Hạc Thành Hoa - Những ám ảnh
Đến nay, Hạc Thành Hoa đã có 4 tập thơ được công chúng đón nhận:
2 trước năm 75 (Trong Nỗi Buồn Vàng, Một Mình Như Cánh Lá), và 2 sau 75 (Khói
Tóc, Phía Sau Một Vầng Trăng).
Ở 2 tập trước do Văn và Giao Điểm ấn hành là những bài thơ viết về
tình yêu, về thân phận con người luôn cô đơn trong nhịp sống ồn ào phố phường
và bụi phấn, về những thấp thỏm trước cuộc chiến đang hồi lan rộng cùng nỗi ám ảnh
về cây súng, quân trường, ba lô, giày trận…
Thời kỳ
sau là sự thay ngôi đổi chủ đột ngột, phũ phàng, cứ ngỡ ông sẽ có những vần thơ
véo von chim hót một bầy trước cung đình tráng lệ như một số (không nhiều) nhà
thơ khác, nên tôi cố công đọc 2 tập sau, cố công “bới lông tìm vết” vì đầu óc
luôn nghĩ đã là nhà giáo ưu tú được phong tặng, hẳn nhiên giọng điệu thơ sẽ có
khác đi.
Đọc
mãi, tìm mãi cũng chỉ có những rung động tơi tả trước sau, luôn tự nhìn chính mặt
mình với cô đơn bất khả, luôn chất chứa những ưu uất trong lòng. Những
cô đơn và ưu uất kia thánh thiện và thuần khiết như những giọt sương long lanh
buổi sớm mai được dẫn dắt bởi nguyệt, trăng cùng với màu vàng buồn thê thiết.
Có thể nói, cả 4 tập thơ đã ấn hành của ông luôn thấp thoáng Trăng
là Nguyệt là màu vàng rụng xuống hồn ông. Có cả hàng chục tựa bài thơ và hàng
trăm câu thơ dát bóng trăng lạnh xa gần chiếu dọi như là những nỗi niềm trải
dài, che kín cả một màu chia ly ở đôi bờ khắc khoải, nhớ nhung. Chừng như với
ông, Trăng là nỗi ám ảnh một kiếp lưu đày, là nguyệt vàng nhuốm màu thời gian
trước và sau của những mất mát, tìm kiếm, khao khát… vây phủ cả đời cuộc ông vậy.
Trăng với ông là mối tình câm lạnh. Nguyệt vàng trăng là tâm cảm triền miên những
con sóng vỗ vào bờ đá “tình người”:
Tình người bờ đá trăm năm
Sóng tình tôi cuộn trên dòng nước trôi.
(Trên bờ đá tình người)
Bờ đá
không còn là ẩn ngữ với ông, trong thơ ca, mà chính là hiện hữu phận người. Đó
cũng là nỗi cô đơn của thời gian không thể đo đếm bằng những con số hữu cơ và
phải chăng “tình” trong uẩn khúc nguyệt vàng trăng cứ mãi mê trườn cuộn trên phận
người “trăm năm cô đơn” kia?
Nếu như
những ngày lang bạt ở sông nước miền Tây, không gặp ông, không ăn đậu ngủ nhờ ở
căn gác trọ của ông thì tôi không thể tin nổi ông là một con người đa cảm, đa
đoan đến vậy. Mà căn gác ấy, căn nhà bên con rạch Cái Sơn, Sa Đéc đâu chỉ riêng
mình tôi, còn có cả Vũ Hữu Định, Nguyễn Tôn Nhan, Hà Nghiêu Bích, Yên Bằng… kẻ
trước người sau đến với ông như chút ấm áp của những que củi nhỏ buổi tàn đông,
như hơi thở nguội sau những đêm dài đông cứng những cốc rượu tràn. Căn phòng nhỏ
nhìn ra con rạch êm đềm, đầy bóng râm mát, đầy tiếng tiếng ve trên những tàn
cây cổ thụ và tiếng đàn và thơ. Thơ như khí trời bám khắp bốn bức vách loang lổ,
đổ xuống nền gạch tàu, treo lủng lẳng trên xà ngang, ám vào mái ngói âm dương
rêu phong. Thơ quấn quít bên kệ sách, ngập ngừng chao lượn trên sàn gạch màu lá
bàng bay lơ lửng trong không. Tiếng mái chèo quẫy nhẹ như chiếc vây bơi con cá
chẽm bên dưới dòng Cái Sơn. Xa hơn chút, tiếng máy đuôi tôm khua động mặt sóng
sông Tiền. Và nữa, tiếng đạn pháo ngoài lung xa, vũng sáng nhơm nhớp hỏa châu
che khuất ánh trăng… đã đẩy ông vào góc tường tróc lở từng mảng vôi. Ông rưng
rưng sợi dây đàn căng. Ông ngậm ngùi lưng tròng nhìn qua dòng sông đang với tay
níu choàng con rạch nhỏ đặc sệt một dòng trăng vàng thấu đáy (nhưng cái đám bằng
hữu “nhìn thấy cơm sôi chợt nhớ nhà” kẻ trước người sau, lần lượt quay về xó cũ
bỏ ông lại một mình với cảnh “Gã giang hồ vẫn gác trọ cô đơn…Thân ta đôi lúc
cơn gió lạnh/Thổi tạt mùa đông xuống đáy mồ”!).
Khoảng
thời gian ấy, không bao giờ những vò rượu Lai Vung, Lấp Vò nhấn lút được những
câu thơ từ chốn sâu thẳm tâm hồn ông tha thướt bước ra như một thiếu nữ khuê
các. Nàng đẹp đến não nùng. Nàng Lục Bát của ông khoác áo màu hoàng yến tắm
trăng. Mảnh xiêm y rơi nhẹ. Trăng ướt đẫm nàng, ve vuốt nàng rồi trần truồng
phơi ra những thiên hà ngập ngừng bên cạnh con nước sông Tiền lên xuống.
Bên kia con rạch là Trăng vàng và bên này là nhà thơ, để trăng chụp
úp lên thơ, quấn quít nhau hơi thở dồn dập của đôi tình nhân.
Một đời con suối lang thang
Mây thu cánh mộng trong khoang thuyền tình
(Vàng đôi cánh biếc)
Màu
trăng lạnh huyễn hoặc kia chừng như không bao giờ rời xa ông, chỉ vì nó thật gần,
cách nhau bằng tiếng thở của con sóng nhỏ lăn tăn, cách nhau chỉ mấy bước chân
ngập ngừng, nửa quen nửa lạ. Lúc trăng xa, ông ngỡ như gần. Lúc trăng ẩn nấp
đâu đó trong khoảng lặng của thời gian thì ông tưởng như Trăng đã Vàng Nguyệt rời
xa ông mãi mãi, khiến ông sợ hãi cái thời khắc kinh khủng kia, thời khắc của mộng
mị và những ảo giác mệt nhoài trong cơn mê lú, để, khi tỉnh lại, nỗi trống vắng
càng lồ lộ như cảnh “người đàn bà ngoại tình” của Alberrt Camus trên terrasse
quán trọ vùng sa mạc cận Alger, một mình, hoàn toàn cô độc. Nếu như người đàn
bà của Camus cô đơn giữa bầu trời đầy sao trong đêm sâu thăm thẳm, thì ông, Hạc
Thành Hoa bị người tình là Trăng vàng Nguyệt kia quay gót, bỏ lại cái hình hài
thực giữa muôn trùng giun dế về đêm.
Hồn từ giã biệt cơn mê
Trăng đi bỏ lại bốn bề quạnh hiu
Đèn lu lòng ngại không khêu
Sợ trăng lên cánh rừng treo áo vàng
(Trong cánh rừng thiên thu)
Trăng
vàng Nguyệt cũng giống như cái ảo giác mộng mị chìm lún trong cõi chiêm bao khiến
ông cứ rơi mãi rơi hoài vào chiếc hố đen ngòm chuyển hóa từ cái màu vàng đậm đặc
và huyễn hoặc kia.
Mù mưa trắng xóa chiêm bao
Mây qua biển rộng non cao tiếp trời
Áo em vàng nửa hồn tôi
Ngồi ru nắng mỏng trên đồi cây khô
(Mù khuya tiếng vạc lưng trời)
Câu thơ
sang trọng, đẹp khiến tôi cứ ngỡ như bên tai vang lên điệu slow ngập ngừng, buồn
man mác cùng mảng màu vàng muôn thuở trong những bức tranh của Van Gogh.
Không rõ Trăng đã nói gì, hẹn hò gì với ông mà ánh mắt và cõi lòng
luôn ném về chốn xa xăm đến nỗi ông bị mất thăng bằng, từ hẹn hò mộng tưởng
chuyển thành nỗi tuyệt vọng như thể Trăng đã phụ tình ông.
Tìm em sau giấc mơ tàn
Mùa thu nếp áo nguyệt vàng trong mây…
Đêm đêm gió chở trăng đầy
Rơi theo nước mắt từng bầy sao khuya
(Trong tà huy bay)
Ông
chưa hề phụ mảnh tình thoi thóp Trăng vàng Nguyệt, mà chỉ có trăng vàng nguyệt
lạnh hờ hững với ông, từ cõi nào xa tít ông phải mãi kiếm tìm, như thể kẻ bị sa
lầy. Đã một lần ông sa lầy khi chọn nghề dạy học (nghề giáo là một nghề sa lầy
- Camus), ngày hai buổi rút hết kiến thức phơi ra trên bảng đen; rồi lại phải
làm kiếp “con tằm nhả tơ” khiến sự sa lầy nơi ông càng quay quắt, khốn đốn hơn.
Nay còn lại trong tay nùi giẻ rách
Đời mòn theo từng viên phấn ngu ngơ
Hồn ta rộng mà chỗ ngồi quá chật
Suốt một đời không vẽ nổi ước mơ…
… Chiều hôm nay không dưng buồn quá đỗi
Ta hôn mê đầu gục trước bảng đen
Khu trường rộng một bãi lầy quá lớn
Ta thấy mình ngày một lún sâu thêm
(Bậc thang thứ nhất)
Hay:
Mười năm bụi phấn hòa nước mắt
Đem đắp thành pho tượng thạch cao
Có thể
tạm mượn tựa những “Điêu tàn, Mê hồn ca…” để làm nền lý giải cho một giai đoạn
sáng tác trước 75 của Hạc Thành Hoa, giai đoạn của những u uẩn vì thất vọng, vì
hoài nghi, vì những âu lo hoảng loạn màu hỏa châu che lấp nguyệt vàng, nên
trong hồn ông, hình như chỉ còn khoảng không hẹp của sự thoi thóp,
dãy dụa: “Trăng úa vàng hấp hối giữa cô đơn” hay “Từng đêm trăng múa trên đầu
sóng/Trăng cười khiêu vũ với yêu ma/Men nhạt không mờ đôi mắt héo…Nghe trời tê
dại nhớ thương em”.
Những yêu ma, men nhạt, mắt héo…có thể không còn là những mảnh vỡ
lăn tăn nhạt nhòa mà là những mảnh vỡ quặn đau, tê điếng thẩm nhập tận cùng nơi
sâu thẳm tôm hồn ông: Vì bên kia sông Trăng vẫn vàng Nguyệt còn bên này sông
thì Nguyệt bắt đầu che khuất ánh trăng vàng! Một bên vẫn rực rỡ tung tăng một
khoảng không vô tình đến trống rỗng, còn một bên thì vỡ tung những khối u lạnh
câm. Kiêu sa hay hờ hững dáng cao sang?
Nàng Trăng luôn ám hồn ông là ai để đến nỗi thành những ám ảnh nặng
nề trong suốt quãng dài thời dài rộng đến mênh mông, đến vô cùng tận? Trăng là
Nguyệt là Trăng viễn mộng chăng?
Ông yêu tha thiết cái màu vàng trăng là nguyệt kia đến độ gần như
phát cuồng
Có con rắn lục nằm trong lá
Rít một hơi dài lạnh buốt xuân…
Trăng bỏ người đi đêm nguyệt tận
Ly rượu hề môi chạm tảng băng…
Ai mang áo lụa vàng năm ấy
Mỗi cánh mai giờ một nỗi đau
(Đêm nguyệt tận)
Ông viết
bài này năm 1990 bằng những hồi tưởng về một nỗi đau, mất mát đã ám suốt
cuộc đời như lớp bồ hóng đen bóng trên gác bếp. Ông như một người chiến binh
ngoài mặt trận, đang ngã ngựa. Bóng trăng đã xô ông té nhào đến thê thảm:
Ta chẳng còn là mây mùa thu trước
Em không còn là trăng của thu xưa
(Lại một mùa mưa sắp đến)
Không,
rõ ràng ông không là một Hàn Mặc Tử thứ hai để say trăng, để điên vì trăng. Bởi
màu trăng của Hàn Mặc Tử là màu trăng huyết, nhuốm đỏ cả khung trời, trước mắt
nhà thơ. Đó là những cơn đau đớn vật vã đến cuồng loạn. Còn trăng của Hạc Thành
Hoa là màu trăng của “Áo lụa Hà Đông, là trăng hoàng yến, là cánh mai vàng… Nó
có đó, thật gần trong cái với tay nhưng lại vô cùng xa cách để cuối cùng, màu
Nguyệt vàng Trăng ấy biến những khoảng cách nồng nàn kia trở thành những cơn mộng
huyễn. Ông đuổi bắt, tìm kiếm hình bóng lay lắt có không kia đến mỏi mòn…
Ông đi tìm bóng, mỏi mòn tìm bống đến hụt hơi.
Ông say mộng chỉ vì say nhan sắc màu trăng, theo ngày tháng đã tẩm
liệm hồn mình.
Ông say trăng trong cõi mộng mị ta bà suốt những năm tháng dài.
Cuối cùng ông say thực:
Thức ăn và rượu đều ra hết
Còn lại trong ta một nỗi buồn
Nỗi buồn lớn quá xô ta ngã
Nằm dài như xác chết chưa chôn
(Cơn say tuyệt vời)
Sau năm
75, cũng như bao nhiêu nhà văn khác, Hạc Thành Hoa bị rơi vào vùng hẫng hụt của
những nghị quyết, bo bo, sắn mì… Cả bối cảnh xã hội và hoàn cảnh cá nhân đã đặt
ông vào tình cảnh trì trệ, đầu óc khô cứng. Dẫu vậy ông vẫn cầm bút và tiếp tục
viết, để cuối cùng cũng cho ra mắt độc giả 2 tập Phía Sau Một Vầng Trăng và
Khói Tóc. Song thú thật, khi đọc tôi có cảm giác như thơ ông đã sắp ngừng hơi
thở những cơn mộng mị đẹp, đối mặt với thực tế có phần khắc nghiệt hơn nhiều, bởi
hoàn cảnh xã hội đã chọn chúng ta chứ chúng ta không có quyền chọn lựa gì cả.
Cái quyền thiêng liêng bất khả kia giống như ngọn đèn cạn dầu, leo lét.
Thơ ông
như mất đi một phần của nàng thơ mà ông đắm đuối một thời, chỉ còn một chút
tròng trành trước mắt, chia sẻ với bạn bè đồng cảnh; chút đìu hiu về một nỗi nhớ
xa gần hay ghi lại những cảm xúc trong những chuyến đi xa: Sơn Trà, Hội An… rồi
lộn vòng về cố xứ đồng bằng sông nước mênh mông. Thỉnh thoảng ông vẫn nhớ đến
Trăng, nhưng Trăng lúc này, với ông bắt đầu sứt sẹo, mất đi một nửa Trăng vàng
Nguyệt.
Ở đây trăng chỉ còn một nửa
Nửa kia ở mãi tận phương nào…
Tỉnh dậy chỉ còn trăng một nửa
Nửa còn lại bỗng hóa phù vân
(Trăng một nửa)
Rồi ông
phải tự kêu với chính mình, trong cơn mưa, ở một ngóc ngách nào đó trên đường
phố Sài Gòn rất quen mà hóa lạ!
Em biết không
Ở đâu anh cũng là người khách lạ
Ở đâu cũng không phải quê hương
Em ơi! Làm sao em biết được
Một gã ưu du
Cứ đi cứ đi như kim đồng hồ chạy ngược
(Nói với mình trong khi trú mưa)
Chỉ còn con cù lần biết lấy tay che mặt
Những con két đến đây từ một nơi rất xa trên trái đất
Đang gửi hồn về xứ sở quê hương
(Buổi trưa ở thảo cầm viên)
Đó là tâm trạng
chung ta thường thấy trên các trang viết sau này của nhiều nhà văn chân thật
Và cuối cùng đành bất lực, phải thú nhận:
Suốt đời đuổi bắt một vầng trăng
Chưa có được một lời ngợi ca người vợ trẻ (…)
Bên anh có một nàng tiên dịu dàng là thế
Mà cứ miệt mài đuổi bắt một vầng trăng
(Tạ lỗi cùng người vợ trẻ)
Như vậy
là chấm dứt một chặng đường mộng mị bên cạnh những tân toan mà trước đây có lần
ông thốt lên đầy đau đớn.
Mai tôi chết nhưng vầng trăng còn đó
Vẫn dịu dàng trông xuống nấm mồ tôi
(Vẫn còn vầng trăng…)
Đúng
là cái hồn cái phách trong thơ ông vẫn vậy, ở hai tập sau, nhưng chất sâu lắng
của nó thì tan ra thành lớp khói mỏng, không phải màn sương đêm dát trăng vàng
nguyệt như trước. Có lẽ cũng tại “vì ai gây dựng cho nên nỗi này”. Phải vậy
không?.
Tiểu sử Hạc Thành Hoa
Hạc Thành Hoa tên thật: Nguyễn Đường Thai Sinh quán tại Xuân Phổ,
Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giáo sư Việt văn Trung học Sa Đéc, Lương Văn Can Quận 8,
Thị xã Cao Lãnh. Ông làm thơ từ năm 1961, đã đăng nhiều thơ trên các báo, tạp
chí văn học miền Nam trước năm 1975.
Tác phẩm đã xuất bản:
+ Trong nỗi buồn vàng (Nguyễn Đình Vượng, tạp chí Văn Sài Gòn - XB - 1971).
+ Một mình như cánh lá (Giao điểm Sài Gòn xuất bản - 1973), tái bản (Thư ấn quán Hoa Kỳ xuất bản) 2006.
+ Trong nỗi buồn vàng (Nguyễn Đình Vượng, tạp chí Văn Sài Gòn - XB - 1971).
+ Một mình như cánh lá (Giao điểm Sài Gòn xuất bản - 1973), tái bản (Thư ấn quán Hoa Kỳ xuất bản) 2006.
+ Phía sau một vầng trăng (NXB Thanh niên - Hà Nội - 1995).
+ Khói tóc (NXB Lao động - Hà Nội - 1996).
+ Khói tóc (NXB Lao động - Hà Nội - 1996).
Tháng 4/2011
Nguyện Lệ Uyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét