LÝ THƯỜNG KIỆT
NAM QUỐC SƠN HÀ
1. Bài cảm xúc 1
"Kẻ sĩ phương Nam ai đâu hở?
Trực chỉ theo ta phận má đào
Biển Đông ngày hội non sông mở" [*]
Cùng giữ giang sơn hỡi đồng bào
1.
Kẻ sĩ phương Nam ở nơi nào?
Rượu bia bóng đá luận anh hào!
Khóc la mê đắm ca sĩ lạ!
Quên mất cha ông đổ máu đào!
Kẻ sĩ phương Nam ở nơi nào?
Tào lao ngất ngưởng hút thuốc lào!
Biệt phủ bồ đào quên nhiễu sự
Đâu biết ngư dân khổ thế nào!
2.
Kẻ sĩ phương Nam vẫn thét gào
Chỉ vào giặc Bắc nước của tao
Nghịch ý trời phân, bây dám phạm
Toi đời, tiêu mạng với dân tao
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" [**]
Chú thích:
[*] Thơ Phạm Thanh Vân
[**] Nam quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt
"Kẻ sĩ phương Nam ai đâu hở?
Trực chỉ theo ta phận má đào
Biển Đông ngày hội non sông mở" [*]
Cùng giữ giang sơn hỡi đồng bào
1.
Kẻ sĩ phương Nam ở nơi nào?
Rượu bia bóng đá luận anh hào!
Khóc la mê đắm ca sĩ lạ!
Quên mất cha ông đổ máu đào!
Kẻ sĩ phương Nam ở nơi nào?
Tào lao ngất ngưởng hút thuốc lào!
Biệt phủ bồ đào quên nhiễu sự
Đâu biết ngư dân khổ thế nào!
2.
Kẻ sĩ phương Nam vẫn thét gào
Chỉ vào giặc Bắc nước của tao
Nghịch ý trời phân, bây dám phạm
Toi đời, tiêu mạng với dân tao
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" [**]
Chú thích:
[*] Thơ Phạm Thanh Vân
[**] Nam quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt
2. Bài cảm xúc 2
Khóc đợi bao năm mà trời chưa sáng!
Mù bấy nhiêu năm chưa thấy bình minh!
Buồn lòng thay thảm cảnh quê mình
Ai thục nữ anh hùng? Hãy cùng dựng xây đất nước!
Đừng ngồi đó gục đầu sướt mướt
Hãy xăn tay bồi đắp sơn hà
Hãy nhớ ơn xương máu ông cha
Quyểt giữ vẹn cơ đồ tiên tổ?
Khóc đợi bao năm mà trời chưa sáng!
Mù bấy nhiêu năm chưa thấy bình minh!
Buồn lòng thay thảm cảnh quê mình
Ai thục nữ anh hùng? Hãy cùng dựng xây đất nước!
Đừng ngồi đó gục đầu sướt mướt
Hãy xăn tay bồi đắp sơn hà
Hãy nhớ ơn xương máu ông cha
Quyểt giữ vẹn cơ đồ tiên tổ?
LÝ THƯỜNG KIỆT
1. Tiểu sử:
Lý Thường Kiệt (1019 - 1105) là một nhà quân sự, nhà chính trị rất nổi tiếng vào thời nhà Lý nước Đại Việt. Ông làm quan qua ba triều Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và đạt được nhiều thành tựu to lớn, khiến ông trở thành một trong hai danh tướng vĩ đại nhất nhà Lý:
Ông nổi bật với việc chinh phạt Chiêm Thành (1069), đánh phá 3 châu Khâm, Ung, Liêm nước Tống (1075-1076), rồi đánh bại cuộc xâm lược Đại Việt của quân Tống do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy (1077). Ông đã làm tể tướng hai lần dưới thời Lý Nhân Tông và là một trong 3 người phụ chính khi vua này còn nhỏ tuổi. Năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch liệt ông vào trong những 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.
2. Bài hịch/ thơ Nam Quốc Sơn Hà
Năm 1076, (tức đời Tống Hy Ninh năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, nhà Tống sai viên tướng sừng sỏ Quách Quỳ đem quân sang xâm lấn nước ta; hợp với quân Chiêm Thành và Chân Lạp ba mặt giáp công.
Tại sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt dùng một diệu kế: Ông kỷ lưỡng chọn một ngôi miếu vốn nổi tiếng linh thiêng, “đền thờ thần sông ” nằm ở phía nam sông Như Nguyệt - đền thờ hai vị anh hùng Trương Hát và Trương Hống, vốn là hai võ tướng dưới thời Triệu Quang Phục - đọc bài Hịch/ thơ "Nam Quốc Sơn Hà" - bài thơ đã được xem là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước. Hơn một ngàn năm trôi qua bài thơ vẫn còn và sẽ còn tồn tại mãi, không bao giờ đi vào quên lãng trong hồn người Việt.
Thật là một diệu kế của một danh tướng. Trong thế trận tưởng đã nghiêng về phía quân Tống, bổng đảo chiều khi binh sĩ nghe bài thơ phát ra từ miếu thần.
”Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền của Trương tướng quân là thần sông Như nguyệt, có tiếng đọc to rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Dịch thơ:
(Núi sông nước Nam thì vua Nam ở
Cương giới đã ghi rành rành ở trong sách trời
Cớ sao lũ giặc bạo ngược kia dám tới xâm phạm?
Chúng bay hãy chờ xem, thế nào cũng chuốc lấy bại vong
Nam quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt)
Khí thế quân Nam trở nên bừng bừng như có thần nhân hổ trợ, Tống quân bị tổn thất nặng nề. Quân Tống tiến thoái lưỡng nan từ dạo ấy. Lý Thường Kiệt đề nghị giảng hòa nhằm giảm sự khổ đau cho nhân dân. Quách Quỳ thấy kéo dài là sẽ thua nên thuận lui binh.” [Theo Laiquangnam và Wikipedia]
Nhân đọc lại dòng thơ cổ yêu nước, tôi đốt 3 nén hương trầm để tưởng nhớ đến người xưa, đến công ơn của tiền nhân đã đổ ra biết bao xương máu để xây dựng và bảo vệ nước nhà.
1. Tiểu sử:
Lý Thường Kiệt (1019 - 1105) là một nhà quân sự, nhà chính trị rất nổi tiếng vào thời nhà Lý nước Đại Việt. Ông làm quan qua ba triều Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và đạt được nhiều thành tựu to lớn, khiến ông trở thành một trong hai danh tướng vĩ đại nhất nhà Lý:
Ông nổi bật với việc chinh phạt Chiêm Thành (1069), đánh phá 3 châu Khâm, Ung, Liêm nước Tống (1075-1076), rồi đánh bại cuộc xâm lược Đại Việt của quân Tống do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy (1077). Ông đã làm tể tướng hai lần dưới thời Lý Nhân Tông và là một trong 3 người phụ chính khi vua này còn nhỏ tuổi. Năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch liệt ông vào trong những 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.
2. Bài hịch/ thơ Nam Quốc Sơn Hà
Năm 1076, (tức đời Tống Hy Ninh năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, nhà Tống sai viên tướng sừng sỏ Quách Quỳ đem quân sang xâm lấn nước ta; hợp với quân Chiêm Thành và Chân Lạp ba mặt giáp công.
Tại sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt dùng một diệu kế: Ông kỷ lưỡng chọn một ngôi miếu vốn nổi tiếng linh thiêng, “đền thờ thần sông ” nằm ở phía nam sông Như Nguyệt - đền thờ hai vị anh hùng Trương Hát và Trương Hống, vốn là hai võ tướng dưới thời Triệu Quang Phục - đọc bài Hịch/ thơ "Nam Quốc Sơn Hà" - bài thơ đã được xem là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước. Hơn một ngàn năm trôi qua bài thơ vẫn còn và sẽ còn tồn tại mãi, không bao giờ đi vào quên lãng trong hồn người Việt.
Thật là một diệu kế của một danh tướng. Trong thế trận tưởng đã nghiêng về phía quân Tống, bổng đảo chiều khi binh sĩ nghe bài thơ phát ra từ miếu thần.
”Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền của Trương tướng quân là thần sông Như nguyệt, có tiếng đọc to rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Dịch thơ:
(Núi sông nước Nam thì vua Nam ở
Cương giới đã ghi rành rành ở trong sách trời
Cớ sao lũ giặc bạo ngược kia dám tới xâm phạm?
Chúng bay hãy chờ xem, thế nào cũng chuốc lấy bại vong
Nam quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt)
Khí thế quân Nam trở nên bừng bừng như có thần nhân hổ trợ, Tống quân bị tổn thất nặng nề. Quân Tống tiến thoái lưỡng nan từ dạo ấy. Lý Thường Kiệt đề nghị giảng hòa nhằm giảm sự khổ đau cho nhân dân. Quách Quỳ thấy kéo dài là sẽ thua nên thuận lui binh.” [Theo Laiquangnam và Wikipedia]
Nhân đọc lại dòng thơ cổ yêu nước, tôi đốt 3 nén hương trầm để tưởng nhớ đến người xưa, đến công ơn của tiền nhân đã đổ ra biết bao xương máu để xây dựng và bảo vệ nước nhà.
ĐẶNG DUNG
CẢM HOÀI
1. Bài cảm xúc 1
Phí chi bút mực anh hùng luận?
Ai người nước Việt hãy cùng ta
Nói chi cho lắm mòn chữ nghĩa?
Xăn áo cùng nhau giữ sơn hà!
"Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma" *
"Đầu bạc giang san thù chưa trả" **
Mấy độ mài gươm dưới trăng tà
Ngàn năm vẫn nhớ lời thơ cổ
Rạng đấng hùng anh của nước nhà
Hoài Cảm Đặng Dung lời thê thiết
Nén trầm tôi kính... mắt lệ nhòa!
Chú thích:
* Câu thơ trong bài Cảm hoài - Đặng Dung
** Tản Đà dịch
Ai người nước Việt hãy cùng ta
Nói chi cho lắm mòn chữ nghĩa?
Xăn áo cùng nhau giữ sơn hà!
"Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma" *
"Đầu bạc giang san thù chưa trả" **
Mấy độ mài gươm dưới trăng tà
Ngàn năm vẫn nhớ lời thơ cổ
Rạng đấng hùng anh của nước nhà
Hoài Cảm Đặng Dung lời thê thiết
Nén trầm tôi kính... mắt lệ nhòa!
Chú thích:
* Câu thơ trong bài Cảm hoài - Đặng Dung
** Tản Đà dịch
2. Bài cảm xúc 2
"Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma"
Dưới trăng mài kiếm Long Tuyền
Mài luôn cho bén lời nguyền nước non
Thề rằng quyết giữ vẹn toàn
Giang sơn gấm vóc mãi còn thiên thu
"Tiệt nhiên định phận thiên thư" +
Kiếm này ta chém giặc thù xâm lăng!
Chú thích:
+ Nam Quốc Sơn Hà - Lý Thường Kiệt
"Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma"
Dưới trăng mài kiếm Long Tuyền
Mài luôn cho bén lời nguyền nước non
Thề rằng quyết giữ vẹn toàn
Giang sơn gấm vóc mãi còn thiên thu
"Tiệt nhiên định phận thiên thư" +
Kiếm này ta chém giặc thù xâm lăng!
Chú thích:
+ Nam Quốc Sơn Hà - Lý Thường Kiệt
PHÂN TÍCH HAI CHỮ ANH HÙNG
“Anh” trong “anh hùng" có nghĩa là tốt đẹp, tài hoa hơn người, kiệt xuất, xuất chúng. Nghĩa gốc của chữ “anh” là loài hoa đẹp nhất.
Còn “hùng” trong “anh hùng” có nghĩa là người dũng mãnh tài giỏi, siêu quần, kiệt xuất
Anh hùng: Nhân vật phi phàm xuất chúng, chỉ người có kiến giải, tài năng siêu quần xuất chúng.
“Anh” trong “anh hùng" có nghĩa là tốt đẹp, tài hoa hơn người, kiệt xuất, xuất chúng. Nghĩa gốc của chữ “anh” là loài hoa đẹp nhất.
Còn “hùng” trong “anh hùng” có nghĩa là người dũng mãnh tài giỏi, siêu quần, kiệt xuất
Anh hùng: Nhân vật phi phàm xuất chúng, chỉ người có kiến giải, tài năng siêu quần xuất chúng.
ĐỊNH NGHĨA ANH HÙNG
“Anh hùng là hành động của một người vì đại cuộc không xem sự sống chết của mình là quan trọng tuyệt đối, sống vì tha nhân, hy sinh vì dân tộc, cho dù có phải chết thì vui lòng đón nhận. Khi bàn đến hai từ “anh hùng” thì ý niệm thành công không nằm trong thuộc tính định nghĩa cho từ đó. Thử tra hai từ Heros trong các bộ Encyclopedia thì biết. Đông Tây đều định nghĩa như thế” (Laiquangnam)
“Anh hùng là hành động của một người vì đại cuộc không xem sự sống chết của mình là quan trọng tuyệt đối, sống vì tha nhân, hy sinh vì dân tộc, cho dù có phải chết thì vui lòng đón nhận. Khi bàn đến hai từ “anh hùng” thì ý niệm thành công không nằm trong thuộc tính định nghĩa cho từ đó. Thử tra hai từ Heros trong các bộ Encyclopedia thì biết. Đông Tây đều định nghĩa như thế” (Laiquangnam)
LUẬN ANH HÙNG
Ta thử luận về vài nhân vật nổi tiếng được cho là anh hùng:
1. Kinh Kha
- Nhân vật Kinh Kha này ai cũng biết qua việc hành thích Tần Thủy Hoàng. Nhân vật này thường được nhiều người Việt nhắc đến, ca tụng trong nhiều bài văn thơ. Suy gẫm chuyện Kinh Kha, tôi thấy ông ta đâu phải là người anh hùng.
Nguyễn Du đã chê bai: Kinh Kha đi thích khách Tần Thủy Hoàng chỉ vì có người biết đến mình và vì sự đối đãi thừa mứa. Kinh Kha chỉ là một con rối, hành động không vì tấm lòng trung dũng (diệt kẻ tàn bạo, phò người đức độ), đâu có hy sinh vì dân tộc, mà hành động chỉ vì sự mua chuộc và kích động của người khác.
Đây là trích đoạn bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, phần chê bai Kinh Kha.
Thần dũng nghị nhiên duy độc quân.
Đồ đắc Điền Quang khinh nhất vẫn.
Khả liên vô cô Phàn Ô Kỳ,
Dĩ đầu tá nhân vô hoàn thì.
Nhất triêu uổng sát tam liệt sĩ,
Hàm Dương thiên tử chung nguy nguy.
(Kinh Kha Cố Lý - Thơ chữ Hán Nguyễn Du)
Dịch thơ:
Liều thân chỉ vì kẻ biết mình,
Huống được Điền Quang tự đâm cổ.
Khá thương Phàn Kỳ chẳng tội chi.
Đem đầu cho mượn chẳng hoàn gì.
Một sớm chết oan ba liệt sĩ.
Hàm Dương, Thiên tử vẫn uy nghi.
(Nhất Uyên dịch)
Kinh Kha là nhân vật Tàu, người Tàu có ca tụng hay không là chuyện của họ; tại sao ta là người Việt mà lại ca tụng, vinh danh?!
- Anh hùng là như Đặng Dung của VIỆT NAM ta đây, ta hãy thử luận bàn về nhân vật này.
Ta thử luận về vài nhân vật nổi tiếng được cho là anh hùng:
1. Kinh Kha
- Nhân vật Kinh Kha này ai cũng biết qua việc hành thích Tần Thủy Hoàng. Nhân vật này thường được nhiều người Việt nhắc đến, ca tụng trong nhiều bài văn thơ. Suy gẫm chuyện Kinh Kha, tôi thấy ông ta đâu phải là người anh hùng.
Nguyễn Du đã chê bai: Kinh Kha đi thích khách Tần Thủy Hoàng chỉ vì có người biết đến mình và vì sự đối đãi thừa mứa. Kinh Kha chỉ là một con rối, hành động không vì tấm lòng trung dũng (diệt kẻ tàn bạo, phò người đức độ), đâu có hy sinh vì dân tộc, mà hành động chỉ vì sự mua chuộc và kích động của người khác.
Đây là trích đoạn bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, phần chê bai Kinh Kha.
Thần dũng nghị nhiên duy độc quân.
Đồ đắc Điền Quang khinh nhất vẫn.
Khả liên vô cô Phàn Ô Kỳ,
Dĩ đầu tá nhân vô hoàn thì.
Nhất triêu uổng sát tam liệt sĩ,
Hàm Dương thiên tử chung nguy nguy.
(Kinh Kha Cố Lý - Thơ chữ Hán Nguyễn Du)
Dịch thơ:
Liều thân chỉ vì kẻ biết mình,
Huống được Điền Quang tự đâm cổ.
Khá thương Phàn Kỳ chẳng tội chi.
Đem đầu cho mượn chẳng hoàn gì.
Một sớm chết oan ba liệt sĩ.
Hàm Dương, Thiên tử vẫn uy nghi.
(Nhất Uyên dịch)
Kinh Kha là nhân vật Tàu, người Tàu có ca tụng hay không là chuyện của họ; tại sao ta là người Việt mà lại ca tụng, vinh danh?!
- Anh hùng là như Đặng Dung của VIỆT NAM ta đây, ta hãy thử luận bàn về nhân vật này.
2. Đặng Dung
Đặng Dung (1373 - 1414) con trai của Đặng Tất. Ông là tướng lĩnh của vua Trùng Quang Trần Quý Khoáng - nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư:
Các vị anh hùng - dưới sự lãnh đạo của Đặng Dung đã đánh nhau ròng rã trên dưới bảy năm (1407-1413) với 80 vạn quân dân binh Minh do Trương Phụ đẫn đạo xâm lấn Việt Nam, một binh lực hơn hẳn mình nhiều lần.
Đặng Dung (1373 - 1414) con trai của Đặng Tất. Ông là tướng lĩnh của vua Trùng Quang Trần Quý Khoáng - nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư:
Các vị anh hùng - dưới sự lãnh đạo của Đặng Dung đã đánh nhau ròng rã trên dưới bảy năm (1407-1413) với 80 vạn quân dân binh Minh do Trương Phụ đẫn đạo xâm lấn Việt Nam, một binh lực hơn hẳn mình nhiều lần.
“Chuyện khó tin trong binh sử thế giới, trường hợp hy hữu này duy chỉ có trong
quân sử Đại Việt. Khi vị tướng tư lệnh lại là cầm đầu toán người nhái cảm tử rất
gọn nhẹ đánh thẳng vào sào huyệt kẻ tử thù. Tháng 8/1413, được biết quân Trương
Phụ vào đến Thuận Hóa, và kéo binh tập kết vào ngã ba sông này để tổ chức cuộc
săn đuổi vua quan Hậu Trần đang đóng quân ở trên bờ; quan thái phó Nguyễn Súy
và quan đại tư mã Đặng Dung nửa đêm chia quân đến đánh Trương Phụ. Quan thái
phó Nguyễn Súy dùng thuyền nhẹ đánh nghi binh, giặc Minh trào về phía Nguyễn
Suý, và thừa lúc đó Quan tư mã Đặng Dung lao mình xuống nước trước, hơn mươi
chiến sĩ cảm tử quân lao theo sau. Họ bơi nhanh về phía thuyền lớn nhất, sáng
nhất trên sông. Từ dấu hiệu của Đặng Dung, bọn họ leo lên được thuyền của
Trương Phụ, dùng đoản đao thịt lẹ các tên lính trên sàn. Họ nhào vào tên mập mạp
nhất, phương phi nhất và đã bắt sống tên này, lôi y xuống nước. Y la lên. Do vì
không biết thường ngày tên Trương Phụ mặc quần áo gì, do chưa thấy mặt kẻ thù lần
nào, nên họ đã bắt lầm. Thừa cơ Trương Phụ lập tức nhảy xuống sông lấy cái thuyền
con mà chạy thoát.”(Laiquangnam)
Đánh nhau ròng rã trên dưới bảy năm (1407-1413) với một binh lực hơn hẳn mình,
có lúc quân đội Đặng Dung cũng đã thắng nhiều trận lẫy lừng, nhưng dài hơi
thì cuộc đọ sức đã không cân sức. Than ôi! ông đã bại trận! Trên đường bị bắt
đưa về Yên Kinh ( Bắc Kinh ngày nay) để làm nhục, vua tôi Đặng Dung đã ca hát
như không có chuyện gì xảy ra, thắng bại là lẽ thường tình đối với người tráng
sĩ một khi họ đã toàn tâm toàn ý, hết lòng, hết sức vì dân tộc. Đặng Dung,
trong vai trò lãnh đạo cuộc kháng chiến, đã ngâm cho vua tôi nghe bài thơ Cảm
Hoài này, vừa ngâm vừa gõ nhịp xuống ván gỗ thuyền, cùng vui và sẵn sàng đón
nhận mọi sự trả thù tàn bạo của kẻ thù. Trên đường bị giải về Yên Kinh, Trung
Quốc ông và vua Trùng Quang đã nhảy xuống sông tự vẫn.
Qua các điều trên, rõ ràng ta thấy Đặng Dung mới xứng đáng hai chữ
anh hùng
3. Bài thơ Cảm Hoài
Đây là bài thơ Cảm Hoài (Nỗi niềm hoài bão) của Đặng Dung.
Bài thơ này là một bản anh hùng ca mang tâm trạng về thế sự, trong ấy thể hiện rõ phong cách của người tráng sĩ, người anh hùng trong cơn quốc nạn. Lý Tử Tấn, một học giả thời Lê, tác giả Chuyết Am văn tập, khi đọc bài thơ này đã hết lời ca tụng người sáng tác ra nó là “phi hào kiệt chi sĩ bất năng” (không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể sáng tác được như vậy).
Đây là bài thơ Cảm Hoài (Nỗi niềm hoài bão) của Đặng Dung.
Bài thơ này là một bản anh hùng ca mang tâm trạng về thế sự, trong ấy thể hiện rõ phong cách của người tráng sĩ, người anh hùng trong cơn quốc nạn. Lý Tử Tấn, một học giả thời Lê, tác giả Chuyết Am văn tập, khi đọc bài thơ này đã hết lời ca tụng người sáng tác ra nó là “phi hào kiệt chi sĩ bất năng” (không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể sáng tác được như vậy).
Cảm Hoài
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.
Tạm dịch nghĩa:
Nỗi Niềm Hoài Bảo
Thế sự mang mang lại tuổi già
Thiên hạ thì vô cùng hãy nhập vào mà hát hàm ca
Thời đến bọn đồ tể, bọn câu cá cũng thành công dễ dàng
Thời qua anh hùng cũng đành nuốt hận
Hết lòng vì chúa có hoài bão xoay trục đất
Rửa giáp binh không lối kéo ngược dòng sông ngân hà
Thù nước chưa báo thì đầu bạc trước
Bao thời qua đội trăng mà mài kiếm long tuyền.
Vua Lê Thánh Tôn có tặng cho dòng dõi họ Đặng hai câu thơ:
Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ
Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng
Nhân đọc lại dòng thơ cổ yêu nước, tôi đốt 3 nén hương trầm để tưởng nhớ đến người xưa, đến công ơn của tiền nhân đã đổ ra biết bao xương máu để xây dựng và bảo vệ nước nhà.
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.
Tạm dịch nghĩa:
Nỗi Niềm Hoài Bảo
Thế sự mang mang lại tuổi già
Thiên hạ thì vô cùng hãy nhập vào mà hát hàm ca
Thời đến bọn đồ tể, bọn câu cá cũng thành công dễ dàng
Thời qua anh hùng cũng đành nuốt hận
Hết lòng vì chúa có hoài bão xoay trục đất
Rửa giáp binh không lối kéo ngược dòng sông ngân hà
Thù nước chưa báo thì đầu bạc trước
Bao thời qua đội trăng mà mài kiếm long tuyền.
Vua Lê Thánh Tôn có tặng cho dòng dõi họ Đặng hai câu thơ:
Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ
Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng
Nhân đọc lại dòng thơ cổ yêu nước, tôi đốt 3 nén hương trầm để tưởng nhớ đến người xưa, đến công ơn của tiền nhân đã đổ ra biết bao xương máu để xây dựng và bảo vệ nước nhà.
NGUYỄN DU
THƠ TƯỞNG NIỆM NGUYỄN DU
Nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của Đại thi hào Tiên Điền Nguyễn
Du (1820-2020) tôi làm bài thơ tưởng niệm này:
TƯỞNG NIỆM NGUYỄN DU
"Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như" *
Nến trầm đêm đọc người xưa
"Thập loài văn tế" xót xa hồn này
Tiên Điền thơ cổ kinh thay
Rợn hồn từng chữ từng lời oan khiên
"Còn chi ai quí ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu
Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu" [1]
"Long thành cầm giả" khúc đau
Ngậm ngùi thơ cổ bể dâu cuộc đời
Sắc hương đệ nhất một thời
Ðàn cầm thánh thoát giờ rồi tàn phai [2]
Trăm năm thoáng chốc thở dài
Bồi hồi chuyện cũ thương ai mà buồn
Động lòng khói sóng Tiền Đường [3]
Thương Kiều phận bạc "Đoạn trường tân thanh"
Hai trăm năm đấng tài danh
Bài thơ tưởng niệm con dâng tặng người
Đất nước tôi dân tộc tôi
Nguyễn Du hai chữ rạng ngời Việt Nam.
Chú thích: * Không biết hơn ba trăm năm sau/ Thiên hạ ai người khóc Tố Như? - Độc Tiểu Thanh ký - Nguyễn Du
[1] Câu thơ trong "Văn tế thập loại chúng sinh" - Nguyễn Du
[2] Quái để giai nhân nhan sắc suy/ Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng/ Khả liên đối diện bất tương tri - "Long thành cầm giả ca" - Nguyễn Du
[3] Thúy Kiều trầm mình trên sông Tiền Đường - Đoạn Trường Tân Thanh.
TƯỞNG NIỆM NGUYỄN DU
"Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như" *
Nến trầm đêm đọc người xưa
"Thập loài văn tế" xót xa hồn này
Tiên Điền thơ cổ kinh thay
Rợn hồn từng chữ từng lời oan khiên
"Còn chi ai quí ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu
Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu" [1]
"Long thành cầm giả" khúc đau
Ngậm ngùi thơ cổ bể dâu cuộc đời
Sắc hương đệ nhất một thời
Ðàn cầm thánh thoát giờ rồi tàn phai [2]
Trăm năm thoáng chốc thở dài
Bồi hồi chuyện cũ thương ai mà buồn
Động lòng khói sóng Tiền Đường [3]
Thương Kiều phận bạc "Đoạn trường tân thanh"
Hai trăm năm đấng tài danh
Bài thơ tưởng niệm con dâng tặng người
Đất nước tôi dân tộc tôi
Nguyễn Du hai chữ rạng ngời Việt Nam.
Chú thích: * Không biết hơn ba trăm năm sau/ Thiên hạ ai người khóc Tố Như? - Độc Tiểu Thanh ký - Nguyễn Du
[1] Câu thơ trong "Văn tế thập loại chúng sinh" - Nguyễn Du
[2] Quái để giai nhân nhan sắc suy/ Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng/ Khả liên đối diện bất tương tri - "Long thành cầm giả ca" - Nguyễn Du
[3] Thúy Kiều trầm mình trên sông Tiền Đường - Đoạn Trường Tân Thanh.
BÀI THƠ TƯỞNG NIỆM CỦA LÂM THANH SƠN
Sẵn đây, tôi xin giới thiệu đến các bạn thêm bài thơ tưởng niệm Nguyễn Du của bạn Lâm Thanh Sơn, ở Hà Nội - một trong những người thuộc nhóm Tình Tự Dân Tộc chúng tôi, nhóm quyết chí giải oan cho đại thi hào Nguyễn Du - cụ bị "ai đó" kết án "đạo văn" Kim Vân Kiều Truyện của Tàu, "bê nguyên xi" truyện này dịch ra văn vần: Đoạn Trường Tân Thanh - Truyện Kiều. [*]
Sẵn đây, tôi xin giới thiệu đến các bạn thêm bài thơ tưởng niệm Nguyễn Du của bạn Lâm Thanh Sơn, ở Hà Nội - một trong những người thuộc nhóm Tình Tự Dân Tộc chúng tôi, nhóm quyết chí giải oan cho đại thi hào Nguyễn Du - cụ bị "ai đó" kết án "đạo văn" Kim Vân Kiều Truyện của Tàu, "bê nguyên xi" truyện này dịch ra văn vần: Đoạn Trường Tân Thanh - Truyện Kiều. [*]
Đây là bài thơ tác giả Lâm Thanh Sơn gởi đến tôi:
NHỚ NGUYỄN DU
Kính Gởi Cụ Tiên Điền
(Nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của Đại thi hào Nguyễn Du 1820- 2020).
Lâm Thanh Sơn
Hai trăm năm đã trôi qua
Hoa tàn, trăng khuyết xót xa những chiều
Đâu Kim Trọng, đâu Thuý Kiều?
Ai làm tan những lời yêu đá vàng...
Giai nhân, tài tử bẽ bàng
Long thành nức nở tiếng đàn Cầm ca
Mấy triều đại ấy trôi qua
Ngai vàng, điện ngọc hoá ra bụi rồi
Chỉ còn lại bấy nhiêu lời
Giữa nhân gian với cuộc đời đảo điên
Nào ai vua sáng, tôi hiền
Triều sau, sóng trước triền miên cõi người
Anh hùng cũng đến thế thôi
Văn nhân, thi sĩ cũng đời bỏ đi
Bảng vàng, bia đá ra gì
Ngàn năm dầu dãi khắc ghi hận lòng
Lối người xưa phủ rêu phong
Một lời một vận vào vòng tai ương
Con nghe trong sóng Tiền Đường
Chiều nay ngào nghẹn đoạn trường tân thanh...!
NHỚ NGUYỄN DU
Kính Gởi Cụ Tiên Điền
(Nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của Đại thi hào Nguyễn Du 1820- 2020).
Lâm Thanh Sơn
Hai trăm năm đã trôi qua
Hoa tàn, trăng khuyết xót xa những chiều
Đâu Kim Trọng, đâu Thuý Kiều?
Ai làm tan những lời yêu đá vàng...
Giai nhân, tài tử bẽ bàng
Long thành nức nở tiếng đàn Cầm ca
Mấy triều đại ấy trôi qua
Ngai vàng, điện ngọc hoá ra bụi rồi
Chỉ còn lại bấy nhiêu lời
Giữa nhân gian với cuộc đời đảo điên
Nào ai vua sáng, tôi hiền
Triều sau, sóng trước triền miên cõi người
Anh hùng cũng đến thế thôi
Văn nhân, thi sĩ cũng đời bỏ đi
Bảng vàng, bia đá ra gì
Ngàn năm dầu dãi khắc ghi hận lòng
Lối người xưa phủ rêu phong
Một lời một vận vào vòng tai ương
Con nghe trong sóng Tiền Đường
Chiều nay ngào nghẹn đoạn trường tân thanh...!
LỜI KẾT
"Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn"
(Phạm Quỳnh)
Bài diễn thuyết về Truyện Kiều này được Phạm Quỳnh đọc nhân lễ kỷ niệm ngày giỗ Nguyễn Du vào ngày 8 tháng 12 năm 1924, tức ngày mồng 10 tháng 8 năm Giáp Tý do Hội Khai trí tiến đức của ông tổ chức.
Nhân đọc lại dòng thơ cổ làm rạng danh nước Việt, tôi đốt 3 nén hương trầm để tưởng nhớ đến người xưa, đến công ơn của tiền nhân: Đại thi hào Nguyễn Du, người đã đóng góp biết bao công sức cho nền văn học nước nhà.
Chú thích:
[*] Đổng Văn Thành - China cho rằng: “Nguyễn Du chẳng những chỉ mượn đề tài của tiểu thuyết Trung Quốc mà dường như bê nguyên xi […]. Nguyễn Du không có bất kỳ một sáng tạo mới nào, chỉ chuyển thuật khá trung thực nội dung tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân...” [ “Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng” GS. Đổng Văn Thành - Theo Phạm Tú Châu “So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam”].
"Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn"
(Phạm Quỳnh)
Bài diễn thuyết về Truyện Kiều này được Phạm Quỳnh đọc nhân lễ kỷ niệm ngày giỗ Nguyễn Du vào ngày 8 tháng 12 năm 1924, tức ngày mồng 10 tháng 8 năm Giáp Tý do Hội Khai trí tiến đức của ông tổ chức.
Nhân đọc lại dòng thơ cổ làm rạng danh nước Việt, tôi đốt 3 nén hương trầm để tưởng nhớ đến người xưa, đến công ơn của tiền nhân: Đại thi hào Nguyễn Du, người đã đóng góp biết bao công sức cho nền văn học nước nhà.
Chú thích:
[*] Đổng Văn Thành - China cho rằng: “Nguyễn Du chẳng những chỉ mượn đề tài của tiểu thuyết Trung Quốc mà dường như bê nguyên xi […]. Nguyễn Du không có bất kỳ một sáng tạo mới nào, chỉ chuyển thuật khá trung thực nội dung tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân...” [ “Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng” GS. Đổng Văn Thành - Theo Phạm Tú Châu “So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam”].
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét