vẫn là giai thoại. Nhưng giai thoại phải có cơ sở xác đáng, có thực tế chứng minh, có những người trong cuộc chứng kiến thì giai thoại đó mới trường tồn, truyền khẩu hợp lý và khoa học được. Những giai thoại đồn đại chung quanh hình tích, sự đi đứng, năng khiếu làm thơ ứng khẩu của tôi xuất hiện ngay từ sau giải phóng, lúc tôi còn rất trẻ, đang làm việc tại một tờ báo và chỉ mới 21 tuổi đầu. Giai thoại mỗi ngày mỗi phát triển thêm lúc tôi đi bộ đội, rồi đi giang hồ, rồi làm đủ mọi thứ nghề để sống, thậm chí cả giai thoại lúc tôi bày tỏ chính kiến của mình…
Trong phạm vi bài viết này tôi xin mở đầu bằng một giai thoại quái đản nhất vừa nghe được. Sự quái đản ở đây tùy nghi ai muốn hiểu sao thì hiểu trong khi câu thơ đồn đại về tôi lại khởi nguồn từ một tình bạn rất đẹp. Cụ thể từ hai câu thơ tam sao thất bổn sau đây:
“Trọc đầu BÙI làm sao CHÍ ở
Nhục còn chưa có lấy gì VINH”
Và họ nói rằng hai câu thơ trên là do Bùi Giáng ứng khẩu tặng tôi trong bàn nhậu lúc tôi đang múa may chữ nghĩa, khiến tôi hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Suy nghĩ như thế không riêng gì tôi mà những người quen biết tôi đều phải phì cười. Bởi một lẽ đơn giản, tác giả hai câu thơ trên không phải là Bùi Giáng tiên sinh mà là ông anh Mặc Tuyền, một nhà thơ kiêm kịch tác gia bụi đời làm “chọc quê” tôi khi tôi mạt lộ đang ngồi ở vĩa hè phụ sửa xe cùng anh Phan Văn Bồng tự Bế Văn Bồng mưu sinh kiếm sống vào thời điểm cuối thập niên 80 đói rách. Thời điểm ấy nạn dịch bo bo khoai mì hoành hành, mâm cơm không có gạo trắng mà ăn, Mặc Tuyền cố kiềm chế sự ngông cuồng của tôi nên làm hai câu khá cảm động. Vừa chơi chữ, vừa nói về chữ “nhục”, nhục ở đây có nghĩa là “thịt”, thi sĩ lớn cỡ nào mà đầu cạo trọc và thiếu thịt ăn thì bao tử cũng đói meo và chí khí lẫn chí mén cũng đi chơi chỗ khác.
Còn Bùi Giáng tiên sinh đương nhiên thuộc về đẳng cấp khác. Ông và tôi không phải huynh đệ hoặc thân thiết tri kỷ nhưng khi gặp nhau chưa bao giờ ông dèm pha biếm nhẽ thế hệ sau mình. Giai thoại giữa tôi và ông độc đáo hơn nhiều. Cách đây hơn 20 năm tôi và Hồ Lê Thuần (con trai cố bí thư Thành Đoàn trước 1975 là Hồ Hảo Hớn) vi hành xuống miệt Gò Vấp chợ Long Hoa lúc nửa đêm. Nhằm vào lúc Bùi Giáng rời chùa Long Huê gần đó ra chợ quậy tưng bừng khói lửa với một cây chổi rách tượng trưng cho ấn kiếm. Gọi là ấn kiếm vì Bùi Giáng luôn vỗ ngực xưng vương bất cứ lúc nào cao hứng. Đêm đó chúng tôi ngồi uống rượu vĩa hè chứng kiến “vua cỏ” Bùi Giáng làm bà con chạy tán loạn và nhìn ông múa chổi tiến về phía chúng tôi. Ông vừa đi vừa khạc thơ rồi dòm trừng trừng vào mặt tôi. Trong cơn say xỉn ngất trời, Hồ Lê Thuần xúi tôi đọc thơ đáp lễ. Thế là người ngồi người đứng xuất khẩu thành thi qua lại liên tục. Không biết Bùi tiên sinh “phê” thơ tôi ra sao, chỉ biết Người tự động quỳ xuống bàn chúng tôi dâng cây chổi rách lên và tuyên bố “Đêm nay Trẫm thay mặt cựu hoàng Bảo Đại giao ấn kiếm cho thế hệ Hồ Chí Minh”. Câu nói đầy tính “chính trị” và đối phó của Bùi Giáng bắt buộc tôi phải nhận cây chổi và làm một bài thơ tặng ông tại chỗ, có chép lại nhét túi ông đàng hoàng, xin mạn phép ghi ra đây để khép lại lời đồn về sự “tâm phục khẩu phục” của tôi trước Bùi Giáng:
CÁCH LẠY CỦA BÙI GIÁNG
“Liên tồn, l… tiên, liền tôn”
Bác Bùi chưa gặp đồng môn đây mà
Ta hăm bảy tuổi đăng khoa
Bác hơn sáu chục mới là Trạng Nguyên
“Bác đi, bi đát” cơn điên
Để mua trí tuệ “l… tiên, liên tồn”
“Riêng ta” thành “ra tiên” con
Lúc say xỉn vỗ hậu môn cười khà
“Bán dùi Bùi Giáng” xót xa
“Bình Chí Vui” ta vốn là “Bùi Vinh”
Bác không màng nhắc triều đình
Có đâu ta nỡ cố tình làm vua
Chi bằng giữa chợ say sưa
Bùi to Bùi nhỏ đi lùa các em
Kìa sao bác lạy như điên
Đợi ta đỡ dậy chiêu hiền nữa sao?!?
Ngoài ra tôi còn chép cho Bùi tiên sinh bài thơ BÌNH CHÍ VUI khi ông muốn tôi bình tĩnh chí nam nhi trở lại để có thể tồn tại trước bọn sâu bọ làm người. Tôi đã làm bài thơ này theo “môđen “ tiếng lái và chơi chữ của ông:
BÌNH CHÍ VUI
“Bùi Chí Vinh, Bình Chí Vui”
Không bình chí, chắc tiếng cười mất tiêu
Chí trong bình, chí mốc meo
Chui ra bình, chí mới nhiều nhục vinh
Bùi làm thiên hạ giật mình
Sờ ngay “cái đó” kẻo em mếch lòng
“Bùi như lạc” nhậu sướng không?
“Trần như nhộng” Bùi tồng ngồng đái chơi
Bất bình nên chí chưa vui
Các em nên gọi ông Bùi Chí Vinh
Chuyện gặp Nguyễn Đức Sơn giang hồ hơn. Trước đó khi mạn đàm về thi ca cùng đồng nghiệp, tôi luôn luôn khẳng định miền Nam trước giải phóng có 4 chưởng môn nhân đại diện cho 4 trường phái thi ca tiêu biểu. Đó là Bùi Giáng thơ trên trời, Nguyễn Đức Sơn thơ dưới đất, Thanh Tâm Tuyền thơ tự do kiểu Tây phương, Tô Thùy Yên thơ hành cổ điển kiểu Đông phương. Vì thế lần hạnh ngộ Nguyễn Đức Sơn trên cao nguyên Đại Lào sơn lam chướng khí, tôi đã ăn những gì ông tự trồng tự hái và đã đấu khẩu những gì ông muốn.
Nguyễn Đức Sơn vốn sở trường thơ lục bát và nổi tiếng trước những bài thơ tinh gọn đến mức độ tối thiểu về chữ mà vẫn dào dạt ý tứ. Có bài thơ chỉ hai câu, mỗi câu hai chữ như “Cái lỗ - Tối cổ” đủ nói hết về chế độ mẫu hệ, về nơi khai sinh ra loài người. Có bài thơ chỉ ba câu, mỗi câu một chữ như “Hột - Thì - Le” đủ nói hết về bản chất sinh tồn thiện ác của nhân loại. Và tôi đã mượn những ý thơ độc đáo đó để đưa vô bài thơ làm tặng ông như một thứ giai thoại truyền khẩu:
ĐỤNG ĐỘ NGUYỄN ĐỨC SƠN
“Hột thì le” thật đó sao?
Ta dân “thảy lỗ” đến chào đồng môn
Xưa nay hai kẻ du côn
Ít khi đời sống cô hồn như nhau
Như miếng trầu khác miếng cau
Nhưng có cau, chẳng có trầu, như không
Như không sinh chuyện động phòng
Hột sao le được “nụ hồng thi ca”
Như không sinh nở đàn bà
“Cái lỗ tối cổ” thành ra tầm thường
Ta thừa văn, bác dư chương
Hôm nay một chén Hồ Trường chao nghiêng
“Thiên tài” nhờ lỗ “tai thiền”
Buồn lên núi hú chẳng phiền Tarzan
Buồn hái nấm luyện thành sâm
Buồn quay vào vách thương thầm Đạt Ma
Buồn hơn xuống động bẻ hoa
Buồn hơn chút nữa kiếm ta đỡ buồn
Kiếm ta ta cứ ngông cuồng
Sánh vai với Nguyễn Đức Sơn cũng kỳ
“Kỳ” thì theo “Thiệu” mà đi
Ta theo bác đã chắc gì tịnh tâm
Chẳng thà bút vẩy thơ đâm
Rong chơi đợi trận cát lầm đi qua
Đừng khen chê trước mặt ta
Sợ e tiếng gáy làm gà ghét nhau
Chẳng thà trong cuộc bể dâu
Cưa nhau chén rượu cho sầu chia hai…
Riêng đối với Phạm Thiên Thư thì tôi “quậy” theo kiểu bụi đời hơn. Năm 1980 tôi được nghỉ phép mặc đồ bộ đội rách xác xơ đi lang thang cùng Hoàng Linh qua đường Lý Chính Thắng (tức Yên Đỗ cũ). Hoàng Linh là bạn giang hồ của tôi, anh là con trai nhà văn Hoàng Ly và là em vợ Phạm Thiên Thư lúc đó. Anh giới thiệu tôi với Phạm tiên sinh đang mở tiệm hớt tóc và bỏ mối rượu ngay trên đường này.
Cuộc hội ngộ diễn ra y chang truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Ngoài trời mưa tầm tã, bên trong tiệm Phạm tiên sinh ngừng hớt tóc cho vị thân chủ mặt mũi kỳ dị và kéo vị ấy ngồi xuống rót chai rượu màu xanh tiếp tôi và Hoàng Linh. Sau tuần rượu đầu đàm đạo về thơ, vị khách lạ đứng dậy chỉ vào mặt tôi và phán “tuổi Giáp ngọ phải không, sanh vào cuối tháng 9 âm lịch phải không, chào đời nửa đêm phải không?” Rồi ông ta đứng dậy bỏ đi một mạch. Lời phán của kẽ dị nhân khiến tôi hoang mang nhưng hai anh em Phạm Thiên Thư, Hoàng Linh chỉ khẽ gật gù khoái trá. Đến giờ này tôi vẫn chưa hiểu dị nhân đó là ai và tại sao chỉ sau một quẻ Dịch ông ta lại biết ngày giờ năm sinh tháng đẻ của tôi trong khi cả bàn không ai biết. Hôm đó trong lúc cụng ly nghe Phạm tiên sinh thố lộ về cuộc đời trôi nổi lên voi xuống chó của ông làm tôi ngậm ngùi vô tận. Tôi thừa biết họ Phạm sở trường về thơ bốn chữ nên ứng khẩu tặng ông bài thơ cùng thể loại mà ông ưa thích. Bài thơ như sau:
GHẸO PHẠM THIÊN THƯ
Rượu Phạm Thiên Thư
Thơ Bùi hiền sĩ
Một chén càn khôn
Đất trời túy lúy
Tưởng huynh tên “Thị”
Nên mới vào chùa
Dè đâu tửu sắc
Cũng ghiền nam mô
Huynh giữ một bồ
Chứa toàn thịt chó
Ta giữ bồ kia
Chứa toàn tín nữ
Vì huynh quân tử
Như Nhạc Bất Quần
Ta đành tiểu tử
Như Điền Bá Quang
Tiếu Ngạo cung đàn
Một gian lều cỏ
Huynh mới bẻ gươm
Ta còn mãi võ
“Đoạn Trường” hai chữ
Huynh ngâm nát lòng
“Vô Thanh” đâu chứ
Cửa thiền huynh trông
Ta con nhà tông
Giống lông giống cánh
Quen ngủ chiếu rơm
Dùng cơm khổ hạnh
Gặp chiều mưa lạnh
Chén tạc chén thù
Đem thơ tặng Phạm
Đếch cần Thiên Thư!
Cũng trong thời gian đó tôi lang bạt rất nhiều nơi, làm quen với nhiều người, trong đó có thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn từ Phan Thiết vô là tác giả tập thơ CHIẾN TRANH VIỆT NAM VÀ TÔI nổi tiếng. Nguyễn Bắc Sơn có hẹn hò đâu với Trần Mạnh Hảo nên rủ tôi lên chung cư Hội Văn Nghệ số 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa lai rai ba sợi chơi. Khi đi, tôi có rủ thêm Trần Hữu Dũng, Vũ Ngọc Giao là hai chiến hữu giang hồ cùng cạn chén tang bồng hồ thỉ.
Rượu vào lời ra. Tôi và Nguyễn Bắc Sơn thay phiên nhau khạc thơ chan chát. Có lẽ Nguyễn Bắc Sơn không ngờ tôi là một kẻ hậu sinh chưa hề có tên tuổi trước giải phóng mà khạc thơ quá đã, nên anh “bốc” liền một câu: “Thằng cha Bùi Chí Vinh này làm bài thơ nào cũng hay hết, nhưng thơ họ Bùi là Đồ Long Đao, còn thơ Nguyễn Bắc Sơn ta mới là Ỷ Thiên Kiếm”. Nguyễn Bắc Sơn đâu biết câu phát biểu đó vô tình làm “mồi” cho một bài thơ giai thoại về anh và tôi sau này. Bài thơ được tôi ứng khẩu tại chỗ như sau:
CÁCH NHẬU VỚI NGUYỄN BẮC SƠN
“Ta làm thơ bài nào cũng hay”
Nghe gã Nguyễn Bắc Sơn nói thế
Té ra gừng già ngươi chưa cay
Ta chỉ hạt tiêu mà rơi lệ
Làm thơ ta làm từ bụng mẹ
Đợi ngươi nổi tiếng là ta sinh
Sinh sau đẻ muộn giống Hạng Thác
Cho người Khổng Tử đỡ hợm mình
Sinh sau đẻ muộn giống chim hạc
Cho đàn cò đói đỡ ăn đêm
Nhà ngươi bốc ta cứ như chưởng:
Rằng thơ ta ngông như Tạ Tốn
Câu trước câu sau Đồ Long Đao
Vần dưới vần trên Ỷ Thiên Kiếm
Đao kiếm dành cho bọn cường hào
Có đâu đưa vào thơ bố trận
Tại đời lắm muối nên thơ mặn
Chứ thiết gì ta nghiệp võ công
Kìa coi hoàng đế Quang Trung đó
Đến chết còn ghê chữ má hồng
Tiếc rằng ngươi không là thiếu nữ
Thiếu nữ bốc, ta thành vua Trụ
Nhà ngươi bốc, ta thành bia hơi
Uống say bọt bay hết lên trời…
Đối ẩm với Nguyễn Bắc Sơn tại nhà Trần Mạnh Hảo mà quên nhắc đến họ Trần thì quả là điều không phải phép. Khi tôi 15 tuổi tham gia phong trào sinh viên học sinh đấu tranh đô thị ở Sài Gòn thì bộ đội Trần Mạnh Hảo đã siết cò AK ở trong rừng. Ngay giải văn học TP.HCM đầu tiên sau giải phóng 1976 – 1977 tôi và Trần Mạnh Hảo đã biết nhau khi anh đoạt giải thơ với tập TIẾNG CHIM GÕ CỬA còn tôi đoạt giải thơ với tập HẠNH PHÚC CÓ THẬT. Tôi với anh còn thân nhau bởi cùng đi lưu diễn đọc thơ các trường đại học cùng với Nguyễn Duy, Văn Lê, Nguyễn Nhật Ánh. Phải nói thật tôi thân với Trần Mạnh Hảo hơn những nhà thơ ngoài Bắc khác một phần vì quê quán cha tôi thuộc tỉnh Nam Định, đồng hương với anh.
Trần Mạnh Hảo và tôi mỗi người đều tạo ra những sóng gió và dư luận riêng bởi cá tính và thơ của mình. Trong bàn nhậu đám đông, tôi và anh luôn luôn giữ vai trò chủ lực trong việc đọc thơ phục vụ bè bạn bằng thơ trí nhớ hoặc thơ ứng khẩu. Ai cũng khẳng định rằng tôi và anh đều có trí nhớ đặc biệt, thuộc lòng bất kỳ bài nào của mình viết ra, cho dù là viết giỡn chơi. Thậm chí giới giang hồ mỗi lần nghe tôi và anh đấu khẩu bằng thơ đều gọi là “Nam Chinh, Bắc Chiến”. Một lần ngồi dưới chân cầu Công Lý trước nhà chị Phương Huệ, có mặt khá đông bá tánh tín đồ Phật Giáo, Trần Mạnh Hảo đã cao hứng đọc oang oang bài thơ chinh phục thiên hạ. Bằng trí nhớ tôi chép ra đây sau một thời gian quá lâu hơn 20 năm, nếu có sơ xuất hoặc thiếu câu nào đoạn nào mong Trần Mạnh Hảo thông cảm:
PHÙNG PHẬT, SÁT PHẬT
Phùng Phật phải sát Phật
Sát Phật, Phật quay về
Ngộ rồi mà chưa ngộ
Tỉnh tỉnh mà mê mê
Thúy Kiều vừa thành Phật
Mười lăm năm tu hành
Cõi tâm là cõi Phật
Lầu không lầu không xanh
Phật tự thân người đẹp
Không dưng, sao Phật Bà
A Di Đà sát Phật
Phật hóa thành đôi ta!
Tôi thấy tình hình căng quá bèn giải thoát cho các tín đồ Phật Giáo bằng bài thơ thức ngộ sau đây:
PHÙNG PHẬT, CỨU PHẬT
Trần Mạnh Hảo sát Phật
Giữ lại mình Quan Am
Nói theo kiểu phàm tục
Diệt dục mà sinh dâm
Nói theo kiểu cờ bạc
Úp Tây mà lật Đầm
Nói theo Bùi hiền sĩ
Muốn vậy chìa hai trăm!
Bao giờ cũng vậy, những cuộc đấu khẩu thơ giữa tôi và Trần Mạnh Hảo đều làm thiên hạ bật cười nhẹ nhõm tới bến sau khi thần kinh căng thẳng cũng tới bến. Anh em văn nghệ mà. Những người có khả năng khuấy đảo thiên hạ chỉ đếm trên đầu ngón tay, tại sao lại không biết thương nhau bảo vệ nhau trước những cặp mắt cú vọ của đám tiểu nhân rình mò tâu hót ám hại.
Một giai thoại nữa có liên quan tới Trần Mạnh Hảo khi họ Trần dẫn theo hai vị chức sắc thuộc tỉnh Hà Nam Ninh đến Hội Văn Nghệ 81 Trần Quốc Thảo ăn nhậu và ra câu đối thách thức. Chuyện đó đã hơn 15 năm. Hôm đó tôi đang ngồi uống bia dưới gốc cây đa cùng với Nguyễn Quốc Chánh, Đoàn Vị Thượng … và nhiều anh em văn nghệ khác. Hai bên chào nhau và ráp bàn. Trần Mạnh Hảo tuyên bố “Có một câu đối chúng tôi ra vế mà từ Bắc vô Nam chưa ai đối được hoàn hảo về mặt nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nếu các bạn trong bàn giải được, chúng tôi cá độ một chầu nhậu thả giàn”.
Vế đối ra như sau:
“BATA đi giày vải”
Phải thú thật là vế ra quá độc. Bởi băng “Hà Nam Ninh” của Trần Mạnh Hảo gồm đúng 3 người, mà cả 3 đều đi giày vải, và giày vải đều mang hiệu BATA. Thế là anh em chiến hữu đều hướng mắt về phía tôi. Trong tình thế chỉ mành treo chuông, tôi gật đầu cái rụp.
Sau 15 phút động não nhằm xác minh một đơn vị tiểu thủ công nghiệp mang tên “Đại Chúng” chuyên sản xuất dép râu ở Chợ Lớn, tôi hùng hồn đứng dậy đối lại như sau:
“ĐẠI CHÚNG lết dép râu”
Câu đối lại đã quá rõ ràng. Khi ba cán bộ đi giày Bata thì đám đông đại chúng nghèo khổ đành phải mang dép râu lết bánh. Thế là sau một hồi tranh cãi gọi điện thoại bàn xác minh cơ sở sản xuất dép lốp Đại Chúng có thật hay không thì băng Trần Mạnh Hảo đành phải chung độ chứ còn phải hỏi.
Cũng trong giai thoại về câu đối, nhân đây tôi nhắc chuyện này như một nén nhang thắp tặng linh hồn hai vị thuộc giới văn nghệ đã khuất. Đó là hai nhà thơ trào phúng Tú Rua và bác Cử Tạ vốn là hai nhân vật nằm trong hai câu đối của tôi. Chuyện xảy ra vào cuối thập niên 80 khi tôi và Lê Dụng (con trai cố nhạc sĩ Hoàng Việt) đến nhà Tú Rua chơi. Nhà thơ trào phúng Tú Rua vừa là chủ tiệm may đắt khách vừa là một cộng tác viên đắc lực của báo Văn Nghệ TP nơi Lê Dụng công tác. Trong lúc trà dư tửu hậu chén tạc chén thù ông chủ tiệm may Tú Rua cao hứng phán một câu “Nghe đồn Bùi Chí Vinh có khả năng ứng tác về ca từ thi phú cổ điển. Vậy ông có ngon làm hai câu đối nói về chí khí của Tú Rua tôi trong sáng như sao Tua Rua trên bầu trời đêm thì tôi sẵn sàng đãi ông và Lê Dụng suốt một ngày khắp các quán Sài Gòn”. Lời phán của Tú Rua như một tiếng sét đánh ngang mày. Mà đã là sét đánh thì nháng lửa và tung tóe như sao. Bất giác tôi liên tưởng đến bác Cử Tạ phụ trách mục “Ôn Cố Tri Tân” trên báo Long An cuối tuần thường hay bốc thuốc Đông Y ở khu Ông Tạ. Tôi nháy mắt với Lê Dụng như một nhân chứng và xuất khẩu thành…hai câu đối như sau:
TÚ RUA “rua” SAO RUA
CỬ TẠ tạ ÔNG TẠ
Tôi thấy Lê Dụng khoái trá còn Tú Rua lặng người. Trong ba từ “rua” của vế trên thì chữ “rua” thứ nhì là tiếng Pháp có nghĩa là “bắt tay”. Tương tự trong ba từ “tạ” của vế đáp thì chữ “tạ” thứ nhì thuộc tiếng Hán có nghĩa là “vái chào”. Và kết quả là chúng tôi say xỉn quắc cần câu như thế nào có lẽ các bạn cũng hình dung ra được.
Cũng trong thập niên 80 tôi thường xuống khu Ông Tạ giao du với gia đình nhà văn Lưu Ngũ và các hảo hớn anh chị sống ngoài vòng pháp luật ở khu vực đó. Lưu Ngũ xuất thân là cựu trung úy Biệt Động Quân của quân đội Sài Gòn sau giải phóng đi học tập cải tạo và trở thành nhà văn bất đắc dĩ nhờ đoạt giải văn học thành phố năm 1976 – 1977 với truyện dài VŨNG LẦY. Anh chán ghét chiến tranh đến mức độ chỉ muốn làm con người, nhưng làm con người giữa thời đại “bo bo” và “xuyên tâm liên” thì quả khó làm sao. Trong một đêm nhậu đã đời với những kẻ “Đảng nghi ngờ, nhân dân chú ý” chúng tôi đã đi lang thang trên đường phố chỉ toàn xe đò chạy bằng than, nhìn thấy những chiếc xích lô kiếp ngựa thồ mà phu xe toàn là cựu chiến binh bộ đội lẫn quân đội chế độ cũ, chúng tôi tiếp tục nhìn thấy những giọt lệ ứa ra từ các mệnh phụ phu nhân, các tiểu thư nghèo khổ phải “đứng đường” đón khách kiếm tiền độ nhật. Bài thơ SINH NGHI HÀNH mở đầu một giai thoại truyền khẩu sau này ra đời từ đó:
SINH NGHI HÀNH
Sinh nghi ta viết một bài hành
Vợ nghi chồng, em út nghi anh
Cha nghi con cái, bè nghi bạn
Thủ trưởng thì nghi hết ban ngành
Láng giềng dòm ngó nghi hàng xóm
Ngoài đường nghi phố chứa lưu manh
Ngay ta khi viết bài in báo
Cũng nghi mình kiếm chác công danh
Trời ơi, mọi chuyện sinh nghi thật
Chén kiểu thường nghi kỵ chén sành
Thời buổi công hầu như chén cứt
Thiếu chó, mèo ăn cũng rất nhanh
Mèo ăn cho chó leo bàn độc
Vừa sủa vừa nhai riết cũng rành
Trẻ con khát sữa, ai cho bú
Vú mẹ gầy, sâu rúc nồi canh
Quang Trung bỏ núi Tây Sơn xuống
Hoảng hốt vì gương vỡ chẳng lành
Nguyễn Du chỉ một đêm dạo phố
Đoạn Trường ngồi viết lại Tân Thanh
Thúy Kiều phát triển nhiều như thế
Thảo nào đất nước hóa lầu xanh
Nhà tù phát triển nhiều như thế
Kẻ sĩ làm sao dám học hành
Ta làm thơ mà lòng đứt ruột
Suốt đời bao tử chạy loanh quanh
Lãnh tụ nói “đói quên nghi kỵ”
Ơn ấy ngàn năm sáng sử xanh
Trước khi tạm ngưng phần đầu bài viết GIAI THOẠI CỦA THI SĨ này, tôi thiết tưởng không có gì ý vị hơn khi nhắc đến một ông bạn phương xa là Nguyễn Lương Vỵ. Hồi còn ở trong nước chưa định cư ở Mỹ, Nguyễn Lương Vỵ sống cùng địa phương với tôi và những lúc buồn bã cô độc, anh thường ghé nhà rủ tôi nhâm nhi chén rượu quên sầu. Anh buồn vì một lý do cực kỳ giản dị: anh là một con người chứ không phải một con thú hoặc một cỗ máy. Thậm chí anh còn rung động nhanh hơn con người bình thường một bậc, bởi anh là… thi sĩ.
Nguyễn Lương Vỵ thường ngồi bứt tóc trong lúc đánh cờ tướng. Đánh xong bàn cờ là tóc anh rụng như mưa. Anh sống nửa dại nửa khôn nửa tỉnh nửa điên như thế nên phải tự giải thoát mình trong triết lý Phật Giáo. Mỗi lần say xỉn anh thường thuyết giảng cho tôi nghe về tiểu thừa đại thừa, về sắc sắc không không, về cõi luân hồi sát na sát khí… để cho tôi “choáng” mà bớt quậy. Nào dè tôi quậy còn tưng bừng hơn. Tôi có tặng anh bài thơ sau đây trươc khi anh sum họp gia đình bên Mỹ:
PHẬT SỐNG
Chư huynh bàn về tu luyện
Đứa đại thừa, đứa tiểu thừa
Đứa nào cũng sắp thành Phật
Chỉ mình ta còn gươm khua
Đời này nói đến hơn thua
Biết bao giờ cho hết chuyện
Ta thấy chư huynh yêu chùa
Cũng là tự thân bảo hiểm
Nhưng tu như vậy còn kém
Biết khôn lựa gốc bồ đề
Có người tu hang Pắc Bó
Sau này thành Phật sướng ghê!

7 - 2008
3/ GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, PHẦN 2
Khi đặt bút viết GIAI THOẠI CỦA THI SĨ tôi không hề nghĩ rằng đây là bài đầu tiên vén màn cuộc đời hoặc hồi ký cá nhân của người viết. Chỉ đơn giản cảm thấy ngứa ngáy tứ chi cảm thấy miệng cần nói ra những điều mình biết được cho nhẹ lòng để đánh tan một số nghi hoặc từ phía người đời. Đơn giản chỉ là như thế. Tôi luôn luôn chủ trương viết về cái đẹp của các nhân vật mình đề cập v cố gắng không đá động đến phần u tối, phần “sống để bụng chết mang theo” của họ. Tôi quan niệm đã coi một người nào đó là bạn, là huynh đệ thì tôi sẽ chỉ chơi với phần ưu điểm mà họ có. Còn chính quyền và ai đó chụp mũ, kết án hành vi của những người tôi đề cập thì là chuyện thiên hạ. Tôi không quan tâm. Tự truyện của tôi chẳng những không đẩy bất kỳ ai đến chân tường mà ngược lại thanh lọc chất người và chất thú dưới ánh mặt trời. Thanh lọc và chiến đấu với bọn bất lương quen thói dìm kẻ sĩ lẫn tráng sĩ xuống tận đáy xã hội .Trên cơ sở đó tôi bắt đầu cuộc ghi chép văn minh và vệ sinh cho phần hai của bài viết này. Đó là khoảng thời gian đẹp đẽ tôi có cơ hội giao du với các chính khách, thân hào nhân sĩ, các kỳ nhân quái khách trong những lãnh vực khác nhau.
Những năm đầu sau giải phóng khi còn phụ trách biên tập trang văn nghệ cho báo Tuổi Trẻ, tôi có chơi với một người bạn công tác tại Thành Đoàn xuất thân từ phong trào công giáo Thanh Lao Công tên là Nguyễn Trì tự Trương Hùng Thái. Nguyễn Trì tuy làm cách mạng nhưng có máu giang hồ hảo hớn mê truyện Bình Xuyên, truyện 108 anh hùng Lương Sơn Bạc hơn là mê “Thép Đã Tôi Thế Đấy” của Paven. Tôi thường xuống khu Bà Quẹo, Bình Hưng Hòa ngao du sơn thủy cùng Nguyễn Trì và đọc thơ uống rượu cho bá tánh hâm mộ nghe. Trong một lần say khướt, hai đứa tôi kéo ra quán ngã tư miệt Tân Kỳ Tân Quý uống nước chanh “giải cảm”. Không ngờ ở bàn kế bên một đám anh chị sống ngoài vòng pháp luật đang cụng ly bàn chuyện làm ăn, tất cả đều cởi trần xâm mình vằn vện và chửi thề ỏm tỏi. Sau đợt chửi, do chia chác không đều hay sao đó, một vỏ chai bia bị đập bể toang và hai cây mã tấu được thẩy lên bàn cái rầm. Không khí căng thẳng như sắp xảy ra một trận huyết chiến. Tôi và Nguyễn Trì đều hồi hộp thì … một kẻ đẹp trai lầm lì nhất trong bàn gầm lên như sư tử hống để tạo sự chú ý rồi lẳng lặng cầm ly rượu xây chừng vừa uống cạn đưa lên miệng nhai rôm rốp như nhai bánh tráng. Anh chàng nhai hết nửa ly thì lè lưỡi ra cho đồng bọn thấy mớ mảnh thủy tinh vụn nhọn lễu, xong xuôi tiếp tục chiêu một ngụm rượu ực gọn xuống bao tử và nhai tiếp nửa ly còn lại với hai tròng mắt đỏ ngầu. Khỏi phải nói, đám anh chị há hốc mồm kinh hãi mạnh ai nấy thu “đồ nghề” rút lui có lễ độ chứ sao. Bởi đối với một kẻ dám nhai ly khinh thường tính mạng mình thì chuyện nhai xương đối thủ chỉ là đồ bỏ. 
Lúc ra về Nguyễn Trì thều thào với tôi “Thằng đó có võ gồng hoặc võ bùa làm bọn kia sợ chết khiếp”. Tôi bóp mạnh vào tay Trì lầm bẩm “Tao sẽ nhai được như thằng đó. Chỉ có cách đó thì đụng độ mới bớt đổ máu”. Đã nói là làm. Trở về trụ sở cơ quan ở số 12 Duy Tân (bây giờ đổi thành đường Phạm Ngọc Thạch) đêm nào tôi cũng tập nhai ly. Tôi nhai hết những chiếc ly xây chừng nhỏ xíu mà chị hậu cần không hề hay biết. Tôi nhai rồi phun ra chứ không nuốt những mảnh thủy tinh vào bụng. Mới đầu tôi có bị đứt lưỡi, rách môi, trầy nướu tóe máu nhưng dần dà rút được kinh nghiệm, mỗi lần cắn ly tôi cho vành ly chỉ chạm vào phần cứng áp lực giữa hai hàm răng. Khi ly bể toang, tránh phần môi dưới và phần tay cầm bị chỗ nứt xé toạc. Tôi đã nhai từ những chiếc ly nhỏ, ly mỏng dính cho đến những cái ly cối dành uống bia dày cộm. Tôi còn thí nghiệm qua nhai chén sành, chén kiểu, tròng mắt kính… và đều thành công. Có nghĩa là “trăm hay không bằng tay quen” chẳng có bùa ngải, võ gồng, thần quyền nào cả. Nói là nói vậy nhưng để có hứng thú nhai ly, trong bàn nhậu bắt buộc phải xảy ra biến cố. Khi đó tôi tu rượu ừng ực, cơn hứng nổi lên, men nồng bốc hỏa…tôi gần như bị “nhập” trước mắt bè bạn hoặc kẻ thù. Lúc đó thay vì thượng cẳng chân hạ cẳng tay dễ bị tổn thương, tôi đã làm cho chiến hữu khâm phục hoặc kẻ thù im phăng phắc. Chẳng những nhai mà tôi còn nghiền vụn những mảnh thủy tinh nhọn lễu thành cám và nuốt gọn với ý niệm trong đầu “bản thân thủy tinh vốn dĩ là cát mà ra, cát cát cát…”. Tôi đã sống và nhai ly một cách “cõi trên” như thế khi gặp lại Nguyễn Trì khiến hắn hoảng hồn. Những người khác trong giới văn nghệ chứng kiến năng khiếu quái đản đó của tôi cũng không ít, kể cả dân anh chị giang hồ…
Hơn 15 năm trước tôi và Nguyễn Quốc Chánh đã từng “cứu bồ” nhà thơ Hội Văn Nghệ Cần Thơ Võ Minh Đường, phóng viên báo Tuổi Trẻ Nguyễn Ngọc Vinh trong một chầu nhậu tại quán số 43 đường Đồng Khởi với nội dung “Đường và Vinh bị đám thủy thủ viễn dương và lũ con ông cháu cha đời mới ăn hiếp”. Thế mà Nguyễn Ngọc Vinh sau này cao hứng bày đặt “test” tôi nhai ly tại quán Trống Đồng thuộc khuôn viên Tao Đàn. Bạn bè đã thích thì chìu ngay. Trước sự chứng kiến của khá đông anh em văn nghệ chiều hôm đó tôi đã xỉn quắc cần câu để “nhai” và “nuốt” phân nửa ly bia cối dày cộm chỉ chừa phần đáy và phần tay quai ly. Sẵn đà phấn khích cao độ tôi đã nhai tiếp cặp kính mát của Ngọc Vinh rồi nhả gọng ra, và đến giờ này tôi vẫn còn ân hận…Tôi ân hận bởi những chuyện tầm ruồng trẻ con bồng bột không cân xứng với chí hướng của một kẻ làm thơ dám lập ngôn và đương đầu với những cái lớn hơn trong cuộc đời. Đến giờ này trong bụng tôi đã nuốt tương đương “4 ly lớn thủy tinh” cộng thêm một trận xuất huyết dạ dày suýt qua đời tại bệnh viện Saint Paul chỉ vì đống mảnh chai vớ vẩn. Tôi đã nằm hôn mê 2 ngày 2 đêm tại Saint Paul, được linh mục làm phép Xức Dầu Thánh dành cho người hấp hối, với sự túc trực của bà mẹ nghèo “có công với cách mạng” rưng rưng nước mắt. Có lẽ khi viết những dòng này tôi sẽ từ bỏ luôn ý niệm “biến thủy tinh thành cát” như lời tụng thầm trong mỗi lần nhai.
Sự khủng hoảng lý tưởng của tôi trong giai đoạn đó được thể hiện qua bài thơ LỘ BẢN CHẤT thường được mọi người yêu cầu đọc lên mỗi lần đối ẩm:
LỘ BẢN CHẤT
Tất nhiên đây không phải là lần đầu
Anh đã cư xử với em như một người phàm tục
Dù thân thể anh không có gì xuất sắc
Trán không triết học giống Ăng Ghen,đầu không được hói giống Lênin
Sự dũng cảm của anh có khi trở thành phản động với Paven
Và thần kinh anh “mát” làm buồn lòng Các Mác
Nói chung anh là thằng cha có tử vi không đạt
Thầy tướng ở Lăng Ong mới liếc đã thở dài
Cha mẹ sinh con không ai muốn con gầy
Nhưng anh ốm nhách đến nỗi thành bất hiếu
Ai cũng muốn người yêu mình có nụ cười hàm tiếu
Nhưng anh đã cười méo mó rất khó coi
Chưa kể những đêm say xỉn đã đời
Anh rất giống kẻ tình nghi hình sự
Anh cũng hay “kên xì po “ với đám du côn ngoài chợ
Và thích so găng với những kẻ cầm còi
Em chỉ cần sáng trí một chút thôi
Sẽ thấy anh xa huy chương mà rất gần tù tội 
Nhưng đây không phải lần đầu anh lại nói
Mỗi chúng ta đều có cuộc sống của mình
Đừng đem nỗi buồn tham nhũng cùng anh
Rồi hà tiện sự hồn nhiên cần thiết
Anh không phải là cái phao “Acsimét”
Để em bám vào lơ lửng đời nhau
Anh càng không phải là một con sâu
Lợi dụng tình yêu để thành chú bướm
Trời sinh hai tay anh dài như vượn
Vừa để quàng vai vừa để thượng đài
Trời sinh hai chân anh lắm vết chai
Đủ đi bộ và đủ tìm nhà trọ
Buồng phổi anh cháy dần vì thuốc lá
Trái tim anh hằng khốn nạn vì yêu
Anh có cái đầu thì thơ chiếm mất tiêu
Khiến bao tử cứ loét ra vì rượu
Đó là những điều mà nếu em tham dự
Đừng bao giờ xâm lược đến đời nhau
Không ai ưa bọn Hồng Vệ Binh mới lớn chút nào:
“Em ơi dang ra cho anh làm cách mạng
Nhích lại gần anh là mất Đoàn mất Đảng”
Nhưng cũng không ai ưa thứ ái tình ăn trộm
An cướp ăn xin ăn giựt ăn mày
Bởi vì ái tình đâu phải dĩa trái cây
Mà lúc tim đói há mồm ra cắn
Erich Segan nói “Yêu là đừng hối hận”
Anh cũng tiếp lời: Yêu là phải chịu chơi
Lúc yêu nhau mình đã rất lắm lời
Nên lúc đối thoại em làm ơn tiết kiệm
Ở đời sống anh là thằng gác kiếm
Thì với ái tình anh không muốn rửa tay
Đời sống gờm nhau ngôn ngữ “tao mày”
Trong tình ái gọi tiếng “em” mát ruột
Ở đời sống người ta cần phong tước
Trong ái tình anh chỉ thích làm dân
Em là Thảo Bích Dung Phương Nhạn Thu Vân
Kim Đào Liễu Phụng Giang… gì cũng mặc
Miễn là chúng ta tôn trọng ngầm nguyên tắc
Anh là đàn ông, em là đàn bà
Chúng ta khác nhau từ lúc lọt lòng ra
Nên đây không phải lần đầu anh phẫn nộ
Nhưng trong tình yêu nếu em làm toán đố
Thì xin mời em mai cắp sách đến trường
Anh vốn sợ giáo điều như sợ bảng cửu chương
Đừng xoa đầu anh như xoa đầu đứa trẻ
Đừng bắt chước nữ hoàng đi săn nô lệ
Đừng để anh phải chửi tục thật kỳ
Thà mang tiếng Mã Giám Sinh còn hơn là ôm hận Trương Chi!
Cũng cần mở ngoặc đơn chỗ này, giữa một xã hội mà tuổi trẻ không dám yêu nhau, sẵn sàng vì địa vị mà sống giả dối với nhau theo kiểu “em ơi dang ra cho anh làm cách mạng, nhích lại gần anh là mất Đảng mất Đoàn” như thế, tôi đã sống trong cảnh hiểm nguy rình rập thường xuyên. Tại nhiều quán nhậu khác nhau tôi đã từng bị đám xã hội đen lẫn xã hội đỏ bao vây đe dọa bằng bạo lực “hội đồng”, từng bị vài tên “tiểu sát tử” xông qua bàn khiêu khích với ý đồ buộc tôi phải tử chiến để gài vào hành vi phạm pháp dân sự, nhưng tôi đều vượt qua những “lỗ chân trâu” đó. Tôi không dại gì “thí mạng” mình trong những trò hề chính trị rẻ tiền. Có lẽ các anh Cung Tích Biền, Hồ Thành Đức hiểu sự liều lĩnh của con người tôi hơn ai hết, khi tôi đi bộ đội về phép dám mang lựu đạn của đơn vị để đi cầm cố cho các anh lấy tiền đãi nhậu bạn bè. Dù sao ba cái chuyện “anh hùng rơm” ấy giờ đã xưa như trái đất.
Thời điểm sau khi bị buộc cởi áo lính cũng là thời tôi thê thảm nhất. Đi đâu tôi cũng nghe đồn rằng cấp trên “cấm đăng bài Bùi Chí Vinh trên báo bằng… miệng” nếu kẹt quá vì phải phục vụ yêu cầu của quần chúng thì “chỉ đăng Thơ Tình và duy nhất Thơ Tình”. Tôi phải tồn tại mưu sinh bằng một nghề mới là… làm thơ bóng đá. Thuở ấy Hồ Nguyễn phụ trách tờ Long An Bóng Đá và tờ Long An Cuối Tuần rất ưu ái tài nghệ làm thơ đa hệ và hoàn cảnh bi đát của tôi bèn đề nghị cứ mỗi số báo ra tôi phải có một bài thơ về thể thao hoặc trào phúng hài hước. Nhờ vậy tôi đã chế tạo thêm một trường phái mới về thơ là THƠ BÓNG ĐÁ với hơn 300 bài thơ đã đăng báo kể từ 1978 đến nay. Hơn 300 bài thơ trên đã được nhà báo Huy Vĩnh công nhận như một thứ kỷ lục Việt Nam trong cuốn GUINESS THỂ THAO do anh là tác giả. Những bài thơ thành một loại biên niên sử ghi chép các giải World Cup, Euro lẫn các giải vô địch Việt Nam mà sau này nếu có dịp tôi sẽ in ra. Bây giờ tạm giới thiệu cùng các bạn hai bài thơ về bóng đá tiêu biểu:
ANH VÀ QUẢ BÓNG
Đời sống có gì hơn quả bóng
Tay trơn không níu được bao giờ
Hạnh phúc có hơn gì quả bóng
Lủng mấy lần xì hết ước mơ
Vậy mà anh vẫn rất trẻ thơ
Thấy bóng lăn là chân động đậy
Bóng lăn đến một nơi nào vậy
Sao bàn chân mãi ở bậc thềm?
Bàn chân có lúc cạnh chân em
Khi hai đứa dìu nhau trên sỏi
Bàn chân có lúc lạ chân em
Khi trên cỏ: banh và đồng đội
Biết nói thế nào về cái lưới
Về xà ngang, cột dọc, khung thành
Hay chỗ đó lọt vào nông nỗi
Quả bóng tình em buốt ngực anh
Quả bóng tròn như thể công danh
Anh chụp suốt một đời không dính
Chỉ thương thầm những cọng cỏ xanh
Không lớn nổi trên sân mùa lạnh
Sau trận đấu khán đài hiu quạnh
Như Charlot, anh hát một mình
Có ngọn cỏ biết yêu buồn quá
Níu giày anh để đến thăm em
HOAN HÔ BRAZIL
Không riêng mình anh, tất cả đã sẵn sàng
Mọi nhà thơ bắt đầu cầm lấy viết
Các nhạc sĩ đều chuẩn bị dây đàn
Những phòng tranh sửa soạn trưng bày không kiểm duyệt
Bảy ngành nghệ thuật đã họp nhau ra nghị quyết
Phiên họp cuối cùng là hai chữ: Brazil
“Nghệ thuật thứ tám” khiến hành tinh khủng khiếp
Brazil Brazil như máu thịt của mình
Brazil Brazil trống ngực đập bình bình
Khi quả bóng lăn, cầu thủ đều chơi nhạc
Quả bóng rơi đều lên mỗi trái tim
Rap Rock, Disco phải chuồn đi chỗ khác
Quả bóng Brazil làm loài người biết hát
Anh biết làm thơ và em biết nhảy đầm
Quả bóng Brazil cho địa cầu bóng mát
Mọi thứ đầu hàng kể cả chiến tranh
Quả bóng Brazil lặn trong ngực anh
Lúc nổi lên thành bài thơ em đang đọc
Em đã biết gì về sông Amazon
Nơi mặt trời Brazil sừng sững mọc
Ở đó có đứa bé da đen ôm mặt khóc
Đập bể máy thu thanh vì quả bóng bị “xì”
Để mười năm sau thành ông vua thứ nhất
Mở đầu thời kỳ vương quốc Pêlê
Ở đó sân gôn trên đường phố vĩa hè
Những “Pêlê nhỏ” mê banh hơn vào lớp
Học kiểu nhà trường, tiền đạo dễ bị “me”
Không thể sút những đường banh khó nhất
Sút Parabol, sút Hypebol, sút nổ tung hình học
Pythagore sống lại cũng hoảng hồn
Đội đầu căng, đội đầu thẳng, đội đầu chìm, đội đầu khép góc
Socrate có đội mồ cũng chẳng thể đội đầu hơn
Ở đó em ơi không có hoàng hôn
Tên họ Vava, Didi, Garincha… có nghĩa là buổi sáng
Cúp “Nữ Thần Vàng” trở thành của hồi môn
Cho kẻ cầu hôn ba lần chiến thắng
Ở đó người ta quyên sinh sau mỗi lần bại trận
Các cô gái gọi Pêlê và nguyền rủa căm thù
Quốc Hội ngưng họp chuyển sang phần “quốc táng”
Cờ rũ treo ba ngày, toàn Nam Mỹ âm u
Anh sẽ kể với em về trận thua Uruguay
Bảy người chết vì đứt tung mạch máu
Hàng ngàn người phát điên, hàng triệu người mếu máo
Bệnh viện thiếu lương y vì bác sĩ cũng… từ trần
Quả bóng chính là tôn giáo của Brazil
Đó cũng là đạo mà anh đang theo đuổi
Em đừng ngạc nhiên trên chiếc giường đám cưới
Sẽ có quả banh da làm biên giới giữa hai người
Chỉ trừ khi em biết đặt bóng vào môi
Bằng không chắc anh sẽ suốt đời ở góa
Cám ơn Pêlê và “một ngàn một trăm trái phá”
Dạy anh biết yêu em và phát triển tín đồ
Sau màn bóng đá là tiếng đồn về khả năng chuyển hệ từ thơ sang văn xuôi của tôi. Phải công nhận rằng khi dựa lưng vào chân tường tôi chuyển hệ thật nhanh, phản xạ nghề nghiệp để mưu sinh và để tự tồn tại. Lúc sinh con trai đầu lòng năm 1990, NXB Long An qua trung gian Mặc Tuyền đặt hàng tôi viết tiểu thuyết YỂU ĐIỆU THỤC NỮ. Đây là tiểu thuyết đầu tay của tôi được hoàn thành trong vòng đúng 15 ngày. YỂU ĐIỆU THỤC NỮ hao hao như một kiểu tự truyện, vừa ra đời lập tức được bán hết, được một NXB khác tái bản, và được Hãng Phim Giải Phóng kết hợp với Đài Truyền Hình Cần Thơ thực hiện thành phim nhựa màu 35 ly Agfa đầu tiên trong thời điểm đó. Phim do ông Huy Thành đạo diễn với dàn diễn viên trẻ tuổi ăn khách Lê Công Tuấn Anh, Thành Lộc, ca sĩ Ngọc Sơn, Diễm Hương, Kim Khánh, Thế Anh… chiếu rộng rãi khắp các rạp trên toàn quốc. Phim YỂU ĐIỆU THỤC NỮ sau đó được một Việt Kiều mua đứt bản quyền đem sang Mỹ kinh doanh và coi như tuyệt bản ở Việt Nam. Sẵn đà thắng lợi, hàng loạt tiểu thuyết của tôi với đề tài tương tự về giới trẻ tiếp tục xuất hiện trên diễn đàn các báo cho tuổi mới lớn qua hình thức đăng Feuilleton, xuất bản thành sách và sau đó làm phim như TÓC TIÊN, CỎ VEN ĐƯỜNG, MÊNH MÔNG TÌNH BUỒN…
Năm 1994, ông Nguyễn Thắng Vu giám đốc NXB Kim Đồng lúc đó có vào Sài Gòn gặp tôi và đưa nguyên tác tiếng Đức cuốn TKKG của nhà văn Stefan Wolf lẫn bản dịch tiếng Việt của dịch giả Vũ Hương Giang, đề nghị tôi phóng tác thành bộ truyện trường thiên thiếu niên giang hồ võ hiệp mang hơi hướm ngôn ngữ và cuộc sống thời kỳ hiện đại. Không hiểu ai giới thiệu tôi cho ông, nhưng qua sự tín nhiệm của ông Nguyễn Thắng Vu, tôi thấy có bổn phận phải đưa đến cho độc giả trẻ tuổi Việt Nam đang thiếu thốn thức ăn tinh thần một bộ truyện bổ ích nói lên được ước mơ, khát vọng hành hiệp của các em. Tôi liên tưởng đến phong cách dịch tài hoa của Ngọc Thứ Lang qua cuốn BỐ GIÀ của Maria Puzzo mà tôi từng mê đắm. Thế là 70 cuốn TỨ QUÁI TKKG ra đời gây sóng gió dư luận trong suốt 2 năm với số bản in trung bình mỗi cuốn là 60 ngàn bản hằng tuần, phá mọi kỷ lục về số lượng phát hành lúc đó (và tới tận bây giờ). Sau thành công bất ngờ của TKKG, ông Nguyễn Thắng Vu tiếp tục đặt hàng tôi bộ truyện đặc sản Việt Nam mang tựa NĂM SÀI GÒN và bộ truyện này trong năm 1997 cũng tiếp tục gây chấn động dư luận với 40 cuốn, mỗi cuốn ra hằng tuần có số lượng in trung bình 20 ngàn bản, cũng là con số kỷ lục của một bộ sách Việt Nam cùng với KÍNH VẠN HOA của Nguyễn Nhật Ánh. Bộ truyện NĂM SÀI GÒN đã thực hiện thành phim truyền hình năm 2006 – 2007 với bước đầu 15 tập mang tên NGŨ QUÁI SÀI GÒN chiếu trên màn ảnh nhỏ khắp cả nước. Bí quyết duy nhất của tôi khi viết những bộ truyện bán chạy có lẽ không khác gì người tù vượt ngục Henry Charriere phát biểu với báo chí khi viết cuốn PAPILLON. Đó là “Nếu viết hồi ức về cuộc đời kiểu đó có nhiều người mua thì tôi dư sức viết được”. Nghe thì đơn giản nhưng để đạt khái niệm “dư sức viết được” có khi phải đổi bằng máu và nước mắt suốt cả cuộc đời. 
Cũng trong thời gian này tôi còn mở màn cho đầu sách truyện tranh màu của NXB Kim Đồng bằng 15 cuốn HẢI ĐẠI BÀNG nói về tuổi thơ của những đứa trẻ giống tôi ở những khu xóm bùn lầy nước đọng. Tôi chỉ đáng tiếc bộ truyện NĂM SÀI GÒN vì những lý do khác nhau phải “chết non” ở tập 40, trong khi tôi chuẩn bị cho năm nhân vật của mình đi chu du vòng quanh thế giới cho đến cuốn 70. Bộ truyện kết thúc đột ngột kéo theo bao nhiêu là thư từ và nước mắt của những độc giả trẻ tuổi khắp ba miền đất nước đổ về tôi như một lời trách móc.
Năm 1994 với tôi có khá nhiều biến cố. Ngoài chuyện “ăn nên làm ra” trong lãnh vực văn xuôi, tôi còn tham dự Hội Nghị Nhà Văn Trẻ toàn quốc tổ chức tại Hà Nội. Theo lịch trình của Ban Tổ Chức đại hội thì tôi và Phan Thị Vàng Anh sẽ phát biểu về thơ và về văn. Trên diễn đàn, thay vì đọc diễn văn tôi lại hùng hồn bày tỏ nguyện vọng khí phách của một người cầm bút cô độc qua bài thơ TUYÊN NGÔN THI. Bài thơ làm choáng váng hai hàng ghế đầu của giới lãnh đạo chính trị, văn hóa ngồi phía dưới. Nhưng ngược lại tạo nên sự phấn khích tột độ chưa từng có của đa số những người cầm bút trẻ hôm đó. Tôi đã nhận được những tràng pháo tay vang dội, những cuộc đề nghị phỏng vấn riêng của báo chí, truyền hình, tuy nhiên điều quan trọng nhất là bài TUYÊN NGÔN THI không bao giờ được xuất hiện nguyên văn trên mặt báo. Nó mãi mãi tồn tại như một giai thoại độc nhất vô nhị tại thủ đô Văn Miếu cho đến lúc mạng Internet xuất hiện trên toàn cầu:
TUYÊN NGÔN THI
Bằng sáng tác của mình – Tôi đánh tan những điều nghi hoặc – Tôi trồng cỏ khắp nơi trên mặt đất – Chuẩn bị cho cổ tích loài bò – Tôi nắm tay Whitman, tôi quàng cỏ Rousseau – Đem cỏ bao vây triều đình và nhà ngục – Đem cỏ tấn công bọn vua quan phàm tục – Làm rêu mọc đầy râu, làm hoang phế mọi lâu đài – Tôi sẽ dùng cỏ trong thơ đeo lủng lẳng ở vành tai – Thay các trang sức, các huân chương hèn mọn – Tôi sẽ tròng vào khuôn mặt háo danh một sợi dây thòng lọng – Được tết bằng cỏ mọc ở nơi mất vệ sinh duy nhất trên đời – Còn loài cỏ đẹp mà tôi hằng chúc tụng – Chính là vòng nguyệt quế thơ tôi.
Bằng sáng tác của mình – Tôi thực sự ăn mày phép lạ – Tôi thương Rimbaud, tôi mê Remarque quá – Các bạn đi bộ khắp Châu Au không có một mái nhà – Tôi cũng đã mõi giò trên lộ Nguyễn Du – Gối quỵ xuống lề đường Cao Bá Quát – Tôi đạp lên xương sườn hai nhà thơ Việt Nam có cuộc đời đầy bất trắc – Nghe nhói đau ở phía dạ dày – Thế kỷ trước tôi, ở Tiên Điền ở Quốc Oai, hai người đồng nghiệp – Tôi chắc đã từng tê buốt chỗ này đây.
Bằng sáng tác của mình – Tôi tăng tuổi thọ cho người sắp chết – Tôi giúp đỡ những ai thất nghiệp – Phát chẩn thi ca để kiếm việc làm – Với trẻ nhi đồng, tôi cẩn thận hỏi han – Xin được tháp tùng lên bầu trời mà Giê Su, Thích Ca dành cho con nít – Với đàn bà, tôi tỏ ra ưa thích – Xin được phiêu lưu xuống hỏa ngục nàng dành – Tôi đã cạo đầu và dài tóc rất nhanh – Đã khiếm nhã và cực kỳ lễ phép – Tôi đỏ tôi đen vô cùng khắc nghiệt – Cách ăn mặc trong thơ như y phục tắc kẻ – Nếu có lần nào áo quần đứt cúc – Đó cũng là lần tôi tập si mê.
Bằng sáng tác của mình – Tôi xuất bản không cần trang bị – Sách vở cung đình đang chờ cân kí – Tôi cân kí lô cái lưỡi của mình – Dù vua chúa triều thần tiểu tiện lên các phát minh – Dặn tôi uốn lưỡi bảy lần thì cho nói – Uốn một lần coi như tốt nghiệp nghề múa rối – Lần thứ hai đạt danh hiệu hát tuồng – Lần thứ ba chuẩn bị phong quan – Lần bốn lần năm thì tha hồ chức tước – Uốn đến lần cuối cùng hẳn quyền to cả nước – Vì cái lưỡi bẩm sinh đã bị bảy lũy thừa – Cũng may là tôi không biết dạ biết thưa – Nên cái lưỡi vần còn nguyên mùi vị – Mỗi lần lưỡi cong là nhảy ra thằng thi sĩ.
Bằng sáng tác của mình – Tôi nhổ nước bọt vào những điều lừa mị – Tôi hôn thiết tha người con gái nghèo làm đĩ – Và bạt tai đứa công chúa hợm mình – Tôi cho Lệnh Hồ Xung nói tục với Doanh Doanh – Và Trương Vô Kỵ gọi Triệu Minh bằng ả – Tôi theo phò người giang hồ quân tử – Và tẩy chay đám quyền quý nịnh thần – Tôi sẵn sàng đạp xích lô đến chỗ hẹn với tình nhân – Và mặc quần rách dìu nàng đi ăn phở – Tôi sẽ trò chuyện với nàng bằng ngôn ngữ dân đen mạt lộ – Và đối thoại với vua quan bằng ngôn ngữ thiên tài – Tôi sẽ làm cho các nhà bác học – Thấy mình còn cận thị trước tương lai.
Bằng sáng tác của mình – Tôi bắt tay bè bạn anh em – Bắt tay các tiệc tùng giai cấp – Cám ơn chút rượu về khuya cho tôi cảm giác – Cám ơn bữa ăn mẹ cha dưa mắm rau cà – Cám ơn những bài thơ sinh đôi sinh ba – Đẻ khó nhọc như từng lon gạo chợ – Cám ơn những người tôi yêu không thành chồng thành vợ – Và hỡi kẻ thù tôi nữa, cám ơn!
Cũng bài thơ TUYÊN NGÔN THI năm 1995 kỷ niệm 20 năm giải phóng một lần nữa tôi có dịp đọc tại Nhà Văn Hóa Thanh Niên thành phố khi cùng với 19 đồng nghiệp khác được biểu dương về sự nghiệp sáng tác văn học. Hôm đó có mặt các vị chức sắc, đầu ngành thành phố ngồi dưới, người bạn Đỗ Trung Quân trong vai trò MC đã cao hứng giới thiệu tôi lên đọc bài thơ mà anh gọi là “danh bất hư truyền” này. Một lần nữa bài TUYÊN NGÔN THI gây hiệu ứng dây chuyền mạnh mẽ với khán giả đến nỗi Đỗ Trung Quân bị “văng miểng”. Tôi nghe anh em văn nghệ đồn là họ Đỗ bị rờ gáy khuyến cáo còn tôi có quan chức đề nghị là “Nếu chịu chơi dám ăn dám nói như vậy thì trả lại ba triệu đồng giải thưởng cho nhà nước”. Trời đất, giải thưởng là do nhân dân đóng thuế mà ra (trong đó có cả tôi) ấy là chưa kể ba triệu bạc lì xì cho 20 năm lao động đổ mồ hôi chất xám của một thi sĩ thua xa số tiền hối lộ của một cán bộ bất lương mỗi ngày, thì xin lỗi… còn lâu tôi mới ngu ngốc nhả lại những đồng tiền xương máu của chính tôi từng đóng thuế.
Nhiều người cho rằng tôi có tài tiên tri. Họ nói rằng tôi có khả năng đoán việc sắp xảy ra cho vận mệnh đất nước từ những bài thơ thời sự mang tính dụ ngôn. Chẳng hạn các bài thơ như CON ĐĨA, TÂM SỰ CỦA NGƯỜI MÁY… Bài thơ CON ĐĨA tôi đã chớm thai nghén ý tưởng từ những chuyến viễn du ra Bắc, tiếp xúc với các giới thân hào nhân sĩ trí thức ngoài đó, để rồi thấy rằng dòng sông Bến Hải oan nghiệt hơn cả một cuộc chiến tranh 30 năm. Sự đứt khúc tạo nên hai chủ nghĩa xuất phát ngược chiều nhau không dễ gì hàn gắn chỉ trong vài thế hệ.Tôi xin chép bài thơ ra đây:
CON ĐĨA
Đất nước đứt làm đôi
Như đứt đôi con đỉa
Mỗi con lớn lên không hề ngắm nghía
Phía phần đuôi đau nhức của mình
Lịch sử dùng phẫu thuật văn minh
Nối hai chú ký sinh làm một
Rồi thả lại vào ao nhưng đỉa không bơi được
Bởi hai cái đầu quay hai hướng khác nhau
Đất nước tôi như hai phần con đỉa
Dính liền bằng…lưỡi dao!
Năm 1994 ra Bắc tôi không còn cơ hội gặp Lưu Quang Vũ, người anh em giang hồ tài hoa quen biết sau giải phóng qua sự giới thiệu của Lưu Trọng Văn. Đơn giản là vì anh đã chết một cách bất đắc kỳ tử. Bất đắc kỳ tử đến độ cái chết của anh đến bây giờ vẫn còn là một dấu hỏi với quá nhiều lời giải đáp. Khi anh mất , tôi có làm vài câu thơ tưởng niệm về hai vở kịch nổi tiếng của anh là NHÂN DANH CÔNG LÝ và TÔI VÀ CHÚNG TA như sau:
CÔNG LÝ là một KÝ LÔNG
Lúc cân, chẳng biết phải NHÂN DANH gì?
Mới đầu TÔI VÀ CHÚNG TA
Đến khi màn khép TAO VÀ CHÚNG BÂY!
Một người cầm bút khác ngoài Bắc vô Nam tìm gặp tôi là nhà văn Bảo Ninh thành danh với cuốn NỖI BUỒN CHIẾN TRANH. Hôm đó cách đây hơn 15 năm, chiều mưa rả rích ở một quán nhậu trên đường Mạc Đỉnh Chi có tôi, Bảo Ninh, Nguyễn Trọng Tín, Vũ Ngọc Giao, Trần Hữu Dũng… Trong cơn say, hai kẻ hành khất chống nạng bán vé số rong ôm đàn guitar phím lõm hát bài nhạc SƯƠNG TRẮNG MIỀN QUÊ NGOẠI não nùng đến bàn chúng tôi chào mời khách. Tôi bàng hoàng bởi anh chàng cụt giò nghêu ngao vọng cổ có khuôn mặt bầu bĩnh chính là một người lính Sài Gòn cũ trong Xóm Lách mà tôi cư ngụ. Tôi kể chuyện đó cho Bảo Ninh, một người cầm súng ở chiến tuyến ngược lại. Cảm giác rờn rợn và liêu trai ấy đã giúp tôi hoàn thành bài thơ ĐÊM LÍNH CŨ đọc cho bạn bè, và sau đó chép vào sổ tay theo yêu cầu của Bảo Ninh. Không biết người bạn giang hồ phương Bắc giờ này còn lưu những bút tích đó hay không?
ĐÊM LÍNH CŨ
“Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm”
Bài nhạc đầy cải lương nói về người lính
Nam Bắc phân tranh, chiến hào Nguyễn Trịnh
Điệu Habanara nón sắt úp trên đầu
“Sương trắng rơi vai tôi ướt rồi sao?”
Vai ai ướt, Bắc Kỳ hay Nam Bộ?
Đời lính thú lưu đồn quên cố thổ
Một chữ lính viết hoa, bao ngôn ngữ đều thừa
Gặp lại bạn bè cũ vẫn như xưa
Thằng nào cũng hát những bài ca tang chế
Điệu Bolero như một lời trách khẽ
Tiếng đàn đêm bỗng hóa tiếng than dài
Phải rồi tiếng đàn quen thuộc ở Chu Lai
Nắp hầm đầy rêu ta ngồi bưng mặt khóc
Nghe gõ nhịp điệu sênh tiền lóc cóc
Nhạc ngựa reo thấp thỏm giọng nam trầm
Phải rồi tiếng đàn quen thuộc ở Chư Pông
Dân “sinh Bắc tử Nam” không cần Trương Lương thổi sáo
Thằng ca sĩ lính Cộng Hòa cụt đầu, cây guitar chảy máu
Khán giả hét “xung phong” qua tiếng pháo ngậm ngùi
Phải rồi phải rồi, tiếng đàn quen thuộc ở đây thôi
Thằng đang là đồng chí, thằng từng là chiến hữu
Cũng tiếng đàn ấy tưởng xưa mà chẳng cũ
Dù đứt một dây, gân cổ vẫn nghẹn ngào
Mười năm mới gặp nhau, mỗi đứa một cơn đau
Cởi áo binh chủng sao hồn còn vằn vện
Nói gì đây khi rửa tay gác kiếm
Chỉ biết lặng im chờ thái độ tiếng đàn
Nhưng tiếng đàn của binh nhì thì không chọn lọc giống sĩ quan
Lại Habanara, lại Bolero, lại những bài hát ấy
Không phải Tango, không phải Valse quý phái
Mà rất rưng rưng con mắt kẻ giang hồ
Giải phóng về ta bỏ súng làm thơ
Bạn bè tàn phế phải ăn mày hát dạo
Tiếng đàn từ đó trở thành ra giọt máu
Máu đã ứa ra không thể ứa hai lần
Không thể quay đầu trước xương máu nhân dân
Và đóng ngược vào đời mình đinh nhọn
Cám ơn lời ca và tiếng đàn chưa muộn
Đã đánh thức ta sau mười tuổi công hầu
Theo tôi, sự tiên tri và cảnh báo những bi kịch của thời đại không chỉ dành độc quyền cho cá nhân tôi mà là tài sản tinh thần chung của các thi sĩ có tài năng bẩm sinh, từng trãi vốn sống và chịu sự vùi dập sóng gió của định mệnh. Vấn đề là kẻ nào “dám ăn dám nói dám viết đầu tiên”. Những kẻ đi tiền phong trong lãnh vực thơ tiên tri đều có sứ mạng thiêng liêng như các thánh tông đồ trong Thiên Chúa Giáo hoặc các hành giả trong Phật Giáo. Họ có thể tử đạo vì thơ của mình nhưng tên tuổi họ mãi mãi bất tử trong lòng quần chúng.
Trong những người khuyến khích tôi làm thơ “thời sự” để lưu lại cho đời sau ngoài các bậc tiền bối như Trang Thế Hy, Sơn Nam, Kiên Giang, Phạm Thiên Thư, Cung Tích Biền… còn có những chính khách “VIP” như Trần Bạch Đằng, Huỳnh Bá Thành…
Năm 1981 khi rời khỏi bộ đội, tôi bắt đầu phát hiện những thằng “Cuội” trong các lãnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, văn hóa… Chúng tồn tại và phát triển bằng hệ thống vây cánh mới, vừa liên minh vừa sẵn sàng tiêu diệt lẫn nhau nhằm bảo vệ quyền lợi riêng. Chỉ tội nghiệp chú Cuội của Hằng Nga quá trong sáng trước bài thơ này:
CUỘI
Sáu năm ta mới rành chú Cuội
Chê gốc đa, Cuội ở văn phòng
Chê cuốc bộ, Cuội trèo xế hộp
Ở rừng về Cuội sợ đau chân
Cuội quên hết muối mè, cơm nắm
Thực đơn bảy món Cuội cười khà
Căng bụng Cuội hô hào nghị quyết
Kế hoạch nào cũng xạo bỏ cha
Ai cũng biết mặt trăng có Cuội
Nhưng Cuội mặt trăng khác địa cầu
Đứa nào Cuội “dạ dày dân tộc”
Đẻ con không lỗ đít về sau!
Một bài thơ khác cũng mang tựa đề một chữ, được tôi đọc trong bàn nhậu của một Mạnh Thường Quân bất đắc chí thách thức tôi làm bài thơ về đề tài CỨT. Với vị đại gia bất đắc dĩ đó, bàn tiệc ê hề sơn hào hải vị chỉ tương đương một đống phân. Tôi đã khạc như sau:
CỨT
Con gì ăn không ỉa
Cứt voi toàn bã mía
Cứt chim lắm cào cào
Cứt loài người ra sao?
Lấy giùm ta kính lúp
Phân tích văn minh cứt
Cứt nhiều nhờ ăn no
Cứt ít nhờ bo bo
Đói thì đầu gối bò
Bò mỗi thời mỗi khác
Bò làm sao ra cứt
Có cứt là có cơm
Thường ta rặn thấy rơm
Trong rơm thấy thóc sạn
Giận dạ dày khốn nạn
Không ị ra bánh mì
Cục cứt nhiều trọng lượng
Để dành cho vua quan
Riêng cứt ta lõng bõng
Phải thuộc về nhân dân!
Như đã đề cập về mối quan hệ của tôi với các chính khách như Trần Bạch Đằng, Huỳnh Bá Thành… Kỷ niệm tiếp theo xem như một nén nhang thắp viếng linh hồn hai người đã khuất. Năm 1988 tôi lập gia đình tổ chức đám cưới ở Hội Liên Hiệp Thanh Niên do Huỳnh Tấn Mẫm chủ tịch Hội làm “chủ xị”. Quan khách có cấp bậc cao nhất tham dự lúc đó là Trần Bạch Đằng đương nhiên ở cương vị “chủ hôn”. Bàn của ông Trần Bạch Đằng tức ông Tư Ánh có mặt nhiều vị lãnh đạo cấp Thành Phố. Lúc lên phát biểu, chú Trần Bạch Đằng có nhắc nhở vợ tôi rằng “Lấy thằng Vinh là con phải trang bị một khẩu súng để bóp cò lúc cần thiết”. Câu nói vừa hài hước vừa mang tính ẩn dụ đã thắt chặt tình chú cháu hơn bao giờ hết, thậm chí pha chút tình phụ tử bởi tôi là một đứa trẻ mồ côi cha từ năm 17 tuổi (cha tôi chết năm 1971 vì những vết thương do bị tra tấn trong nhà tù khi hoạt động cách mạng). Những lần đến nhà ông, lúc đi với Nguyễn Quốc Chánh lúc đi với vợ con, hai chú cháu đều tranh luận nhiều chuyện nảy lửa. Nguyễn Quốc Chánh khoái đấu khẩu với “chú Tư Ánh” về chính trị, còn tôi chỉ thích lạm bàn quanh vấn đề văn nghệ chuyên môn và nhân cách kẻ sĩ. Vài lần thấy chú Tư đăm chiêu trước sự phát biểu cực đoan của Chánh, tôi có quay qua hội ý với thím Tư (là cô Chơn, cựu Thứ trưởng Bộ Tư Pháp, vợ ông Trần Bạch Đằng) thì thím Tư Ánh cười hiền hậu “Không sao đâu con à. Thím rất thích được nghe tuổi trẻ phản biện về chính trị”. Khi tôi ví von Trần Bạch Đằng là một Nguyễn Trãi thời nay nhưng thiếu minh chúa Lê Lợi thì ông có vẻ chột dạ. Ông hỏi tôi “Mày nghĩ về Nguyễn Trãi ra sao?” thì tôi đọc bài thơ này cho ông nghe khiến ông rất hể hả:
SỰ NHẸ DẠ CỦA NGUYỄN TRÃI
Sử cho hay Nguyễn Trãi bị tru di
Cốt đạo Nho mà không rành Khổng Tử
Thân chưa tu đã muốn bình thiên hạ
Trị quốc thua cái váy của đàn bà
Ta cũng muốn làm ông tướng bình Ngô
Tưởng thời này khác thời xưa chúa đất
Ngờ đâu minh quân chỉ yêu mến công thần
Lúc hạt gạo vẫn còn nguyên hạt thóc
Gạo thành cơm để dành cho hoàng tộc
Lúa nổi thóc trôi đám tiện dân nghèo
Nghĩ mà thương những anh chàng đánh giặc
Tuổi về hưu còn mài kiếm trăng treo
Ta đốt binh thư ra ngủ ở chuồng heo
Sợ sự thông thái làm mình mê nghiệp bá
Rồi lỡ tay đi cướp ấn công hầu
Mùi cứt lợn lại chồng lên lịch sử
Chẳng thà một lòng quăng con trủy thủ
Ngồi khạc thơ coi lũ cá hóa rồng
Kìa Nguyễn Công Trứ xưa còn rành tục ngữ:
“Cùng thì tắc biến, biến thì thông”.
Còn với sư huynh Huỳnh Bá Thành, tôi lại có nhiều kỷ niệm khác. Cuối thập niên 80 anh Huỳnh Bá Thành lúc đó là Tổng Biên Tập báo Công An TP lôi tôi về viết mảng văn hóa văn nghệ của tờ báo khi tôi đang thất nghiệp. Trong cương vị mới tôi đã làm được “rất nhiều chuyện” với anh, trừ chuyện thơ. Anh nói “Chú mày lo viết truyện dài Feuilleton và làm phim cho hãng Người Bảo Vệ mới thành lập của báo. Riêng THƠ ĐỜI thì cứ ghi chép theo kiểu thời sự hàng ngày để thế hệ sau này đọc và biết những gì xảy ra của nước ta thời điểm đó. Có điều chừng nào anh chết thì chú mày mới in THƠ ĐỜI nhé.”
Thưa hương hồn anh Huỳnh Bá Thành, tôi đã làm những gì anh khuyến cáo và dặn dò. Có lẽ dưới suối vàng anh hẳn còn nhớ những đêm anh em tâm sự cụng ly nhau, tôi đã làm anh khinh khoái và nhẹ lòng biết bao nhiêu trước những bài thơ theo thể Hành về nỗi đau cơm áo gạo tiền của nhân dân thống khổ. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin chép lại bài thơ phổ biến nhất anh đã từng nghe và được các nhạc sĩ giang hồ chuyển thành ca khúc với ca từ tam sao thất bổn. Đó là bài XÍCH LÔ HÀNH.
XÍCH LÔ HÀNH
Tưởng mình ta đạp xích lô
Nào hay phố xá ngựa thồ như nêm
Buộc cho ta miếng băng đen
Để cho cặp mắt làm quen mù lòa
Xỏ giàm vào mõm nữa cha
Để cho số tuổi ta già theo răng
Giật cương đi, hõi mấy thằng
Ê sao nước mắt chợt lăn xuống cằm
Ta đi dụ khị người phàm
Thấy huynh hiền sĩ từ quan lên rừng
Dạ dày ta nhảy lung tung
Nhảy dăm phút nữa dám khùng nghe cha
Cũng may vừa tới ngã ba
Cô em yểu điệu tà tà leo lên
Lưng ta khòm giống cái yên
Chổng mông em cỡi, mùi thiền nhấp nhô
“Ba đồng một cuốc, mại dzô”
Có con ngựa đực vừa ho vừa gào
Ta thồ ngang động hoa đào
Thấy dăm kỹ nữ chém nhau giành bề
Thồ ngang đống rác thúi ghê
Thấy bầy tiểu tử chửi thề giành moi
Thồ ngang khách sạn em ơi
Chó ngồi ăn nhậu, còn người ăn xin
Nhưng mà chớ có rùng mình
Tại ta kéo thắng chưa linh em à
Gân chân lõm tựa ổ gà
Mặt xương bụng lép đếch ma nào ngồi
Mới ra nghề tưởng khơi khơi
“Bác Hồ ngó thẳng” đâu chơi gà mờ
Dạ dày lại đánh lô tô
Mồm ta méo xệch bên bờ tử sinh
Như là thiếu phụ tắt kinh
Ruột xe có chữa thình lình, chết cha
Té ra trong cõi người ta
Ruột lô ruột xịn khéo là ghét nhau
Đếm tiền còn thiếu xu hào
Đếm ta thấy chớm bệnh lao mất rồi
Vá giùm chút bạn hiền ơi
Chiếc xe cà chớn của thời cà chua!
Cũng bài thơ này và bài VE CHAI HÀNH được tôi đọc cho ông Võ Văn Kiệt thời ông làm Bí Thư Thành Ủy Sài Gòn khi ông mời nhóm sáng tác của báo Tuổi Trẻ trong đó có tôi đến nhà dùng bữa cơm thân mật. Trong lúc trà dư tửu hậu, ông nghe báo cáo rằng có một nhà thơ nổi loạn chuyên làm “Thơ Đen” truyền khẩu trong nhân dân. Các đồng nghiệp khác có vẻ lo âu nhưng tôi thản nhiên công khai hóa nỗi niềm mình trước vị lãnh đạo cao nhất của thành phố. Nghe xong ông Kiệt vỗ tay gật gù khoái trá khiến bầu không khí bớt căng thẳng. Tôi không biết ông nghĩ về tôi ra sao chứ những chính sách của ông ban hành sau này với giới trí thức và văn nghệ sĩ “dám ăn dám nói” rõ ràng bị… siết chặt hơn.
Một kỷ niệm có dính dáng tới ông là tôi vài lần chở nhà văn Sơn Nam đậu trước biệt thự nhà ông để lão tiền bối Sơn Nam gõ cửa xin “viện trợ” của đồng chí cũ thời cùng chung tỉnh ủy Long Châu Hà. Những lúc đó tôi thấy thương kiếp nhà văn của ông Sơn Nam vô cùng. Ngày xưa vua chúa phải hạ mình đi cầu hiền sĩ còn thời nay hiền sĩ phải đi cầu cạnh ngược lại. Đúng là kiếp cầm bút bọt bèo giữa bể dâu chính trị.
Nói là nói vậy chứ trong cửa tử luôn luôn có cửa sinh. Đã là một nhà văn nhà thơ đứng về phía nhân dân thì buổi giao thời chủ nghĩa với những cảnh “bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” như thế bao giờ cũng là môi trường thuận lợi nhất để ra đời những tác phẩm lớn. Chỉ trừ khi bản thân người cầm bút bất tài và thích đổ thừa. Cũng may trong cuộc đời lang bạt giang hồ tôi luôn được tiếp xúc với nhiều kỳ nhân dị sĩ trên các lãnh vực nghệ thuật khác nhau để “hâm nóng” sáng tác.
Chẳng hạn trong hội họa tôi có dịp giao du với những họa sĩ, điêu khắc gia vừa có tài năng vừa hào khí ngất trời trong… bàn rượu, đủ để làm được bài thơ HỌA HÀNH. Đó là các họa sĩ từng vẽ chân dung tôi mà tôi còn lưu giữ như Nguyễn Trung, Nguyễn Trọng Khôi, Khánh Trường, Vi Vi Võ Hùng Kiệt. Đó còn là các bậc đàn anh tên tuổi khác như Hiếu Đệ, Rừng, Nguyên Khai, Hồ Thành Đức, Hồ Hữu Thủ, Trịnh Thanh Tùng…
HỌA HÀNH
Làm thơ mà quậy toàn họa sĩ
Là “thi hữu họa, họa hữu thi”
Ai dám bảo đó điều cấm kỵ
Ngày xưa Lý Bạch quậy Vương Duy
Lý Bạch quậy Vương Duy còn đỡ
Ta nâng ly toàn đụng dân gầm
Mỗi tên cầm cọ chừng dăm vợ
Nói gì tiểu thiếp đến chào sân
Mỗi tên cầm cọ dăm người mẫu
Chữ mẫu nghe đâu giống mẹ hiền
Các em làm mẫu, ta làm phụ
Phụ mẫu kề nhau dễ đảo điên
Mà cật vấn chi nhau chữ sex
Picasso biết được mất lòng
Chagal biết được đâm xích mích
Họa pháp làm sao cọ khỏi run
Cọ run thì cũng như ngòi viết
Người mẫu, nàng thơ có khác gì
Có em trường phái đều thua hết
Tranh cởi trần, chữ cởi dâm thi
Đọc dâm thi chỉ cần manh giấy
Xem tranh phải ngó lại túi tiền
Tội nghiệp bạn chọn nghề quý phái
Gỗ, lụa, màu… giá rẻ vài “thiên”
Ơi, Khôi, Trung, Đệ, Trường, Khai, Đức…
Hội họa ngày nay xuống chợ trời
Tranh ảnh quốc doanh bày như rác
Gác cọ, mình đi uống rượu chơi…
Chẳng hạn trong âm nhạc, môn phái gần gũi với thi ca nhất, tôi tha hồ “đi bụi” với nhạc sĩ Trần Quang Lộc, Lã Văn Cường, Vũ Ngọc Giao, Nguyễn Hải… Cách đi bụi với mỗi người cũng khác nhau. Năm 1975, lúc còn làm biên tập viên trang văn nghệ báo Tuổi Trẻ tôi gần như là cặp bài trùng với họa sĩ “đa hệ” Nguyễn Trọng Khôi, bởi Khôi là họa sĩ trình bày đầu tiên của tờ báo vừa có thể sáng tác nhạc. Anh có đặc điểm là hát rất hay bằng giọng “têno” bài MỘT CÕI ĐI VỀ của Trịnh Công Sơn lúc bài nhạc này bị cấm. Trong bàn nhậu bạn bè, tôi phun thơ giang hồ liên tục còn anh kết thúc bằng bài hát BÀI CHÒI về người chồng nhà quê bị vợ phụ rẫy khiến ai nấy bật cười ha hả. Năm 1977 tôi bắt đầu quen với Lã Văn Cường như một cặp bài trùng thứ hai. Cuộc hội ngộ của chúng tôi ly kỳ như… phim. Lã Văn Cường thách tôi cứ sau một bài thơ là Cường sẽ hát đáp lễ bài nhạc do Cường sáng tác. Và trên thực tế Cường đã thực hiện đúng như vậy. Tôi đọc 50 bài thơ và Cường hát đủ 50 bài nhạc cho đến lúc cả đám trong bàn đều quắc cần câu. Với Vũ Ngọc Giao thì đượm mùi tráng sĩ hơn. Năm 1978 khi nằm ở Ban Tổ Chức Thành Đoàn chuẩn bị lên đường nhập ngũ, tôi đã cùng Vũ Ngọc Giao nhạc sĩ guitar cổ điển một thơ một nhạc ngả nghiêng phục vụ công chúng xó chợ lề đường dọc khu Bà Lê Chân, Trần Quang Khải… trong những quán nghệ sĩ thời đó của Huy Tưởng và cà phê Hạ Trắng. Sau này đi bộ đội về tôi lại tiếp tục “bài trùng” với nhạc sĩ kiêm ngâm sĩ Nguyễn Hải của xứ Ngũ Hành Sơn và với Trần Quang Lộc, người sáng tác bài VỀ ĐÂY NGHE EM với những giai điệu và ca từ rất đỗi tình tự dân tộc ngọt ngào. Đây là thời gian tôi làm thơ về đề tài âm nhạc nhiều nhất. Bài guitar sau đây là một ví dụ tiêu biểu:
GUITAR
Một bài thơ cho cây đàn
Như bài hát cuộc đời ban cho mình
Như là lúc mới làm quen
Anh không dại dột yêu em bằng lời
Anh ôm guitar lả lơi
“Tout L’amour” dạo hết thời con trai
Trong vườn hoa giấy vừa bay
Khi rơi xuống ở trong tay hồi nào
Trong tay hoa ở rất lâu
Trong anh, em ở bạc đầu chưa xa
Cám ơn nhạc cám ơn hoa
Cám ơn phụ nữ sinh ra loài người
Cám ơn tất cả lứa đôi
Biết nghe âm nhạc nói lời mối mai
Biết anh mỗi bận so dây
Là em đang dạo gót hài trong anh
“Love is blue” tình yêu xanh
Thiếu guitar sẽ trở thành đen thui…
Chẳng hạn bên điện ảnh, tôi từng hạnh ngộ và la cà với rất nhiều người, những người có bụng “lân tài” giúp đỡ tôi về mặt tinh thần lẫn cơm áo cũng không ít. Tôi có thể kể tên đến cố đạo diễn Hồng Sến, cố diễn viên Lê Chánh, đạo diễn Hồ Ngọc Xum, tài tử đẹp trai Nguyễn Chánh Tín… Các huynh đệ khác như Lê Cung Bắc, Châu Đen, Phạm Thùy Nhân…
Với đạo diễn Hồng Sến thuở còn sinh tiền mỗi lần có cha ông lên thăm là ông luôn nhớ đến tôi. Ông đãi tiệc bắt tôi đọc hai bài thơ ÔNG GIÀ RỪNG SÁT và ÔNG GIÀ BẮT RẮN cho phụ thân ông thưởng lãm. Các bạn thử tưởng tượng Hồng Sến hơn tôi gần 20 tuổi thì “ông cụ” của ông phải bô lão đến chừng nào. Thế mà khi đọc xong hai bài thơ trên, đôi mắt “bô lão” của ông ướt như trẻ con. Đến giờ này tôi vẫn hãnh diện về những buổi đọc thơ cho gia đình đạo diễn Hồng Sến lúc ông còn sống.
Với Nguyễn Chánh Tín thì lại hoàn toàn bất ngờ. Chúng tôi làm quen nhau ở nhà họa sĩ kiêm diễn viên Lê Chánh trên đường Vườn Chuối đầu thập niên 80. Thuở ấy tất cả đều nghèo, trên mâm rượu chỉ có “xị sô” Gò Đen, Cây Lý và me xoài cóc ổi. Thuở ấy Nguyễn Chánh Tín đã là một ca sĩ phòng trà thành danh và là diễn viên điện ảnh có khuôn mặt “mỹ nam tử” hút hồn phụ nữ, còn tôi là một thi sĩ giang hồ bụi bặm. Thuở ấy chỉ cần “ngửi” nhau qua một bài nhạc có đẳng cấp hay qua một bài thơ khẩu khí độc đáo là mọi người đã thương nhau như ruột thịt. Thuở ấy đẹp đến nỗi mãi hơn 20 năm sau này tôi mới tái ngộ Nguyễn Chánh Tín mà hai người vẫn nhớ như in những bài thơ đã đọc, những bài nhạc đã hát ngày xưa lúc anh Lê Chánh còn sống. Chính kỷ niệm gắn bó hơn 20 năm trước đã kết dính tôi và Nguyễn Chánh Tín thành “cặp bài trùng” hiện nay trong điện ảnh. Hiện nay chúng tôi đang hợp tác làm việc cùng nhau qua thương hiệu một hãng phim tư nhân được thành lập vào năm 2007 mang tên là CHÁNH TÍN FILM. Tôi đảm nhận việc viết kịch bản phim còn Nguyễn Chánh Tín làm đạo diễn. Chúng tôi chủ trương khôi phục dòng phim kinh dị đã mất tích từ sau giải phóng bằng hàng loạt phim nhựa ngắn 45 phút chiếu các rạp lớn trên toàn quốc và phát hành đĩa DVD tại Bắc Mỹ và Châu Au. Chúng tôi đã thực hiện liên tiếp 4 phim mang tựa NGÔI NHÀ BÍ ẨN, SUỐI OAN HỒN, CHẾT LÚC NỬA ĐÊM, BỐN THÍ NGHIỆM TRONG ĐÊM TÂN HÔN và hiện lên kế hoạch làm 2 phim kinh dị, hành động mang tựa NỢ MÁU, SÁT THỦ ra mắt công chúng trong và ngoài nước vào dịp Tết Nguyên Đán sắp tới.
Cuộc đời Nguyễn Chánh Tín cũng thăng trầm không kém gì tôi. Anh từng vượt biên nhiều lần và bị bắt một lần để đời. Nếu không nhờ ông Dương Đình Thảo, giám đốc Sở Văn Hóa Thông Tin Thành Phố lúc đó bảo lãnh đóng phim VÁN BÀI LẬT NGỬA của Trần Bạch Đằng thì chắc bây giờ còn lâu anh mới tái xuất giang hồ cùng tôi lần nữa. Lần được ông Dương Đình Thảo “cứu bồ” đó, Nguyễn Chánh Tín đã gây dấu ấn xuất sắc trong làng điện ảnh nước nhà với vai diễn trung tá tình báo Nguyễn Thành Luân, một nhân vật ảo từ nhân vật có thật là trung tá Phạm Ngọc Thảo. Nếu ai đó “chụp mũ” anh vì anh tham gia một cuốn phim “Việt Cộng” thì họ đã quá lầm. Thật ra Nguyễn Chánh Tín chỉ là một thanh niên Việt Nam yêu nước đến tận cùng không hề phân biệt chủ nghĩa quốc gia hay cộng sản. Nhân nhắc đến ông Dương Đình Thảo, một chính khách của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam từng xuất hiện ở Hội Đàm Paris Bốn Bên, không riêng gì Nguyễn Chánh Tín, bản thân tôi cũng là người chịu ơn ông. Chính ông Sáu Thảo tức Dương Đình Thảo đã cùng anh Huỳnh Bá Thành, Vũ Quang Hùng lo hộ khẩu cho tôi khi tôi nằm quân lao H39 vì dám chống lại cấp chỉ huy độc đoán trong quân đội.
Kỷ niệm về tôi với ông Sáu Thảo thật thơ mộng và mang mùi vị Lương Sơn Bạc. Khoảng đầu thập niên 80 phái đoàn Văn Nghệ Sĩ và Báo Chí Thành Phố do ông Dương Đình Thảo dẫn đầu có rủ tôi theo xuống đất Duyên Hải tức Cần Giờ. Đêm đó trước công chúng đông đảo bao gồm công nhân lâm trường và học viên các trường Thanh Niên Xây Dựng Cuộc Sống Mới, ông Sáu Thảo có đọc diễn văn khích lệ tinh thần và các nghệ sĩ sân khấu khác có biễu diễn vài tiết mục phục vụ họ. Chỉ có điều tiếng vỗ tay và sự hưởng ứng quá rời rạc. Ông Sáu Thảo liền quay sang tôi “Lần này phải nhờ đến tài xuất khẩu thành thơ của Bùi Chí Vinh đó”.
Dĩ nhiên là tôi nhận lời “chữa cháy” ngay lập tức. Tôi liên tưởng đến cảnh ngộ những người vượt biên và những người săn đuổi kẻ vượt biên ngay trên đất Cần Giờ, nơi được mệnh danh là “Siberia” của Sài Gòn này. Tôi liên tưởng đến những lần cụng ly với những người bí ẩn hâm mộ thơ tôi tại quán rượu nhà sàn “ÔNG THẦY” nằm chơi vơi mé biển. Tôi liên tưởng đến chính đời mình đời Nguyễn Chánh Tín đời của nhiều anh em giang hồ hảo hán ôm mộng làm cách mạng như Thủy Hử ngày xưa nhưng suốt đời bất thành phải mài kiếm dưới trăng giống tráng sĩ Đặng Dung. Thế là bài thơ LƯƠNG SƠN BẠC ra đời. Bài thơ kéo theo tiếng vỗ tay rầm rộ phấn khích của công chúng phía dưới. Tôi xin chép bài thơ ra đây như một cách tạm thời kết thúc phần hai GIAI THOẠI CỦA THI SĨ:
LƯƠNG SƠN BẠC
Lên Duyên Hải gặp Lương Sơn Bạc
Đứa vác cần câu đứa kéo chài
Cùng săn cá sấu quanh rừng Sác
Thả xuồng ghé quán nhậu lai rai
Người trung niên ta gọi: anh Hai
Xâm con ó bảy màu trên ngực
Gió biển nhiều sao ó chưa bay
Còn đậu chiều nay trong quán cóc
Hay con ó còn sợ bầy chim cắt
Mài cựa quanh năm móng vuốt dài
Hay rượu làm anh Hai xếp cánh
Công hầu thua một chén đưa cay
Thảo nào hồi đó huynh Tiều Cái
Tống tửu vài chung đã rớt đài
Anh Hai giới thiệu bạn vãng lai
Đầu trọc như nhà sư họ Lỗ
Xưa Trí Thâm không chơi rắn hổ
Tu mười năm chỉ nhớ thịt cầy
Nay anh Ba tu chùa mãi lộ
Rắn mãng xà quàng vắt trên vai
Hà tất phải khà như phun nọc
Để chạnh lòng đám rắn hổ mây
Đệ dù sao cũng dòng phàm tục
Mời chư huynh một chén rượu đầy
Rượu đầy nào phải là sóng dữ
Mà biển gầm lên tưởng nứt quầy
Anh Bốn đi quyền quên luật rượu
Chém ba dao thua một dao gài
Lý Quỳ còn cả thời ngang dọc
Lẽ nào anh Bốn sớm chồn tay
Đệ dân thành phố chưa quen sóng
Cũng tiếp tứ ca một chén đầy
Mà rượu đầy huynh uống chưa say
Quyền Mai Hoa thiếu gái cũng hoài
Coi kìa tì nữ cười khiêu khích
An ái cần chi phải mập gầy
Nữ tì thừa biết khi lên ngựa
Anh hùng lỏng gối chẳng hơn ai
Võ Tòng bất lực nên sát tẩu
Tội Kim Liên chết uổng tuyền đài
Phải giống Yến Thanh vào hắc điếm
Thường động phòng nương tử mới hay
Nếu cha mẹ không ghiền tửu sắc
Làm gì có đệ có huynh đây
Mà đệ gặp huynh mới chục chai
Chưa đáng mặt mà xưng hảo hán
Con voi khi sa xuống đầm lầy
Giọt lệ ngàn năm còn nuốt hận
Chúng ta những ông thần nước mặn
Vốn khinh thường áo mão cân đai
Vốn ghét công hầu như ghét cứt
Muốn trèo mây như Lý Thiết Quài
Muốn đạp gió như Tôn Hành Giả
Lương Sơn trăm lẻ tám thiên tài
Hôm nay gặp gỡ làm giông bão
Thêu cờ “trăm lẻ tám thiên tai”…
10-08-2008
Bùi Chí Vinh
Theo http://www.viet-studies.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Gió mùa - Tạp bút Phương Uyên

Gió mùa - Tạp bút Phương Uyên Một mình lang thang chiều cuối thu. Cơn gió đầu mùa đã về mang theo những không khí se lạnh đầy xao xuyến, t...