Nếu có một cõi Phật trong thơ Đào Tấn, thì đó cũng là cõi trần
mà thôi. Đào Tấn có bài Tự Phật - nghĩa là Phật ở mình - Phật tự ta, và lại
có hai câu thơ trong bài Tặng Tăng: “Một mình ngồi ở cửa quan khốn
khổ không việc gì làm - bèn đem trà núi tặng sư núi, buồn cười thật”. Vậy
là thấp thoáng trong ông quan Đào Tấn, đã thấy ông sư. Có điều, ông sư đây
không tu ở chùa, mà tu tại gia, tu tại tâm, tu chính trong nụ cười của mình, phảng
phất nụ cười vô vi của Phật Di Lặc: “Việc xưa nay xếp an bài cả - Dâu biển, phù
vân, cười như không”. Cảm được cái “nhất tiếu không” như một công án của Di Lặc,
Đào Tấn đã như đạt đạo. Có điều, ông không hé lộ nhiều về khả năng tham thiền của
mình, không tự nhận mình đạt đạo. Ông chỉ viết những bài thơ đượm mùi thiền này
như một đối tượng với những phiền lụy tuế toái của một đời làm quan. Và về thi
pháp, có thể coi phần thơ thiền này như một phía khác với những lời thơ bi hùng
trong các vở tuồng nổi tiếng của Đào Tấn.
Là nhà thơ dù ở thời nào, đều có những khoảng lặng, đều có
“lòng giếng” riêng trong tâm hồn mình như Nguyễn Du từng viết. Cái tâm “lặng
như đáy giếng” ấy đã có trong ông quan Đào Tấn ngay từ lúc ông “đại ẩn” - ở ẩn
giữa chốn quan trường. Một ông quan đầu tỉnh, một ông thượng thư trong triều mà
chỉ đau đáu nghĩ về những nhân vật tuồng của mình, về những vở tuồng và những
bài thơ nhỏ của mình, đó chẳng là điều lạ sao? Thiếu gì nhà thơ, khi đã “bén
mùi” quan, đã vùng vẫy trong chốn quan trường, đều hốt nhiên quên… thơ, hoặc
coi thơ chỉ còn là những trò thù tạc, hay là những câu giảng giải đạo lý, những
khẩu hiệu ghép vần (?) Đào Tấn làm quan đến mấy chục năm, mà tác phẩm tuồng của
ông có thể diễn liền mấy chục đêm không hết, mà những bài thơ của ông còn lưu
truyền lại hàng trăm năm sau, đủ biết ông quan này không phải “quan chay” cũng
không phải kiểu “quan văn nghệ”, mà chỉ là anh nghệ sĩ là nhà thơ đội lốt…
“quan”, mượn chốn quan trường để hành nghề… văn nghệ. Và sống chết vì một vở tuồng,
một tập thơ. Phần thơ tạm gọi là “thơ thiền” trong toàn bộ tác phẩm thơ Đào Tấn
không nhiều.
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn đã cẩn trọng chọn ra được 13 bài,
trong đó có bài như “Hoa Triêu dạ dữ nội hữu Diêu Tiên khanh du Diệc Cổ tự” chỉ
là một cảm thức thời gian man mác, khi “Hai kẻ thanh xuân giờ đây đầu đều đã bạc”.
Không biết về sau cụ Phan Khôi có được gợi hứng từ bài này cho bài thơ được coi
là mở đầu phong trào thơ Mới, bài Tình già: “Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa
gió lại vừa mưa….”. Bài thơ của Đào Tấn thì viết: “Hai mươi bốn năm trước
cũng đêm nay chúng ta cùng dạo chơi…”. Cái có thể gọi là Cõi Phật trong thơ Đào
Tấn nhiều khi chỉ là cõi hoài niệm, và nhà thơ không hề quên mình là khách
giang hồ đã mấy mươi năm chưa có dịp quay về ngôi chùa cũ. Hoài niệm ấy có khi
là hình ảnh một bậc tiền bối, một ông quan ngất ngưởng cưỡi bò vàng mà có lẽ
Đào tiên sinh hết sức ngưỡng mộ nhà thơ Nguyễn Công Trứ:
Khách cưỡi bò vàng nay khuất bóng
Ai người với núi hẹn tao phùng
(Yến Lan dịch thơ)
Trong nguyên tác, Đào Tấn đã gọi thi sĩ họ Nguyễn này là
“Hoàng độc thi nhân” - tức nhà thơ cưỡi bò vàng, với cốt cách và không khí hư
hư thực thực như Lão Đam cưỡi trâu trong truyền thuyết. Và mơ hồ trong những
bài thơ thiền là cái phong vị riêng của Đào Tấn. Không phải cõi Phật mơ hồ, mà
vì mơ hồ vốn là bản chất của thơ. Đào thi sĩ đã dồn thi lực cho những bài thơ tứ
tuyệt xinh nhỏ, và trong những bài tứ tuyệt ấy, ông lại dồn cho hai câu kết sức
nặng của sự lơ ngơ, của cái rỗng không, của “vô vi chi đạo”.
Cười đáp: “Bên trong có tảng băng,
Chẳng ăn chi cả, toàn rỗng tuếch”
Cái “rỗng tuếch” (không không) ở đây hoàn toàn khác với cái
“rỗng tuếch” của những anh “lỏng chữ” hay “loãng tâm hồn”. Ngược lại, nó là cái
rỗng không của khoảng trắng giữa hai dòng thơ, phần để trắng của bức tranh thủy
mặc, cái rỗng không của bầu trời chan chứa… Thơ Đào Tấn đã có những bài tứ tuyệt
tinh tế, nhưng hơn cả tinh tế, ông còn có những bài thơ tự nhiên nhi nhiên, những
bài thơ khinh khoái như thể gió viết nắng làm cây lưu đá giữ: “Khối đá im lìm nằm
giữ lấy chuông hư” (Vô ngôn ngọa thạch thủ tàn chung), một câu thơ ở vào hàng
tuyệt bút. Cứ đi vào “Cõi Phật” trong chùm thơ Đào Tấn, người ta lại gặp… Cõi
người với đầy những xúc cảm miên man, đứt nối của nhân duyên, của phận người.
Có thể nói Đào Tấn chưa một ngày thoát khỏi cái “cõi tục” mà ông đã lựa chọn
hay bị lựa chọn. Nhà thơ ấy không từ chối những hệ lụy của phận người, nhưng
luôn biết vượt lên để nhìn lại, vượt lên để nhìn từ trên cao những hệ lụy ấy:
Một trăm lẻ tám tiếng chuông
Nỗi đau nhân thế đau từng đọt cây.
(Vũ Ngọc Liễn dịch, bài Vô đề)
Đọc lại câu thơ nguyên tác, rồi đọc câu thơ dịch lục bát, thầm
cảm ơn người dịch thơ đã thấu hiểu lòng Đào Tấn: 108 tiếng chuông trong cõi Phật
kia liệu có đối trị, có giải thoát được 108 sự phiền não, 108 nỗi đau trong thế
gian này? Hay khi những tiếng chuông buông nỗi đau lại như được nhắc lại, được
mở vào một không gian xa hơn, bao trùm hơn? Cứ như những bài thơ ngắn này mà
xét, Đào Tấn cũng đủ thi lực để được người đời công nhận là một nhà thơ lớn.
Nhưng dường như Đào tiên sinh không mấy quan tâm đến sự công nhận này. Ông cứ
bình thản với thơ mình, bình thản với phận mình. Đời làm quan có thể sướng, có
thể khổ, có thể vinh, có thể nhục.
Đào Tấn đã không thể từ chối cái “phận làm quan”, nhưng ông cũng không từ chối số phận làm một nhà thơ, dẫu số phận ấy đầy bất trắc. Hiến mình cho những vở tuồng, cho những nhân vật mình sáng tạo, cho những câu thơ mình chợt viết trong đêm, Đào Tấn đã tự mình tạo cho mình một cõi. Đó không phải cõi Phật, chẳng phải cõi trần hay cõi… quan, đó là cõi… văn nghệ, cõi thơ. Đã vào cõi ấy tức là đã thiền, một cách tự nhiên, một cách dễ dàng.
Đào Tấn đã không thể từ chối cái “phận làm quan”, nhưng ông cũng không từ chối số phận làm một nhà thơ, dẫu số phận ấy đầy bất trắc. Hiến mình cho những vở tuồng, cho những nhân vật mình sáng tạo, cho những câu thơ mình chợt viết trong đêm, Đào Tấn đã tự mình tạo cho mình một cõi. Đó không phải cõi Phật, chẳng phải cõi trần hay cõi… quan, đó là cõi… văn nghệ, cõi thơ. Đã vào cõi ấy tức là đã thiền, một cách tự nhiên, một cách dễ dàng.
Sư Mai Nam quốc lõi tham thiền
Tương nhạt dưa suông đặt yến diên
Say khướt, mũ sen rơi xuống đất
Các cô gái nấp rũ cười điên.
(Tặng Mai Tăng - Đỗ Văn Hỷ dịch thơ)
Đây là bài thơ tự trào của một người luôn tỉnh táo trước các
chức danh, dù đó là chức danh thượng thư hay chức danh cao tăng. Nghĩ cho
cùng, quên được cái danh của mình cũng khó, nhưng khi quên được rồi thì cái thực
mới hiện ra!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét