Kawabata Yasunari
Với tư cách nhà văn, ông truyền đạt
một sự am hiểu văn hóa, đạo đức - mỹ học bằng một nghệ thuật độc nhất vô nhị,
qua đó góp phần vào việc xây dựng cây cầu nối tinh thần giữa phương Đông với
phương Tây.
Kawabata Yasunari (11/6/1899 - 16/4/1972)
Giải Nobel văn học 1968
* Nhà văn Nhật Bản
* Nơi sinh: Osaka (Nhật Bản)
* Nơi mất: Kamakura (Nhật Bản)
Kawabata Yasunari
|
Kawabata Yasunari được trao giải vì những tác phẩm xuất sắc
trong đó kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống nghệ thuật Nhật Bản với các thủ pháp
cách tân hiện đại của Phương Tây để truyền tải bản chất của ý thức Nhật Bản.
Các tiểu thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô là những kiệt
tác tiêu biểu cho sáng tác của ông, lấy nỗi cô đơn của con người làm chủ đề
chính, được đánh giá rất cao ở trong và ngoài nước.
Kawabata Yasunari, theo âm Hán Việt là Xuyên Đoan Khang
Thành, sinh ra trong một gia đình học thức và giàu có. Cha ông là bác sĩ, nhưng
mất khi ông mới 2 tuổi. Một năm sau mẹ ông cũng qua đời, Kawabata phải sống với
ông bà. Sau khi ông bà mất, ông sống với họ hàng.
Năm 1920 Kawabata vào học ở khoa Văn học Anh của trường Đại học
Tổng hợp Tokyo, lên năm thứ hai ông chuyển sang nghiên cứu văn học Nhật Bản.
Ông ra tạp chí sinh viên và viết bài phê bình cho các báo Tokyo.
Sau tốt nghiệp đại học (1924) Kawabata trở thành một trong những
nhà sáng lập tạp chí văn học Văn nghệ thời đại (Bungei Jidai), đại biểu
cho trào lưu Cảm giác mới (Shinkankakuha) theo định hướng văn học và
văn hóa tiên phong Châu Âu, phủ nhận chủ nghĩa tự nhiên, cổ xúy cho những thử
nghiệm phong cách và đặt cảm xúc và cảm giác vào trung tâm chuyện kể.
Năm 1927 truyện ngắn Vũ nữ Izu là thành công văn
chương đầu tiên của Kawabata, kể về mối tình lãng mạn của một chàng sinh viên với
nàng vũ nữ trẻ - biểu tượng của cái đẹp trinh bạch, vô tội.
Mặc dù tự thừa nhận mình chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực
phương Tây, Kawabata vẫn lấy văn chương cổ điển Nhật Bản làm nền tảng. Từ những
năm 1930 sáng tác của Kawabata trở nên truyền thống hơn. Năm 1934 ông bắt đầu
viết Xứ tuyết (hoàn thành năm 1947) kể về mối tình vô vọng của một cô
geisha với một chàng trai thành phố. Qua tác phẩm này và tiểu thuyết xuất sắc Ngàn
cánh hạc (1949), Kawabata thể hiện nghệ thuật bậc thầy trong miêu tả tâm
lí phụ nữ. Bằng văn phong đặc biệt xúc cảm với những miêu tả trữ tình về cuộc sống
thiên nhiên và số phận con người u ẩn nỗi buồn tinh tế, nhà văn gợi nên sự
thoáng chốc và ngắn ngủi của cuộc đời.
Những năm Thế chiến II nhà văn cố gắng không quan tâm đến các
vấn đề chính trị, dành nhiều thời gian đi du lịch và nghiên cứu. Các tác phẩm
quan trọng thời kỳ sau chiến tranh Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền
của núi (1954) và Cố đô (1962) đã tôn vinh Kawabata như một nhà
văn lớn của Nhật Bản thời hiện đại.
Năm 1948 đến 1965 Kawabata giữ chức vụ chủ tịch Hội Văn bút
Nhật Bản, sau năm 1959 ông là phó chủ tịch Hội Văn bút Quốc tế.
Năm 1953 Kawabata trở thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật Nhật
Bản. Năm 1959 ông được tặng Huân chương mang tên Goethe tại Frankfurt.
Năm 1968 Kawabata là nhà văn Nhật Bản đầu tiên nhận giải
Nobel Văn học vì "với tư cách nhà văn, ông đã truyền đạt một nhận thức văn
hóa có tính thẩm mĩ và đạo đức cao bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, do
đó đóng góp vào cầu nối tinh thần Đông - Tây theo cách của ông" (Giới thiệu
giải Nobel Văn học năm 1968 của Viện Hàn lâm Thụy Điển).
Bốn năm sau, nhà văn 72 tuổi tự sát bằng khí gas tại nhà
riêng. Đây là một điều bất ngờ và trớ trêu của số phận, bởi vì Kawabata luôn
phê phán việc tự sát. Do Kawabata không để lại thư tuyệt mệnh nên người ta
không biết động cơ thực sự trong cái chết của ông.
Trong số tác phẩm Kawabata để lại, ngoài tiểu thuyết, truyện
ngắn, còn có nhiều "truyện ngắn trong lòng bàn tay”.
Kawabata là một trong những nhà văn Nhật Bản được dịch nhiều
nhất ở Việt Nam; có những tác phẩm của ông có đến vài bản dịch.
* Tác phẩm:
- Lễ chiêu hồn (Shokogai ikai, 1920), truyện ngắn.
- Thư gửi mẹ cha (Fubo e no tergami), tự truyện.
- Cảm giác của cô nhi (Koji no kanjou), tự truyện.
- Bậc thầy tang lễ (Soshiki no meijin), tự truyện.
- Thiếu niên (Shonen), tự truyện.
- Tên cha (Chichi no na), truyện ngắn.
- Dầu lửa (Abura), truyện ngắn.
- Cái nhìn cuối cùng (Matsugo no me), tùy bút.
- Người tái hôn (Saikonsha), tùy bút.
- Thanh âm trong suốt (Junsui no koe), tùy bút.
- Nhật ký tuổi mười sáu (Jurokusai no nikki, viết
1914, in 1925), nhật ký.
- Vũ nữ Izu (Izu no odoriko, 1927), truyện ngắn
[Izu dancer].
- Hồng đoàn Asakusa (Asakusa Kurenai-dan, 1930), tiểu
thuyết.
- Cầm thú (Kinju, 1933), truyện ngắn.
- Xứ tuyết (Yukiguni, 1937), tiểu thuyết [Snow
country].
- Ngàn cánh hạc (Sembazuru, 1949), tiểu thuyết
[Thousand cranes].
- Tiếng rền của núi (Yama-no oto, 1949), tiểu thuyết
[The sound of the mountain].
- Hồ (Mizuumi, 1954), (The lake, 1955), tiểu thuyết
- Người đẹp ngủ say (Nemu reru bijo, 1960), tiểu
thuyết [The sleeping beauty].
- Cố đô (Kyoto, 1962), tiểu thuyết [The old
capital].
- Cánh tay (Kataude, 1964), truyện ngắn.
* Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:
- Rập rờn cánh hạc (nguyên tác: Sembazuru, tiểu
thuyết), Nguyễn Tường Minh dịch, NXB Sông Thao, 1970.
- Ngàn cánh hạc, Trùng Dương dịch, NXB Trình Bày, 1969.
- Xứ tuyết, Chu Việt dịch, NXB Trình Bày, 1969.
- Vùng băng tuyết (nguyên tác: Yukiguni, tiểu thuyết),
Giang Hà Vỵ dịch, NXB Mũi Cà Mau, 1988.
- Xứ tuyết, Vũ Đình Bình - Ngô Văn Phú dịch, NXB Hội Nhà
Văn, 1995.
- Cố đô, Thái Văn Hiếu dịch, NXB Hải Phòng, 1988.
- Tiếng rền của núi (tiểu thuyết), Ngô Quý Giang dịch, NXB Thanh Niên, 1989.
- Người đẹp say ngủ (tiểu thuyết), Vũ Đình Phòng dịch, NXB Văn Học, 1990.
- Kawabata cuộc đời và tác phẩm, Giang Hà Vị - Thái Văn
Hiếu biên soạn, NXB Giáo Dục, 1997.
- Người đàn ông không cười, Vương Trí Nhàn dịch, in
trong Con đường dưới ánh trăng, NXB Phụ Nữ, 1984; Tuyển tập truyện ngắn
các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1997.
- Trăng soi đáy nước, Nguyễn Đức Dương dịch, in
trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1998.
- Sự sống dưới tấm mặt nạ, Xuân Tước dịch, in
trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn,
1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn,
2004.
- Vịnh cánh cung, Vũ Đình Bình dịch, in trong 100
truyện ngắn hay thế giới, NXB Hội Nhà Văn, 1999; Truyện ngắn chọn lọc -
tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các
tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004.
- Tuyển tập Kawabata, Ngô Quý Giang dịch, NXB Hội Nhà
Văn, 2001.
- Tiếng tre, hoa đào, Nguyễn Hòa dịch, in trong tập truyện
ngắn Đồng đô la bất hạnh, NXB Lao Động, 1982; Tuyển tập truyện ngắn
các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1997; Truyện ngắn đặc sắc các
tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 2004.
- Kẻ trộm hồ đào, Chiếc nhẫn, Trang điểm, Tình yêu đáng
sợ, Cố hương, Gương mặt, Cao xanh lộng gió, Hiện hữu thần linh, Bình dễ vỡ, Miền
ánh sáng, Tuyết, Gương mặt người chết, Hoàng Long dịch, in trong Truyện dịch
Đông Tây (tập 5, tập 6), NXB Lao Động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông
Tây, 2005.
- Kawabata. Tuyển tập tác phẩm, nhiều người dịch, NXB Lao Động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005.
© Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây
Tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển
Anders Österling, Viện Hàn lâm Thụy Điển
Người nhận giải Nobel văn chương năm nay, Yasunari Kawabata
người Nhật Bản, sinh năm 1899 tại thành phố công nghiệp lớn Osaka. Cha ông là một
bác sĩ có học vấn cao và quan tâm đến văn chương. Tuy nhiên, từ khi ông còn rất
nhỏ, cha mẹ ông đột ngột qua đời khiến ông không còn được thụ hưởng môi trường
dưỡng dục thuận lợi đó. Là con một, ông được đưa đến sống ở nhà người ông mù
lòa bệnh tật ở một vùng xa xôi hẻo lánh của Nhật Bản. Những mất mát bi thảm đó,
mà đối với người Nhật vốn có cảm thức sâu xa về tình máu mủ thì lại càng có tầm
quan trọng to lớn, chắc chắn đã ảnh hưởng đến toàn bộ thế giới quan của
Kawabata và là một trong những lý do khiến sau này ông đi vào nghiên cứu triết
học Phật giáo.
Từ khi còn là sinh viên đại học hoàng gia Tokyo ông đã sớm
quyết định sẽ theo con đường văn nghiệp, và ông là ví dụ tiêu biểu cho sự toàn
tâm toàn ý vốn luôn luôn là một điều kiện [cần thiết] cho thiên hướng văn
chương. Trong một truyện ngắn thời trẻ, câu truyện đầu tiên khiến người ta chú
ý đến ông vào tuổi hai mươi bảy, ông kể về một chàng thanh niên một mình tản bộ
suốt mùa thu trên bán đảo Izu, tình cờ gặp một vũ nữ trẻ bị người đời khinh miệt
và có một mối tình cảm động với cô; cô mở rộng trái tim trong trắng đón nhận
chàng trai và chỉ cho anh con đường hướng đến cảm xúc sâu sắc và thuần khiết.
Giống như điệp khúc buồn trong một bài hát dân gian, chủ đề này trở đi trở lại
với nhiều biến thể khác nhau trong những sáng tác về sau của ông; ông trình bày
thang giá trị của riêng ông, và cùng với năm tháng ông đã được thừa nhận ở rất
xa ngoài biên cương nước Nhật. Quả thật là đến nay trong số tác phẩm của ông chỉ
mới có ba tiểu thuyết và một vài truyện ngắn được dịch ra tiếng nước ngoài, rõ
ràng là bởi trong trường hợp này việc dịch thuật là đặc biệt khó khăn và có cơ
trở thành một bộ lọc quá ư thô thiển mà qua đó nhiều sắc thái nghĩa tinh tế
trong ngôn ngữ giàu biểu cảm của ông ắt sẽ bị đánh mất. Nhưng các tác phẩm được
dịch ra cũng đã cho chúng ta một bức tranh đủ tiêu biểu cho nhân cách của ông.
Cũng như người đồng bào lớn tuổi hơn là Tanizaki nay đã quá cố,
Kawabata thừa nhận mình chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực hiện đại của
phương Tây, song đồng thời, một cách còn trung thành hơn thế, ông vẫn trụ vững
trong văn chương cổ điển Nhật Bản và do đó là đại diện cho một khuynh hướng rõ
rệt nhằm trân quý giữ gìn một truyền thống thuần túy dân tộc. Trong nghệ thuật
tự sự của Kawabata ta vẫn có thể tìm thấy một chất thơ nhạy cảm có nguồn gốc từ
những bức tranh rộng lớn của Murasaki khắc họa đời sống và cung cách Nhật
Bản vào khoảng năm 1000.
Kawabata được đặc biệt ca ngợi như một nhà tâm lý phụ nữ thật
tinh tế. Ông đã chứng tỏ sự điêu luyện bậc thầy của mình ở lĩnh vực này trong
hai tiểu thuyết ngắn là Xứ tuyết và Ngàn cánh hạc. Trong các tiểu
thuyết này tác giả cho thấy khả năng kiệt xuất trong việc minh họa các cảnh huê
tình, một khiếu quan sát nhạy bén, cả một hệ thống những giá trị vi tế và huyền
bí mà so với chúng thì kỹ thuật tự sự châu Âu có vẻ thật mờ nhạt. Văn Kawabata làm
ta nhớ đến hội họa Nhật Bản; ông là người tôn thờ cái đẹp mong manh và ngôn ngữ
buồn man mác của sự hiện tồn trong đời sống của thiên nhiên và số phận con người.
Nếu sự phù du của mọi hành vi bên ngoài có thể sánh với những túm cỏ vật vờ
trên mặt nước thì đó chính là nghệ thuật thơ hài cú, cái nghệ thuật cực tiểu
thuần túy Nhật Bản được phản ánh trong phong cách văn xuôi của Kawabata.
Cho dù [người phương Tây] chúng ta cảm thấy mình bị xa cách
khỏi văn ông bởi [trong văn ông là] một hệ thống cội nguồn gồm những ý tưởng và
bản năng Nhật Bản cổ xưa vốn xa lạ với chúng ta, chúng ta vẫn có thể thấy thú vị
khi nhận thấy ở Kawabata một số sự tương đồng về khí chất với các nhà văn châu
Âu trong thời đại chúng ta. Turgeniev là người đầu tiên nảy đến trong trí chúng
ta, bởi Turgeniev cũng là một người kể chuyện nhạy cảm một cách sâu sắc, một họa
sĩ khắc họa một cách khoáng đạt bức tranh xã hội, với sự cảm thông mang màu sắc
bi quan trong một thời chuyển tiếp giữa cái cũ và cái mới.
Tác phẩm gần đây nhất của Kawabata cũng là tiểu thuyết đặc sắc
nhất của ông, Cố đô, được hoàn tất cách đây sáu năm và đã được dịch ra tiếng
Thụy Điển. Chuyện kể về một cô gái trẻ là Chiëko, bị cha mẹ đẻ bỏ rơi vì túng
quẫn, được gia đình thương nhân Takichiro nhận làm con nuôi và nuôi dạy theo những
nguyên tắc Nhật Bản cổ xưa. Nàng là một con người nhạy cảm, thủy chung, chỉ
trong sâu thẳm nàng mãi mới băn khoăn về nguồn gốc thật của mình.
Theo một quan điểm lạ lùng của dân gian Nhật Bản, nếu một đứa
trẻ bị bỏ rơi mang một lời nguyền suốt đời, thêm vào đó lại còn là trẻ sinh đôi
thì ắt nó sẽ mang một vết nhơ ô nhục. Một ngày nọ nàng tình cờ gặp một cô gái
khá trẻ và xinh xắn đang làm việc trong một cánh rừng tùng gần thành phố và nhận
ra rằng đó là người chị em song sinh của nàng. Họ gắn bó khăng khít với nhau vượt
ngoài ranh giới giai cấp - Naeko khoẻ mạnh, rắn rỏi nhờ lao động và cô Chieko mảnh
mai tinh tế mà cha mẹ cưng như trứng mỏng, nhưng chẳng bao lâu sự giống nhau kỳ
lạ giữa hai người gây nên những sự nhầm lẫn và phức tạp. Toàn bộ câu chuyện được
đặt trong bối cảnh năm lễ hội tôn giáo ở Kyoto, từ mùa xuân hoa đào nở cho đến
mùa đông tuyết phủ.
Bản thân thành phố Kyoto là nhân vật chính, kinh đô của vương
quốc xưa, từng là nơi ngự của Thiên hoàng và triều đình, sau một ngàn năm vẫn
là một chốn linh địa đầy lãng mạn, quê hương của nhiều ngành mỹ thuật và thủ
công tinh tế, ngày nay bị ngành du lịch khai thác nhưng vẫn là chốn hành hương
yêu thích của nhiều người. Với các đền thờ Thần đạo và chùa chiền Phật giáo,
các khu làng nghề và vườn thực vật cổ xưa, nơi đây có một chất thơ mà Kawabata
biểu đạt một cách trìu mến và trang nhã, không cường điệu đa cảm song hiển
nhiên đầy quyến rũ và đầy cảm xúc.
Ông đã nếm trải sự thất bại nặng nề của đất nước mình [trong
Thế chiến thứ hai] và nhất định ông hiểu rõ tương lai đòi hỏi cái gì [ở đất nước
ông] theo lối tinh thần, nhịp độ và sức mạnh phát triển không ngừng [của thời đại]
công nghiệp. Nhưng trong làn sóng Mỹ hóa dữ dội thời hậu chiến, tiểu thuyết của
ông là lời nhắc nhở nhẹ nhàng về sự cần thiết phải cứu giữ một cái gì đó của vẻ
đẹp và đặc tính Nhật Bản xưa trước cái mới. Ông mô tả những lễ hội tôn giáo ở
Kyoto cũng một cách chu đáo tỉ mỉ hệt như khi mô tả việc trong nghề dệt người
ta phải kỳ công lựa chọn mẫu hoa văn của chiếc thắt lưng truyền thống sao cho hợp
với chiếc áo dài của phụ nữ. Những khía cạnh này của cuốn tiểu thuyết có thể có
giá trị tư liệu, nhưng độc giả không thích bằng những đoạn mang tính đặc thù
sâu sắc chẳng hạn như khi nhóm người thuộc lớp trung lưu ở thành phố đi dạo
trong vườn thực vật - vốn đã bị đóng cửa một thời gian dài vì quân đội Mỹ chiếm
đóng đặt doanh trại ở đó - để xem liệu con đường hai bên là hai hàng cây long
não mà họ ưa thích trước kia có còn nguyên vẹn để làm vui mắt người sành sỏi
hay không.
Với Kawabata, lần đầu tiên Nhật Bản gia nhập câu lạc bộ những
người đoạt giải Nobel văn chương. Điều cốt yếu để [Viện Hàn lâm Thụy Điển] đi đến
quyết định này là, với tư cách nhà văn, ông truyền đạt một sự am hiểu văn hóa,
đạo đức - mỹ học bằng một nghệ thuật độc nhất vô nhị, qua đó góp phần vào việc
xây dựng cây cầu nối tinh thần giữa phương Đông với phương Tây.
Thưa Ngài Kawabata,
Lời khen tặng của Viện Hàn lâm Thụy Điển nhắc đến nghệ thuật
tự sự điêu luyện của Ngài, một nghệ thuật tự sự biểu đạt một cách rất mực tinh
tế cái yếu tính của tâm thức Nhật Bản. Chúng tôi rất lấy làm vui được đón chào
Ngài, một vị khách danh dự từ phương xa đến đây, trên chiếc bục này hôm nay.
Thay mặt Viện Hàn lâm Thụy Điển, tôi xin nồng nhiệt chúc mừng Ngài, và xin mời
Ngài nhận giải thưởng Nobel văn chương năm nay từ tay Hoàng Thượng.
Trần
Tiễn Cao Đăng dịch
Diễn từ Nobel
Kawabata Yasunari
Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản
Hoa thắm mùa xuân;
Cu gù tiết hạ;
Trăng thu óng ả;
Tuyết đông
Giá lạnh, tinh khôi.
Cu gù tiết hạ;
Trăng thu óng ả;
Tuyết đông
Giá lạnh, tinh khôi.
Thiền sư Dogen[1] (1200-1253) đã viết bài thơ này và đặt tên
cho nó là Bản lai diện mục.
Ôi vầng trăng mùa đông,
Em từ sau mây hiện đến
Đi cùng ta.
Tuyết trắng có làm em lạnh?
Gió hàn có thổi em run?
Em từ sau mây hiện đến
Đi cùng ta.
Tuyết trắng có làm em lạnh?
Gió hàn có thổi em run?
Đó là bài thơ của Myoe[2] khả kính. Mỗi khi có ai nhờ tôi thư
họa để làm kỉ niệm, tôi lại chép những câu thơ này. Ở trước bài thơ có một đoạn
mô tả khá dài, tỉ mỉ, có thể nói là một uta-monogatari[3], giải thích về ý
nghĩa những câu thơ:
"Đêm mười hai tháng Chạp năm 1224. Bầu trời đầy mây.
Không nhìn thấy trăng. Tôi vào điện Hoa Cung ngồi thiền. Đến nửa đêm, khi tôi từ
thượng điện bước ra để đi xuống hạ điện dưới chân núi, thì mặt trăng ló ra khỏi
mây và chiếu lấp lánh trên tuyết. Với một bạn đường như vậy thì tôi không sợ cả
chó sói đang gào rú ngoài thung. Ở hạ điện một lúc, tôi lại đi ra. Không nhìn
thấy trăng đâu. Trong khi trăng đang ẩn náu, thì vang lên hồi chuông điểm canh
ba, và tôi lại đi lên thượng điện. Vừa lúc, trăng từ sau đám mây hiện ra và lại
đi cùng tôi. Lên đến nơi, tôi bước vào điện. Còn trăng, đuổi theo một đám mây,
làm ra vẻ sắp trốn vào sau đỉnh núi gần đó. Hình như trăng muốn giấu kín cuộc dạo
chơi cùng tôi".
Tiếp đấy là những câu thơ vừa dẫn ở trên. Rồi ông viết:
"Thấy trăng đã gác đỉnh núi, tôi bước vào điện:
Và ta sẽ sang bên kia núi.
Này trăng ơi, hãy đến mau,
Đêm nay
Và nhiều đêm nữa
ta sẽ bên nhau".
Và ta sẽ sang bên kia núi.
Này trăng ơi, hãy đến mau,
Đêm nay
Và nhiều đêm nữa
ta sẽ bên nhau".
Sau một đêm ngồi thiền trong điện hay trở về điện lúc trời gần
sáng, Myoe đã viết: "Sau đêm nhập định, tôi mở mắt và trông thấy qua ô cửa
sổ vầng trăng trước bình minh. Tôi đã ngồi suốt đêm trong bóng tối nên ngay tức
khắc không thể hiểu ngay được ánh hào quang từ đâu tới: đó là do tâm hồn tôi tỏa
sáng hay là từ trăng.
Tâm hồn ta
Rạng ngời tỏa sáng;
Còn trăng, chắc hẳn
Lại nghĩ rằng
Đó là ánh trăng".
Rạng ngời tỏa sáng;
Còn trăng, chắc hẳn
Lại nghĩ rằng
Đó là ánh trăng".
Nếu như người ta gọi Saigyo là nhà thơ của hoa anh đào
(sakura), thì Myoe được mệnh danh là thi sĩ của ánh trăng:
Ôi, sáng quá, sáng quá
Ôi, sáng quá, sáng quá, sáng quá;
Ôi, sáng quá, sáng quá
Ôi, sáng quá, sáng quá, sáng quá
Là ánh trăng! ánh trăng! ánh trăng!
Ôi, sáng quá, sáng quá, sáng quá;
Ôi, sáng quá, sáng quá
Ôi, sáng quá, sáng quá, sáng quá
Là ánh trăng! ánh trăng! ánh trăng!
Lời thơ được thốt lên trong một hơi hứng khởi.
Từ nửa đêm cho tới sáng Myoe đã viết ba bài thơ Về trăng mùa
đông. Như Saigyo nói: "Khi làm thơ, đừng nghĩ rằng ta đang làm thơ".
Bằng ba mươi mốt âm tiết [4], Myoe tâm sự một cách thân tình, tin cậy với trăng
không chỉ như với một người bạn, mà là một người thân gần gũi. "Ta nhìn
trăng, ta hóa thành trăng. Trăng ta nhìn lại hóa thành ta. Ta đắm mình, hòa nhập
với thiên nhiên".
ánh hào quang tỏa ra từ "trái tim ngộ sáng" của vị
thiền sư ngồi suốt đêm trong điện tối cho tới hừng đông đã khiến vầng trăng trước
bình minh ngỡ đó là ánh sáng của chính mình.
Như đã thấy trong lời dẫn giải tỉ mỉ trước bài thơ Vầng trăng
mùa đông đi cùng ta, Myoe đi lên thượng điện trên đỉnh núi để tọa thiền, đắm nhập
hồn vào những suy ngẫm triết lí, tôn giáo và trong bài thơ của mình đã ghi lại
những cảm xúc của lần gặp gỡ, của cuộc giao tiếp vô hình với trăng. Tôi chọn
bài thơ này khi có người xin chữ đề là vì tính xúc cảm thanh thoát của nó.
"Ôi vầng trăng mùa đông, khi ẩn trong mây, khi ló dạng,
em soi sáng bước chân ta khi ta vào điện thiền hoặc trở ra từ đó. Với em, ta
không sợ cả chó sói đang gào rú ngoài thung. Tuyết trắng có làm em lạnh? Gió
hàn có thổi em run?"
Tôi thường chép tặng mọi người những câu thơ này vì chúng
chan chứa lòng nhân hậu, tình cảm ấm áp, đằm thắm đối với thiên nhiên và con
người - thể hiện sự dịu dàng sâu lắng của tâm hồn Nhật Bản.
Giáo sư Iasiro Iukio, nhà nghiên cứu Bottichelli [5] nổi tiếng
thế giới, một người rất am hiểu nghệ thuật của quá khứ và hiện tại, của Phương
Đông và Phương Tây, có lần nói: "Có thể gói gọn đặc trưng của nghệ thuật
Nhật Bản trong một câu thơ: "Không lúc nào nghĩ đến bạn bè thân thiết như
khi ngắm tuyết, trăng, hoa". Mỗi khi ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tuyết hay
vẻ đẹp của trăng, khi ta mê đắm vẻ đẹp của bốn mùa, khi nhận thức được khơi dậy
và ta cảm thấy hạnh phúc được tiếp xúc với cái đẹp, lúc đó ta đặc biệt nhớ đến
bạn bè, khao khát được chia sẻ niềm vui với bạn. Tóm lại, sự chiêm ngưỡng cái đẹp
đánh thức trong ta cảm xúc mãnh liệt về sự cảm thông và tình yêu, và lúc đó hai
tiếng "con người" vang lên như "bạn bè".
Những từ "tuyết, trăng, hoa" - nói về vẻ đẹp bốn
mùa thiên nhiên thay nhau nối tiếp - theo truyền thống Nhật Bản là tượng trưng
cho vẻ đẹp nói chung: của núi, sông, cỏ cây, của vô vàn những hiện tượng tự nhiên
và vẻ đẹp của cảm xúc con người.
"Không khi nào nghĩ đến bạn bè thân thiết như khi ngắm
tuyết, trăng, hoa" - cảm xúc đó chính là cốt lõi của nghi lễ trà đạo. Cuộc
gặp bên chén trà cũng là "cuộc gặp của những tình cảm". Cuộc gặp gỡ
chân tình của những người bạn thân thiết vào thời điểm thích hợp trong năm.
Nhân tiện nói thêm, nếu các vị nghĩ rằng trong thiên truyện Ngàn cánh hạc tôi
muốn mô tả vẻ đẹp của tâm hồn và những hình thức của nghi lễ trà đạo, điều đó
là không đúng. Thật ra là ngược lại, tôi chối bỏ nó, tôi cảnh báo chống lại sự
phàm tục thô thiển mà những nghi thức trà đạo hiện nay đang sa vào.
Hoa thắm mùa xuân;
Cu gù tiết hạ;
Trăng thu óng ả;
Tuyết đông,
Giá lạnh, tinh khôi.
Trăng thu óng ả;
Tuyết đông,
Giá lạnh, tinh khôi.
Và nếu quý vị nghĩ rằng trong bài thơ của Dogen về vẻ đẹp của
bốn mùa - xuân, hạ, thu, đông - chỉ là những hình ảnh thiên nhiên khuôn sáo, cũ
mòn, đã từ lâu quen thuộc với người Nhật Bản, được xếp cạnh nhau một cách vô vị
- thì quý vị cứ nghĩ! Nếu quý vị nói rằng nhìn chung đó không phải là thơ - quý
vị cứ nói! Nhưng những câu thơ này mới giống những câu thơ của nhà sư
Ryoukan[6] (1758-1831) viết trước khi mất làm sao:
Cái gì sẽ còn
Sau khi ta mất?
Hoa thắm mùa xuân,
Cu gù trong núi,
Lá rụng mùa thu.
Sau khi ta mất?
Hoa thắm mùa xuân,
Cu gù trong núi,
Lá rụng mùa thu.
Trong bài thơ này, cũng như trong thơ của Dogen, chỉ có những
hình ảnh giản dị, những từ ngữ bình thường được xếp cạnh nhau không cầu kì, thậm
chí thô mộc một cách cố ý, nhưng nương nối nhau, chúng đã chuyển tải được bản
chất sâu lắng của tâm hồn Nhật Bản. Đây là những câu thơ cuối cùng của thi
nhân:
Ngày xuân,
Một ngày dài
Mờ sương,
Ta chơi cầu
Với con trẻ.
Đêm thanh.
Trăng sáng.
Nào ta hát những bài ca cũ!
Ta nhảy múa suốt đêm
Tận sáng!
Nói gì đây -
Ta chẳng lánh
Mọi người,
Nhưng một mình
Vẫn thú hơn!
Một ngày dài
Mờ sương,
Ta chơi cầu
Với con trẻ.
Đêm thanh.
Trăng sáng.
Nào ta hát những bài ca cũ!
Ta nhảy múa suốt đêm
Tận sáng!
Nói gì đây -
Ta chẳng lánh
Mọi người,
Nhưng một mình
Vẫn thú hơn!
Tâm hồn của Ryoukan cũng tựa như những câu thơ này. Ông vui với
túp lều cỏ, với bộ quần áo vải, lang thang nơi thanh vắng, vui đùa với đám trẻ
thơ, chuyện gẫu với mấy lão nông, không bàn đến những đề tài sâu xa về ý nghĩa
của văn chương và tín ngưỡng. Ông đi theo một con đường không bị vẩn bụi trần:
"Nụ cười trên mặt, tình yêu trong lời". Nhưng chính Ryoukan vào cuối
thời kỳ Edo (cuối thế kỷ XVIII đầu thế XIX) bằng những câu thơ và nghệ thuật
thư pháp của mình đã chống lại thị hiếu thô thiển của nhiều người đương thời,
gìn giữ lòng trung thành với phong cách thanh tao của cổ nhân. Ryoukan, người
có những câu thơ và những bức thư pháp cho đến ngày nay vẫn được đánh giá rất
cao ở Nhật Bản, trong những câu thơ cuối đời của mình viết rằng sẽ không để lại
gì sau khi ông mất đi. Tôi nghĩ, bằng điều đó ông muốn nói rằng sau khi ông chết
thiên nhiên vẫn sẽ đẹp như xưa, và đó là cái duy nhất mà ông có thể để lại
trong thế giới này. ở đây ta nghe vang vọng cả tình cảm của người xưa, cả tâm hồn
mộ đạo của chính Ryoukan. Ryoukan còn viết thơ tình yêu. Đây là một bài tôi yêu
thích:
Ôi biết bao lâu
Ta đã mỏi mòn
Trong ngóng đợi!
Chúng ta bên nhau...
Còn gì để ước mơ hơn?
Ta đã mỏi mòn
Trong ngóng đợi!
Chúng ta bên nhau...
Còn gì để ước mơ hơn?
Ryoukan già nua, khi ấy đã sáu mươi tám tuổi, gặp ni cô
Teishin hai mươi chín xuân và yêu nàng say đắm. Đó là những câu thơ về niềm vui
gặp gỡ với tính nữ vĩnh cửu, với người đàn bà như một tình yêu hằng mong ước.
Chúng ta bên nhau...
Còn gì để ước mơ hơn?
Ông kết thúc bài thơ thật chất phác.
Còn gì để ước mơ hơn?
Ông kết thúc bài thơ thật chất phác.
Ryoukan sinh ra ở Echigo (nay là tỉnh Niigata), chính cái tỉnh
mà tôi đã miêu tả trong tiểu thuyết Xứ tuyết. Đó là một vùng biên cương
phía Bắc của Nhật Bản, nơi hứng đón những đợt gió lạnh từ Siberia thổi tới qua
biển Nhật Bản. Suốt đời mình ông sống ở nơi đây. Ryoukan mất năm bảy mươi tư tuổi.
Khi đã rất già, cảm thấy cái chết đang tới gần, ông trải qua trạng thái
satori [7]. Và tôi có cảm tưởng rằng ở nơi cận kề cái chết, trong "Cái Nhìn
Cuối Cùng" [8] của nhà thơ - thiền sư, thiên nhiên phương Bắc đã được cảm
nhận trong một vẻ đẹp khác thường. Tôi có bài tùy bút Cái nhìn cuối cùng,
trong đó có trích dẫn những lời - đã làm tôi rúng động - từ bức thư tuyệt mệnh
viết trước khi tự sát của Akutagawa Ryunosuke (1892-1927): "Có lẽ tôi đã mất
dần cái gọi là bản năng sống, cái sinh lực của một con vật, - Akutagawa viết. -
Tôi, một kẻ trong suốt như băng, sống trong thế giới của những sợi dây thần
kinh bị đốt nóng. Tôi bị ám ảnh bởi ý nghĩ về tự sát. Song chưa bao giờ trước
đây tôi cảm thấy thiên nhiên đẹp tuyệt vời đến như vậy! Có thể các bạn cảm thấy
buồn cười: một người say mê vẻ đẹp của thiên nhiên lại nghĩ về việc tự sát.
Nhưng thiên nhiên đẹp chính là vì nó được phản ánh trong cái nhìn cuối cùng của
tôi". Năm 1927, ba mươi lăm tuổi, Akutagawa đã tự tử. Lúc đó tôi viết
trong Cái nhìn cuối cùng: "Dù thế giới này có xa lạ bao nhiêu, thì tự
sát cũng không dẫn đến giải thoát. Người tự sát dù có cao thượng bao nhiêu, anh
ta vẫn còn lâu mới là người thông tuệ. Không phải Akutagawa, không cả Dazai
Osamu (1909-1948), người tự sát sau chiến tranh, không một người tự sát bất kỳ nào khác có thể gợi lên trong tôi cả sự thấu hiểu lẫn thông cảm. Tôi có một người
bạn là họa sĩ thuộc phái tiền phong. Anh ấy đã chết khi còn trẻ và cũng thường
hay nghĩ về việc tự sát. Trong Cái nhìn cuối cùng cũng có những lời của
anh ấy. Anh ấy thích nhắc đi nhắc lại "Không có nghệ thuật nào cao cả hơn
cái chết", hoặc "Chết cũng có nghĩa là sống". Con người này,
sinh ra trong một ngôi chùa thờ Phật, tốt nghiệp trường Phật giáo, đã nhìn nhận
cái chết khác những người Phương Tây. "Giữa những người biết suy nghĩ, có
ai không nghĩ về sự tự sát?" Có lẽ đúng là như vậy. Ta cứ lấy ngay thiền
sư Ikkyu [9] (1394-1481) làm thí dụ. Nghe nói ông đã hai lần định tự sát. Tôi
nói "lấy ngay" là vì đến cả trẻ con cũng biết Ikkyu - một con người
kỳ quặc của các câu chuyện cổ tích, về ông truyền tụng vô số giai thoại. Người
ta kể rằng "trẻ con thường leo lên ngồi trên đầu gối ông để vuốt râu của
ông. Chim rừng ăn mồi ngay trên tay ông". Có lẽ Ikkyu là người hết sức
chân thành, tốt bụng - một chân nhân. Nghe đồn ông là con trai của hoàng đế.
Sáu tuổi ông được đưa vào chùa và ngay từ lúc đó ông đã bộc lộ tài năng thơ ca.
Ikkyu trăn trở suy nghĩ về cuộc sống và tín ngưỡng. "Nếu như có Phật, thì
ngài sẽ cứu ta! Nếu không có, thì cứ để cho cá dưới đáy hồ rỉa thịt ta".
Và ông đã nhảy xuống hồ thật. Nhưng được mọi người vớt lên. Rồi xảy ra chuyện:
một nhà sư ở chùa Daitokuji - nơi Ikkyu đến tu - đã tự tử, sau sự việc đó có
vài tăng sư bị bắt giam vì liên lụy. Cảm thấy mình có lỗi - "một gánh nặng
trên vai" - ông bỏ vào núi sâu, nhịn ăn cho đến chết.
Ikkyu đặt tên cho một tập thơ của mình là Kioun (Cuồng
vân - Mây điên), và tên đó trở thành bút danh của ông. Trong tập thơ này, và cả
trong những tập sau đó của ông, có những câu thơ không có trong thơ Nhật Bản thời
trung đại, nhất lại là trong thơ Thiền, bởi vì chúng quá mới lạ và có những chi
tiết riêng tư, tình ái đến mức làm người đọc phải bối rối. Ikkyu không quan tâm
đến giới luật và những điều cấm đoán của Thiền đạo: ăn cá, uống rượu, gặp gỡ với
phụ nữ. Vì tự do, ông đi ngược lại những luật lệ của nhà chùa. Có thể, vào cái
thời tao loạn đó, khi cái đạo người bị hư nát, nhà thơ muốn khôi phục lại sự tồn
tại đích thực của con người, cái cuộc sống thực sự tự nhiên, củng cố tinh thần
của mọi người.
Ngôi chùa Daitokuji ở Murasakino, ở Kyoto, cho đến bây giờ vẫn
là nơi ưa thích để tiến hành những nghi lễ trà đạo. Các bức kakemono treo trên
vách trong phòng trà là những mẫu mực thư pháp của Ikkyu, chúng cuốn hút đến đấy
rất nhiều khách du lịch. Tôi cũng có hai bức. Trên một bức viết: Phật giới nhập
dị, ma giới nhập nan (Vào cõi Phật dễ, vào cõi ma khó). Những lời đó cứ ám ảnh
tôi suốt, và tôi cũng hay chép lại chúng. Có thể hiểu những lời này theo những
cách khác nhau. ý nghĩa của chúng vô cùng uyên áo. Nhưng mỗi khi sau câu
"Vào cõi Phật dễ" tôi đọc tiếp: "Vào cõi ma khó" - thì
Ikkyu đã nhập vào hồn tôi bằng toàn bộ bản chất Thiền. Nói cho cùng, đối với những
con người của nghệ thuật, những kẻ đi tìm Chân, Thiện và Mỹ, thì bao giờ cũng tồn
tại cái khát vọng ẩn giấu trong câu "Vào cõi ma khó", nó hiện diện như
số phận, dù là trong nỗi sợ hãi, trong lời cầu nguyện, kín đáo hay lộ liễu.
Không có "cõi ma" thì cũng sẽ không có "cõi Phật". Vào
"cõi ma" khó hơn. Những kẻ yếu đuối tinh thần thì sẽ không đủ sức làm
điều đó.
Có một câu thiền ngôn nổi tiếng: "Phùng Phật sát Phật,
phùng tổ sát tổ" (Gặp Phật giết Phật, gặp tổ sư giết tổ sư). Các tông phái
Phật giáo chia làm hai nhóm, một nhóm tin vào sự cứu độ từ bên ngoài
(tariki) [10] và một nhóm tin vào sự giải thoát thông qua những nỗ lực tu luyện
của chính mình (jiriki) [11]. Thiền tông hiển nhiên là thuộc về nhóm thứ hai. Từ
đó mà có những câu nói nghiệt ngã trên.
Shinran [12] (1173-1262), người sáng lập phái Chân tông (Shin)
- các môn đồ của phái này tin vào sự cứu giải từ bên ngoài - có lần nói:
"Nếu những người tốt được phục sinh ở thiên đường, thì nói làm gì đến những
người xấu?" Giữa những lời của Shinran và những lời của Ikkyu về "cõi
Phật" và "cõi ma" có điểm chung: tâm hồn (kokoro); và có cả sự
khác biệt. Shinran còn nói: "Không có một đệ tử nào hết", - phải
chăng đó chính là số phận khắc nghiệt của nghệ thuật?
Phái Thiền tông không thờ tượng. Thực ra, trong các ngôi chùa
Thiền tông cũng có tượng Phật, nhưng trong các chỗ tu luyện, trong các điện tọa
thiền nhập định không có cả tượng Phật, tranh Phật lẫn kinh Phật. ở đó, trong
suốt quãng thời gian dài người ngồi thiền im lặng bất động nhắm mắt cho đến lúc
đạt đến trạng thái "vô nhiệm vô tưởng". Khi ấy cái "ngã"
(tôi) biến mất và bắt đầu cái "vô". Nhưng đây hoàn toàn không phải
cái "Hư Vô" như người Phương Tây thường hiểu. Đúng hơn là ngược lại.
Đó là Khoảng Không, nơi vạn vật tồn tại ngoài mọi rào cản, mọi giới hạn, trở
nên tự thân, chính mình. Đó là vũ trụ vô tận của tâm hồn.
Tất nhiên trong Thiền cũng có thầy - các thiền sư; họ dạy học
trò bằng phương pháp mondo - vấn đáp, hướng dẫn người theo học đọc các văn bản
Thiền đạo cổ, nhưng học trò vẫn là người chủ duy nhất của các ý nghĩ của mình
và đạt tới trạng thái satori hoàn toàn bằng chính sự cố gắng của bản thân. ở
đây trực giác quan trọng hơn logic, thao tác tự giác ngộ từ bên trong - satori
- quan trọng hơn những kiến thức nhận được từ người khác. Chân lí là "Bất
lập văn tự" (không câu chấp vào văn tự). Chân lí là "ngoại ngôn"
(ở ngoài lời). Theo tôi, điều đó được thể hiện tột cùng trong câu Im lặng sấm
sét của kinh Vimalakarti.
Tương truyền rằng thủy tổ Thiền tông ở Trung Quốc, Đại sư Đạt
Ma [13] "chín năm liền quay mặt vào tường"; quả thật ngài đã chín năm
ngồi quay mặt vào vách hang đá và đạt tới giác ngộ trong trạng thái suy niệm
không lời cao độ. Chính từ sư tổ Đạt Ma đã khởi đầu nghi lễ ngồi nhập định
trong Thiền tông.
Hỏi - ngài nói
Không hỏi - không nói.
Cái gì ẩn chứa
Trong tâm hồn ngài,
Hỡi Đạt Ma cao quý?
Không hỏi - không nói.
Cái gì ẩn chứa
Trong tâm hồn ngài,
Hỡi Đạt Ma cao quý?
Và thêm một bài thơ nữa cũng của Ikkyu:
Nói thế nào đây
về bản chất
trái tim?
Là tiếng thông reo
trên bức tranh thủy mặc?
về bản chất
trái tim?
Là tiếng thông reo
trên bức tranh thủy mặc?
Đó chính là tinh thần của hội họa Phương Đông. Ý nghĩa của
tranh thủy mặc Phương Đông là ở trong Khoảng Trống, ở giữa vùng không gian để
ngỏ không chứa đựng gì của bức tranh, trong những nét chấm phá khó nhận thấy.
Kim Nông [14] nói: "Nếu giỏi vẽ một cành tùng thì nghe
như có tiếng gió thổi". Hay thiền sư Dogen nói: "Phải chăng con đường
giác ngộ ở trong tiếng trúc reo, sự tỏa sáng tâm hồn ở trong hoa anh đào nở?"
Nghệ nhân nổi tiếng trong nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản (Ikebana) Ikenobo Senno
(1532-1554) có nói trong Mật truyền: "Một bát nước hay một cành cây cũng gợi
nên cảnh núi hùng sông vĩ. Trong chớp mắt có thể trải qua sự huyền diệu của vô
số biến hóa. Giống như những phép lạ của thần tiên".
Những vườn cảnh Nhật Bản tượng trưng cho sự hùng vĩ của thiên
nhiên. Nếu những khu vườn Châu Âu phần nhiều được bố trí theo nguyên tắc cân xứng,
thì vườn cảnh Nhật Bản lại theo nguyên tắc bất cân xứng. Có lẽ sự bất cân xứng,
hơn là cân xứng, thể hiện đúng tính đa dạng và vô biên của thiên nhiên. Quả thực,
tính không cân xứng đã được điều chỉnh hài hòa bởi mĩ cảm tinh tế và sự khéo
léo vốn có của người Nhật Bản. Có lẽ không có cái gì phức tạp, đa dạng và được
tính toán tỉ mỉ như những nguyên tắc nghệ thuật Nhật Bản. Trong nghệ thuật Sơn
thủy bộ, những tảng đá lớn bé được sắp xếp sao cho chúng gợi nên những cảnh núi
rừng, sông suối, những đợt sóng đại dương đập vào vách đá. Nghệ thuật bonsai
(cây cảnh) và bonseki (đá cảnh) của Nhật Bản đạt đến giới hạn của sự tối giản.
Từ sơn thủy - sansui - gồm hai từ sơn (núi) và thủy (nước) vừa có thể chỉ phong
cảnh núi non hay vườn, vừa có thể chỉ sự "cô liêu", "hoang vắng",
một cái gì đó "u tịch, thê lương".
Nếu như Wabi-sabi được đánh giá rất cao trong nghi lễ trà đạo,
đòi hỏi hòa - kính - thanh - tĩnh (hài hòa, thành kính, thanh sạch và yên
tĩnh), thể hiện sự phong phú của tâm hồn, thì trà thất bé nhỏ, hết sức đơn sơ lại
biểu thị tính vô biên của không gian, sự không giới hạn của cái đẹp.
Một bông hoa có thể cho ta cảm nhận về vẻ thắm của hoa hơn là
cả trăm bông. Ngay Rikyu cũng đã dạy: không được cắm hoa bằng những bông đã nở
hết. Ở Nhật Bản hiện nay, trong khi thực hiện nghi lễ trà đạo, trong trà
thất chỉ cắm một nụ hoa còn chưa nở. Hoa được chọn theo mùa: mùa đông thì dùng
hoa mùa đông như bạch ngọc, hải đường Wabisuke - giống này khác các loại hải đường
khác ở chỗ bông hoa nhỏ nhắn. Chọn một nụ trắng muốt. Màu trắng là màu thanh sạch
nhất mà cũng hàm súc nhất. Trên nụ hoa nhất thiết phải có giọt sương, có thể đó
là một giọt nước vẩy lên hoa. Vào tháng năm, để tiến hành nghi lễ trà đạo thì
dùng hoa mẫu đơn trắng cắm vào bình sứ xanh là tuyệt nhất. Và trên bình cũng phải
có giọt sương. Thực ra, không chỉ trên nụ hoa - có thể khéo léo vẩy nước lên cả
bình sứ trước khi cắm hoa vào đó. Ở Nhật Bản, trong số các bình sứ dùng để
cắm hoa, bình cổ iga (thế kỷ XV-XVI) được coi là quý nhất. Và cũng đắt nhất.
Nếu vẩy nước lên, các bình iga luôn như trở nên tươi hơn, sống động hẳn lên.
Bình được nung trong lò lửa nóng. Tro và khói của rơm đốt bình loang trên bề mặt
bình, và khi nguội đi, bình như được phủ một lớp men xanh. Đó không phải là nghệ
thuật của bàn tay con người, không phải do người thợ làm ra, mà do chính lò
nung tạo nên: những hoa văn kì diệu trên mặt bình được tạo bởi những kết hợp ngẫu
nhiên trong lò, bởi chất đất nặn ra bình. Những đường vân đậm nhạt, phóng
khoáng, dưới tác động của nước ẩm ánh lên đầy ấn tượng và thở cùng một nhịp với
giọt sương trên nụ hoa.
Nghệ thuật đá cảnh (bonseki)
của Nhật Bản
|
Theo phong tục của nghi lễ trà đạo, trước khi dùng trà người
ta đem cốc chén tráng nước để tạo cho chúng ánh vẻ tự nhiên. Như Ikenobo Seno
nói trong Mật truyền: "Những cánh đồng, ngọn núi, bờ sông hiện ra
trong vẻ tự nhiên của mình". Với trường phái ikebana riêng, Ikenobo Seno
đã đưa thêm một điều mới mẻ vào cách hiểu tâm hồn của hoa: cả trong chiếc bình
bị vỡ, cả trên cành cây đã héo vẫn có hồn hoa và cũng có thể gợi nên sự bừng tỉnh.
"Đối với người xưa, cắm hoa là một con đường dẫn đến giác ngộ". Dưới
tác động của Thiền, tâm hồn ông đã bừng tỉnh trước vẻ đẹp Nhật Bản. Và có lẽ
cũng còn vì ông phải sống trong một thời đại loạn lạc của những cuộc chém giết
triền miên.
Trong Ise-monogatari, hợp tuyển cổ xưa nhất của những
uta-monogatari Nhật Bản, có không ít những thiên truyện ngắn, và một trong những
thiên truyện đó kể về việc Ariwara Yukihira đã cắm loại hoa nào khi đón khách.
"Là một người tinh tế, ông cắm vào bình một bông hoa đậu khác thường: cuống
hoa mềm dài hơn một thước tây". Tất nhiên, khó tin hoa đậu có một cuống
dài như thế, nhưng tôi thấy trong bông hoa này biểu tượng của văn hóa
Heian [15]. Hoa đậu là loài hoa trang nhã, duyên dáng - đúng phong cách Nhật Bản.
Khi nở, bông hoa rủ xuống, khẽ khàng đung đưa trước gió, không phô trương sặc sỡ,
khi hiện ra, lúc náu kín trong đám lá xanh rờn đầu hạ, thể hiện một nét duyên đằm
của vạn vật. Bông hoa đậu với một cuống dài như thế chắc phải đẹp lắm.
Gần một ngàn năm trước đây, Nhật Bản đã tiếp nhận văn hóa nhà
Đường của Trung Hoa và theo cách của mình tạo nên nền văn hóa Heian tuyệt vời.
Quá trình nảy sinh ở người Nhật Bản cảm xúc cái đẹp cũng tuyệt diệu như
"nhành hoa đậu khác thường" kia. Trong thi ca, hợp tuyển thơ cung
đình đầu tiên Cổ kim tập (Kokinshu) [16] xuất hiện vào năm 905. Trong
văn xuôi, những kiệt tác của văn học cổ điển Nhật Bản ra đời vào thế kỷ
X-XI: Ise monogatari (thế kỷ X), Genji-monogatari [17] của
Murasaki Shikibu (970-1014), Chẩm thảo (Makura no soshi - Bản thảo dưới
gối) của Sei Shonagon (966-1017, theo tài liệu mới nhất). Thời kì Heian đã đặt
nền móng cho truyền thống vẻ đẹp Nhật Bản, và trong suốt tám thế kỷ đã ảnh hưởng
đến nền văn học Nhật Bản, xác định tính chất của nó. Genji
monogatari là đỉnh cao văn xuôi Nhật Bản tất cả mọi thời đại. Cho đến nay
vẫn chưa có gì sánh ngang nó. Bây giờ cả ở nước ngoài nhiều người đã công nhận
việc vào thế kỷ thứ X xuất hiện một tác phẩm tuyệt vời và mang tinh thần hiện đại
như vậy là một điều kì diệu của cả thế giới. Thuở nhỏ tôi không giỏi tiếng Nhật
cổ lắm, nhưng dù sao tôi cũng đã đọc văn học Heian, và tôi rất thích tác phẩm
này. Kể từ khi xuất hiện Genji-monogatari, văn học Nhật Bản bao giờ cũng
hướng đến với nó. Đã có bao nhiêu những tác phẩm bắt chước! Tất cả các loại
hình nghệ thuật, từ nghệ thuật ứng dụng đến nghệ thuật bài trí vườn cảnh, đấy
là không nói đến thơ ca, đều tìm thấy trong Genji cội nguồn của cảm hứng cái đẹp.
Murasaki Shikibu, Sei Shonagon, Izumi Shikibu (979-?),
Akazome Emon (957-1041) và nhiều nhà thơ nữ nổi tiếng khác đều ở cung đình. Văn
hóa Heian là văn hóa cung đình - do đó nó mang đậm nữ tính. Thời Genji-monogatari và Chẩm
thảo là giai đoạn phát triển rực rỡ của nền văn hóa đó. Rồi từ đỉnh cao nó
bắt đầu đi xuống, đã bắt đầu thoáng hiện những nốt buồn báo hiệu hồi kết của
vinh quang. Đó là thời kỳ nở rộ của văn hóa cung đình Nhật Bản.
Chẳng bao lâu sau, triều đình hoàng gia suy yếu đến mức chính
quyền từ tay giới quý tộc (kuge) dần dần chuyển vào tay các chiến binh - võ sĩ
(samurai). Bắt đầu thời kỳ Kamakura (1192-1333). Quá trình giới võ sĩ cai trị
quốc gia kéo dài bảy thế kỷ cho tới đầu thời Minh Trị (1868).
Thế nhưng cả hệ thống hoàng gia, cả nền văn hóa cung đình đều
không bị biến mất. Vào đầu thời Kamakura xuất hiện thêm một hợp tuyển Waka (hòa
ca) - Tân cổ kim tập (Shin Kokinshu - 1205), về mặt nghệ thuật còn vượt
cả Kokinshu thời Heian. Tất nhiên, ở đây có khuynh hướng thiên về
chơi chữ, nhưng cái chính vẫn là tinh thần duyên dáng (ioen), vẻ đẹp u huyền
(iugen), dư tình (yojo) - cả một giàn cảm xúc ảo mộng, và điều đó làm nó gần
gũi với thơ ca tượng trưng hiện đại. Nhà thơ - thiền sư Saigyo (1118-1190) đã kết
hợp trong sáng tác của mình cả hai thời kỳ - Heian và Kamakura.
Trong nỗi nhớ chàng
Em chìm dần vào giấc ngủ.
Trong mơ chàng đến.
Ôi giá như em biết,
Em đã không tỉnh giấc,
Để bằng những nẻo chiêm bao
Em theo chàng
Mãi mãi.
Nhưng trong đời thực
Em chưa một lần được gặp chàng.
Em chìm dần vào giấc ngủ.
Trong mơ chàng đến.
Ôi giá như em biết,
Em đã không tỉnh giấc,
Để bằng những nẻo chiêm bao
Em theo chàng
Mãi mãi.
Nhưng trong đời thực
Em chưa một lần được gặp chàng.
Đó là một bài thơ trong Cổ kim tập của nữ thi sĩ
Ono-no Komachi. Và mặc dù những câu thơ nói về một giấc mộng, nhưng nó vẫn toát
lên hiện thực. Còn thơ xuất hiện sau Tân cổ kim tập nói chung chỉ là
những nét phác thảo của hiện thực mà thôi.
Rừng trúc
Rộn ràng
Tiếng sẻ.
Nắng chiều
Vàng sắc thu.
Vườn thanh vắng
Gió thu giỡn lá.
Mặt trời
Dần khuất
Sau tường.
Rộn ràng
Tiếng sẻ.
Nắng chiều
Vàng sắc thu.
Vườn thanh vắng
Gió thu giỡn lá.
Mặt trời
Dần khuất
Sau tường.
Đó là thơ của hoàng hậu Eifuku (1271-1342) sống vào cuối thời
Muromachi. Vẫn thể hiện nỗi buồn tinh tế của người Nhật Bản, theo tôi, những
câu thơ này đã rất hiện đại.
Những câu thơ Tuyết đông lạnh giá, tinh khôi của
thiền sư Dogen và Vầng trăng mùa đông đi cùng ta của nhà hiền triết
Myoe đều thuộc về thời kỳ Tân cổ kim tập.
Myoe và Saigyo thường trao đổi thơ và những ý nghĩ về thơ ca
với nhau. "Cứ mỗi lần thiền sư Saigyo đến là bắt đầu câu chuyện về thơ.
Ông nói: "Tôi có cái nhìn riêng của tôi về thơ. Và tôi ca ngợi hoa, chim
cu, tuyết, mặt trăng - nói chung, các hình ảnh khác nhau. Nhưng thực chất tất cả
những cái đó chỉ là vẻ ngoài đập vào mắt và dội vào tai. Nhưng dù sao thì những
câu thơ chúng ta viết ra chẳng lẽ không phải là những châm ngôn ngụ ý? Khi ta
nói về hoa, thì ta đâu nghĩ đó là những bông hoa hiện thực. Khi ta ngợi ca
trăng, ta đâu nghĩ đó là mảnh trăng thường tình. Hãy hình dung khi chúng ta có
cảm hứng và những câu thơ tuôn ra. Cầu vồng rực rỡ đậu xuống, và hình như bầu
trời trống rỗng bỗng đổi màu. Mặt trời rực rỡ chiếu sáng, và bầu trời trống rỗng
được chiếu sáng. Nhưng bản thân bầu trời không tự nhuộm màu và cũng không tự
chiếu sáng. Và chúng ta, trong tâm hồn chúng ta, giống như bầu trời kia, chúng
ta tô điểm mọi vật trong các màu sắc khác nhau, không để lại dấu vết. Chỉ có
thơ ca như vậy mới thể hiện được Chân Phật" (trích từ Tiểu sử Myoe của
Kikai, học trò của ông).
Trong những lời này có thể nhận thấy tư tưởng của Nhật Bản,
hay đúng hơn, của Phương Đông, về "Hư Vô", "Không Tồn". Và
trong những tác phẩm của tôi các nhà phê bình cũng tìm thấy cái Hư Vô đó. Nhưng
cái Hư Vô này hoàn toàn không phải cái mà người ta thường hiểu ở chữ chủ nghĩa
hư vô (nihilism) của Phương Tây. Tôi nghĩ, đó là do những cội rễ tinh thần của
chúng ta khác nhau.
Những câu thơ Bản lai diện mục ca ngợi vẻ đẹp bốn mùa của
Dogen chính là Thiền.
Đoàn Tử Huyến dịch từ bản tiếng Nga
"КРАСОТОЙ ЯПОНИИ РОЖДЕННЫЙ"
của T.P. Grigorievich (Nguồn: http://klein.zen.ru)
© Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây
Chú thích:
[1] Dogen (tức Đạo Nguyên, 1200-1253): Thiền sư đầu thời
Kamakura, là tổ sáng lập phái thiền Tào Động (Sotō Zen) Nhật Bản. Thiền Tào Động
còn được gọi là thiền Mặc Chiếu, chủ trương tu tập chủ yếu bằng cách tọa thiền.
Ông xuất gia năm 13 tuổi. Năm 1233, Đạo Nguyên sang nước Tống học Thiền 5 năm,
kế thừa truyền thống Thiền Tào Động ở Trung Quốc và trở về nước truyền đạo. Viết
các tác phẩm Chính pháp nhãn tàng (Shobo genzo), Vĩnh Bình quảng
lục... Bộ Chính pháp nhãn tàng là kết tinh tư tưởng Thiền Tông của Đạo
Nguyên, nói về pháp tu thực tiễn là chỉ quán đả tọa.
[2] Myoe (tức Minh Huệ, 1173-1232): Nhà sư phái Hoa Nghiêm
Tông đầu thời Kamakura. Trong tác phẩm chính Tồi tà luân, ông phê phán phái Tịnh
độ của Pháp Nhiên.
[3] Uta- Monogatari: âm Hán Việt đọc là Ca vật ngữ, một
thể loại văn học cổ Nhật Bản, vừa bằng văn xuôi vừa bằng thơ.
[4] Tanka (Đoản ca), còn được gọi là thơ Waka (Hòa ca),
một thể thơ phổ biến ở Nhật Bản, gồm ba mươi mốt âm tiết, được đọc theo cách ngắt
âm là 5-7-5-7-7.
[5] Bottichelli (1445-1507): danh họa nổi tiếng người Italia
thế kỷ XV.
[6] Ryoukan (tức Lương Khoan, 1758 – 1831): Thiền sư và
thi nhân thời hậu kì Edo. Từ tuổi hai mươi, ông bỏ mười sáu năm trời tu tập
trong các Thiền viện, nghiên cứu thơ ca Nhật Bản và Trung Quốc, luyện thư pháp.
Vào tuổi bốn mươi, ông dựng một Gogo an (Ngũ Cáp am) trên núi Kugami, tự xưng
mình là Taigu (Đại Ngu). Năm 69 tuổi ông gặp và yêu ni cô Teishin (Trinh Tâm),
người nhỏ hơn ông đến bốn mươi tuổi. Sau khi Ryoukan mất bốn năm, ni cô Teishin
cho ấn hành tập thơ Giọt sương trên lá sen (Hachisu no tsuyu) của ông.
[7] Satori: thuật ngữ Thiền đạo (Zen), chỉ trạng thái
giác ngộ, siêu thoát; đạt ngộ.
[8] Nguyên văn: "Matsugo no me" (Mạt kì chi
nhãn), nghĩa là "Con mắt mạt kì", bản dịch tiếng Anh là "The eye
of the decaying age".
[9] Ikkyu (tức Nhất Hưu, 1394 – 1481): thiền sư phái Lâm Tế,
sống vào giữa thời kì Muromachi. Ikkyu là tên tự, còn biệt hiệu là Kyoun (Cuồng
Vân). Năm 21 tuổi, Ikkyu học với thiền sư Sodon ở Katata, một thị trấn bên hồ
Biwa (Tỳ Bà). ở đây, ông đã đạt ngộ (satori) vào năm 26 tuổi khi nghe một tiếng
quạ kêu vào cuộc tọa thiền giữa đêm. Từ đó ông bắt đầu sống một cuộc sống “cuồng
Thiền”, vượt ra ngoài mọi quy ước. Ông ăn thịt cá, uống rượu, lang thang ở các
thanh lâu, lấy vợ và có con như người bình thường. Ikkyu có để lại thi tập Cuồng
Vân tập (Kyounshu), gồm hơn một ngàn bài tứ tuyệt chữ Hán.
[10] Tariki (Tha lực): quan niệm của Phật giáo về việc ta có
thể nhận được sự giúp đỡ của một lực lượng khác trong quá trình tu tập.
[11] Jiriki (Tự lực): quan niệm của Phật giáo cho rằng
ta chỉ có thể tu hành và đạt đến giác ngộ bằng chính sức mình, không nhờ cậy
vào người khác được. Thiền tông là thuộc loại này.
[12] Shinran (tức Thân Loan, 1173-1262): người lập ra
phái Tịnh độ chân tông, sinh tại Uji, vùng ngoại ô phía Nam Kyotỏa vào năm
1173. Ông học với thầy Pháp Nhiên. Khi xảy ra sự kiện đàn áp phái chuyên tu niệm
Phật, Thân Loan bị đày đi Echigonokuni. Từ đây, ông giữ lập trường phi tăng phi
tục, rời bỏ cả giới luật của người xuất gia cũng như giới luật của người tu tại
gia. Thân Loan có vợ là ni sư Huệ Tín (Eshin), và có con như người bình thường.
Con gái út của ông sau này trở thành ni sư Giác Tín. Thân Loan cho rằng mọi người
đều tin vào điều nguyện của Phật A Di Đà và chỉ cần một lần thành tâm niệm Phật,
phó thác tất cả cho Phật A Di Đà là được cứu vớt.
[13] Bodhidharma (thế kỷ VI): vị tăng sư Phật giáo Ấn Độ,
tương truyền là thủy tổ Thiền tông Trung Quốc. Câu chuyện về cuộc đời ông có
nhiều màu sắc huyền thoại.
[14] Kim Nông (1687 - 1764): Danh họa Trung Quốc.
[15] Heian là tên gọi cũ của Kyotō ngày nay. Văn hóa
Heian (970-1181) là thời kỳ phát triển rực rỡ của văn hóa Nhật Bản.
[16] Cổ kim tập: tuyển tập hơn 1100 bài thơ Nhật Bản từ
thời cổ đến thế kỷ IX.
[17] Ise monogatari: chuyện kể về các thiên tình sử
trong hoàng cung; Genji-monogatari: kiệt tác trong văn xuôi cổ điển Nhật Bản,
gồm 54 hồi.
16/05/2007
Theo https://vietnamnet.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét