Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2020

Đêm trong thơ Hoàng Thụy Anh

Đêm trong thơ Hoàng Thụy Anh

(Đọc Người đàn bà sinh ra từ mưa, 
Nxb. Hội Nhà văn, H, 2017)
1. Không phải ngẫu nhiên trong 69 bài của tập thơ Người đàn bà sinh ra từ mưa đã có  hơn 40 bài thơ, Hoàng Thụy Anh sử dụng hình tượng Đêm. Đây là một trong những hình tượng thơ có sức ám gợi sâu sắc đến tâm thức, tâm cảm người đọc. Như vậy, có thể nói, vũ trụ thơ trong Người đàn bà sinh ra từ mưa là vũ trụ của đêm mà mỗi bài thơ là một thiên thể đêm với những mã thẩm mỹ riêng đầy tính dự phóng. Đêm trong thơ Hoàng Thụy Anh hiện hữu như một thực thể mà ở đó mọi cảm xúc của thi nhân về cuộc đời đều khúc xạ qua bóng đêm để phóng chiếu thành những dự cảm sáng tạo. Thế nên, thi giới trong thơ Hoàng Thụy Anh cũng là thi giới của đêm với những mỹ cảm đầy tính ẩn dụ, có tính biểu tượng sâu sắc được kết tinh trên nền của những suy tư đầy tính triết luận, điều hiếm thấy trong thơ nữ, vốn thiên về cảm xúc trữ tình. Đó là những câu thơ đầy tính tự vấn trước hiện thực cuộc sống và phận số con người đã tạo nên những chấn thương trong tâm hồn thi sĩ như một ám ảnh của vô thức và tâm linh.
Ta hãy lắng lòng nghe thi nhân thì thầm chia sẻ:
em kể anh nghe
về mùi mê hoặc của tổ tham vọng
về nhiều gương mặt dán trong một khuôn mặt
về nhiều dối trá xếp trong một trái tim
tràn căng
trườn thành phố đêm đêm
đã di căn
đang di căn
nhưng chúng không chết đi mà tiếp tục sinh sôi
ở một hình hài mới
ẩn dụ hơn
em kể anh nghe 
về đêm xanh lời
tháng giêng mềm và ẩm 
hạt tình tách vỏ trên tháp ngực
cháy môi hoa
tiếng thở còn đọng luân vũ âm dương
lướt dài theo
bất tận
em kể anh nghe
2.  Thơ là tiếng nói trữ tình, là nỗi niềm tinh vân kết tinh từ tâm cảm thi nhân. Song, nếu tình cảm trong thơ chỉ là thứ tình cảm dễ dãi với những cảm xúc nhợt nhạt, không kết hợp hài hòa với trí tuệ để tạo nên những thông điệp tư tưởng dung chứa những giá trị nhân văn thì tình cảm ấy cũng khó neo lại trong tâm thức người đọc. Tôi vốn là người đọc luôn  ý thức đi tìm giá trị tư tưởng của thơ. Nhưng đó là tư tưởng chứa đựng những ý niệm triết học, quan tâm đến thân phận con người trên nền tảng của một tư duy thơ mang tính nhân bản chứ không phải là những thứ luận lý, khô khan, giáo điều, nhàm chán được “đôn” lên thành “tư tưởng” mà một số nhà “lý luận - phê bình” vận dụng như một thứ “quyền uy” để đánh giá tác phẩm theo kiểu riêng của họ. Tư tưởng trong thơ là cánh cửa mở ra để khám phá vũ trụ tâm hồn thi nhân, là một thứ vân tay trên thẻ căn cước thi ca để xác tín nhân vị của nhà thơ trên thi đàn. Thơ thiếu vắng tư tưởng là thơ “tầm thấp”, bởi nó không có chiều cao của trí tuệ lẫn chiều sâu của tâm hồn. Vì vậy, nó khó trú ngụ trong ngôi nhà hữu thể của tâm thức người đọc. Rất may, thơ Hoàng Thụy Anh không phải là một thứ thơ nhợt nhạt như thế. Đêm trong thơ Hoàng Thụy Anh là những ảnh tượng chuyển tải tư tưởng của thi nhân đến với người tiếp nhận trên nhiều bình diện của đời sống hiện thực. Đó là nỗi đau về thân phận người phụ nữ vốn chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống được thể hiện bằng những hình tượng thơ lạ hóa khá độc đáo, tạo nên những mỹ cảm khác thường, quyến rũ tâm thức người đọc như những lời tự tình đầy tính nhân văn mà nếu không có sự trải nghiệm, thi nhân không thể thấu cảm một cách sâu sắc và tinh tế như thế!?
người đàn bà ngồi gặt đêm
gặt những lời đau chằng chịt trên môi
gặt mãi vẫn chưa đi hết cuộn mong manh
người đàn bà ngồi vớt đêm
vớt phận mình
vớt mãi cũng chẳng thể nào ra ngoài cái nhân vị bão bùng được thắp từ muôn kiếp trước
người đàn bà treo mình lên vách đêm
thấy bóng mình lặn sâu vào bóng đêm
nghe tiếng thở còm cõi 
nghe buồn đau nứt gầy 
rót xuống bốn mùa 
nhuộm xuống bốn mùa
người đàn bà và đêm
chấm đen câm lặng
chấm đen câm 
chấm đen
chấm
người đàn bà và đêm
Với những hình tượng thơ đầy sáng tạo của một tâm hồn tinh tế, nhà thơ đã vẽ lên một chân dung độc đáo về người phụ nữ mà ở đó nỗi đau khổ đã chìm vào bóng đêm, một bóng đêm câm lặng như chính sự cô độc và những nỗi đau lặng lẽ trong đời một người đàn bà. Để rồi cái số phận ấy kết tinh trong một “chấm đen câm lặng/ chấm đen câm/ chấm đen/ chấm…” chảy dài trong dòng sông phận người nghe “buồn đau nứt gầy”, “gặt những lời đau chằng chịt trên môi”…
Sự sáng tạo trong cách tách dòng những câu thơ, đặc biệt ở những câu thơ cuối của bài thơ như một dụng ý nghệ thuật đã khắc họa chân dung người đàn bà với ý nghĩa biểu tượng mang tính triết luận sâu sắc. Qua những câu thơ này, đêm hiện lên như một cây thập giá treo cuộc đời và định mệnh của người đàn bà lững lơ giữa chốn nhân gian mà dẫu Chúa Jesus có bị đóng đinh để cứu rỗi nhân loại khỏi nỗi đau trần thế thì liệu có cứu được phận số người phụ nữ ra khỏi những khổ đau chìm khuất trong đêm!?
Đọc thơ Hoàng Thụy Anh, hình tượng đêm và phận số người đàn bà với bao nỗi khổ đau của kiếp người cứ ám mãi tâm trí ta như một thứ mộng mị vô thường, khiến ta như lạc vào thế giới của bóng đêm, một bóng đêm mang màu sắc hiện sinh mà nếu nhà thơ không có thiên năng, không có những nghiệm sinh trong cuộc sống với những nỗi đau của chính mình, không thể viết được những vần thơ đầy ám ảnh như thế!?
Nỗi đau về thân phận con người nói chung và người phụ nữ nói riêng được nói đến khá nhiều trong văn chương nên không phải là vấn đề mới, lạ. Trong ca dao Việt Nam, cũng có cả một lớp ca dao than thân khi nói đến nỗi bất hạnh của người phụ nữ như: Thân em như tấm lụa đào/ thân em như hạt mưa sa/ thân em như giếng giữa đàng/ thân em như… Còn trong văn học trung đại, nỗi đau của người phụ nữ cũng được nói đến trong nhiều tác phẩm như: Chinh phụ ngâm của Đăng Trần Côn, Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, Thơ Hồ Xuân Hương… Và với tất cả niềm cảm thông đến đau đớn đại thi hào Nguyễn Du đã thốt lên một cách thê thiết niềm cảm thương của mình trong truyện Kiều bất tử: Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Trong thơ Hoàng Thụy Anh, nỗi đau của thân phận người phụ nữ được nhà thơ nói đến cũng không nằm ngoài từ trường của những cảm hứng văn chương nữ phận. Nhưng cái khác ở thơ Hoàng Thụy Anh, nỗi đau ấy đã trở thành nỗi ám ảnh được tác giả thể hiện theo cách riêng của mình qua những hình tượng thơ giàu tính biểu tượng để tạo thành những diễn ngôn mang cảm thức hiện sinh của cuộc sống hiện đại. Đó là hình tượng những “người đàn bà rướn mình vào bóng tối/ thấy đêm không thể thoát ra ngoài gương mặt bồ hóng cũ kỹ/ giống hệt sợi đau mãi nằm co ro giữa vùng trũng/ người đàn bà vẫn cần mẫn vá lỗ đêm bằng đường chỉ tự do/ khép cơn khóc rỗng giọng sau tiếng thở dài”, để “nhận diện và gọi tên từng vết thương đang chảy tràn qua nhau”, “người đàn bà vẫn cần mẫn vá lỗ đêm bằng đường chỉ tự do/ khép cơn khóc rỗng giọng sau tiếng thở dài/ người đàn bà giao ước với đêm/ chia đều mớ mưa/ chẳng phải để mua chẳng phải để bán chẳng phải làm quà/ chỉ để nhận diện và gọi tên từng vết thương đang chảy tràn qua nhau”… Những diễn ngôn này dường như không tìm thấy trong ca dao cũng như trong văn học trung đại khi nói đến nỗi khổ của phận đàn bà. Và đây chính là đóng góp của Hoàng Thụy Anh nói riêng và thơ Nữ Việt Nam đương đại nói chung vào việc khắc họa chân dung tinh thần của phận số người phụ nữ cần được ghi nhận.
Không chỉ nói đến nỗi đau mà khi nói về nỗi buồn của người phụ nữ, Hoàng Thụy Anh cũng tạo cho mình một diễn ngôn riêng, thể hiện một sự tìm tòi, đầy sáng tạo. Nhà thơ không diễn đạt dễ dãi, màu mè, sáo rỗng, làm dáng như một số nhà thơ nữ khác, trái lại luôn biết cách chọn lựa và sắp đặt ngữ ngôn một cách tinh tế nên đã tạo được hiệu ứng nghệ thuật nơi người tiếp nhận.
đêm lòn qua bóng đêm
nhấm lại
tiếng thở dài đã cũ
vết thương đã cũ
cơn buồn đã cũ
để lót tổ
để nỗi đau tiếp tục hoài thai
đẹp như nỗi buồn đã cũ
Đọc thơ Hoàng Thụy Anh, ta thấy Đêm không chỉ là nỗi ám ảnh của vô thức và tâm linh mà còn là hành trình sống gắn với nhiều trải nghiệm, với sự sáng tạo của thi nhân được thể hiện qua những con chữ mà những con chữ ấy như gánh cả nỗi đau và niềm cô đơn thân phận. Vì vậy, chữ trong cõi thơ Hoàng Thụy Anh không chỉ là những ký hiệu vô hồn mà là những thực thể tồn sinh trong khí quyển đầy phẩm tính hiện sinh của đêm.
trên biển giấy
những con chữ buôn ánh sáng lầm lũi xâu đêm băng qua biến tấu lưỡi
cõng những con cá mũi hếch tự kỷ đáy ngầm máu tươi 
chạy khỏi đường ray lõm cong sự thật
đêm mòn mỏi tặc lưỡi
em ngồi gấp mép chữ làm chi
em ngồi gấp mép chữ làm chi
chữ tôi
ý niệm tôi
phiên bản tôi
cơn khát tự do không bao giờ vô sinh
khát
giấu nanh vuốt tuyệt vọng lên đôi tay sũng lạnh
dù nông dù sâu em vẫn xăm trổ đêm bằng dãy ký tự hây hây
đêm nay
em sẽ vuốt ve những con chữ đang hừng hực tựa người đàn bà mặn mòi ưỡn đồi mơ
bung cánh chật dưới lớp áo trăng
đừng khép mắt anh nhé
hãy thức để thấy mùi tình nẩy trên trang em
trang em
Và những con chữ mang phẩm tính hiện sinh thể hiện trong thơ đã mở ra một trường nghĩa khác về hình tượng đêm trong thơ Hoàng Thụy Anh. Vì vậy, ngoài những ám ảnh về phận số người phụ nữ với những buồn vui và đau khổ trong cõi nhân gian, đêm trong thơ Hoàng Thụy Anh còn gắn với những trạng thái khác nhau của tình yêu đôi lứa mà ở đó khát vọng yêu đã thấm đẫm những giọt đêm với những ái ân nồng nàn, tận hiến của người phụ nữ khát yêu đến khôn cùng. Thế nên, thơ viết về tình yêu của Hoàng Thụy Anh dường như không thoát khỏi sự ám ảnh của đêm. Và đêm đã trở thành dòng sông mà ở đó con thuyền tình yêu cứ lênh đênh, bồng bềnh trong một cảm thức chơi vơi, bí ẩn, chắp cánh cho sự tưởng tượng nơi người đọc, dẫn dụ họ đi vào thế giới của khao khát, chờ mong, khám phá, vốn là một yếu tính của tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau của một tâm thức hiện sinh.
Đó là nỗi đau tê buốt trong đêm khi tình yêu không thành
thử bấu đêm
thử cào đêm
buốt đau ngực em điều bất ngờ dội lên từ biển
anh đã chôn vùi suối mơ em
mặc niệm thi ảnh
sau đường mưa trơn
ký tự biệt ly treo 
tuổi xanh
anh có nghe
Đó là nỗi khao khát kiếm tìm, một phẩm tính không thể thiếu trong tình yêu:
lúc này
chỉ có con sông mặc niệm và cánh đồng thinh lặng trĩu đêm
ở bên em
gió búng gió
em búng em
chải những buốt đau cuộn rối
anh biết không?
từng sợi muối bay ra từ mắt em mắt đêm
cũng làm hạt nắng thôi nảy mầm thôi lên men
trở mình
hấp hối 
gối đầu vào bóng tối
mặn
Hay những vui buồn vây khốn tâm hồn vốn là những cảm xúc thường hằng trong cõi yêu:
một mình xao xác bên ô gió
rót tràn tách đêm
tràn nụ cười em
phiến buồn vẫn xuyên qua cánh đồng bỏng khát
chồi
Vì vậy, đêm trong thơ Hoàng Thụy Anh là đêm chứng nhân của những tình yêu tận hiến, viên mãn, đầy khao khát hiện sinh của người đàn bà đang đốt cháy mình trong biển lửa tình yêu đầy huyễn hoặc và huyền bí của đêm. Nhưng đó cũng là đêm với những hoài nghi và nỗi lo âu phận số. Đêm là kết tinh của những cô đơn, của tâm thức lưu đày mà khi đối diện với nó, con người như thấy mình ngập chìm, tan chảy trong trạng thái rỗng không của một thế giới hư ảo, mỏng manh với những khát vọng không thành.
em tự huyễn hoặc mình
ừ, hôm nay anh sẽ đến
gieo cánh nồng xuống môi em
thắp lửa bầu ngực đêm miên man
em vẫn tin những tận hiến bùng cháy
loang chảy mải miết về phía anh
chuếnh choáng chấm lên dòng nhớ
một nốt yêu
nhớ anh
anh đến lúc
mùa nhớ giấc em cháy từng lọn tóc
ôm em khâu lại đồi nguyên sinh
những ngón tay đan những ngón tay
những ngón tay vung sợi lửa
gieo
nụ hôn mặt trời
em thêm lần nữa
nhả khát
chải lòng biển đêm
khát
Tìm về với đêm là tìm về với chính mình, để đối thoại với bản thể trong những khoảnh khắc mà ở đó con người muốn sống với tất cả sự thành thật của mình. Đối với người đàn bà, đêm vì thế, là một không gian sống gần gũi, quen thuộc, phù hợp với tâm lý sống lặng lẽ, thâm u, thầm kín của phụ nữ. Đêm là âm nên đêm bao giờ cũng hướng nội, như người phụ nữ bao giờ cũng lặn vào bên trong, chôn chặt cuộc tình trong những hoài niệm, hồi ức, nhớ thương… Với những tình yêu không thành, đêm lại là một vũ trụ để người phụ nữ ấn nấp, tìm quên, giải bày, tình tự, sẻ chia những điều mình không thể sẻ chia với tha nhân về những gì họ trân quí, yêu thương mà không thể đồng hành trong cuộc đời…
Đó là những nỗi nhớ “dâng đầy cào rát mặt đêm”
đêm chìa tay đón những linh hồn hồi sinh
sau tấm màn đen
em vẫn thao thức khát điều kì diệu
từ phía không anh
tình kết bằng chùm hoa nắng
chưa đủ ghim về bến em
nỗi nhớ cứ thế dâng đầy cào rát mặt đêm
dấu tích
Hay là những nụ hôn ngập tràn cảm xúc hiện sinh, đang trào dâng mãnh liệt của nỗi khát yêu trước “biển chiều vo rúm”:
biển chiều vo rúm 
tràn anh
anh lại tràn em 
nụ hôn gối chùm hôn 
thời gian luýnh quýnh thắt nút môi lên lớp vảy thời gian
anh khát em như biển khát vĩ cầm khúc muôn trùng hoa sóng như hoàng hôn khát những giọt ngày lấp lánh
nhắm mắt đi em
nhắm mắt đi anh
đôi ta cùng ôm cùng xoay cùng bay trên đỉnh tình
rã rời 
mê tơi
vệt mùa xếp hàng
rạn
rạn
thèm 
cài then một vốc yêu giữa lưng chừng yêu
và chúng mình
sẽ khóa đêm bằng tim nắng 
sẽ thai nghén mật ước bỏng cát về
mùa len
tim nắng
Hay một nỗi nhớ chảy dài trong đêm với những xa xót lúc không anh:
anh đi rồi
em chỉ biết trốn vào giấc mơ băng qua mạng đêm tựa mũi tên cố lao về dấu đỏ miền ước tìm nơi định vị
câu hát buồn đến nỗi thành phố nhộn nhịp kia cũng hoe mắt rưng rưng
giọt giọt buông như từ nghìn xưa bay đến hôm nay
chảy vời vợi 
ôm từng ngõ đêm
ôm từng lời em
ngập em bằng cơn đau rả rích
quàng mấy vòng thương vòng nhớ mới sưởi ấm được hạt tim em bây giờ hỡi anh yêu
ôi những sợi nước đêm qua
sớm mai đã chín mọng em rồi
biết có sợi nào vấn vít
vắt từ em sang anh
anh đi rồi
Để rồi nỗi nhớ ấy đã trở thành một “căn cước tình” như một chứng nhân đeo đẳng mãi cuộc đời em. Đêm trong thơ Hoàng Thụy Anh khi nói về tình yêu vì thế, cũng là một thứ căn cước minh chứng cho chính sự hiện hữu về nhân vị của thi nhân trên thi đàn.
mắt đêm kéo từng sợi đàn
ngấn màu hoa muối
em yêu anh bằng trái tim tình si của người đàn bà cỏ may 
chỉ biết thêu cuộc tình bằng đường bay của gió 
mỗi đêm 
mỗi đêm
tự nghiệm
buồn buốt vỡ van tĩnh mạch 
cơn đau nhoài lưng vật vờ  
tìm điểm tựa
đâu rồi
tóc lòn kẽ tay chảy muốt mùa gối mật
anh trôi em
em trôi anh
đường thời gian xoáy lõm liên chương thương nhớ
căn cước tình
Là phụ nữ, hơn ai hết, Hoàng Thụy Anh đã cảm nhận nỗi đau của phận đàn bà bằng tất cả sự nghiệm sinh của chính mình nên thi nhân đã rất có ý thức khi sử dụng biểu tượng đêm như một mã thẩm mỹ để chuyển tải những diễn ngôn của mình về thân phận lạc loài, cô đơn và thương đau của người phụ nữ trong xã hội hiện đại mà chính mình đang sống với tất cả sự dấn thân. Điều mà tưởng chừng chỉ có trong đời sống của người phụ nữ thời quá vãng. Thơ Hoàng Thụy Anh vì thế, mang tính nhân văn sâu sắc. Bởi những điều tác giả đặt ra đã chạm đến trái tim của con người trong một xã hội mà sự vô cảm, nhất là sự vô cảm với sự khổ đau trước những bất hạnh của đồng loại đang trở thành một cơn dịch bào mòn nhân tâm con người.
người đàn bà giao ước với đêm
chia đều mớ mưa
chẳng phải để mua chẳng phải để bán chẳng phải làm quà
chỉ để nhận diện và gọi tên từng vết thương đang chảy tràn qua nhau
cuộc đời người đàn bà đan cơn mưa cơn mưa đan người đàn bà
như đốm buồn này luồn đốm buồn khác
như kẹt đau này chồng kẹt đau khác
giấc ngủ nào mới đến đã cạn cuối bấc đêm
người đàn bà sinh ra từ mưa
3. Có thể nói, trong tập thơ Người đàn bà sinh ra từ mưa, những bài thơ hay nhất, để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người đọc chính là những bài thơ viết về đêm và mưa. Vì vậy, cùng với đêm, mưa xuất hiện khá nhiều trong thơ Hoàng Thụy Anh và cũng là một mã thâm mỹ độc đáo trong thế giới tâm hồn của thi nhân. Không những thế, mưa còn là một tâm thức hiện sinh như một cõi riêng chứa bao điều trăn trở về cuộc đời, về thân phận, về tình yêu mà những bài thơ như: mua gánh mưa; ý nghĩ bất chợt không đến từ môi đêm môi mưa; trò chuyện với hai chú cá về những điều ngoài cơn mưa; cuộc đời này cần bao nhiêu cơn mưa tự do; người đàn bà sinh ra từ mưa… là một xác chứng. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi nhà thơ lấy tên bài thơ Người đàn bà sinh ra từ mưa làm tựa đề cho tập thơ - Một tựa đề có giá trị biểu cảm và tính ám gợi sâu sắc đối với tâm cảm người đọc. Cõi thơ Hoàng Thụy Anh là cõi thơ của những phận số chứa nỗi khổ đau của người phụ nữ. Thế nên, những bài thơ luận bàn về những vấn đề xã hội trong tập thơ không thật sự thành công cả trong giọng điệu, ngữ ngôn và cảm hứng thi ca. Thơ của Hoàng Thụy Anh không phải là thơ của những phản biện xã hội mà đó là thơ của những trở trăn, ưu tư về thân phận con người mà trung tâm là phận số người phụ nữ mà bản thân thi nhân cũng là một thân phận. Mặt khác, để tạo cho mình một phong cách riêng, một dấu ấn trong tâm thức người đọc, Hoàng Thụy Anh cũng cần dụng công hơn nữa trong việc tinh lọc từ ngữ, hình ảnh và cảm xúc trong thơ, tránh dùng những từ ngữ, những hình ảnh, những cảm xúc quá quen thuộc trong thơ nữ hiện nay.           
Người làm thơ khi hiểu được cái gì làm nên thi giới của riêng mình để tập trung thể hiện, thì dễ có những thành công hơn khi đi vào những vấn đề không hợp với thi giới của mình. Muốn định hình một phong cách thơ không có con đường nào khác là phải khám phá chính thế giới nội cảm của mình để gắn bó với nó thì mới tạo được một cõi thơ riêng và tạo được ấn tượng nơi người đọc. Hy vọng Hoàng Thụy Anh sẽ nhận ra điều này trong hành trình sáng tạo thơ của mình để đem đến cho thi đàn những áng thơ hay, neo đậu được bền lâu trong tâm cảm người đọc. Tuy nhiên với những cố gắng và khao khát sáng tạo của mình trong tập thơ đầu tay này, hy vọng Hoàng Thụy Anh sẽ được bạn đọc đón nhận với tất cả tình cảm tri âm để từ đó làm nhịp cầu bước vào cõi vĩnh cửu của thế giới thơ ca mà không một người nào cầm bút làm thơ lại không mơ ước.
Tôi tin và kỳ vọng vào hành trình sáng tạo thơ của Hoàng Thụy Anh… 
Xóm Đình An Nhơn Gò Vấp, Những ngày chuyển mùa…
Sài Gòn, 30/3/2017
Trần Hoài Anh
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh Thực lòng lúc ấy tôi bỗng ứa nước mắt. Nhưng bất giác tôi kịp tỉnh ra là mình đã bắt đầu làm cho...