Thứ Năm, 31 tháng 10, 2019

Người đo thời gian bằng tóc

Người đo thời gian bằng tóc
(Đọc tập thơ “Một mai gió chở tôi về” 
của Hoàng Vũ Thuật, NXB Hội Nhà Văn. 2019)
Phải xin nói ngay rằng, với thơ Hoàng Vũ Thuật, giải mã “ẩn ngữ” một câu, một đoạn, một bài đã là chuyện khó. Giải mã một tập thơ để tìm “vệt đi đồng sáng tạo” lại càng khó hơn. Và tất nhiên, giải mã một đời thơ anh để tìm thi pháp tác giả cũng không hề là chuyện dễ dàng. Nhà thơ Thanh Thảo từng nói: Thơ “mãi mãi là bí mật”. Cái khó khăn khi đọc thơ Hoàng Vũ Thuật chính là ở đó! Cái hấp dẫn của thơ anh cũng chính là ở đó! Nó mãi mãi “vẫy gọi” người đọc hướng về phía mông lung của chữ nghĩa, nhiều lúc dễ làm người ta “quáng gà”, bất lực trước ma lực. Hơn cả những “khối vuông ru bic”, tôi hình dung mỗi bài thơ anh như một cấu trúc đèn led hiện đại, nó tỏa ra muôn màu huyền ảo, đan xen sáng tối, đan xen sắc màu, trùng trùng những vùng tưởng tượng… Cứ như một con kỳ nhông biến sắc, lúc gặp sắc nghĩa này, hốt nhiên lại hiện trước mắt một sắc nghĩa kia, nghĩa thực - nghĩa ảo, nghĩa cụ thể - nghĩa mông lung, nghĩa phái sinh nghĩa, hình ảnh đan xen, nối tiếp hình ảnh...
“Một mai gió chở tôi về” của Hoàng Vũ Thuật đa dạng về nội dung, mỗi nội dung lại đa nghĩa, đa tầng, luôn gọi mời người đọc. Đó chính là sức gợi của lý thuyết liên văn bản (intertextuality) mà mỗi bài thơ tự mở ra. Từ dòng sữa của ca dao - dân ca: dòng sữa ngọt vành môi sinh nở/ cánh cò vẽ khung trời bình yên/ từ tay chị bước ra (Dòng phấn trắng) đến truyền thống cha ông “Đầu Mâu vi bút, Hạc Hải vi nghiên”, cọc gỗ Bạch Đằng, sang hoang đường cổ tích: tôi đã gặp chú gấu thò ra trong cổ tích/ chùm chìa khóa rơi vào chốn hoang đường (Cơn ghen của bầu trời)..., rồi mênh mông buồn tràn qua tiền chiến với Lưu Trọng Lư ngơ ngác nai vàng và nhạc hậu chiến một thời bế tắc của Trịnh Công Sơn: rừng xưa đã khép lá xưa đã úa/ tiếng nai hay/ tiếng người/ lửa muốn bén vào thu (Nai vàng)… Không dừng lại ở đó, thơ anh còn như con sóng lan tỏa sang cả những liên văn bản của văn học thế giới như Quách Mạt Nhược, Victo Huygo, Sêch xpia, Drunvalo Melchizedek, Eptusenko, Pautopxki và đến cả bức ảnh bác sĩ trẻ Piter, người Cu Ba, lấy đầu bịt họng súng…
Trong thơ Hoàng Vũ Thuật có cả Phật từ bi - hỷ xả - trọng tình, u u tiếng kệ lời kinh vang xen trong tán lá bồ đề thâm mật: ta muốn quay ngược đài hoa/ tìm mùi thiền/ cửa từ bi rộng mở/ những cánh thơm ứa mật (Ý nghĩ ngược), có cả Chúa nhân từ - đầy quyền lực với thánh đường vút nhọn tháp chuông, với những khung cửa mơ màng: trái tim vắng thánh đường sau hồi chuông vỡ/ vết mực loang trên tà áo trắng/ có gì vẹn nguyên/ có gì dừng lại (Nghịch lý); trong hoàng hôn cuộc đời gãy cánh/ hai tay đóng đinh trên thập giá của mình (Người hành khất)… Nhưng dẫu là Chúa hay Phật thì thơ Hoàng Vũ Thuật vẫn quy về một cõi Thiện, cõi Thiền với triết lý và tư tưởng nhân văn cao rộng: tôi thức giấc sau niềm hạnh phúc/ câu kinh hay câu thơ/ thanh/ trong/ hoa có thì/ nở trên trang sách bàn tay (Những ghi chép cần thiết). Dù sinh trưởng trên vùng đất Quảng Bình, thơ Hoàng Vũ Thuật vẫn ngợp một sắc “cỏ xanh” chống chọi cùng gió cát: tôi ôm hoa/ hướng về những mũi tên tẩm thuốc/ của linh hồn mục rửa/ kẻ ganh tị bắn vào tình yêu/ tôi nghe lá rụng rơi/ trên thảm cỏ/ hàng cây rung sau lần tróc vỏ (Rừng sao không tắt), theo nhịp ca của tiếng dế giun: ý nghĩ đứng bên nhau thánh thiện/ ngân khúc ca của loài giun dế (Ý nghĩ ngược) cùng những “sợi chỉ khâu” vá víu cuộc đời: câu thơ dài như sợi chỉ khâu áng mây vỡ/ sau vòm cao chiều muộn (Biến tấu)…
Có những “chiếc mỏ neo” neo thơ vào cuộc sống: câu thơ dở dang neo trên giấy trắng/ áng mây hay cánh buồm trôi/ mắt em ngấn sóng (Ngấn sóng), có anh… như một “mặt trời cô độc” đợi bên sông: những buổi chiều những buổi chiều buồn/ mình anh qua đây/ nhịp cầu nối nhau dằng dặc/ bóng trôi/ lạc/ lỏng/ giữa dòng/ mặt trời cô độc đứng đợi bên sông (Mặt trời cô độc)… Có những “hoài nghi thân phận”, đôi khi dù anh là nhà thơ hay tên trộm/ không thoát khỏi tiềm ẩn các nguy cơ/ muốn mình là mình/ cũng không được (Mặc định). Nhiều lúc thấy con người cứ lạc lỏng, bơ vơ trước dòng trôi thời gian, dù mình là hiện hữu của tiền thân “bốn nghìn năm trước” hay trở thành hậu thân là “kẻ khác” của “bốn nghìn năm sau”: nhiều khi ngỡ mình đã biến khỏi bốn nghìn năm trước/ thành kẻ khác bốn nghìn năm sau (Thượng đế). Và thân phận của kiếp người đang “cuống cuồng”, “thảng thốt”  bất an giữa “cuộc đời cứ mong manh trôi nổi”: rồi em cuống cuồng chợt nhớ chợt quên/ thảng thốt như căn nhà bốc cháy/ ngày ấy giờ ấy năm ấy/ cuồn cuộn sôi từng đợt sóng chẳng dừng/ sao cuộc đời cứ mong manh trôi nổi/ em hay là lá cuối thu đây (Cuộc đời cứ mong manh trôi nổi). Môi trường sinh thái tự nhiên đang ngày càng bị con người tàn phá một cách chẳng tiếc thương:
Liệu mùa thu có phẫn nộ và cho rằng: con người sao ngớ ngẩn dám đem mình để sánh với thiên nhiên, với cả vũ trụ sinh thành, cô kết.
Đã rất lâu, rất lâu tôi muốn ngỏ với thiên nhiên huyền diệu ấy. Tôi tin sự huyền diệu của thiên nhiên sẽ hiểu tôi một cách lặng lẽ, tường tận, mà giác quan người đời không tài nào cảm nổi
(Mùa thu ơi)
Chính vì thế, không gian nghệ thuật thơ Hoàng Vũ Thuật thường từ cụ thể với gió cát hằng ngày rồi theo gió bay về phía mênh mông, vô cùng của vũ trụ. Thời gian nghệ thuật cũng mở ra đến vô hạn lượng; từ hiện tại, ngược về quá khứ, hướng thẳng đến tương lai những mấy nghìn năm: một buổi sáng cuối năm 3017 ông được hồi sinh/ khi tạo hóa muốn cho ông làm người (Hồi sinh)...
68 bài thơ trong tập “Một mai gió chở tôi về” hiển hiện phận số mong manh, tuyệt cùng của kiếp người trước dòng trôi bất tận, bàng bạc thi ảnh những sợi tóc bay theo con gió vô thường. Cơ hồ như Hoàng Vũ Thuật đang đo không gian, đếm thời gian bằng tóc. Vì thời gian và không gian luôn là một cặp song trùng.
Đó là thời gian tràn đầy “sự sống” với những “nụ biếc” bật dậy vào “mỗi ban mai”. Nhưng “sự sống” thực tại không chỉ của thực tại mà còn được thi sĩ nối về tận thế kỷ xa xưa, lúc “thằng gù nhà thờ Đức Bà Pari” “nặng nhọc hồi chuông nhà thờ nguyện”. Ban mai của nụ biếc hôm nay bật lên “sự sống” hay chính hồi chuông của thế kỷ xa xưa làm “run rẩy sợi tóc” thời gian! 
anh tin em mỗi ban mai bật thêm nụ biếc
run rẩy sợi tóc
hồi chuông nhà thờ nguyện
Quasimodo
nặng nhọc
kéo
thế kỷ trước
(Sự sống)
Nhà thơ như đang đếm bước mình trong một không gian hẹp quanh khu phố, con đường dẫn đến “nhà em”. Nhưng không! Đâu chỉ có không gian dãy phố mà Hoàng Vũ Thuật còn mở rộng các chiều kích của không gian và xen kết không gian thực với không gian ảo:
hết dãy phố này là nhà em
hết mặt trời này là vòng xoay của trí tưởng tượng
hết mái tóc này là ngọn đồi bạch dương
trong rừng có loài linh điểu
(Trí tưởng tượng)
Trong không gian tóc em có một con chim cụ thể đang hót hay chính là con chim thời gian mãi hót! Có lẽ là cả hai, vì tiếng chim hót ấy “sẽ khôi phục ánh sáng ngày rút từ đêm xõa trắng” để rồi cả Đại vũ trụ (mặt trời) thu về trong Tiểu vũ trụ (mắt em). Và cái Dasien thời gian “nhận ra tôi” hiện lên đầy bí ẩn trong sát na chỉ “một búng tay”, chỉ trên không gian hẹp của “chiếc gai nhọn” cũng đủ mở ra cả một cuộc hành trình:
có một con chim trên tóc em vẫn hót
mặt trời khôi phục ánh sáng ngày
rút từ đêm xõa trắng
mặt trời trong mắt em bừng thức
bấy giờ mới nhận ra tôi cùng cái bí ẩn từ một búng tay
em nói cuộc chạy trốn trên những chiếc gai nhọn
đã kết thúc
(Sự nhầm lẫn của người đãng trí)
“Tóc em” hẳn còn xanh trong “ánh sáng ngày”, nhưng “ánh sáng ngày” lại là kết quả “rút từ đêm xõa trắng”. Hoàng Vũ Thuật đã đem cái cụ thể đang hiện tồn để đo đếm những dự phóng trùng trùng vô lượng, vô biên. Âm âm trong ta ý tưởng của M.Heidegger: “Con người không sống trong không gian và cũng không sinh hoạt trong không gian mà chính đời sống sinh hoạt của Dasein (cái đang hiện hữu/ hiện thể) đã phát sinh ra không gian và thời gian. Nó phát sinh ra không gian, bởi những ý niệm căn bản nhất của không gian, như trước - sau, trong - ngoài, v.v... đều xuất phát từ con người và nếu không có con người là trung tâm với những ý niệm thì tất cả những khái niệm không gian và thời gian đều mơ hồ, nếu không muốn nói là vô nghĩa” (Trích theo Nguyễn Lê Thạch, Tồn tại và thời gian, doc.edu.vn). Theo triết lý Âm Dương Ngũ Hành của phương Đông, con người là một Tiểu vũ trụ (trung tâm vũ trụ), cho nên con người thường lấy Tiểu vũ trụ (mình) để đo không gian (lấy thốn ngón tay mà đo) và đếm thời gian (lấy đốt ngón tay mà đếm) Đại vũ trụ. Sự gặp gỡ Đông - Tây trong thơ Hoàng Vũ Thuật chính là như thế! Đơn vị nhỏ nhất người xưa dùng để đo đếm không gian, thời gian chính là đốt ngón tay (thốn), đến thời hiện đại, Hoàng Vũ Thuật đã rút về chỉ còn là sợi tóc.
Đọc thơ Hoàng Vũ Thuật, ta luôn bắt gặp những ngọn gió không gian bay qua, những cánh chim thời gian chao trên mái tóc giữa Dasein đang hiện hữu (em đã đến) để nối “nghìn kiếp trước cho nghìn kiếp sau”:
em đã đến
rất có thể em sẽ vuốt tóc anh như gió vuốt nhọn những cánh chim
về miền cô tịch
ta lại chuyền hơi ấm của nghìn kiếp trước
cho nghìn kiếp sau
nói lời tiễn biệt
bây giờ mọi thứ không còn ý nghĩa
(Phiến hoa hồng trầm cảm)
Chỉ ba câu thơ dưới đây thôi, đã cho ta cái cảm giác ngẩn ngơ giữa một không gian Hà Nội bao la và cả thời gian hơn một nghìn năm Thăng Long - Hà Nội, một không gian đầy hoa sữa đang hiện hữu và tỏa hương qua cái sát na cụ thể “vốc ngụm hương thả vào mái tóc” của phút yêu đương “ngày ấy”:
vốc ngụm hương thả vào mái tóc ngày ấy
Hà Nội chờ ai
sao hoa cứ thơm nồng
(Hoa sữa đầu mùa)
Đọc đến câu thơ: “những con thằn lằn chui vào tóc”, nhiều người sẽ không khỏi buột miệng cười hoặc thốt lên “thơ với thẩn”. Vì “con thằn lằn” chui vào tóc chỉ khiến con người ta giật mình hoảng sợ, vì nhà thơ đã đem cái thô thiển, quái dị “chui vào” cái đẹp biểu trưng. Đúng là đáng giật mình. Nhưng ta đang giật mình vì chợt ngộ ra rằng, cái tiếng Thạch sùng (Thằn lằn) chắc lưỡi trong không gian đêm trên mái nhà ta đang ngủ chính là chiếc đồng hồ đo đếm thời gian cả một kiếp người. “Khoảnh khắc mặt trời tô son lên môi” (người đẹp đang trang điểm!), “từng sợi tóc ướt” mỏng manh, bé nhỏ kia đã mở ra cả không gian thế giới mênh mông “đổ về cánh rừng nước Ý” làm “tan chảy” lòng người, “cứu rỗi” đời người trước những cái đẹp của thời gian cổ xưa:
những con thằn lằn chui vào tóc
trong khoảnh khắc mặt trời tô son lên môi
từng sợi tóc ướt
đổ về cánh rừng nước Ý
mọi thứ khởi đầu nhẹ nhàng của hơi thở
sự lặng im cứu rỗi
tan chảy
(Nơi bức tường cổ xưa)
Sợi tóc là một hình ảnh cụ thể, mỏng manh. Người ta thường nói: ranh giới giữa những cái tưởng chừng đối lập chỉ cách nhau một sợi tóc. Dừng lại là thiện, vượt qua là ác. Hoàng Vũ Thuật lại đo thời gian vô lượng kia bằng sợi tóc mong manh thì quả là thơ anh cứ phơ phất, mong manh như gió, vẩn vơ như mây bay, bất định giữa trời: không ai theo hết/ những áng mây đang bay/ những con đường chưa tới/ lặn tận đáy hố đen sâu thẳm/ nhưng anh tin chẳng hố đen nào hút được/ khi anh từ đó bơi ra (Phục hưng). Anh hiểu cụ thể từng bước đi của thời gian khi “đồng hành với nó”. Nhưng khi “anh đã vượt lên bỏ lại phía sau những sợi rụng”, anh vẫn biết “thời gian không chết”, vẫn “trẻ trung như gió” và nhận thấy gương mặt nó rất hiền:
đang đo thời gian bằng tóc
anh hiểu bước chân thời gian
khi anh đồng hành với nó
khi anh vượt lên bỏ lại phía sau những sợi rụng…
… nhưng thời gian không chết
trẻ trung như gió như ánh sáng dịu dàng
thời gian mải miết một chiều
anh nhận ra thời gian với gương mặt rất hiền
chẳng khác gì đàn bướm trắng
(Thời gian)
Nghĩa là cái Dasien hiện có của thời gian luôn được nhà thơ nắm bắt, để từ đó nghiệm ra ý nghĩa thời gian. Xưa nay có mấy ai nhìn được gương mặt thời gian, nhưng với Hoàng Vũ Thuật, gương mặt ấy hiện hiện rất rõ ràng như “một đàn bướm trắng” đang bay giữa không gian vườn xuân - vườn của cuộc đời. Thời gian nghệ thuật của thơ Hoàng Vũ Thuật luôn luôn gắn chặt với không gian. Khi anh nói “giết thời gian bằng tóc” đưa ta đến cảm giác nhận diện của màu (từ xanh sang bạc), nhưng khi anh ném sợi tóc kia vào “khoảng không ngu ngốc” thì “không gian ngu ngốc” lại hòa trộn với “thời gian đương thì” (cái hiện hữu) và nối cả với “thời gian thao thức” (cái khả hữu):
họ cho anh ác độc giết thời gian bằng tóc 
ném vào khoảng không ngu ngốc
ném vào thời gian đương thì
hay lúc thời gian thao thức
đếm từng ngọn đèn vàng trong khuya
(Thời gian)
M. Heidegger quan niệm: Để đạt được cái khả hữu, con người phải tự vượt qua hiện hữu của chính mình; tự bỏ lại cái hiện nay của mình để vươn tới một hiện hữu ẩn hiện trước mắt - khả hữu (sein koennen, pouvoir être). Hoàng Vũ Thuật đã “dự phóng” (project) về sự hiện sinh đích thực phía trước, nên khi “thảng thốt” nhận ra “thêm một sợi tóc cuối chiều” rơi xuống, anh không bế tắc, chán chường mà “kiêu hãnh nhặt lên như một chiến tích” của chính mình:
thêm sợi tóc cuối chiều thảng thốt rơi
tôi kiêu hãnh
nhặt lên
như chiến tích
(Chiến tích)
Viết về người thân (cha, mẹ…), thơ ca Việt thông thường miêu tả họ là những người nông dân chân thật, cần cù, chịu thương chịu khó một cách giản dị, đơn nghĩa. Nhưng với Hoàng Vũ Thuật thì không. Cái Dasien “cha vội vã ra đi rời khỏi ngôi nhà nước mắt khi con mới lên hai” đã ám ảnh nhà thơ suốt mấy chục năm trời, vì thế anh cảm nhận về cha một cách khái quát hơn bằng những biểu trưng để ai cũng nhận ra rằng, dù đã rời xa trần thế bấy nhiêu năm, cha vẫn đang hằng ngày dìu từng bước anh đi, nâng cánh cho anh bay vượt qua muôn trùng “núi đồi”, “mây bạc”, vươn đến những “vì sao lấp lánh” và nhận ra những chân lý trên đời cho dù anh “không thể hình dung ra gương mặt” người cha ấy:
không thể hình dung ra gương mặt cha
người mang tình yêu vĩnh hằng giáng thế
con có thể ngắm cha qua dải ngân hà
qua tinh thể cát
nâng đôi bàn chân
lớn khôn
(Phụ bản cát)
Và chính cha chứ không phải đấng tối cao nào khác đã “lấy hai cánh tay” trần thế của mình “cắm xuống bão giông” “cho con đứng thẳng” làm người. Chính cha là Thiên Chúa Trần Gian đóng đinh trên “cây thập giá” nâng đỡ cả cuộc đời con:
cây thập giá mọc từ hai cánh tay
như ngọn sào cắm xuống bão giông
cát cho con đứng thẳng
trong ánh sáng thiên thần thiêng liêng
(Phụ bản cát)
Rồi cái phút giây “những bức ảnh lưu trong trí nhớ”, trong không gian “bầu trời dày sương”, qua thời gian đã “phủ lớp bụi mờ” giữa dòng đời “tứ phía xoay tròn” đầy biến động lại là cái vĩnh viễn hiện tồn: “bức ảnh vẫn đứng yên, lóe sáng từng tia chớp dán trên tường xanh bầu trời” cho dù những bức ảnh ấy không biết “bây giờ đang ở đâu” trước “mùa đã chuyển, ngày đã mới”:
những bức ảnh biết nói
bây giờ đang ở đâu
ở đâu
mùa đã chuyển
ngày đã mới
anh vẫn hình dung bức ảnh đứng yên
anh vẫn thấy bức ảnh lóe sáng từng tia chớp
dán lên tường xanh bầu trời
(Những bức ảnh lưu trong trí nhớ)
Vì vậy, trong sáng tạo thơ ca, anh luôn xuất phát từ “một cái cây ra đi” chẳng biết “phương trời nào đón nhận” (Hoài nghi: tồn tại hay không tồn tại?) cho đến lúc “ánh nắng làm thước kẻ dòng… trên tấm ván cùng những trang phác thảo” hình thành. Anh đi từ sơ khai “thứ ngôn ngữ nằm im mang dáng bào thai” đến “âm tiết đầu tiên là tiếng khóc chào đời” giữa “cuồng phong hoang dã”, đến “dấu chấm hết” rồi “dấu chấm nữa” (…) để hình thành bài thơ “ký thác cuộc đời”:
một cái cây ra đi
phương trời nào đón nhận
làm sao biết được số phận mình
tồn tại và không tồn tại
đứa con tưởng tượng tôi ơi
thứ ngôn ngữ nằm im trong bào thai của mẹ
âm tiết đầu tiên
là tiếng khóc chào đời
đã ngập chìm cơn cuồng phong hoang dã
dấu chấm hết rồi tiếp dấu chấm nữa
ánh nắng làm thước kẻ dòng
tôi ký thác cuộc đời
trên tấm ván cùng những trang phác thảo
(Chiến tích)
Anh đã đi từ hiện sinh không đích thực (“tồn tại và không tồn tại”) đến cái hiện sinh đích thực phía trước khi sáng tạo những bài thơ “ký thác cuộc đời”. Nhưng “chiến tích” đâu chỉ dừng ở “tấm ván những trang phác thảo” ấy? Khi thấy “một cái cây ra đi” để hình thành nên “tấm ván cùng những trang phác thảo”, những tưởng nhà thơ đã đặt “dấu chấm hết” ở đó rồi. Nhưng không, anh lại thêm dấu “chấm nữa” (…) trên “những phác thảo trên tấm ván” kia để “một mai tôi sẽ là cây” với những rễ cây như “mười ngón chân đi xuyên lòng đất”, như “chú dế mèn” hát ca nhiều cung bậc, như “kỳ nhông” đổi sắc và tạo nghĩa mới cho “loài sâu đêm cùng mở hội phong cầm”:
một mai tôi sẽ là cây
mười ngón chân đi xuyên lòng đất
hệt chú dế mèn
đám kỳ nhông mùa nắng đổ
loài sâu đêm đêm mở hội phong cầm
(Chiến tích)
Hiện hữu của anh là “em”, nhưng “cuối con đường” hiện hữu của hai ta thì “dòng sông” là khả hữu, khả hữu của “dòng sông” là “cánh rừng”, khả hữu của “cánh rừng” lại là “chập chùng núi biếc”, khả hữu của “cuối con đường trước anh và em có hai người thao thức - hai dãy ngân hà loáng thoáng vừa lên”:
nhưng với anh em là hiện hữu
như cuối con đường sẽ gặp dòng sông
như qua sông sẽ gặp cánh rừng
như hết cánh rừng chập chùng núi biếc
như cuối con đường trước anh và em có hai người thao thức
hai dải ngân hà loáng thoáng vừa lên
(Cuối con đường)
Và cuối cùng, cái khả hữu chính là sự bất tử của một tình yêu vĩnh cửu:
em phủ lên người anh mái tóc thơm mượt óng
hóa thành đất ấm
đắp cao nấm mồ tình yêu
(Cuối con đường)
Ta có cảm giác, thơ Hoàng Vũ Thuật cứ sau “dấu chấm hết” là “dấu chấm nữa” (…). Đây chính là những đường bay nghệ thuật độc đáo của thi pháp Hoàng Vũ Thuật khiến cho bài thơ mọc cánh (dự phóng) cùng “bay như lũ bướm ven hồ” về một hiện sinh đích thực phía-trước:
nơi em vẫn ngồi cùng câu thơ mọc cánh
chúng bay như lũ bướm quanh hồ
em đã đọc lúc vắng anh
giữa bầu trời lạnh buốt
(Giả sử)
Cũng như các tập thơ khá nổi tiếng trước đó của anh, còn rất nhiều chuyện để nói về “Một mai gió chở tôi về”, nhưng thôi, sức người có hạn, tôi thành thực thưa rằng: những cảm nhận của tôi trong lời giới thiệu này cũng chỉ là một sat-na biến sắc của con kỳ nhông thơ đa dạng Hoàng Vũ Thuật mà thôi. Không biết trong những người “bạn” mà Hoàng Vũ Thuật “biết… đã tìm ra chân trời” là “cái đường viền cô đơn níu lòng người ở lại” ấy, có sự hiện diện của người viết bài này hay không? Nhưng không sao! Vì theo anh: Có những điều ta “không thể viết ra bằng chữ”:
Không thể viết ra bằng chữ
ý tưởng trong những áng mây khi thấy khi không
chập chờn giấc ngủ muộn
những hòn sỏi trắng
nhặt lên
ném
nhưng tôi biết bạn đã tìm ra chân trời
cái đường viền cô đơn
níu lòng mình ở lại
(Có thể là một bài thơ)
Thơ là sản phẩm của sự tột cùng đơn độc của nhà thơ, nhưng cũng chính thơ đã giúp con người “tìm ra chân trời” và “níu lòng người ở lại”. Xin cảm ơn thơ, cảm ơn Hoàng Vũ Thuật. Và vui mừng giới thiệu tập thơ “Một mai gió chở tôi về” cùng bạn đọc gần xa...
Làng Yên Phú, Quảng Ngãi, Hạ 2019
MAI BÁ ẤN
Theo http://vanvn.net/




Diện mạo thơ Việt đầu thế kỷ XXI

Diện mạo thơ Việt đầu thế kỷ XXI
Trở lại với thực tại, ở cuối thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, chắc hẳn sẽ có nhiều người tự hỏi, vậy diện mạo thơ Việt hiện tại ra sao? Đây là một câu hỏi lớn, rất lớn. Trong khuôn khổ của một bài viết, chắc chắn không thể giải đáp hết được. Dưới đây, chúng tôi chỉ trình bày những nét khái lược nhất.
Giờ đây, khi nhìn lại, chúng ta thấy thế kỷ XX là một thế kỷ đầy những biến động to lớn của văn học Việt Nam nói chung, thơ ca Việt Nam nói riêng. Biến động về hệ hình văn học với sự chuyển đổi từ mô hình văn học trung đại sang hiện đại. Biến động về đội ngũ tác giả. Sau thế hệ “những người muôn năm cũ” với những Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải là thế hệ Thơ mới, thế hệ nhà thơ thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, trong chiến tranh biên giới và rồi tiếp đến thế hệ nhà thơ sinh ra trong hòa bình, độc lập. Biến động về thể loại. Nhiều thể loại đã lui vào ở ẩn trong tháp ngà như Đường luật, song thất lục bát, nhường chỗ cho thơ tự do, trường ca… Trở lại với thực tại, ở cuối thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, chắc hẳn sẽ có nhiều người tự hỏi, vậy diện mạo thơ Việt hiện tại ra sao? Đây là một câu hỏi lớn, rất lớn. Trong khuôn khổ của một bài viết, chắc chắn không thể giải đáp hết được. Dưới đây, chúng tôi chỉ trình bày những nét khái lược nhất.
1. Thơ Việt những năm đầu thế kỷ XXI đánh dấu sự quay trở lại của cảm hứng dân tộc, khuynh hướng sử thi. Sau mấy thập kỷ phát triển rực rỡ với nhiều thành tựu, sang thập niên 80 của thế kỷ trước, đặc biệt khi bắt đầu thời kỳ Đổi mới, hiện thực đất nước thời mở cửa với bao bộn bề, lo toan, đói nghèo và lạc hậu đã khiến cảm hứng dân tộc, khuynh hướng sử thi trở nên lạc điệu. Thơ trở về đời thường với cảm hứng thế sự, đi sâu vào thế giới nội tâm nhỏ bé của con người… Đến cuối thế kỷ XX, ít ai còn nói đến cảm hứng dân tộc, thậm chí có người bắt đầu “soạn” lời cáo chung cho khuynh hướng sử thi. Nhưng đến cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, cảm hứng dân tộc có xu hướng trở lại mạnh mẽ. Điều này có nguyên do từ những tác động của hiện thực đất nước. Việc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc bị đe dọa đã thổi bùng lên chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc trong trái tim, trí óc người dân Việt nói chung, các nhà thơ nói riêng. Và như loài phượng hoàng bất tử, vụt bay lên tái sinh từ tro tàn, cảm hứng dân tộc, khuynh hướng sử thi đã trở lại một cách ngoạn mục, nhất là trong các thi phẩm viết về biển, đảo quê hương.
Trong thơ viết về biển đảo, hai địa danh thường xuyên được nhắc đến nhất là Trường Sa và Hoàng Sa. Trường Sa - cái tên thôi cũng đủ thấy sự xa xôi, cách trở. Cứ tưởng Trường Sa chỉ có sóng và gió, cứ tưởng Trường Sa chỉ có đảo đá khô cằn. Nhưng không, Trường Sa trong thơ thật gần gũi, máu thịt, ở đó tiếng chuông chùa thân thuộc vang xa thật bình yên: Hình như tiếng chuông chùa Hoàng Phi thì phải/ Phật linh thiêng không quản nơi xa ngái/ Vượt biển độ trì cho dân đảo cầu an (Cổ tích thời @ - Võ Thị Kim Liên), và tiếng hát trẻ thơ ngoài Trường Sa mà như nghe ở làng quê bên sông Hồng, sông Hậu (Nghe trẻ hát ở Trường Sa - Ngô Minh). Còn nhắc đến Hoàng Sa, mỗi lần nhắc là một lần nhói buốt. Cái tên đó cứa vào lòng người Việt nỗi đau về một vùng chủ quyền bị lấy mất, chạm đến khát vọng khắc khoải một ngày đòi lại được mảnh đất của cha ông: Mộ gió đây/ những phút giây biển lặng/ gió là tay ôm ấp bến bờ xa/ chạm vào gió như chạm vào da thịt/ chạm vào/ nhói buốt/ Hoàng Sa… (Mộ gió - Trịnh Công Lộc).

Bài thơ được gợi cảm hứng từ những ngôi mộ gió trên đảo Lý Sơn. Từ xưa đến nay, bao người con đất Việt đã không ngại hi sinh để bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Thân xác họ chìm sâu dưới đáy đại dương nhưng khát vọng giữ gìn biển đảo quê hương của họ như đã hòa vào gió, vào sóng. Mọi ánh nhìn vẫn đang đau đáu về hướng đó với nỗi khắc khoải chưa bao giờ nguôi: Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển/ Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa (Tổ quốc nhìn từ biển - Nguyễn Việt Chiến).
Khi chủ quyền biển đảo bị đe dọa, ngay lập tức lòng yêu nước, tinh thần xả thân vì lãnh thổ trọn vẹn của đất nước lại bừng trỗi dậy mạnh mẽ: Biển của mình thì mình đem máu xương gìn giữ/ Biển của mình thì mình phải ra khơi/ Buồm căng lồng ngực bạn chài ngân vang câu hát/ Đây biển Việt Nam/ Đây hồn Việt Nam/ Tổ quốc trào dâng cùng biển trời bát ngát (Vọng Hải Đài - Bùi Công Minh). Giọng thơ khi thủ thỉ, khi thúc giục như một lời hiệu triệu. Hình ảnh những người dân chài ra khơi bám biển, không chỉ vì mục đích mưu sinh mà còn để bảo vệ vùng biển đảo thiêng liêng thật mạnh mẽ hào hùng, như hình ảnh những người tráng sĩ hiên ngang ra trước sóng gió. Đó cũng là tư thế của cả dân tộc - một dân tộc có truyền thống bất khuất, kiên cường chống giặc ngoại xâm. Hãy lắng nghe lời tuyên thệ của người lính hải quân: vì Tổ quốc/ chúng tôi là cột mốc/ chúng tôi là trận địa tiền duyên/ chúng tôi là lá chắn/ chúng tôi là bệ phóng/ chúng tôi là chốt chặn xâm lăng (Chúng tôi ở Trường Sa - Nguyễn Hữu Quý). Nó gợi đến lời thề “Sát Thát” trong trận chiến chống Nguyên Mông, lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong kháng chiến chống Pháp, là âm vang hào khí anh dũng của dân tộc mấy nghìn năm chống ngoại xâm.
Trong thơ viết về biển đảo từ xưa đến nay, người lính hải quân luôn là biểu tượng đẹp đẽ của lòng dũng cảm, tinh thần xả thân vì Tổ quốc. Những vần thơ xúc động nhất là những vần thơ nói về sự hi sinh của các anh. Nguyễn Hữu Quý đã tái hiện ký ức về những đoàn tàu không số, tái hiện những hải trình khốc liệt chi viện cho miền Nam, tái hiện những chuyến đi không hẹn ngày trở về của người lính hải quân năm xưa bằng những câu thơ dữ dội: Trong mơ các anh về/ từ những con tàu đã ngủ quên dưới đáy biển/…/ những hành trình nương vào bão tố/ để che mắt quân thù/…/ lỗ chỗ vết đạn găm/ trục vớt lên những mùa đông/ lặng im cảm tử/ trục vớt lên những mùa xuân không hoa đào nở/ ngổn ngang trời, ngổn ngang biển mây bay(Hạ thủy những giấc mơ). Nguyễn Việt Chiến dựng lại phút giây bi tráng khi người lính lấy thân mình bảo vệ lá cờ trên đảo Gạc Ma: hy sinh ở đảo đá Gạc Ma/ Họ đã lấy ngực mình làm lá chắn/ Để một lần Tổ quốc được sinh ra/ Máu của họ thấm vào lòng biển thẳm (Biển là nơi Tổ quốc sinh ra). Ở một hướng tiếp cận khác, nhà thơ Nguyễn Trọng Văn lại viết về nỗi đau trong thời bình. Khi mọi người đang có cuộc sống bình yên nơi đất liền thì ngoài kia, biển khơi tiếng sóng ầm ào hát ru người chiến sĩ hải quân vào giấc ngủ ngàn năm: Quấn chặt lá cờ/ Vào sát ngực mình/ Bên phía trái tim/ (Vật duy nhất còn lại trên nhà giàn - 2A/DK1/6)/ Đại úy Vũ Quang Chương/ Gồng mình/ Hít hơi thở cuối/ Anh mỉm cười thấy đồng đội đã xuống tàu cứu hộ an toàn/ Anh mỉm cười…/ Một con sóng chồm lên/ Cờ Tổ quốc còn nguyên bên ngực/ Chỗ anh đứng/ Sóng liên hồi kỳ trận/ Sóng liên hồi/ Từng đợt lại chồm lên/ Anh mỉm cười/- Đâu cũng quê hương/ Biển thẳm sâu, ru anh vào giấc ngủ... (Tổ quốc - đường chân trời).

Những người lính ấy, họ đón nhận cái chết một cách tự nguyện và thanh thản. Hình ảnh những người lính lấy thân mình che chắn cho lá cờ Tổ quốc trên đảo Gạc Ma, hay hình ảnh người lính quấn lá cờ quanh mình trước khi phong ba ập xuống nhà giàn là biểu tượng của tình yêu nước bất tử. Hy sinh cho những gì thiêng liêng và cao cả, đó không chỉ là mất mát, đó còn là niềm tự hào.
Bên cạnh những vần thơ về biển đảo quê hương, cảm hứng dân tộc, khuynh hướng sử thi còn xuất hiện trong nhiều trường ca viết về đất nước dặm dài. Trường ca Bước gió truyền kỳ của Phan Hoàng là một câu chuyện truyền kỳ về công cuộc mở cõi và giữ nước của dân tộc, đưa người đọc vào một hành trình kỳ lạ, vừa thực vừa mơ để khám phá những vẻ đẹp của văn hóa, khí phách và ý chí của dân tộc với nhiều cung bậc cảm xúc thẩm mỹ khác nhau. Trải qua hàng ngàn năm, để mảnh đất hôm nay mang hình chữ S, để có chủ quyền trên hải đảo xa xôi là công sức mở cõi của hàng triệu người con đất Việt, hữu danh và vô danh: Ơi lớp lớp người người/ hiên ngang đôi cánh ước mơ chim Việt/…/ Bước gió vó ngựa uy phong Lê Thánh Tôn…/ Bước gió Nguyễn Hoàng/ bước gió Lương Văn Chánh/ bước gió Nguyễn Hữu Cảnh/ bước gió những đoàn quân vô danh/ bước gió những lưu dân vô danh/ bước gió những nghệ sĩ vô danh/ bước gió những mĩ nữ vô danh…/ nhập hồn xóm làng/ nhập hồn sông suối/ nhập hồn núi rừng/ nhập hồn biển đảo… Mỗi một tấc đất đều được đổi bằng máu: máu/ máu/ máu/ mở cõi/ máu/ máu/ máu/ giữ nước. Đã một thời gian dài, trong thơ Việt, người đọc chưa bắt gặp những câu thơ mang âm hưởng tráng ca như thế.
Trường ca Long mạch của nhà thơ Hoàng Trần Cương được cấu trúc thành 11 chương: Khấn thầm, Huyết thống, Nết đất, Hồn sông, Mạch chủ, Thác ghềnh, Quỷ nước, Sấp ngửa, Sông và em, Vía biển, Thế núi, với những hô ứng liên hoàn, thắt mở đầy mê dụ để chỉ khí và thế của đất đai sông núi. Long mạch trước hết là niềm tự hào về thế địa linh của Tổ quốc với núi với sông, đất liền và biển cả: Cứ như là rủ nhau/ Nguồn mạch đất đai nổi chìm đứt nối/ Đứng là núi/ Chảy là sông/ Mênh mông là biển/ Dài rộng đất liền/ Quây bờ xẻ bến. Long mạch cũng là nơi nảy sinh bao điều tốt đẹp, là xứ sở của những người lao động khéo léo và quả cảm: Năm tháng chảy/ Đan tơ dệt lụa/ Hãm thác ghềnh/ Gói bọc đất đai, xứ sở của tình yêu và lòng bao dung: Thành lứa/ Thành đôi/ Vun bồi đắp đổi/ Ngày một ngày hai trổ nụ vươn cành/ Nối ly tán/ Ngấm ngầm tụ hội. Long mạch đâu chỉ là thế núi hình sông của đất nước mà còn là vóc dáng tinh thần, tâm hồn của dân nước. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, vóc dáng, tâm hồn ấy vẫn lưu truyền, hun đúc nên bản lĩnh của thế hệ hôm nay: Mang dòng chảy/ Chở ngọn nguồn/ Đầy bị/ Ngày đi/ Đêm đi/ Chúng mình đi/ Nước mắt/ Chắt ước vọng/ Nuôi núi sông.
Trường ca Chân đất của Thanh Thảo là những suy cảm của tác giả về quê hương, về Tổ quốc, về nhân dân trong thời cuộc mới. Từ biểu tượng lớn Chân đất tác giả mở ra nhiều hướng để luồng tâm tư trải rộng những vấn đề nhân tình, thế sự qua 9 đoạn thơ với các biểu tượng: Chân tre, Chân ruộng, Chân mưa, Chân núi, Chân cò, Chân tháp, Chân mây, Chân sóng, Chân lũy.
Điểm nổi bật nhất trong bản trường ca là những suy ngẫm về nhân dân. Nhân dân nghèo đói nhưng nghĩa tình, nhân dân không gọi nhau “man” này “man” nọ/ nhân dân gọi nhau đồng bào. Từ ngàn xưa, nhân dân đã âm thầm dựng xây đất nước: hình như tổ tiên mình trồng một bụi tre/ trồng một lũy tre/ trồng một rừng tre/ bên dưới thành Châu Sa/ bên dưới Trường Lũy. Và ngày nay, nhân dân đang bền bỉ xây dựng nên Trường Lũy của tình người, của tinh thần bất khuất: cùng mọi người tôi vác đá xây lũy/ cùng mọi người tôi vác tự do vác tình anh em qua lũy/ cùng mọi người tôi ném những trái ngang khỏi lũy/…/ dù chân lũy tới chân trời/ xa lắc chơi vơi/ chúng tôi đi/ dè dặt/ chúng tôi đi/ từng bước. Chân đất là một bản giao hưởng ngôn từ bi tráng và kiêu hãnh về một dân tộc đã đứng lên từ nước mắt và máu để dựng lên nhân cách sống của mình suốt chiều dài lịch sử.
Sự trỗi dậy của cảm hứng dân tộc, khuynh hướng sử thi trong các vần thơ viết về biển đảo quê hương và non sông đất nước đầu thế kỷ XXI đã thể hiện trách nhiệm công dân của các nhà thơ trước những vấn đề trọng đại của dân tộc, qua đó chứng minh chủ nghĩa yêu nước vẫn luôn là một “đại tự sự” xuyên suốt lịch sử thơ ca Việt từ xưa đến nay.
2. Thơ Việt những năm đầu thế kỷ XXI phản ánh những vấn đề quan thiết của nhân loại trong thời đại toàn cầu hóa. Thế kỷ XXI được bắt đầu bằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) diễn ra từ những năm 2000, còn gọi là cuộc cách mạng số chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số. Một thế giới số - bản sao của thế giới thực - đã và đang hình thành, thâm nhập vào đời sống của mỗi công dân đương đại. Nền văn minh hậu công nghiệp đem lại cho con người cuộc sống tiện nghi, nhưng mặt trái của nó là nhân loại mải mê với những phát minh, những cuộc chinh phục nên không bao giờ yên ổn: Nhân loại tỉnh thức/ Nhân loại cuồng say tạo dựng, săn lùng và tàn phá/ Nhân loại thức công nghiệp/ Nhân loại thức điện tử/ Nhân loại thức bay ra ngoài trái đất/ Nhân loại thức không bao giờ ngủ được nữa (Giấc ngủ màu xanh - Lương Tử Đức). Sự gấp gáp của nhịp thơ cũng là nhịp sống hối hả của thời đại hậu công nghiệp, đồng thời thể hiện sự hoảng hốt của con người trước một nhân loại không bao giờ ngủ - một ẩn dụ cho sự thiếu cân bằng trầm trọng giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Sự trơ lỳ cảm xúc đã trở nên báo động, như một thảm họa tàn khốc chẳng kém thảm họa thiên nhiên: Người ta đang lý giải El Nino thiên nhiên/ Mà lãng quên một El Nino xoay vần nhân tình thế thái/ Sự tiến hóa làm con người xa nhau hơn/ Thậm chí có ít thời gian để cười và càng ít khóc (Đôi mắt lửa Puskin - Vi Thùy Linh). Sự tiến hóa làm con người xa nhau hơn là một mệnh đề không mới, nhưng khi Vi Thùy Linh viết Thậm chí có ít thời gian để cười và càng ít khóc thì người ta phải ngạc nhiên vì sự già dặn và tinh tế của một cô gái tuổi mới đôi mươi. Trong một bài phát biểu, thiên tài vật lý người Anh Stephen Hawking đã cảnh báo trí tuệ nhân tạo sẽ hủy diệt loài người. Nhưng có lẽ, loài người đã tự hủy diệt mình sớm hơn thế, từ cái ngày mà loài người phá hủy hệ cân bằng sinh thái, từ cái ngày loài người chối bỏ những xúc cảm buồn, vui, yêu, ghét vốn là đặc trưng cao quý của giống loài mình. Những dự đoán về tương lai bất ổn càng ngày càng xuất hiện nhiều trong thơ: Tôi nằm lo một cái gì như thể/ Một tai ương sắp dội xuống phàm trần (Nhớ tiếng mèo ngõ vắng - Ngô Xuân Hội); Giật mình muốn hỏi Thượng Đế/ Ô nhiễm, bão lụt... quá nhiều/ Chẳng hay ngài cho Trái Đất/ Nhiệm kỳ này còn bao nhiêu? (Trò chuyện với Thượng Đế - Trần Ninh Hồ).
Soi chiếu vào thực trạng đất nước trong thời đại hậu công nghiệp và toàn cầu hóa, các nhà thơ đặc biệt chú ý đến việc phơi bày những mặt trái của xã hội hiện đại. Như trên đã nói, cảm hứng hiện thực trở lại với thơ từ khi kết thúc chiến tranh nhưng chủ yếu đó là hiện thực đói nghèo, lạc hậu. Ngày nay, mặt trái của thời kì đô thị hóa, của thời đại kỹ trị còn khủng khiếp hơn thế: Đồ vật ngày lên ngôi, hư vinh cũng chòi lên/ căn phòng chật tiếng cãi cọ các thế hệ công nghệ/ ti vi siêu mỏng, điện tử thời đại số/ tình cảm hóa thân những cuộc chát và tin nhắn (Đồ vật - Trần Quang Quý). Giàu có về vật chất làm con người nghèo nàn đi về tâm hồn. Con người tách mình ra khỏi thiên nhiên, dửng dưng trước vẻ đẹp của thiên nhiên màu lá non tơ ngoài phòng lạnh (Nhật ký cuối thế kỷ - Tuyết Nga), thậm chí còn hủy hoại thiên nhiên: Đừng hát nữa mà đau/ em ơi Hà Nội phố/ Ôi thôi thôi/ Cây đã về với kiếp tro than/ Người ở lại cùng lời nức nở! (Văn điếu cây Hà Nội - Vương Trọng).
Chạy theo công nghệ, con người bỏ rơi giá trị văn hóa truyền thống: Trăng lang thang ngoài bến sông Hồng/ Tìm lời ru những người mẹ trẻ/ Nhưng lời ru đã chết sau màn hình đa hệ/ Trăng ôm vào lòng đứa trẻ mồ côi (Nỗi buồn đô thị - Nguyễn Trác). Tách ra khỏi những cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn, trái tim trở nên khô cằn không thể đón nhận âm vang cuộc sống, trái tim hóa thành vách đá/ tiếng vọng sượt qua/ rơi/ lả tả (Vách đá - Lê Quốc Hán). Thói vụ lợi biến con người thành kẻ vô tình: Tôi quên lãng những bông dạ hương trước một loài hoa hướng dương/ Tôi lãng quên những cây đại thụ khi ngồi trên sập gụ tủ chè (Quên lãng - Nguyễn Tấn Việt) và là kẻ giết người: Một góc phố một hiệu kim hoàn bị phá cửa/ Và trong quán rượu một người say đâm chết một người say (Đoản ca buổi tối - Nguyễn Quang Thiều). Mỗi câu thơ trên là một tiếng nói cảnh tỉnh sự tha hóa, vô cảm của con người.
3. Thơ Việt những năm đầu thế kỷ XXI lặn sâu vào thế giới nội tâm, truy tìm cái tôi cá thể và cái tôi bản thể, khai thác miền tâm linh. Thơ cách mạng vì điều kiện hoàn cảnh không thể là tiếng nói của cái tôi cá thể, càng không thể là tiếng nói của cái tôi bản thể và đi vào những đề tài nhạy cảm như tâm linh, vô thức. Chỉ khi chiến tranh qua đi, đặc biệt là sau Đổi mới, những nhu cầu nói trên mới trở nên mãnh liệt. Thơ Việt những năm đầu thế kỷ XXI đã tiếp tục mạch thơ này vắt sang từ những thập niên cuối của thế kỷ XX.
Cái tôi cá thể hiện nay đang được khẳng định như một giá trị. Đó là nhu cầu ý thức về mình, xác định chỗ đứng của mình trước thế giới và trong các quan hệ xã hội, cá nhân. Trước hết cá thể đó thể hiện ngay trong cái tôi sáng tạo của mỗi nhà thơ. Trong xu hướng đổi mới chung, mỗi nhà thơ hiện nay nỗ lực tìm tòi cho mình một hướng đi riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của một cái tôi đa chiều kích, đầy kiêu hãnh và độc lập. “Rời khỏi bầy đàn” trở thành tuyên ngôn chung cho cả một thế hệ nhà thơ, xác lập một tâm thế độc mã trên hành trình sáng tạo: Anh là con cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động (Ngậm em trong miệng - Mai Văn Phấn); Tôi bứt khỏi tập thể/ Câu thơ bứt khỏi máu còn nguyên rễ (Giác quan ánh chớp - Nguyễn Hữu Hồng Minh).

Nếu cái lạc lõng của các nhà Thơ mới là do bị đẩy ra khỏi bầy đàn thì cái lạc lõng của các nhà thơ đương đại là do họ chủ động lựa chọn, chấp nhận cô đơn, thậm chí quay lưng lại tập thể để xác lập một tiếng nói riêng. Cái tôi sáng tạo của thơ đương đại gai góc, nổi loạn một cách bản lĩnh.
Bởi vậy đặc trưng của thơ cách tân đương đại là không dựa vào bất kỳ chuẩn mực nào, tự vươn tới những chân trời cao rộng của sáng tạo, bứt phá khỏi mọi khuôn mẫu giá trị cũ để tìm một không gian sáng tạo mới, như chú ngựa non vùng thức dậy chạy trên thảo nguyên bao la: Thức dậy đi hỡi chú ngựa non của lồng ngực trẻ/ Thức dậy và tung bờm cất vó/.../ Thức dậy, dẫm chân và lắc đầu kiêu hãnh/ Trước những yên cương rực rỡ sắc màu/ Thức dậy để uống sương mai/…/ Thức dậy đi ơi chú ngựa/ Đã ngủ sâu trong đáy tim nhiều năm tháng (Bài ca ngựa non - Trần Lê Sơn Ý).
Hiện tượng lấy tên mình đặt cho một bài thơ, một tập thơ không còn là hiếm (Trang Thanh - Trang Thanh, Vili in love - Vi Thùy Linh…), như một cách khẳng định cái tôi ngay từ tiêu đề tác phẩm. Con người ngày nay có khát vọng tạo dựng một chân dung riêng biệt của mình trong thơ. Đó có thể là chân dung ngoại hình: tôi nhìn/ tôi/ trán dô cằm nhọn má cao/ nhân trung sâu/ thọ đau kiếp nạn/ mím môi/ không sẻ cho người (Trang Thanh - Trang Thanh). Nhưng quan trọng hơn cả vẫn là chân dung tinh thần. Cái tôi cá thể dám làm và dám chịu trách nhiệm về những việc đã làm, cho dù đối lập với tất cả: Tôi phóng sinh tất cả khỏi lề thói/ Lao vào đêm ca hát những điều tôi thích/ Trong sự bất cần của những mặt nạ lặng câm/ Trong sự ồn ĩ của những mặt nạ phản đối (Bay lặng im - Trang Thanh).
Trong thơ hôm nay chúng ta còn gặp những lời tự bạch của người chơi như một cách khẳng định cá tính. Người chơi ở đây được hiểu là người có lối sống tự do, phóng khoáng, thích rong chơi không vướng bận với đời. Người chơi không phải là xa lạ đối với thơ Việt Nam. Thời trung đại, trong khuôn phép ngặt nghèo của Khổng giáo vẫn đã xuất hiện những nhà nho tài tử với triết lý hành lạc mà Nguyễn Công Trứ, Phạm Thái, Tản Đà là những tên tuổi tiêu biểu. Trong Thơ mới có những chàng thi sĩ mộng mơ: Tôi chỉ là một khách tình si/ Ham vẻ đẹp của muôn hình muôn thể (Cây đàn muôn điệu - Thế Lữ). Người chơi vắng bóng trong thơ cách mạng vì nó lạc lõng trong điều kiện chiến tranh. Sau 1975, khi cuộc sống trở về bình thường, người chơi trở lại trong thơ. Nếu như trong thơ 1975 - 2000, chơi có thể là một thái độ phản ứng lại những phi lý của cuộc đời: Rong hồn vào cõi chơi vơi/ Quên mình khổ hạnh, quên đời nhiễu nhương (Rượu tha hương - Lương Định), hoặc là một cách khẳng định cá tính đối lập với cuộc sống khuôn mẫu, buồn tẻ thì trong thơ đầu thế kỷ XXI, hình tượng con người chơi mang một vẻ đẹp mới. Con người chơi hiện nay không ở tư thế đối lập với hoàn cảnh, môi trường sống mà ở tư thế vượt lên hoàn cảnh, đạt đến độ ung dung, tự tại: Có lẽ không gì vui sướng/ Bằng đi cho hết chiều thanh/ Có lẽ không gì tự tại/ Bằng nay ta sống riêng mình (Tự tại - Phạm Văn Đoan). Chơi đối với họ vừa để khẳng định cá tính riêng không giống ai, vừa để khám phá những vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống: Ta/ kẻ ăn sương đường phố/ Vẻ đẹp đêm/ Trăng chếnh choáng lên men/ Nhịp điệu màu nguyên thủy mê man/ Hồn hát cùng thân xác/ Muốn rủ cả bóng ma cậy nắp ván rong chơi/ Gõ phách bầu trời/ Tình tang cây cỏ bị bỏ rơi (Dạ ca - Trương Thị Kim Dung).
Không chỉ đi tìm mình trong quan hệ với thế giới, con người còn đào sâu vào cái tôi bản thể để phát hiện ra những mặt khác nhau của cái tôi. Với Cát Du, khát vọng đi tìm cái tôi bản thể lại khởi đi từ những câu hỏi mang tính bản thể luận của nhân loại như nhà thơ tự bạch: Ta từ đâu tới?/ Tới để làm gì?/ Ta sẽ về đâu? (Nàng). Cái tôi bản thể trong thơ Nguyễn Quang Thiều lại được khai thác ở một dạng khác.
Trong Cây ánh sáng, nhà thơ băn khoăn truy tìm bản thể mình: Chàng là ai? Chàng sinh ra trên thế gian này với sứ mệnh gì? Trong hành trình đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi đầy tính hiện sinh ấy, Nguyễn Quang Thiều hình dung thi sĩ như một hỗn thân với bao đối cực kiểu cái tôi đa ngã: con côn trùng, con lạc đà, con đại bàng, con sói, con đỉa khổng lồ, ngôi sao cô độc. Rồi cuối cùng, theo lối quy nạp, các mảnh ẩn dụ ấy được quy tập về trong cặp đối cực gốc là phần sáng và phần tối: Mi là ta bóng tối và ta là mi ánh sáng. Cả hai phần sáng tối ấy hợp lại làm nên cái tôi bản thể của thi sĩ với những đối lập: Một kẻ là chàng ánh sáng và một kẻ là chàng bóng tối/ Một kẻ ngập tràn ánh sáng và miệng chứa đầy ngôn ngữ minh tuệ/ Một kẻ ngồi trên chiếc ghế hành hình ngập bóng tối tự trừng phạt mình, chỉ trái tim không ngơi nghỉ dội vang. Xét cho cùng, có lẽ không chỉ riêng thi sĩ mới có cái tôi đa ngã, mà trong mỗi con người chúng ta đều có một cái tôi khác bị ẩn giấu, cho nên đôi khi không hiểu rõ chính mình.
Đi tìm cái tôi bản thể là một bước tiến của ý thức cá nhân, ở đó con người đã khám phá mình đến tận cùng và đưa thơ đến một chiều kích khác của tính nhân bản. Đi sâu vào thế giới nội tâm của con người, tất yếu đến một lúc nào đó thơ sẽ chạm đến thế giới tâm linh. Sang đầu thế kỷ XXI, đời sống tâm linh xuất hiện đậm đặc trong các tác phẩm của Tuyết Nga, Phạm Thị Ngọc Liên, Mai Văn Phấn…
Thơ Mai Văn Phấn ngập tràn yếu tố tâm linh. Đó là một thế giới đầy bí ẩn được tạo nên chủ yếu bởi những linh giác, trực giác với cảm quan tôn giáo đậm nét. Đọc thơ Mai Văn Phấn, đôi khi ta bắt gặp một không khí đậm chất liêu trai. Nhà thơ đã mang đến cho người đọc trạng thái rùng rợn khi kể về một ông khách xuất hiện trong ngôi nhà của mình, trò chuyện với mình thực chất là một bóng ma: Pha xong ấm trà/ Quay ra/ Ông khách không còn ở đó/ Gọi điện thoại/ Người nhà bảo ông ấy mất đã bảy năm. Chủ nhà tưởng mình nhầm lẫn, nhưng không phải, sau khi anh ta ra ngoài và về lại nhà thì: Trong nhà/ Trà vẫn nóng/ Đẩy chén nước về phía ông khách đã ngồi/ Luồng tử khí cao chừng một mét sáu dựng đứng trước mặt/ Chốc lại cúi gập (Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ). Nhà thơ có một niềm tin mãnh liệt vào sự tồn tại của thế giới linh hồn - một thế giới tồn tại vô hình, song hành cùng thế giới người sống và người sống có thể giao cảm với linh hồn bằng linh giác: Theo ngọn gió mở cánh đồng buổi sớm, ùa vào những căn phòng lẫn bụi và ánh sáng, lau mồ hôi vừa tắm gội giấc mơ/ Và như thế, cội nguồn trong gang tấc, lúc quay về là đi hết đời mình, hay chờ luân hồi trở lại kiếp sau/ Những linh hồn kia chưa kịp đầu thai, đang ngưng lại nơi không gian thờ phụng, bay lửng lơ rồi nấp vào bái vật giáo bất động… (Bức ảnh, trái cây và giấc mơ). Cảm quan Phật giáo cũng thể hiện rõ trong Những ngôi chùa trong đêm của Nguyễn Việt Chiến. Triết lý nhà Phật hòa quyện cùng những giá trị tinh thần cao quý của dân tộc - sự nhẫn nại, bao dung và lạc quan: Tiếng hát đều đều và chậm rãi của người/ Như nước chảy trong đá/ Như trăng soi trong đá/ Như máu thức trong đá/ Tiếng hát mệt mỏi và tha thiết của người/ Đưa bàn tay lại gần một bàn tay/ Đưa ánh mắt lại gần một ánh mắt/ Đưa con người lại gần một con người. Giọng thơ trầm đều, da diết, lắng sâu triết lý. Đây không chỉ là thơ mà còn như một khúc kinh cầu.
Để thể hiện sự mơ hồ, huyễn hoặc của thế giới tâm linh, các tác giả thường xây dựng không gian giấc mơ. Mai Văn Phấn thể hiện niềm tin đặc biệt vào sự ban phát của giấc mơ như một vị cứu tinh: Như bao muông thú/ Tôi lớn bằng giấc mơ/ Của ánh bình minh/ Của cơn mưa/ Bầy sao sa/ Trái đất/…/ Bình minh vắt ngang ngực/ lúc tôi bắt đầu hành thiền (Tĩnh lặng). Không gian giấc mơ được nhà thơ phát huy một cách cao độ trong tưởng tượng, giả định. Đó là những câu chuyện phi logic, hoang tưởng từ Chỉ là giấc mơ, Kể lại giấc mơ đến Giấc mơ vô tận. Dương Kiều Minh thì xây dựng không gian chập chờn giữa thực và ảo, ở đó những hình ảnh, mảng màu được gọi về từ cõi tâm linh. Trong không gian giấc mơ huyền ảo ấy “anh” thấy mình nhảy nhót như con thú hoang: Trong giấc mơ có anh/ Bên em không hề biết/ Anh xoài mình khắp những tán cây/ Con dốc ven hồ/ Vạt hoa trinh nữ/ Con thú hoang nhảy nhót trong mơ (Em đừng thức giấc). Trong thơ Dương Kiều Minh ranh giới giữa quá khứ và hiện tại, giữa mơ và thực rất mong manh, là sự hòa trộn hiện thực và ký ức. Kết cấu đồng hiện, liên tưởng đa tuyến là kết cấu chủ đạo. Trí tưởng tượng và những giấc mơ cũng tràn ngập trong thơ Nguyễn Quang Thiều (Trong giấc ngủ muộn, Nhịp điệu châu thổ mới, Âm nhạc...), trong thơ Phạm Thị Ngọc Liên (Giấc mơ, Giữa khuya có một giấc mơ, Ngủ mơ)…
Miền tâm linh, vô thức trong thơ hiện nay là sự tiếp nối mạch thơ mở ra từ sau Đổi mới nhưng thể hiện một cách sâu sắc hơn. Có thể nói, khi đi vào thế giới tâm linh thơ càng có giá trị nhân bản.
Trên đây là những “nét lớn”, cơ bản nhất của diện mạo thơ Việt đầu thế kỷ XXI. Bên cạnh những nét lớn, việc đi sâu tìm hiểu những “nét nhỏ” nhằm cụ thể hóa, tường minh hóa diện mạo thơ Việt trong khoảng hai mươi năm đầu thế kỷ XXI cũng là điều rất cần thiết vì đây là quãng thời gian đủ dài cho công việc tổng kết. Tuy nhiên đó sẽ là nội dung của nhiều bài viết khác.
Trần Thị Minh Tâm
Nguồn: VNQĐ
Theo http://vanvn.net/



Cung bậc - Chùm thơ Hữu Dũng

Cung bậc - Chùm thơ Hữu Dũng Cũng là/ cung bậc ấy thôi/ Mà sao/ cảm xúc/ xa xôi ùa về… Cung bậc Cũng là cung bậc ấy thôi Mà sao cảm xúc xa...