Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2020

Những loài động vật "yêu" lãng mạn nhất

Những loài động vật "yêu" lãng mạn nhất
Trong thế giới động vật có rất nhiều loài, con đực bên cạnh phải thể hiện sức mạnh, giàu có, rộng lượng, chung thủy thì chúng còn phải thể hiện sự lãng mạn và tận tâm trước bạn tình. Đôi khi có loài còn hy sinh bản thân để hòa cùng nhịp đập trái tim với con cái...
Nhân ngày Lễ tình nhân Valentine 2012, VietNamNet xin giới thiệu với độc giả những loài động vật có tình yêu lãng mạn nhất trong thế giới động vật.
1. Chuột đồng
Hầu hết các loài động vật gặm nhấm đều thô thiển và không lãng mạn nhưng loài chuột đồng thì lại khác hoàn toàn. Chuột đồng cũng là một trong những con vật sống chung thủy nhất trong thế giới loài vật.
Khi đến tuổi trưởng thành, con đực sẽ đến tán tỉnh và ở với bạn tình. Cuộc hôn nhân này sẽ kéo dài đến hết đời. Vào mùa sinh sản, chúng sẽ đánh dấu lãnh thổ và bảo vệ tình yêu khỏi bất kì kẻ xâm phạm nào bằng cách nghiến răng và giơ hai chân trước lên. Theo biểu đạt của con người thì đó là hai nắm đấm cảnh báo kẻ thù.
Con đực đặc biệt sẽ trở nên hung hăng với con cái khác cố gắng xâm nhập vào lãnh thổ của chúng, điều hày khác hẳn với con người khi mà đàn ông luôn “say nắng với kẻ thứ ba”. Thậm chí chuột đực sẽ tấn công nếu đó là mối nguy cơ phá hoại tổ ấm gia đình tiềm ẩn.
Sự lãng mạn của chuột đồng còn thể hiện ở chỗ chúng biết sẻ trách nhiệm nuôi dưỡng con cái, chải lông (groom) cho nhau và luôn nằm ôm bạn tình để giữ ấm cơ thể.
2. Cá ngựa
Bạn có thể biết cá ngựa đực là một ông bố rất tậm tâm khi gánh vác bụng mang dạ chửa thay cho con cái. Nhưng có thể bạn không biết chúng là động vật lãng mạn xếp đầu bảng trong đại dương.
Khi tán tỉnh, chúng quấn lấy đuôi nhau, bơi khắp nơi chốn và thay đổi mầu sắc để thể hiện với thế giới rằng, chúng đã “có đôi có lứa” và chuẩn bị cho một tổ ấm đầy trách nhiệm.
Quá trình tán tỉnh của con đực với con cái có thể kéo dài một vài ngày, khi có sự đồng ý của con cái, chúng sẽ tạo thành một cặp khiêu vũ bản tăng-gô bốc lửa trong đại dương và điều đặc biệt là màn khiêu vũ này kéo dài tới 8 tiếng đồng hồ.
Khi con đực mang thai, con cái sẽ theo sát “người chồng” cho đến khi sinh con. Con cái cũng sẽ ghé thăm nó vào mỗi buổi sáng, nắm lấy đuôi, thay đổi màu sắc và tán tỉnh để đảm bảo rằng chàng sẽ tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng trứng cho đến khi lâm bồn.
3. Voi
Voi là động vật nổi tiếng là có trí nhớ tuyệt vời và chính điều này đã giúp cho chúng lợi thế hơn nhiều loài động vật. Voi hầu như không bao giờ quên ngày sinh hoặc những ngày kỷ niệm.
Loài động vật to lớn này thường sống riêng biệt nhưng khi đến tuổi giao phối, con đực sẽ biết cách phải làm gì. Voi đực đấu tranh để có quyền được giao phối với bạn tình, đó cũng là cách thể hiện lòng dũng cảm (prowness) và  sức mạnh.
Khi cuộc chiến đã qua, chiến binh đầy uy lực này lại trở nên mềm yếu trước bạn tình. Nó sẽ tán tỉnh con cái vừa giành được sau khi đã vượt qua cửa ải của rất nhiều ứng viên. Bởi vì nó biết rằng, sức mạnh và dũng cảm chưa đủ, mà còn cái còn cần sự lãng mạn và những “kĩ năng mềm”.
Sau khi chiếm được cảm tình con cái , chúng sẽ giao phối và cả hai sẽ cùng nhau hưởng “tuần trăng mật” kéo dài nhiều tuần. Trong thời gian này, chúng cũng hành động giống như bao kẻ say tình khác, tận hưởng hạnh phúc và bỏ mặc thế giới sau khi đã bước vào cơn say tình ái.
4. Chim bowerbird
Con người không phải là động vật duy nhất gặp gian nan trong tình yêu và trắc trở trong chinh phục cảm tình phái đẹp, ít nhất là còn có loài chim bowerbird. Để có được mến cảm của con cái, chim bowerbird đực phải thể hiện tài năng cũng như lãng mạn hết sức.
Thường nó sẽ xây dựng một buồng the với hai bức tường dựng đứng được làm từ những cái gậy, sau đó trang trí phòng the đó bằng các vật màu mè mà chúng kiếm được nhưng thông thường là vỏ sò, lá cây, hoa, lông chim, sỏi đá và thậm chí là cả những đồ rác rưởi mà con người vứt đi như kính, đồng xu...
Con cái sẽ đi hết “phòng cưới” này đến “phòng cưới” khác, liếc mắt nhìn những con đực khi chúng rỉa lông, khiêu vũ và giới thiệu bộ sưu tập của chúng. Kết quả, con đực có phòng the rực rỡ nhất, lạ mắt nhất và được chú ý nhất sẽ được con cái chọn làm bạn tình.
Để chiến thắng trong cuộc đua này tìm bạn tình này, những con chim bowerbird đôi khi nghĩ ra những thủ đoạn đầy mưu trí: chôm chỉa những đồ trang trí mang về cho mình khi người hàng xóm sơ ý không để mắt tới.
5. Vẹt xanh
Vẹt xanh không chỉ là một con vật đẹp, thông minh mà còn là một trong những động vật lãng mạn nhất thế giới. Chính vì vậy mà nhiều cặp tình nhân tặng vẹt xanh thay cho nhẫn cưới để tượng trưng cho những cam kết gắn bó suốt đời.
Giống hầu hết các loài chim, vẹt xanh là loài sống chung thủy, duy trì chế độ một vợ một chồng. Tình yêu lãng mạn của chúng được thể hiện khi thường xuyên ngồi bên nhau, âu yếm, rỉa lông cho nhau và đối với hầu hết mọi người thì đó thực sự là tình yêu mãnh liệt. Chính hình ảnh này mà người Hy lạp cổ đại đã tin rằng con chim vẹt xanh sẽ chết nếu chúng mất người bạn tình.
Chim vẹt xanh thường đi tìm bạn tình khi được 2 tháng tuổi. con cái sẽ giũ lông vũ  để nói với con đực rằng nó đã ấn tượng và thích chàng. Và sau đó, con đực bắt đầu thể hiện màn khiêu vũ tán tỉnh, bao gồm cả lắc đầu và rướn cổ.
Khi đẻ trứng, con cái sẽ ấp trứng ở trong tổ trong khi con đực đi ra ngoài tìm kiếm thức ăn. Khi trở về, con đực sẽ mớm cho con cái và điều này được ví như nụ hôn ở con người. Có thức ăn, cả hai cũng sẽ mớm cho chim con. (Ảnh 5)
6. Cá sấu
Mặc dù trông thô kệch và xấu xí nhưng cá xấu lại rất lãng mạn khi thể hiện tình cảm đối với bạn tình. Con cá sấu đực khi đến mùa giao phối sẽ tiếp cận con cái và bắt đầu thể hiện vũ khúc tuyệt vời nhất, bao gồm cả cọ xát, ve vuốt vào lưng con cái, thổi bong bóng nhẹ nhàng vào má con cái và bơi xung quanh con cái để tạo sự chú ý.
Cùng với những cảm xúc nhẹ nhàng này, con đực sẽ gầm vang và sử dụng âm tốc để tạo ra màn trình diễn nước độc nhất vô nhị trong thế giới động vật.
Khi cả hai đã hòa cũng nhịp đập, chũng sẽ làm cho nước trên lưng khiêu vũ như vòi phun nước Ballagio ở Las Vegas. Cuối cùng cả hai cùng nhảy bản nhạc tình yêu như những ngôi sao sân khấu. Tất cả những điều này được các nhà khoa học giải thích là để thể hiện sự lãng mạn trong cuộc chinh phục tình yêu của cá sấu.
7. Chim nhạn biển
Từ cổ chí kim, các đại gia từng vung tiên mua những món quà đắt giá cho các “chân dài” và mỹ nhân nhằm thể hiện sức mạnh giàu có, quyền lực, lãng mạn và rộng lượng. Tuy nhiên, cách thức này cũng không còn có gì là mới đối với loài nhạn biển.
Để chinh phục con cái, chim nhạn biển đực thường thể hiện sự lãng mạn khi mang cho con cái những món ăn ngon nhất, cụ thể là các con cá. Thông thường con cái thường quan tâm đến những con đực “giàu có”, tức kích thước và số lượng cá mà con đực kiếm được.
Con cái sẽ “trao phần thưởng” cho người tình có món quà lớn nhất và hậu hĩnh nhất bằng cách tạo thành một cặp. Sau khi đã trở thành tình nhân, chúng thể hiện hạnh phúc bằng cách bay nhào lộn trên không trung và đây cũng là cách để tổ chức cuộc hôn nhân trước khi chúng đi tìm một cái tổ để cùng nhau sinh sống.
8. Cá vây chân
Cá chân vây chân đực là một trong những con vật lãng mạn cũng như biết hy sinh nhất: Không bao giờ để lạc mất người yêu hay gian dối tình cảm. Ở nơi đen tối nhất trái đất là đáy đại dương, nơi cách mặt biển hàng kilomet, để tìm được bạn tình đúng lúc là một thách thức gần như bất khả thi.
Do vậy, cá vây chân đực phát triển một cách tiếp cận hoàn toàn khác. Khi chúng trưởng thành, cơ thể sẽ xúi giục chúng phải tìm con cái để đính ước.
Khi con đực nhìn thấy một con cái, nó sẽ nhanh chóng bám sát và tung ra nhát cắn yêu đặc biệt để bám chặt vào con cái.
Theo thời gian, cú đớp này này giải phóng ra một loại enzym và làm tan giã miệng cũng như cơ thể của nó. Nhưng khi đó, cả hai kết nối với nhau thành một cơ thể hoàn chỉnh.
Và thực sự hai trái tim có cùng nhịp đập vì chúng chia sẻ huyết mạch cho phần còn lại của cuộc đời. Cơ quan tinh hoàn của con đực cũng sẽ được lưu trữ sau khi một số bộ phân tan giã, và các tinh hoàn này sẽ được sử dụng để sinh con đẻ cái.
Ngọc Huế (Tổng hợp)
Nguồn: vietnamnet
Theo http://www.bichkhe.org/

Chữ Quốc ngữ và đời sống cộng đồng người Việt

Chữ Quốc ngữ và đời sống 
cộng đồng người Việt
Một trong 4 bài thuyết trình tại Seminar “Nguyễn Văn Vĩnh và hành trình chữ Quốc Ngữ” do Nhà xuất bản Tri Thức tổ chức, Hà Nội,
chiều 17/2/2012.
Tôi hoàn toàn đồng tình với đề xuất của ông Nguyễn Lân Bình về việc đất nước Việt Nam, cộng đồng người Việt Nam cần có một ngày kỷ niệm chữ viết quốc gia của mình dành cho chữ Quốc Ngữ.
Trong đề xuất mà ông Nguyễn Lân Bình đã làm thành một hồ sơ gửi tới các cơ quan hữu trách trong và ngoài nước có hai nội dung gắn liền với nhau, - đó là: 
1/ cần xác lập ngày kỷ niệm chữ Quốc Ngữ với tư cách chữ viết quốc gia của Việt Nam và của cộng đồng người Việt, và, 
2/ cần minh định lại trên những bất công và bất minh đã từng có (và tồn tại dai dẳng) trong những thái độ, những dư luận và sự đối xử đối với nhà báo, nhà văn, nhà hoạt động văn hóa xã hội Nguyễn Văn Vĩnh (1882 - 1936), đồng thời cần tôn vinh ông như một nhân vật văn hóa lỗi lạc ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, người đã góp công sức vào loại sớm nhất và lớn nhất trong việc xây dựng những thiết chế văn hóa xã hội như báo chí, xuất bản, vốn dựa căn bản trên chất liệu chữ Quốc Ngữ đồng thời thông qua đó làm cho xã hội hiện đại của người Việt càng gắn bó hữu cơ với chữ Quốc Ngữ trong sự tồn tại và phát triển của mình.
Đồng tình hoàn toàn với đề xuất nói trên, sau đây tôi xin nói về vai trò và vị trí của chữ Quốc Ngữ.
Có thể nói một cách bao quát, chữ Quốc Ngữ là điểm đến của những nỗ lực, những quá trình tìm tòi nhằm xác lập chữ viết riêng cho cộng đồng người Việt với tư cách một dân-tộc-quốc-gia (nation).
Những nghiên cứu sử học hoặc khảo sát điền dã cho tới gần đây đã nêu ra những dấu hiệu về sự hiện hữu một thứ chữ viết nào đó (“khoa đẩu”) đã từng manh nha hoặc tồn tại trong những bộ phận cư dân của cộng đồng Việt cách nay trên dưới 2000 năm (?), tức là từ trước khi xảy ra các cuộc xâm lược mảnh đất này của các vương triều quân chủ chuyên chế phương Bắc; tuy nhiên những dấu hiệu tập hợp được dù sao cũng vẫn hãy còn quá ít ỏi, yếu ớt, chỉ mới có ý nghĩa đặt vấn đề, chứ chưa đủ khả năng minh chứng về một hệ thống văn tự đã từng tồn tại với một hệ thống ký hiệu và chức năng hoạt động của nó.
Người ta biết rằng trong quá trình tiến hóa lịch sử của mình, sự xuất hiện và hoàn thiện ngôn ngữ, - một quan năng vừa sinh học vừa xã hội của con người - là một trong những nhân tố căn bản giúp con người gắn kết liên hệ với nhau, biến con người từ chỗ là sinh vật tự nhiên trở thành sinh vật vừa tự nhiên vừa xã hội, chuyển hóa đời sống bầy đàn thành đời sống cộng đồng; ở các cộng đồng cư dân đều hình thành một ngôn ngữ chung làm công cụ giao tiếp và công cụ tư duy. Các ngôn ngữ vốn là điều phân biệt cộng đồng người với các cộng đồng sinh vật khác (ở đây xin tạm bỏ qua những tìm tòi về “ngôn ngữ” các loài vật), tuy vậy, phần lớn các ngôn ngữ thường chỉ tồn tại ở dạng lời nói miệng, cũng tức là dạng thuần ngữ âm; không phải ở cộng đồng dân tộc nào cũng có, cũng tạo được hoặc tìm được một thứ chữ viết tương ứng với ngôn ngữ dân tộc của mình.
Nếu cho đến tận bây giờ, chúng ta vẫn chưa biết chắc chắn rằng đã từng có một thứ chữ viết được tạo ra cho tiếng Việt trước khi xảy ra các cuộc xâm lược từ các đế chế phương Bắc đối với đất đai sinh tụ ngàn đời này của các thế hệ cư dân Việt, thì điều đã được biết khá rõ lại là: chính trong thời gian các cuộc xâm lược và chiếm đóng kéo dài cả ngàn năm ấy, trong nỗ lực vừa thích nghi vừa cưỡng lại áp lực đồng hóa về văn hóa của thế lực ngoại xâm, những đại diện nhất định trong cộng đồng người Việt đã tạo ra một thứ chữ viết (không rõ có phải là thứ chữ đầu tiên hay chỉ là thứ hai?) ghi lại tiếng Việt - thứ chữ này, được gọi là chữ Nôm - chế tác trên căn bản dựa vào chữ Hán.
Chữ Hán là thứ văn tự đã đến đất Việt cùng với thế lực xâm lược và hiển nhiên đã được sử dụng như một trong những công cụ đồng hóa về văn hóa đối với cư dân Việt. Trên thực tế, chính thứ văn tự được lực lượng xâm lược đem đến đã trở thành văn tự chính thức đầu tiên ở xứ sở này chẳng những trong thời kỳ bị đô hộ (thời Bắc thuộc) mà còn cả trong thời kỳ tiếp theo, khi đất nước giành lại được nền độc lập, được đặt dưới sự cai quản của các vương triều tự chủ của người Việt. Suốt chiều dài lịch sử của nền quân chủ Việt Nam, thứ chữ được dùng chính thức trong hệ thống văn bản nhà nước, trong biên chép sử sách của vua quan và giới trứ thuật là chữ Hán. Tính theo niên đại, chữ Hán có vị trí chính thức trong xã hội Việt Nam từ năm 207 trước công lịch (thời điểm Triệu Đà diệt vương triều Âu Lạc và sáp nhập đất Lạc Việt vào nước Nam Việt của ông ta) đến tận đầu thế kỷ XX (tính đến 1919, khi chế độ khoa cử Hán học bị bãi bỏ hoàn toàn trên lãnh thổ Việt Nam). Người Việt, nói đúng hơn, những người Việt biết chữ Hán (số biết dùng chữ Hán, tính ra chỉ chiếm một vài phần trăm dân số trong cộng đồng Việt), để thể hiện mối cảm kích của mình đối với những người đã đưa chữ Hán vào xứ mình, và tạm gác lại một bên sự ngờ vực hữu lý về động cơ của hoạt động phổ cập đó, đã vinh danh cho một trong số những viên quan đứng đầu bộ máy chính quyền ngoại xâm được xem như tiêu biểu cho nỗ lực đó - Sĩ Nhiếp (137-226) - là “Nam giao học tổ”. 
Chữ Nôm, theo những nghiên cứu đã biết, có thể đã xuất hiện từ thế kỷ IX hoặc X, phát triển mạnh vào thời đại Lý-Trần (thế kỷ XI - XV), đạt tới cực thịnh vào thời từ Hậu Lê đến đầu Nguyễn (thế kỷ XVII - XIX) mà biểu hiện tập trung nhất là thành tựu rực rỡ của nền văn học cổ điển tiếng Việt, được viết hoàn toàn bằng chữ Nôm, với những kiệt tác của hàng loạt tác gia như Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Đoàn Thị Điểm (1705-48), Nguyễn Gia Thiều (1741-98), Nguyễn Huy Tự (1743-90), Nguyễn Du (1765-1820), Hồ Xuân Hương (th.k. XVIII-XIX), Phạm Thái (1777-1813), Bà Huyện Thanh Quan (th.k. XIX), Lý Văn Phức (1785-1849), Nguyễn Đình Chiểu (1822-88), Nguyễn Khuyến (1835-1909), Trần Tế Xương (1870-1907), v.v…
Chữ Nôm được chế tác theo những phương thức nhất định, thường là những phương thức vốn có của chữ Hán (người ta gọi tên các phép “hội ý”, “hài thanh”, “hình thanh”, “giả tá”, “chuyển chú”,…) nhưng mục đích là để ghi âm các từ của tiếng Việt. Có bao nhiêu “chữ” Nôm đã được tạo ra suốt trong quá trình trên dưới 10 thế kỷ? Cuốn “Bảng tra chữ Nôm” (Hà Nội: Nxb. Khoa học xã hội, 1976) cho thấy có 8.187 chữ, trong đó tất nhiên bao gồm cả những chữ Hán nguyên trạng (không thay đổi gì) được dùng làm chữ Nôm. Tài liệu về kho chữ Hán Nôm mã hóa (http://nomfoundation.org) cho biết: Ðến tháng 11/1995, “IRG [= Nhóm báo cáo viên chữ biểu ý /Ideographic Rapporteur Group/ trực thuộc tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế ISO] đã xem xét tổng cộng 21.252 chữ biểu ý CJKV do Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ðài Loan và Việt Nam đệ trình…” Riêng về chữ Nôm, theo Viện trưởng Viện Hán Nôm Trịnh Khắc Mạnh: “Hiện nay tổng số chữ Nôm Việt đã đưa vào kho chữ chung quốc tế là 9.299 chữ, trong đó số chữ Nôm không trùng hình với chữ của các nước trong khu vực khoảng 4.200 chữ. Còn hơn 2.000 chữ mới (gồm chữ Nôm Việt và chữ Nôm Tày) đang được xem xét tiếp tục đưa vào bảng mã chuẩn quốc tế.” (Trịnh Khắc Mạnh: Chữ Nôm và kho chữ Hán Nôm mã hóa, theo: http://nomfoundation.org).
Hoạt động mã hóa văn tự là yêu cầu của thời đại công nghệ thông tin hiện nay; điều này mang ý nghĩa thiết cốt đối với các nước và vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Triều Tiên, những nơi mà hệ thống chữ biểu ý vẫn đang tiếp tục được sử dụng, tức là chúng vẫn đang sống đời sống hiện tại của chúng. Riêng đối với Việt Nam, hoạt động này dường như chỉ còn là việc riêng của giới nghiên cứu Hán Nôm, bởi vì thứ văn tự này đã không còn gắn với các sinh hoạt xã hội của con người hiện tại. Mặt khác, có thể dự đoán rằng trong công việc này (công việc xác nhận, mô tả để đưa thêm các chữ Nôm vào dạng chuẩn hóa để mã hóa chúng, cũng đồng thời là quốc tế hóa chúng), giới Hán Nôm học đã và sẽ còn vấp phải những khó khăn và sự phức tạp vốn có ở chữ Nôm ngay từ trong “hồ sơ lịch sử” của nó: ấy là việc nó hầu như chưa hề được chuẩn hóa.
Như ta biết, chữ Nôm đã có những thời kỳ phát triển rực rỡ, nhất là được dùng để thực hiện những sáng tác văn học bằng tiếng Việt. Không chỉ nho sĩ mà cả quan chức, thậm chí vua chúa, cũng đã có người sáng tác bằng chữ Nôm, song chữ Nôm hầu như chưa bao giờ có được vị trí chữ viết chính thức. Trong lịch sử một vài triều đại, ví dụ dưới thời Hồ Quý Ly (1400-1401), thời Quang Trung (1788-1792) hay rộng hơn là cả thời Tây Sơn (1788-1802), đôi lúc đã có sự đề xuất việc dùng chữ Nôm vào giấy tờ giao dịch, song thời gian và phạm vi áp dụng của những đề xuất đó rất ngắn ngủi, rất hạn hẹp, tựa như một thứ chủ trương được tuyên ngôn hơn là một thực tiễn hoạt động.
Chẳng những chưa hề được dùng làm ngôn ngữ chính thức, chữ Nôm thậm chí cũng chưa hề được các triều đại can dự vào việc điều tiết, hiệu chỉnh. Một vài sắc chỉ răn đe cấm đoán việc phổ biến một số loại tác phẩm Nôm, do một vài vương triều đưa ra, chỉ xuất phát từ lo ngại về sự vi phạm luân lý Khổng Mạnh, tức là từ sự lo lắng cho các chuẩn mực của ý thức hệ toàn trị, tuy là hành vi tiêu cực đối với sự lưu hành chữ Nôm, nhưng chưa phải là sự điều chỉnh đích thực đối với các chuẩn văn tự Nôm. Ta biết, hoạt động chuẩn hóa trong lĩnh vực ngôn ngữ văn tự, ở một phương diện nhất định, để tạo được hiệu quả thực sự thì rất cần có sự tham dự, sự chế định bằng quyền lực nhà nước. Thiếu điều này, một lĩnh vực đa dạng và năng động do gắn với nhu cầu sử dụng hàng ngày như ngôn ngữ văn tự sẽ mãi mãi dẫm chân trong vòng những dị biệt và tranh cãi giữa các phương án đề xuất bởi những người và những nhóm chủ trương khác nhau, - những dị biệt và tranh cãi kéo dài suốt hàng trăm năm đó, đến một chừng nào đấy, nếu vẫn thiếu một phân xử lựa chọn và quyết đoán, nhân danh quyền lực quản lý thống nhất mang tính quốc gia, sẽ gánh chịu cơ nguy bị đào sâu hơn là có cơ may sáp lại gần nhau, do vậy càng khó tạo dựng được dạng ổn định, chuẩn mực.
Quá coi trọng chữ Hán, quá xem thường chữ Nôm, đến mức thả nổi thay vì can dự vào việc chuẩn hóa chữ Nôm - đây là một thứ lỗi rất căn bản trong chính sách ngôn ngữ của các triều đại quân chủ Việt Nam, cho thấy giới hạn của tinh thần tự chủ quốc gia ở họ trên phương diện văn hóa tinh thần, - khác hẳn tinh thần độc lập tự chủ ở phương diện chính trị của hầu hết các triều đại quân chủ Việt Nam. Trong các văn kiện được xem là có ý nghĩa “tuyên ngôn độc lập” của quốc gia, chẳng hạn bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” (980) hay “Bình Ngô đại cáo” (1428), những yếu tố về nền độc lập được nêu lên hàng đầu là sự độc lập về “non sông”, “bờ cõi”, độc lập về nền chính trị “hùng cứ một phương” (song song với các triều đại Trung Hoa), tiếp đó đôi khi có nói đến độc lập về “phong tục”, về một “văn hiến” không thua kém ai, v.v… Tuy vậy, trong tư duy chính trị của các nền quân chủ trung đại Việt Nam, chưa bao giờ sự khác biệt về ngôn ngữ của cư dân mình lại được ý thức như một yếu tố của độc lập dân tộc, độc lập quốc gia! Đây là điều không khó hiểu khi đặt tư duy chính trị này trong không gian thời Trung đại và ở khu vực Đông Á vốn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chữ Hán và văn hóa Hán.
Nếu chữ Nôm đã không đứng vững được trong đời sống cộng đồng người Việt, đã không chịu đựng nổi sự đào thải lịch sử qua các đổi thay mang tính thời đại về lịch sử, văn hóa và kỹ nghệ, thì - trong số rất nhiều nguyên nhân, phải nói một phần trách nhiệm đáng kể là thuộc về các nhà nước quân chủ trung đại Việt Nam, do chỗ đã không can dự đúng mức vào việc mở mang và chế định chữ Nôm ngay ở thời đại có thể nói là hoàng kim của nó, đã không cấp cho nó một mức độ nào đó của tính chuẩn mực và tính chính thống, đặng, giúp cho nó có thể bám chắc ăn sâu vào đời sống cư dân Việt đến mức, một khi có những tiền đề đổi thay, thì sự thay thế nó sẽ trở nên quá khó khăn, đến nỗi người ta sẽ không dám bỏ nó đi để thay bằng cái khác, - như tình hình đã xảy ra với chữ Hán, chữ Nhật, chữ Hàn cùng ở vùng Đông Á hồi cuối thế kỷ XIX.
Người ta biết, vào thời đại thực dân châu Âu lan tỏa và bành trướng bằng thương mại và truyền giáo sang các châu lục Á, Phi, Mỹ, Úc (thế kỷ XVI - XIX), các ngôn ngữ của vùng Đông Á đều được các giáo sĩ đạo Thiên Chúa từ châu Âu - có sự cộng tác của người bản địa - tiếp cận và xử lý tương tự như đã làm đối với tiếng Việt, tức là áp dụng quy tắc ký âm để tạo ra những bộ chữ La-tinh cho mỗi thứ tiếng đó. Thế nhưng, trên thực tế, các dự án La-tinh hóa ấy vẫn mãi mãi nằm trên giấy, là vì người Trung Hoa ở đại lục và Đài Loan vẫn dùng chữ Hán, người Nhật vẫn dùng chữ Nhật; chỉ có người Việt là dứt bỏ hệ chữ biểu ý Hán Nôm để chuyển sang dùng chữ Việt phiên âm La-tinh (chữ Quốc Ngữ).
Nói về chữ Nôm, học giả Đào Duy Anh nhận xét: “Chữ Nôm của ta không có tự mẫu và những âm vận do tự mẫu cấu thành. Nó chỉ dùng chữ Hán đọc theo âm Hán Việt để làm phù hiệu ghi âm. Vì hệ thống âm của tiếng Trung Quốc vốn nghèo hơn hệ thống âm của tiếng Việt Nam cho nên so với tiếng Việt Nam thì hệ thống âm Hán Việt cũng nghèo hơn. Bởi thế cho nên dùng chữ Hán Việt làm nguyên tố thì không thể tạo nên một thứ chữ ghi âm lý tưởng, nghĩa là biểu hiện ngữ âm hoàn toàn đúng. Cụ thể là thường gặp trường hợp một chữ có thể đọc theo nhiều cách khác nhau và có những từ trải qua các đời cách viết lại thay đổi, do đó mà người ta cho chữ Nôm là một thứ chữ khó đọc.” (Đào Duy Anh: Chữ Nôm: nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, H.:  Nxb. KHXH., 1975, tr. 60).
Như vậy, bên cạnh tình trạng khiếm khuyết các chế định chuẩn hóa mang tính quốc gia, chữ Nôm còn mang theo những nhược điểm khác. Chữ Nôm ghi tiếng Việt nhưng để đọc được dùng được nó thì người ta (đây là nói người Việt thông thạo tiếng Việt) còn phải thông thạo chữ Hán đã! Từ đây, có thể thấy thật tuyệt vọng nếu tính đến khả năng phổ cập rộng rãi loại văn tự này. Ngoài ra - và điều này là rất căn bản xét về quá trình tiến triển của chữ viết nói chung - chữ Nôm cũng như chữ Hán và loại hình chữ biểu ý nói chung, đã dừng lại ở bước thứ hai (theo giới nghiên cứu - bước 1: tượng hình, bước 2: biểu ý) mà không tiến hóa được sang bước thứ ba (bước 3: ký âm). Về mặt này, chữ Nôm bị chữ Quốc Ngữ thay thế, chủ yếu là do thua sút hẳn về lợi thế từ tiến bộ kỹ thuật.       
Bây giờ xin trở lại câu chuyện về chữ Quốc Ngữ.
Như đã biết, chữ Quốc Ngữ được chế tác từ thế kỷ XVI. Đây là loại hình văn tự thứ hai ghi tiếng Việt, sau chữ Nôm, và là loại văn tự thứ ba được dùng trong cộng đồng cư dân Việt (sau chữ Hán và chữ Nôm).
Chữ Quốc Ngữ là một trong những sản phẩm của sự tiếp xúc giữa văn hoá Âu Tây và văn hóa Việt Nam. Lịch sử hình thành của nó gắn với công cuộc truyền bá đạo Thiên Chúa (Christianisme) vào Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ XVI của các giáo sĩ từ các nước Tây Âu, hoạt động trong các tổ chức tôn giáo ở châu Âu như Dòng Tên (Ordre des Jésuites, lập từ 1534) hoặc Hội truyền giáo ngoại quốc (Société des Missions étrangères, cũng được dịch là "Hội thừa sai", lập ra ở Paris từ 1663). Để truyền đạo, họ phải dùng tiếng Việt và những loại văn tự mà người Việt thường dùng như chữ Nôm, chữ Hán (hiện còn thấy những tác phẩm truyền giáo in bằng chữ Nôm, đôi khi thêm những phần chữ Hán). Có thể vì thấy chữ Nôm vừa khó học cho số đông cư dân Việt vừa thiếu tính chuẩn mực nên họ đã dùng các chữ cái La-tinh (abc...) để ghi tiếng Việt, tạo ra hệ thống văn tự La-tinh cho tiếng Việt, tương tự như các việc trước đó họ đã dùng bộ chữ cái La-tinh phiên âm tiếng Nhật, tạo ra chữ "Romanji" (chữ Nhật phiên âm La-tinh) dùng trong việc soạn từ điển song ngữ và soạn kinh sách (có sách in vào các năm 1548, 1591-96, 1632...); hoặc dùng bộ chữ cái La-tinh phiên âm chữ Hán, soạn từ điển và soạn sách giáo lý (có sách in vào các năm 1588, 1598-1606, 1626). Về sau, khi thứ chữ La-tinh ghi tiếng Việt này được thừa nhận và sử dụng rộng rãi trong xã hội người Việt, nó được người Việt gọi là chữ Quốc Ngữ (tên gọi này chỉ ra đời vào đầu thế kỷ XX).
Việc chế tác chữ Quốc Ngữ là kết quả nỗ lực chung của nhiều giáo sĩ (họ là những người thuộc nhiều dân tộc và quốc gia châu Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Italia, Pháp, Hà Lan, v.v... trong đó khá nổi bật là vai trò của các giáo sĩ người Bồ Đào Nha: Francisco de Pina, Gaspar d' Amaral, Antonio Barbosa) với sự công tác tích cực của nhiều người Việt, trước hết là các thầy giảng giúp việc các linh mục người Âu mà nay chưa rõ tên tuổi. Tuy nhiên, về sự ra đời thứ chữ này, người mà tên tuổi thường được lập tức nhắc đến lại là linh mục Alexandre de Rhodes (1591-1660), có lẽ do việc ông đã tổ chức thành công việc in sách bằng văn tự mới này. Trước A. de Rhodes, trong giới giáo sĩ Dòng Tên ở Việt Nam có lẽ đã khá phổ biến các tài liệu chữ Quốc Ngữ viết tay (mà nay đã mất) như các cuốn từ điển của Amaral, Barbosa, các sách học chữ Quốc Ngữ và dạy giáo lý của Francisco de Pina, Onophre Borges; và có lẽ Fransisco de Pina là một trong những người đầu tiên đem chữ La-tinh ghi tiếng Việt và cũng là thầy dạy tiếng Việt cho A. de Rhodes. Cuốn từ điển về tiếng Việt do A. de Rhodes soạn (nhan đề trong nguyên văn: Dictionarium Annamiticum, Lusitanum et Latinum, tức là Từ điển An Nam, Bồ Đào Nha và La tinh) được in ở Roma (Italia) năm 1651 tại nhà in của Giáo hội La Mã, nơi đầu tiên đúc chữ quốc ngữ. Cũng năm ấy, A. de Rhodes cho in cuốn sách giảng đạo của ông nhan đề Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh Đức chúa Trời, cuốn sách đầu tiên in bằng chữ quốc ngữ.
Thời điểm 1651 với cuốn từ điển của Alexandre de Rhodes dánh dấu giai đoạn thứ nhất của việc định hình chữ Quốc Ngữ. Tiếp đó, cần phải kể đến giai đoạn thứ hai, ở thế kỷ XVIII, với việc chữ Quốc Ngữ được sửa đổi và hoàn chỉnh bởi cố Bá Đa Lộc (tên thật: Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine, 1741-99, được phong giám mục từ 1770, là người giúp việc đắc lực chúa Nguyễn Ánh trong công cuộc xây dựng vương triều Nguyễn); chính ông đã khởi soạn Tự vị An Nam-Latinh (1772-73, chưa hoàn tất) và công việc này đã được kế tục bởi cố Jean-Baptiste Louis Taberd (1794-1840), soạn giả của Nam Việt Dương Hiệp tự vị (Dictionarium Annamitico-Latinum) in năm 1838 ở Serampore (Bengale, Ấn Độ), trong cuốn từ điển này chữ quốc ngữ có dạng thức ổn định như ngày nay.
Ở đoạn trên tôi có nói, chữ Nôm bị thay thế bởi chữ Quốc Ngữ, chủ yếu là do thua sút nhau về lợi thế tiến bộ kỹ thuật. Xin nói rõ hơn về điều này.
Trong cuốn từ điển in năm 1651 kể trên, Alexandre de Rhodes có viết một thiên “Báo cáo vắn tắt về tiếng An-nam hay Đông Kinh”; có thể coi đây là sự tổng thuật những kết quả nghiên cứu của các giáo sĩ châu Âu về tiếng Việt và giải pháp La-tinh hóa nó của họ. Thiên “báo cáo” này cho thấy giới giáo sĩ đã tiếp cận phân tích tiếng Việt ở các mặt ngữ âm (xác định các nguyên âm, phụ âm và hệ thống các thanh điệu), từ vựng (danh từ, đại từ, động từ…), và cú pháp, tức là đã tiếp cận từ cơ sở các tri thức lý thuyết ngôn ngữ học Âu châu đương thời. Trong giải pháp ghi âm, họ áp dụng quy tắc mỗi âm (nguyên âm, phụ âm) ghi bằng một ký hiệu, tổng số các ký hiệu hợp thành bộ chữ (chữ cái) tiếng Việt. Đặc biệt, hệ thống thanh điệu (6 thanh) tiếng Việt được khảo sát kỹ, được coi trọng không kém so với các phụ âm, nguyên âm và tìm được cách hiển thị bằng các dấu hiệu xác định, theo tôi, đã mang lại thành công chắc chắn cho toàn bộ giải pháp. Alexandre de Rhodes nói rõ ông đã mượn các dấu sắc, huyền, ngã từ tiếng Cổ Hy Lạp mà vẫn không đủ nên phải thêm iota subscriptum (dấu nặng) và dấu hỏi để biểu lộ thanh giọng của tiếng Việt. Tuy Alexandre de Rhodes là người Pháp song việc ký âm chữ Quốc Ngữ trong cuốn từ điển in năm 1651 lại cho thấy ảnh hưởng rõ rệt của cách viết tiếng Bồ Đào Nha, bên cạnh đó cũng có ảnh hưởng nhất định của cách viết tiếng Ý và tiếng Pháp.
Sang thế kỷ XVIII, sự cải tiến của Bá Đa Lộc khiến cho ảnh hưởng của cách viết tiếng Bồ Đào Nha nhạt đi, chữ Quốc Ngữ mang đậm thêm những ảnh hưởng của cách viết tiếng Pháp, và điều chủ yếu là đã khắc phục được một số nhược điểm trong phương án chữ Quốc Ngữ thời A. de Rhodes. Chẳng hạn, thu gọn 2 chữ cái phụ âm B vào một (trong bảng chữ mã hóa trên máy điện toán hiện nay không có chữ cái này - một vài học giả ghi tạm bằng ƀ - nó vốn diễn tả một phụ âm đứng giữa B và V mà về sau hầu hết đã chuyển thành V, điều này có lẽ còn do có sự tiến hóa ngữ âm ở tiếng Việt); tương tự như vậy, các phụ âm kép BL, ML, PL, SL, TL được bỏ đi, được thay bằng TR, NH, L, S; hoặc, sự sửa đổi cũng đáng kể, theo tôi, là thay phụ âm cuối NG vào các vần cuối ONG, ÔNG, UNG, mà trong phương án Chữ Quốc Ngữ thời A. de Rhodes thường thể hiện bằng dấu ngã (~) đặt trên các chữ cái U, - một cách xử lý dễ gây phức tạp và lẫn lộn với các dấu thanh trong cùng một âm tiết (chẳng hạn từ mà thời Bá Đa Lộc viết là NÔNG, thì ở thời A. de Rhodes vốn viết là NÔŨ/ trong đó ũ = ng/, do vậy một từ sẽ mang hai dấu hiệu phụ nếu âm tiết ấy không ở thanh không mà mang một trong 5 thanh điệu còn lại). Tiếc rằng phương án Bá Đa Lộc vẫn chưa xử lý thật tốt một vài điểm khác nữa, ví dụ điều mà chữ Quốc Ngữ thời A. de Rhodes cho là trong tiếng Việt có 2 phụ âm D và đã đưa ra dùng hai chữ cái D và Đ, trong đó dạng D vốn ghi phụ âm D trong các tiếng La-tinh lại được dùng để ghi phụ âm Z hoặc J của tiếng Việt, còn chữ cái chế tác bằng cách thêm nét ngang vào ký tự D (thành Đ) mới dùng để ghi phụ âm D; và hậu quả của điều này vẫn còn lại đến tận thời chúng ta. Chữ Quốc Ngữ vẫn còn lại tới 7 ký tự ngoại lệ so với bộ chữ Latinh gốc (Basis Latin): đó là chữ cái phụ âm Đ, và 6 chữ cái nguyên âm Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ư; những ký tự mang yếu tố ngoại lệ này đương nhiên sẽ gây thêm khó khăn cho việc sử dụng, ví dụ ở thời đại của máy in hoạt bản với các con chữ đúc chì, hoặc ngay ở thời đại công nghệ thông tin ngày nay với yêu cầu mã hóa, cũng vậy.  
Trên đây chỉ là vài điều bàn luận xung quanh phương diện cơ cấu của chữ Quốc Ngữ (đây là bài thuyết trình của một người không phải là chuyên gia ngữ học, dễ có những điều không chuẩn xác, xin được lượng thứ).
Như ta biết, từ khi được chế tác (tạm ước lệ lấy mốc 1651 với Từ điển Việt-Bồ-La của A. de Rhodes) và hoàn thiện (1838, với việc in “Nam Việt dương hiệp tự vị” của Taberd), tương tự thân phận các dự án La-tinh hóa của giới giáo sĩ Tây Âu dành cho các thứ tiếng khác của vùng Đông Á, thứ chữ La-tinh hóa tiếng Việt này chỉ được dùng một cách hạn hẹp trong giới tu sĩ và con chiên đạo Thiên Chúa, để dịch kinh bổn, soạn sách đạo; số tu sĩ và tín đồ đông thêm thì số người biết loại chữ này cũng có tăng thêm, và cũng đã có những người dùng thứ chữ mới này rộng ra ngoài việc đạo, tức là dùng vào sáng tác và trứ thuật, chẳng hạn Phan Văn Minh (1815-53) với “Phi Năng thi tập”, tập thơ bằng chữ Quốc Ngữ có lẽ sớm nhất (theo kết quả các nhà nghiên cứu văn học Công giáo); và nhất là Philiphê Bỉnh (1759-1832), vị tu sĩ trong ba chục năm sống lưu vong ở thủ đô Bồ Đào Nha (từ 1796) đã chép tay lại nhiều cuốn từ điển và viết mới hàng chục cuốn sách, trong số này bên cạnh sách đạo có những cuốn về lịch sử, văn hóa, như “Truyện An-nam Đàng Ngoài” (1822), “Truyện An-nam Đàng Trong” (1822), “Sách sổ sang chép các việc” (1822), v.v…; di sản hàng ngàn trang viết tay này, tiếc là cho đến nay hầu như vẫn chưa được giới học giả Việt Nam khai thác.
Tuy không tham dự trực tiếp vào việc chế định chữ Quốc Ngữ, song, với hàng ngàn trang viết tay của chính mình để lại, Philiphê Bỉnh lại cung cấp bằng chứng về một thực tiễn sử dụng cách viết tiếng Việt ở thời kỳ sau “Từ điển Việt Bồ La” (1651), với những xử lý đáng chú ý, trước khi có những đề xuất xử lý của Bá Đa Lộc, được Taberd thể hiện trong “Nam Việt dương hiệp tự vị” (1838).
Như vừa nói, từ sau khi được chế tác, thứ văn tự La-tinh hóa này phần nhiều vẫn chỉ là một phương án nằm trên giấy, dù nó rất tiện lợi cho việc ghi tiếng Việt. Trong khi ấy thì ở xã hội người Việt vẫn đang thịnh hành chữ Hán - ở địa vị văn tự chính thống - được dùng cho việc học việc thi, nhằm “tiến vi quan đạt vi sư”, cho hoạt động quản trị của quan chức, cho trước thư lập ngôn của sĩ phu; song song với thứ chữ vốn là ngoại nhập ấy, một dòng văn học bằng tiếng Việt viết bằng chữ Nôm, cũng phát triển mạnh mẽ.
Lợi thế ghi tiếng Việt của thứ chữ La-tinh hóa chưa có dịp để tự chứng tỏ; cũng vậy, cái bất lợi bất cập của cách dựa chữ Hán để ghi tiếng Việt trong chữ Nôm cũng chưa bị đem ra thử thách.
Cho đến tận khi bàn chân thực dân Tây Âu đặt lên mảnh đất này
Như đã biết, sự bành trướng của các đế quốc Tây Âu ra khắp các vùng còn lại của thế giới là cả một thời đại của lịch sử nhân loại. Một quốc gia-dân tộc lãnh thổ tương đối nhỏ lại chậm phát triển như Việt Nam không thể không bị cuốn vào cơn lốc lịch sử ấy. Có điều là, ở thời hậu lai nhìn lại quá khứ, chúng ta nên thoát khỏi những định kiến do tâm lý kẻ bị trị gây ra ở các bậc tiền bối, để có thể nhận chân các nhân tố lịch sử.    
Tiếng súng của xâm lược Pháp nổ ra tại Cửa Hàn (Đà Nẵng) năm 1858, về một mặt nào đó, cũng là tín hiệu khai mào cho quá trình xã hội người Việt chia tay với quá khứ Trung Cổ Đông Á dài dằng dặc, một sự chia tay nửa như cưỡng bức nửa như tự nguyện, diễn ra chậm chạp, nhọc nhằn, nhiều khúc quanh co, nhiều sự lầm lạc, ngộ nhận, nhiều cái mới thực sự được tiếp nhận rồi lại bị dỡ bỏ, nhiều cái cũ đã vứt bỏ rồi lại được dựng dậy, và, vẫn như trước kia, trong những chuyển đổi lớn của cộng đồng người Việt dường như bao giờ cũng có sự can dự của thế lực bên ngoài, nếu không phải là “thế lực cứng”, dưới dạng lực lượng con người, vũ khí vật chất cụ thể, thì cũng là các nhân tố tư tưởng, văn hóa, - những “thế lực mềm”, theo cách nói của thời chúng ta. Phương án ký âm La-tinh đối với tiếng nói, hay những tư tưởng về dân quyền, nhân quyền, tư tưởng về kinh tế thị trường, về nhà nước cộng hòa, v.v… kể cả chủ nghĩa Mác (marxisme) mà có thời được khá đông người xem như thiên kinh địa nghĩa - thiết nghĩ, tất cả đều là những sản phẩm từ phương Tây can dự vào xã hội người Việt ở vùng Đông Nam châu Á này.
Năm 1867, Nam Kỳ bị đặt dưới sự cai trị trực tiếp của chính quyền thực dân Pháp; ngày 22/2/1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định bắt buộc dùng chữ Quốc Ngữ thay thế chữ Hán trong các công văn. Ngày 1/1/1879 có lệnh đòi các văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc Ngữ; cũng trong năm đó chính quyền Pháp đưa chữ Quốc Ngữ vào ngành giáo dục, ở các thôn xã Nam Kỳ bắt đầu phải mở trường dạy thứ chữ này. Trong lúc đó ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ vẫn duy trì nền học và thi cử chữ Hán; tuy nhiên, tình trạng đó không thể kéo dài. Năm 1906 chính quyền ở Bắc Kỳ lập Hội đồng cải cách học vụ, sửa lại chương trình và bắt đầu đưa chữ Quốc Ngữ làm một môn phụ; năm 1908 triều đình Huế lập bộ Học để sửa đổi việc học và cũng đưa chữ Quốc Ngữ thêm vào chương trình học và thi. Tiếp đó, khoa cử Hán học bị bãi bỏ năm 1915 ở Bắc Kỳ, năm 1919 ở Trung Kỳ, nền học Pháp-Việt trở nên thông dụng khắp cả nước.
Như vậy, về mặt sự kiện, chữ Quốc Ngữ giành được vị trí văn tự chính thức trên lãnh thổ Việt Nam là do quyết định của chính quyền thực dân Pháp. Đây là kết quả chính sách ngôn ngữ của họ. Các nhà cai trị thực dân ban đầu muốn áp đặt tiếng Pháp cho dân bản xứ, nhưng đó là một ý đồ bất cập; họ đã chuyển sang phương án dùng chữ Quốc Ngữ, tồn tại song song với việc sử dụng tiếng Pháp và chữ Hán. Trên một loại giấy tờ dân sự, ví dụ giấy khai sinh, sử dụng cho đến tháng 9/1945, người ta thấy sự có mặt đồng thời của cả ba thứ văn tự Pháp Việt Hán.  
Bên cạnh nhân tố mệnh lệnh hành chính kể trên, còn có một loạt nhân tố khác khiến chữ Quốc Ngữ ngày càng được phổ cập, ấy là sự xuất hiện và phát triển của báo chí và xuất bản, sự du nhập nghề in hoạt bản, du nhập điện thoại, điện báo… Nói rộng ra, trong việc xây dựng và phát triển trên lãnh thổ Việt Nam  các cơ sở hạ tầng kỹ thuật thì chữ Quốc Ngữ càng chứng tỏ sự thuận tiện và phù hợp với cộng đồng người Việt.
Trong các thời kỳ thịnh hành chữ Hán và văn Nôm, ở xã hội Việt Nam chỉ có nghề in sách thủ công với kỹ thuật khắc ván; chưa có hoạt động báo chí; công văn của nhà vua và các quan được vận chuyển theo những trạm dịch do Ty bưu chính các tỉnh điều khiển. Với sự cai trị của người Pháp, kỹ thuật in với máy in kiểu Tây và chữ in bằng kim loại đúc rời bắt đầu được nhập vào Việt Nam, tạo cơ sở công nghệ mới cho nghề in sách in và in báo; hoạt động bưu điện được tổ chức mới theo kiểu phương Tây, đầu tiên là ở Sài Gòn: ngày 27/3/1862 khánh thành con đường dây thép đầu tiên nối Sài Gòn với Biên Hòa; hệ thống đường dây thép nối liền Sài Gòn-Hà Nội, dài 2000 km, qua Quy Nhơn, Đà Nẵng, Huế và Vinh, khởi sự năm 1884, hoàn thành năm 1888; nhà Bưu điện chính Sài Gòn khánh thành hệ thống điện thoại vào ngày 1/7/1894; và đường hàng không Sài Gòn - Paris được lập vào đầu năm 1929; đường sắt xuyên Đông Dương (nối Sài Gòn - Hà Nội, dài 1729 km) khánh thành ngày 2/10/1936;…
Tờ báo đầu tiên xuất hiện ở Nam Kỳ (và Việt Nam) là tờ báo chữ Pháp “Le Bulletin officiel de l’ Expédition de la Cochinchine” (= Nam Kỳ Viễn chinh Công báo) của Đô đốc Bonnard, ra số đầu tiên ngày 29/9/1861; tờ thứ hai “Le Bulletin des communes” (= Xã thôn công báo) in bằng chữ Hán (nhằm thông tin đến người dân những quyết định của chính quyền mới); tờ thứ ba cũng là chữ Pháp “Le courrier de Saigon” (= Sài Gòn thư tín); nhưng được đánh giá cao, coi như một dấu mốc lịch sử, là tờ báo chữ Việt đầu tiên, “Gia Định báo”, ra số 1 vào ngày 15/4/1865. Ở Bắc Kỳ, báo chí xuất hiện muộn hơn khoảng 20 năm; tại đây nơi chữ Hán ngự trị nhiều thế kỷ, đã ra mắt tờ báo chữ Hán đầu tiên (tờ “Bảo hộ Nam dân”, ra tại Hải Phòng - Hải Dương, số 1 ngày 8/7/1888; sau đó là “Đại Nam đồng văn nhật báo”, ra tại Hà Nội, 1892, tồn tại đến 1907); nhưng quan trong nhất vẫn là báo chí Quốc Ngữ, ở Bắc Kỳ, từ “Đăng cổ tùng báo” (1907-?), “Đông Dương tạp chí” (1913-18), “Trung Bắc tân văn” (1913-41), v.v…
Như ông Nguyễn Lân Bình đã trình bày, người Việt Nam có công lớn nhất đối với việc xây dựng nền báo chí Quốc Ngữ ở miền Bắc chính là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936).
Đáp ứng sự du nhập điện thoại, điện báo, chữ Quốc Ngữ càng tỏ rõ sự tiện dụng của nó; ở lĩnh vực này thật khó hình dung nếu người Việt phải dùng chữ Hán hay chữ Nôm. Tuy nhiên, hệ thống dấu thanh vốn được xử lý khá ổn từ thế kỷ XVII-XVIII, tuy có gây ra đôi chút phức tạp đối với công nghệ in hoạt bản từ thế kỷ XIX, đã thật sự là trở ngại cho công nghệ điện báo thế kỷ XIX-XX. Về mặt này, giải pháp Télétype để gõ tiếng Việt do Nguyễn Văn Vĩnh đề xuất đã thực sự là giải pháp có ý nghĩa lâu dài, chẳng những cho điện tín, mà còn được áp dụng trong máy đánh chữ trước kia cũng như bảng gõ chữ Việt trên máy điện toán ngày nay.
Đứng trước chủ trương phổ cập chữ Quốc Ngữ của chính quyền thực dân, thái độ của một bộ phận đông đảo dân cư Việt Nam do giới nho sĩ đại diện - là chống đối, cự tuyệt; thái độ này của một bộ phận cư dân Nam Kỳ cũng được tiếp tục trong bộ phận nho sĩ Bắc Kỳ, cho tới tận thập niên đầu thế kỷ XX. Tuy vậy, dần dà, chính bộ phận tai mắt này của dân chúng đã thay đổi thái độ, do nhận ra lợi ích của chữ Quốc Ngữ, đối với họ, trước hết trong việc tuyên truyền vận động dân chúng chống lại thế lực ngoại xâm. Trường Đông Kinh nghĩa thục (1907) ở Hà Nội biểu thị xu hướng này. Giới cai trị thực dân nhận ra điều đó, đã thẳng tay đàn áp. Vậy là, tuy hành động cùng một hướng phổ cập chữ Quốc Ngữ, thế lực ngoại xâm và những người yêu nước lại xung đột nhau, chủ yếu là ở ý nghĩa mà mỗi phía ngụ vào công việc ấy. Trên thực tế, lợi khí chữ Quốc Ngữ vẫn được mỗi phía khai thác đến cùng theo ý đồ của mình.
Nhà trường Pháp-Việt cung cấp cho xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX một vài thế hệ tác gia của một nền văn học kiểu mới, viết bằng tiếng mẹ đẻ, gần gũi các nền văn học của thế giới hiện đại (mà cơ cấu thể loại hàng đầu gồm tiểu thuyết, kịch nói, thơ mới, phê bình); ở mức thấp hơn, cung cấp cho sinh hoạt xã hội Việt Nam một lực lượng viên chức đảm bảo quản lý mọi mặt cuộc sống; ở mức cao và với số lượng ít hơn hẳn, cung cấp cho xã hội Việt Nam thế kỷ XX những nhân tài sẽ tiếp tục tự đào luyện và được đào tạo thành những nhà khoa học có trình độ tương đương với giới đồng nghiệp đương thời.  
Sau ngày ra đời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (02/ 9/ 1945), chữ Quốc Ngữ được dùng như văn tự chính thống của Việt Nam cả trong hoạt động của nhà nước lẫn trong mọi sinh hoạt dân sự; đây là sự thừa kế những kết quả tiến triển lịch sử về mặt ngôn ngữ văn tự mà ngoài nó thật ra khó có giải pháp khác. Ngày nay, số đông người Việt và hầu hết người nước ngoài biết đến Việt Nam thường biết thứ chữ Quốc Ngữ này dưới tên gọi chữ Việt, chữ của tiếng Việt.
Do vậy, như đã nói từ đầu, có thể xem chữ Quốc Ngữ là điểm đến của những nỗ lực, những quá trình tìm tòi nhằm xác lập chữ viết riêng cho cộng đồng người Việt với tư cách một dân tộc quốc gia (nation). Việc xác định một ngày kỷ niệm chữ Quốc ngữ như là Ngày Chữ Viết Quốc Gia, thiết tưởng, là một ý tưởng hay, cần được thực hiện.
11/02/2012
Lại Nguyên Ân
Theo http://www.bichkhe.org/

Blaise Pascal - "Cây sậy biết suy nghĩ"

Blaise Pascal - "Cây sậy biết suy  nghĩ"
Blaise Pascal là một "thần đồng khoa học". Năm 16 tuổi, ông đã đưa ra một định lý mới về hình chóp. Năm 19 tuổi, chế ra một máy cộng, tiền thân của chiếc máy tính sau này. Cùng với Pierre de Fermat, ông được coi là một trong những người sáng lập ra lý thuyết toán xác suất. Hiện có nhiều mệnh đề và biểu thức toán học mang tên Pascal... Tuy nhiên, ngoài các lĩnh vực trên, Pascal còn được ghi nhận như một nhà triết học lỗi lạc và một nhà văn kiệt xuất, là "ông tổ của chủ nghĩa hiện sinh"...
Tác phẩm "Những bức thư của Louis de Montalte" ông viết trong hai năm 1656-1657 được xem là áng văn tuyệt tác của văn chương Pháp. Không phải ngẫu nhiên mà Bergson, nhà triết học và nhà văn Pháp nổi tiếng, Giải thưởng Nobel văn học năm 1928 đã phải đưa ra một nhận xét: "Những máy đo lường của chúng ta quá ngắn để ước lượng được chiều sâu tư duy của Pascal".
Nhân dịp tổ chức UNESCO đang xúc tiến các hoạt động nhằm kỷ niệm 350 năm ngày mất của Blaise Pascal (1662- 2012), xin được cùng bạn đọc ôn lại một số mẩu chuyện thú vị liên quan đến cuộc đời của Pascal - tác giả câu nói trứ danh "Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ"...
1. Blaise Pascal sinh ngày 19 tháng 6 năm 1623 tại Clermont Ferrand, miền Auvergne nước Pháp. Khi Pascal chào đời, ông Etienne - cha của Pascal - đang giữ cương vị Chánh án tòa Hộ tại địa phương. Năm Pascal lên 3 tuổi, mẹ cậu từ trần, để lại 3 người con bấy giờ còn rất nhỏ. Tuy nhiên, ông Etienne vẫn quyết định ở vậy nuôi con và sự hy sinh của ông sau này đã được đền đáp xứng đáng.
Ngay từ nhỏ, Pascal đã thể hiện là một đứa trẻ có tư chất khác thường. Cậu hay hỏi người lớn những câu hỏi không dễ giải đáp. Bản thân ông Etienne, sau nhiều lần "bí mật" quan sát con trai cũng tin tưởng rằng con mình là một thiên tài. Ông quyết định dạy con theo cách thức riêng của mình.
Năm 1631, khi Pascal lên 8 tuổi, ông Etienne đã xin từ chức và đưa cả gia đình lên Paris để tiện cho việc nâng cao học vấn cho các con. Khởi đầu, ông Etienne buộc Pascal học tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp tới năm 12 tuổi. Vì đây là hai ngôn ngữ thuộc loại khó học nên để con trai có sự tập trung, ông Etienne đã cất giấu không cho con tiếp cận với các sách về khoa học nói chung và toán học nói riêng. Vậy mà một hôm, bước vào phòng con trai, ông bất ngờ trông thấy cậu con đang loay hoay dùng phấn chứng minh trên nền nhà một định luật của Euclide. Từ trước tới nay, nào ông Etienne có dạy cho con học toán bao giờ, huống hồ đây lại là một bài toán quá khó ngay cả với người lớn. Nghe con thuật lại cách chứng minh, người cha đã không kìm nén được sự vui sướng. Ở tuổi 12, Pascal đã chứng minh được rằng tổng số các góc trong một tam giác bằng hai góc vuông, đúng như Euclide đã từng phát biểu.
Từ đây, Pascal mới được cha cho phép đọc các cuốn khái luận của Euclide. Với trí thông minh trời phú, cậu bé đọc tới đâu hiểu tới đó. Chẳng bao lâu, với việc mầy mò tự học, Pascal đã trở thành một nhà toán học trẻ có hạng.
Năm 16 tuổi, Pascal công bố một công trình toán học: "Về thiết diện của đường coniques", trong đó cậu đã chứng minh một định lý nổi tiếng (sau này mang tên Pascal). Đó là định lý về lục giác thần kì. Pascal đã rút ra 400 hệ quả từ định lý này. Nhà toán học đồng thời là nhà triết học vĩ đại Descartes đã phải thốt lên: "Thật không thể tưởng tượng nổi một người ở tuổi thiếu niên lại có thể làm nên một công trình tầm cỡ như thế". Tác phẩm của Pascal đã khiến rất nhiều nhà toán học xuất sắc đương thời phải bái phục. Không ít người còn giục "tác giả nhí" cho in thành sách, song vì khiêm tốn, Pascal đã thoái thác. Chính vì lẽ đó mà tới nay, thiên hạ chỉ lưu giữ được hai cuốn sách đầu tay của bậc thiên tài này mà thôi. 
Trường học mang tên Blaise Pascal ở Đà Nẵng trước đây.
2. Như trên đã nói, mặc dù vợ mất sớm nhưng ông Etienne - cha của Pascal - vẫn quyết định ở vậy nuôi con. Sự hy sinh của ông đã được các con ghi nhận và được họ đền đáp bằng những tình cảm cụ thể.
Năm Pascal 17 tuổi, thấy cha - bấy giờ chuyển sang sống bằng nghề kế toán - quá vất vả với các phép tính, Pascal đã nảy ra ý định chế tạo một chiếc máy tính. Sau mấy năm lao động miệt mài, cậu đã chế tạo xong chiếc máy tính với đủ chức năng cộng, trừ, nhân, chia, tuy rằng chưa phải được nhanh cho lắm. Đây chính là tiền thân của chiếc máy tính hiện nay. Và để ghi dấu ấn của Pascal, hiện người ta đã lấy tên ông đặt cho một ngôn ngữ lập trình là ngôn ngữ Pascal.
Sinh thời, ông Etienne không phải là người mộ đạo. Tuy nhiên, khi ông qua đời vào năm 1651, cô em gái liền kề của Pascal là Jacqueline đã vào sống trong một tu viện tại Port Royal. Năm 1654, Pascal tới thăm em gái. Chuyến viếng thăm này đã khiến Pascal càng thêm "ghê tởm sự giả dối cực độ của người đời". Cũng năm đó, sau một lần thoát chết trong vụ tai nạn xe cộ, Pascal đã có nhiều chuyển hướng trong nhận thức. Ông bắt đầu quan tâm tới tôn giáo và thần học. Ông viết sách bình luận về tôn giáo, dùng trước tác của mình thuyết phục mọi người thấy cái cao cả của đạo Cơ Đốc. Các tác phẩm của ông trong thời kỳ này gồm "Những bức thư của Louis de Montalte" viết cho một người bạn ở tỉnh nhỏ (1656 - 1657) -  được coi là một áng văn kinh điển; tác phẩm "Suy nghĩ" (xuất bản năm 1669, sau khi tác giả qua đời) - được xem là một tác phẩm triết học và văn chương bậc thầy.
Những việc làm của Pascal ít nhiều đều bị ảnh hưởng bởi những vụ việc liên quan tới người thân. Những năm cuối đời, sau khi một người cháu của Pascal thoát chết nhờ một sự may mắn thần diệu, Pascal chuyên tâm đọc sách và tìm kiếm tư liệu viết nên cuốn "Biện hộ cho Thiên Chúa Giáo" (tức cuốn "Suy nghĩ" xuất bản sau này).
Về cuối đời, Pascal ngày càng sa vào lối sống khổ hạnh. Tháng 6 năm 1662, ông đem tặng căn hộ mình đang ở cho một gia đình nghèo mắc bệnh đậu mùa và dọn đến ở với người chị gái tên gọi Gilberte. Tại đây, Pascal đã bị bệnh tật hành hạ suốt hai tháng trời và ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 19 tháng 8 năm đó, hưởng thọ 39 tuổi.
3. Là một nhà triết học, Pascal rất nổi tiếng với định nghĩa "Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ". Tương truyền, định nghĩa này có xuất xứ như sau: Một lần, có người bạn đã khẩn khoản khuyên nhủ ông từ bỏ khoa học để đi vào tôn giáo, với lý do: "Con người chỉ là một cây sậy yếu ớt trước tạo hóa vô biên. Làm sao anh có thể đương đầu nổi với giông tố cuộc đời". Pascal đã tự tin trả lời: "Đúng, con người chỉ là một cây sậy mềm yếu, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ. Vì thế, nó không bao giờ chịu cho giông tố dập vùi…".
Tuy rất nổi tiếng với các phát kiến trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, song Pascal cũng lại là người có những nhận xét, phân định rất được các nhà nghiên cứu khoa học xã hội "tâm phục khẩu phục". Chẳng hạn như việc ông phân biệt ở con người "hai loại đầu óc khác nhau". Một loại "đầu óc hình học" - nặng về lý tính; và một loại "óc tế nhị" - nặng về trực giác, tình cảm. 
Ngay các sách khoa học của Pascal cũng thấm đẫm vẻ đẹp văn chương. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận - một nhà khoa học Mỹ gốc Việt nổi tiếng trong lĩnh vực vật lý thiên văn từng tâm sự rằng, hồi nhỏ, ông học trường Pháp ở Sài Gòn và rất thích đọc sách của các nhà triết học, nhà văn, nhà thơ Pháp như Pascal, Descartes. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho rằng: "Để cho người đọc thích đọc sách khoa học và khiến họ không thể rời bỏ nó như khi đọc một cuốn tiểu thuyết hay thì khi viết, ngoài tính khoa học, tôi luôn để ý đến cách diễn đạt văn chương nữa".
Qua nhận xét ấy - nhận xét của một nhà khoa học có thể đọc thẳng tác phẩm từ nguyên bản tiếng Pháp - ta có thể thấy sức hấp dẫn của văn phong Pascal mạnh mẽ đến nhường nào. Nhân đây, cũng xin nhắc lại với bạn đọc rằng, trong các danh ngôn vẫn thường được nhắc đi nhắc lại, được in trong nhiều cuốn lịch, trong nhiều cuốn sổ tay, có không ít câu là của nhà toán học kiêm nhà triết học, nhà văn Pascal. Ví như câu danh ngôn này: "Con tim có những lý lẽ mà nhiều khi lý trí không thể hiểu nổi". Một câu danh ngôn rất nổi tiếng phải không các bạn? Không chỉ có vậy, Pascal chính là tác giả của lời bình luận trứ danh về cái mũi của Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra: "Nếu cái mũi của Cleopatra dài thêm một chút thì cục diện thế giới sẽ thay đổi".
Đây không phải là cách nói của nhà toán học, mà là cách nói của một nhà văn.
 Uy Viễn
Theo http://www.bichkhe.org/

Chiêm ngưỡng những tác phẩm từ cây, lá

Chiêm ngưỡng những tác phẩm từ cây, lá
Tới thăm triển lãm Mosaiculture, du khách được mãn nhãn với những tác phẩm từ cây cảnh. 
Được đánh giá là lễ hội uy tín nhất thế giới để tôn vinh nghệ thuật làm vườn, triển lãm Mosaiculture 2013 vừa khai mạc tuần qua tại vườn bách thảo Montreal, Quebec, Canada.

Hơn 3 triệu bông hoa tươi tắn đã được trồng trong các nhà kính trên khắp vùng đất Quebec và được đưa tới vườn bách thảo vào tháng 5. Từ thời điểm này, các bậc thày về nghệ thuật làm vườn mới dùng các khung thép để uốn hoa và tỉa cành, biến chúng thành các tác phẩm nghệ thuật sống động.

Các tượng điêu khắc từ cây cỏ này được tạo ra nhờ các khung thép hoặc nhôm, đổ đầy đất bên trong để nuôi sống các loài hoa, cỏ và giữ cho màu sắc của chúng luôn tươi tắn. Một hệ thống tưới nước ngầm đã được lắp đặt để các bông hoa có thể tươi được qua mua hè, tới tận ngày kết thúc triển lãm vào 29.9.

Trên chiều dài 2,2 km của triển lãm, khoảng hơn 50 tác phẩm nghệ thuật độc đáo đã được tạo dựng. Chủ đề của năm nay là “Miền đất hy vọng”. Hơn 200 nghệ nhân làm vườn tài năng nhất thế giới, đến từ 20 quốc gia đã được mời về tham gia triển lãm.

Các tác phẩm điêu khắc được thực hiện từ hơn 22.000 giống cây cảnh và được bố trí trong 30 vườn ngoài trời và 10 nhà kính trồng hoa trong khuôn viên vườn bách thảo.

Mosaiculture là một ý tưởng về làm vườn, ra đời ở Montreal từ năm 2000 và cứ ba năm lại được tổ chức một lần tại một thành phố khác. Ba năm trước, lễ hội được tổ chức ở Thượng Hải và đến năm nay lại được tổ chức rầm rộ ở chính quê hương Montreal.


Nguồn: Tri thức thời đại
Theo http://www.bichkhe.org/


  Gió mùa – Tạp bút Phương Uyên 25 Tháng Mười Một, 2023 Một mình lang thang chiều cuối thu. Cơn gió đầu mùa đã về mang theo những không ...