Thứ Ba, 8 tháng 12, 2020

Ba người bạn, một cuộc chiến 1

Ba người bạn, một cuộc chiến 1

Lời mở đầu
Ba Người Bạn, Một Cuộc Chiến là một truyện dài hồi ký dã sử tiểu thuyết gồm 10 chương ghi lại cuộc đời của ba người bạn học đất Thần kinh trong thập niên 40 và 50... Họ đã sinh ra và trưởng thành với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này. Định mệnh đã đưa ba thanh niên, thiếu nữ vào một hành trình nhiều gian truân, phiêu lưu mạo hiểm và là nhân chứng của những trận đánh tàn khốc giữa Quân đội Pháp và Việt Minh trên khắp chiến trường từ các tỉnh lỵ tại cao nguyên Trung phần đến các làng xóm miền duyên hải Việt Nam. Tập truyện tiểu thuyết với nhiều hư cấu, còn mang tình tiết éo le, phản ảnh tâm tư khắc khoải của những người trai trẻ thời tiền chiến, tình yêu ngây thơ, tranh sống vội vã, lãng mạng đa tình, lớn hơn trước tuổi học trò. Ngoài ra truyện này còn nói lên niềm tâm sự của những con người mang nhiều lý tưởng, bị ảnh hưởng bởi các phong trào đấu tranh giành độc lập. Trừu tượng hóa nhân vật để đưa họ vào những biến cố thật sự xảy ra trong lịch sử của dân tộc. Tiểu thuyết hóa dữ kiện để tạo nên tính cách hấp dẫn của một tập truyện. Hậu quả của chiến tranh được diễn tả trong suốt câu chuyện là những đau thương thật sự không thổi phồng. Một vết thương đã ăn sâu vào xương tủy của dải đất khô cằn từ vùng thượng du Bắc Việt, xuyên qua dãy núi Trường Sơn xuống tận miền đồng bằng sông Cửu Long. Vết thương đã trở thành chiếc sẹo to lớn xấu xí trên thân thể Mẹ Việt Nam cho đến mãi ngàn năm. Chiến tranh tự nó đã nói lên sự tàn phá quê hương, giết chóc dân lành vô tội bị kẹt giữa các trận chiến đẫm máu. Ba Người Bạn trong Một Cuộc chiến đã đi vào ba môi trường sống khác nhau, nhưng vẫn duy trì được trong tâm tư của họ sợi dây vô hình thiêng liêng cao đẹp của tình bằng hữu.
Ghi chú của Tác giả
Tập truyện dài này là một sản phẩm tiểu thuyết. Những nhân vật, tên tuổi, địa danh đều được tiểu thuyết hóa. Tất cả sự trùng hợp nếu có hoàn toàn ngoài ý muốn của Tác giả.
Chương 1: 
Vườn sắn sau trường Tiểu học được trồng và chăm sóc bởi hai vợ chồng ông cai trường. Những thân cây cao tròn, lá sắn xanh mướt vì được vun xén tưới nước hằng ngày. Phía bên hông vườn sắn là những dàn mướp đắng, bầu... trái dài phết xuống đất, nhìn thiệt sướng con mắt. Cạnh những dàn bầu, mướp là những vồn cà chua, ớt chỉ thiên đủ màu, đen trắng đỏ lục. Ông cai thường nói là ớt màu đen là ớt cay nhất, ăn vào là cay điếc cả lỗ tai. Trường Tiểu học Thanh Long nằm cạnh bờ sông Hàng Bè, một nhánh của sông Hương chảy qua cầu Gia Hội và trường tọa lạc gần cầu Thanh Long về hướng đồn Mang Cá. Trường xây cất theo lối Tây phương, với tường gạch và mái ngói màu đỏ. Trường rất xinh xắn, chỉ có năm lớp học, trần nhà cao và sáng sủa vì chung quanh là những cửa gương lớn. Cổng trường xây về hướng Đông nhìn ra sông, vì thế các lớp học rất là mát vì gió sông thổi vào. Phía sau lưng trường là sân cờ và cũng là sân tập thể dục của học trò. Sân cũng không lớn lắm nhưng có sân bóng chuyền nằm cạnh bên cây mít cao và đầy trái thơm lừng. Ông cai trường được phép xây một cái am nhỏ để thờ, nghe đâu là thờ cô hồn yểu tử thì phải, vì theo ông kể lại, vào đêm Nhật đảo chánh Tây, có nhiều lính Tây Lê Dương chạy thoát từ đồn Mang Cá, vào trốn trong trường. Sau đó lính Nhật đi lùng và giết ba bốn tên Lê Dương tại sân cờ gần cây mít. Bà cai trường nói có nhiều đêm bà thức dậy đi tiểu, bà nghe tiếng cười và thấp thoáng bên cạnh cột cờ hình như có bóng những người cao lớn đi qua đi lại như đang đùa giỡn với nhau.
Những cô cậu học trò, trong giờ ra chơi, thường đến chiếc bàn nhỏ của bà cai trường bày bán bánh kẹo, khoai sắn nhà vườn, để nghe bà kể chuyện ma. Các cậu học trò con trai làm bộ như ngon lành lắm, không sợ ma, trước mặt mấy người đẹp đang run rẫy nắm lấy tay bạn. Sợ thì cũng có nhưng mấy cậu thường leo lên cây mít để hái mấy trái mít con vừa chớm nụ đem xuống chấm muối ớt ăn với nhau. Ông cai trường rình rập dữ lắm, nếu mà ông bắt được học trò nào leo lên cây mít hoặc là phá mấy cây cà, cây ớt của ông là ông dẫn lên cô Đốc Hương, cô hiệu trưởng và bắt phạt ở lại sau giờ học chờ cha mẹ đến nhận về. Nếu bị bắt nhiều lần các cô hay cậu này có thể bị đuổi không cho học nữa.
Cô Đốc Hương có tiếng là khó và bắt học trò giữ kỷ luật dữ lắm, nhưng được cái là cô rất thương học trò như thương con ruột của mình vậy. Con trai của cô là thằng Trung cũng theo học lớp nhất tại trường này. Thằng này tính tình hiền hòa và dáng đi ẻo lả như con gái, lại hay mu khóc, mỗi lần bị mấy đứa bạn trai khác chọc quê là nước mắt chảy dài ra, nhưng lại không dám mét với cô Hương vì cô không thích con mình được đối xử đặc biệt hơn những học trò khác. Vì thế Trung ưa làm bạn với những đứa to con để che chở cho hắn. Hắn thường mua kẹo kéo hoặc cà rem cây của những người bán dạo trước cổng trường để hối lộ cho mấy người hùng cận vệ .
Một trong những người bạn thân của Trung là Nguyên, cũng học lớp nhất. Nguyên là cháu ngoại của ông bà cai trường. Dáng dấp chững chạc, cậu lớn hơn trước tuổi và là học trò trưởng lớp. Mặc dù còn có nhiều học sinh lớp nhất khác trong trường nhưng với tư cách và giọng nói rất oai nên cô Hương chỉ định cho Nguyên điều khiển và đánh nhịp cho học sinh hát Quốc ca mỗi sáng thứ hai trong buổi lễ chào Quốc kỳ.
Nguyên lại là học sinh ưu tú của trường, rất giỏi toán, chơi bóng chuyền hay nhờ thân thể cao hơn những học trò khác. Ngoài ra với giọng ca thiên phú, Nguyên hát rất nhuyễn nên thường hay lên sân khấu trình diễn trong những buổi văn nghệ do trường tổ chức. Cứ mỗi lần đang chọc ghẹo Trung mà thấy Nguyên từ đằng xa đi tới là mấy cậu nhóc im thinh thích rồi lảng ra chỗ khác. Nhưng Nguyên có làm gì tụi nó đâu, cậu ta chỉ nhìn thôi mà các cậu đó đã thấy khớp trước tia nhìn nghiêm nghị của Nguyên rồi. Trung thường hay khoe với Nguyên những bức họa chân dung mà Trung thường vẽ vội trên giấy học trò, sao mà nó đẹp và giống thế. Nhất là bức tranh mà Trung vẽ hình của Huyền, cô bạn gái thân thiết của Nguyên. Mới nhìn vào là thấy cái miệng cười với lúm đồng tiền tức khắc, rồi còn đôi mắt nữa. Mặc dù được vẽ bằng bút chì, nhưng nhìn thấy ngay đôi mắt tròn to đen lánh của Huyền.
Ngày hôm ấy khi Trung kéo tay Nguyên ngồi trên thành xi măng của cái giếng bên hông sân tập thể dục, rồi từ tốn lấy trong tập bìa cứng ra bức họa chân dung của Huyền, Nguyên rất ngạc nhiên, không những về tài vẽ tranh của Trung mà còn ngạc nhiên vì không hiểu Trung đã để ý đến Huyền từ khi nào đến độ vẽ cả hình ảnh của Huyền. Hơn nữa qua những lần tâm sự và đi chơi dọc bờ sông vào những buổi chiều tắt nắng, Nguyên biết Huyền không thích cậu học trò “có dáng đi ẻo lả như con gái” này đâu. Ngược lại, Nguyên biết Huyền rất thích chơi với Nguyên, nàng thường rũ Nguyên đến nhà cha mẹ vào cuối tuần và đã nhiều lần chia cho Nguyên những miếng kẹo chocolate Tây ngọt lịm.
Huyền có nét đẹp của cô gái lai Tây Ban Nha, với nước da ngâm đen và đôi mắt bồ câu đen lánh. Nàng vừa được mười một tuổi nhưng thấy lớn hơn trước tuổi. Những khi nàng mặc áo thun màu xanh dương, Nguyên đã nhiều lần đỏ mặt khi thoáng nhìn thấy ẩn hiện sau chiếc áo mỏng, hai hạt bắp nhỏ trên hình tròn của hai trái cau không che dấu của Huyền. Mái tóc Huyền năm ngoái được mẹ cắt theo kiểu búp bê, năm nay mẹ Huyền chìu nên cho Huyền nuôi mái tóc đen dài xuống tận vai, làm cho nàng có vóc dáng của cô gái dậy thì hơn là cô bé sắp lên lớp đệ thất trong mùa tựu trường niên khóa tới. Khi Huyền cười, chiếc má lúm đồng tiền càng tăng thêm vẻ duyên dáng của đôi môi hình trái tim. Đôi lông mày đậm nét càng làm cho khuôn mặt trái soan thêm đậm đà. Huyền thường là trung tâm điểm của những cậu học sinh lớp nhất khi nhìn nàng nhảy giây với những bạn gái cùng tuổi. Chúng nó thường đứng trố mắt nhìn nàng nhún nhảy, nhìn hai trái cau tươi hiện ra sau chiếc áo trắng ướt đẫm mồ hôi, rồi chỉ chỏ chọc ghẹo Huyền, nhưng Huyền cứ tỉnh bơ. Mỗi lần như vậy là Nguyên bỏ đi chơi chỗ khác, mặc cho Huyền vừa nhảy vừa liếc tìm cậu bạn trai ưng ý nhất của nàng.
Năm ấy Nguyên cũng vừa lên mười một tuổi, nhưng trên giấy khai sinh, khai là vì sổ bộ bị thất lạc nên chỉ khai lại mười tuổi thôi. Cũng giống như Huyền và Trung, hai đứa nó cũng khai trụt tuổi, Huyền thì mười hai, khai lại là mười một, tuổi con Heo mà. Còn Trung thì là tuổi con Chó, sinh năm một ngàn chín trăm ba mươi bốn, nhưng lại khai trụt hai tuổi, thành thử trên giấy tờ, Trung chỉ mới mười một tuổi. Ba người bạn học lại được cha mẹ cho đi học trễ và lại bị gián đoạn vì hoàn cảnh chiến tranh trên quê hương, nhất là tại cố đô Huế. Nào là Nhật đảo chánh tại Tòa Khâm, Tây đầu hàng rồi Tàu vào Huế tước khí giới lính Nhật Bản khi Đồng Minh đánh bại nước Đại Á, có lá cờ mặt trời mọc. Thôi thì tùm lum, cha kể chuyện cho Nguyên nghe khi ông nằm dài trên chiếc phản gỗ để Nguyên nhổ tóc bạc cho ông, thật vì lo nghĩ nhiều quá nên mới có bốn mươi ba tuổi đời mà tóc ông bạc cũng nhiều rồi.
Nguyên nghĩ chừng nào càng thấy thương cha mẹ nhiều chừng đó. Tâm trí Nguyên luôn luôn nghĩ đến những kỷ niệm đau buồn của mình, sinh ra trong chiến tranh, trên một quê hương bị thống trị bởi lũ thực dân đi tìm thuộc địa. Và cũng như những quốc gia nhược tiểu khác trên thế giới, nước Việt nam cũng cùng chung cảnh ngộ bị lôi kéo vào cuộc Đệ nhị thế chiến khi Nguyên vừa mới biết chạy và biết sợ khi làm rơi đồ vật quý của cha mẹ.
Hai vợ chồng người dân quê, mặt mày đen đúa với vết than đầy mặt, hai chân không, đang rảo bước trên con đường đất đi về hướng An Lỗ, về cây số mười bảy. Trên vai mỗi người là một túi gạo khoảng mười kí lô, chiếc áo dài đen sờn vai ẩm ướt dính vào thân hình gầy còm của hai người dưới cơn nóng oai bức của mùa hè xứ Huế.
Thỉnh thoảng hai người bước chậm lại để chờ cậu con trai nhỏ chừng khoảng sáu hoặc bảy tuổi, vai cũng mang một bao nhỏ đựng một hai kí lô gạo, đang chân không chạy lơn tơn theo cha mẹ. Cậu bé cũng mặc chiếc áo dài đen cụt ngủn ngang quá đầu gối. Mặt mày Nguyên, tên cậu bé, đỏ hồng như cô bé gái vì sức nóng của thời tiết và vì cậu ráng sức vác bao gạo đi nhanh cho kịp bố mẹ kẻo chậm lại khi đến làng La Chữ thì trời tối lắm.
Con đường từ Huế đến làng La Chữ khoảng chừng mười một cây số. La Chữ nằm về phía trong núi phía tây của quốc lộ Một trên đường đi ra Quảng Trị. Đây là làng của bà vợ lớn cũ đã ly dị của cha Nguyên. Bà có một căn nhà ở chỗ này và cha đã quyết định tản cư và rời Huế đưa hai mẹ con Nguyên lên đây để trốn Tây. Ông sợ ở dưới Huế, Tây bắt thanh niên và nghe đâu tụi Lê Dương hãm hiếp đàn bà con gái dữ lắm, vì vậy nên mặc dù bà vợ lớn không bằng lòng ông cũng năn nĩ và cuối cùng vác gạo lên đường với hai người thân yêu của ông đi lánh nạn. Nhìn người vợ trẻ phải bôi mặt với than đen cho xấu và đứa con vừa chập chững vào đời, lòng ông thắt lại. Ông dừng lại, để bao áo quần và bao gạo xuống bên vệ đường, móc trong túi áo ra một cây kẹo mè xửng, rồi ngồi chò hỏ chờ Nguyên đến gần, vừa đưa cho con, vừa hôn vào chiếc má lấm tấm từng hột mồ hồi nhỏ, khen vài câu, xoa đầu đứa con trai rồi xách hai bao vải tiếp tục cuộc hành trình di tản.
Đêm đã về khuya, Nguyên nằm trên chiếc chiếu trải trên nền đất phía nhà sau, Nguyên không ngủ được, đâu phải vì sợ nhà lạ hay đêm tối, đã có cha mẹ mình nằm hai bên mà. Nhưng Nguyên không ngủ được vì đang lắng tai nghe tiếng tụng kinh của ông thầy tụng trầm bỗng trong đêm trường, nghe hay và buồn làm sao không tả được. Cái giọng Huế lên xuống theo tiếng chuông mỏ khi thì kéo dài, khi thì ngắt đoạn đưa tâm tư của cậu bé lâng lâng như bị thôi miên vào tiếng kinh kệ.
Hồi chiều khi ba người vừa đến nhà của bà vợ lớn, ông thầy chùa ra chào và hỏi về tình hình ở Huế, có vẻ như là muốn biết nhiều về sự di chuyển của Tây trong thành phố. Nhưng cha của Nguyên nói ông có biết gì đâu. Chỉ mỗi cái việc lo mua vài chục kí lô gạo, rồi thu xếp, rời cái nhà nhỏ dưới bến đò Cồn mà còn sợ không kịp trước khi Tây đổ bộ lên từ Thuận An. May mà chạy trước khi Tây đến, chứ không bây giờ chắc cũng bị kẹt ở trong Huế rồi. Sau khi ăn cơm sơ sơ xong, ông thầy chùa rời nhà đi đâu không biết mãi đến gần khi trăng mười chín mọc, ông mới trở về và bắt đầu tụng kinh khi trong nhà sửa soạn tắt những ngọn đèn dầu phụng leo lét để đi ngủ. Vừa nằm một lúc cha mẹ của Nguyên có lẽ vì thấm mệt với cuộc hành trình trong ngày nên Nguyên đã nghe tiếng ngáy của cha và hơi thở nhẹ nhàng của mẹ, đang choàng tay qua ôm đứa con trai thân yêu nhất của mình như sợ bị đánh mất giữa cuộc chiến gian khổ của đất nước và cuộc đời gian truân của chính mình. Riêng Nguyên thì cứ nằm yên lặng nhìn những hình bóng kỳ lạ nhảy múa trên bức tường, trong ánh đèn chập chờn của ngọn đèn dầu phụng từ nhà trên rọi xuống, thoang thoảng trong mơ tiếng chuông mỏ xa dần rồi Nguyên chìm từ từ vào cơn ngủ mê khi nào không hay.
Hai vợ chồng và đứa con trai lên La Chữ được hơn một tuần. Mỗi ngày mẹ thường ra chợ đầu làng bán những áo quần cũ mang từ Huế lên để kiếm thêm tiền mua thức ăn. Đây là những áo sơ mi, áo vét tông của cha và những chiếc áo dài, đồ bộ bằng lụa mà cha của Nguyên đã sắm cho vợ mình khi ông còn giàu có, lúc vừa mới đem mẹ về làm dâu cho gia đình. Sau đó vì lý do thất bại trong việc làm ăn mà chỉ trong vài năm sự nghiệp tan tành, chỉ còn lại một ít tiền để chi tiêu qua ngày. Mẹ rất buồn khi phải bán đi những kỷ vật của mình, nhưng lúc này giữ lại thì không có tiền mua gạo, thôi thì hy sinh một tí cũng được.
Cha Nguyên lúc nào cũng ngồi cạnh vợ tại chợ cho khi đến khi chợ tan rồi mới về. Trong khi cha mẹ ra chợ, Nguyên chạy chơi với mấy đứa con những người nông dân ở gần đó. Chúng nó chăn trâu tài lắm, trâu to như vậy mà nghe lời tụi nó răm rắp, biểu đi là đi, biểu đứng lại là đứng lại liền, nếu không tụi nó dùng cành cây tre nhỏ đập vào chiếc mông to tròn của con trâu. Nguyên được một anh lớn tuổi, khoảng chừng mười hai mười ba gì đó, bồng nó lên cởi lưng trâu, Nguyên khoái lắm, đây là lần đầu trong đời được ngồi trên lưng trâu. Sao mà nó êm đến như vậy. Những khi trâu rảo bước chầm chậm, Nguyên sợ té nhưng nhờ có anh này ngồi ôm phía sau nên Nguyên cũng yên lòng, một tay giữ lấy cánh tay mặt của anh ta, một tay cầm chặt chùm lông cổ của con trâu để giữ thăng bằng. Mấy đứa này gọi Nguyên là “người trên dinh”, Nguyên không hiểu, sau hỏi mẹ mới được giải thích “người trên dinh” là người ở thành phố, những người nhà quê đặt tên người ở tỉnh thành như vậy.
Cuộc sống trầm lặng kéo dài được gần ba tuần lễ, hằng ngày cha đi hỏi mấy người lên xuống Huế buôn bán, về tình hình dưới phố. Cha về nói cho mẹ biết Tây đang đóng quân tại Tòa Khâm và đồn Mang Cá, mang tàu lên gần bến Đập Đá và bắt đầu chuyển lính Lê Dương đi lùng, phía nam về hướng Hương Thủy, phía bắc về hướng An Hòa, cách làng La Chữ ba cây số về phía đông trên quốc lộ Một. Khi nghe được tin này, cha mẹ sợ lắm, ông ra phía sau vườn, đào một cái hầm, dưới con rạch khô nhỏ, chung quanh là rặng tre dày chạy dọc theo con rạch phủ đầy những cành cây tre, lá tre che kín, đứng gần cũng không biết có hầm trú ẩn dưới đó.
Riêng ông thầy chùa thì cứ đi mãi đến tối mịt mới về nhà, không ai biết ông đi đâu và làm gì, chỉ thấy ông che dấu cái gì ở dưới chiếc áo màu nâu sồng khi ông ra khỏi nhà. Cha Nguyên không thích ông thầy chùa này, nên không mấy khi cha nói chuyện với ông ta, ngay cả trong những bửa ăn, ông thầy chùa và bà mẹ lớn ăn chay nên bà nấu riêng và ăn chung với ông thầy chùa ở nhà trên. Còn gia đình Nguyên ngồi ăn tại nhà dưới cạnh bếp. Nguyên đã quen với tiếng tụng kinh hằng đêm của ông thầy chùa, cậu ta còn thuộc lòng những câu kinh dễ nhớ và mỗi buổi chiều khi mẹ về ngồi chơi với Nguyên ở ngoài sân, cậu giả giọng lên xuống của ông thầy tụng kinh cho mẹ nghe làm mẹ vui và cảm thấy thương con, ôm chặt con vào lòng. Nguyên thương mẹ lắm, cậu thường ôm chiếc cổ trắng ngần và hôn vào đôi má cũng trắng hồng của bà. Nguyên thích nhìn mẹ cười vì mỗi lần như vậy, Nguyên thấy hai hàm răng màu đen hạt huyền, đều đặng duyên dáng dưới chiếc miệng cân xứng với khuôn mặt của mẹ. Nguyên biết mẹ mình rất đẹp vì vậy cha mới sợ Tây Lê Dương bắt gặp me.ï
Mẹ Nguyên rất ít nói, mà khi nói thì giọng nói rất nhu mì và nhỏ nhẹ như tiếng chim trên cành. Giọng Huế đặc biệt mặc dù quê mẹ ở tận mãi trong tỉnh Phước Tường, Quảng Nam. Một tỉnh nhỏ nằm gần chân đèo Hải Vân, cạnh vịnh Đà Nẳng, nơi có tiếng là con gái rất đẹp, có lẽ vì phong thổ gần núi gần biển, trời xanh mây trắng bao phủ những ngày nắng ấm.
Sáng hôm đó khi trời vừa rạng đông, cả nhà chợt tỉnh giấc khi nghe tiếng máy bay bà già bay ngang qua mái nhà thật thấp. Cha vội vàng vùng dậy, vì với kinh nghiệm của ông, cha biết máy bay này là loại máy bay thám sát, thường bay đi dọ thám và chỉ đường cho pháo binh của Tây bắn đại bác mở đường cho lính Tây đi lùng.
Cha vội lấy bình đựng nước và vài cái bánh ú rồi gọi lên nhà trên cho bà vợ lớn và ông thầy chùa biểu họ chạy gấp vì Tây sắp đến, xong rồi ông bồng Nguyên và dìu mẹ Nguyên chạy về phía chiếc hầm ông làm sẵn trước, dưới con rạch khô phía sau rừng cách nhà khoảng vài trăm thước. Khi đến nơi ông cẩn thận vạch lá tre đưa mẹ con Nguyên xuống nằm sâu dưới đó rồi phủ kín lá tre che kín lại. Nhờ lá tre nên hai mẹ con Nguyên vẫn có không khí để thở và nằm rất thoải mái dưới chiếc hầm trốn Tây khéo léo chuẩn bị của cha Nguyên. Dù ai đứng gần cũng không làm sao biết có người đang trốn dưới đó. Sau khi lo xong cho vợ con mình, cha Nguyên cũng làm một chỗ trốn cho chính mình, cũng rất kín đáo nhưng lại có thể quan sát được những gì đang xảy ra chung quanh.
Vừa chuẩn bị xong thì ba người đã nghe tiếng súng pháo binh bắn vào làng về phía chợ và nhà thờ họ của dân tại đây. Tiếng súng càng nghe gần hơn khi mặt trời lên cao khỏi ngọn tre. Nguyên cảm thấy người của mẹ run lên nhè nhẹ vì sợ hải, cậu ôm mẹ chặt hơn như trấn an rồi hôn vào má của người mẹ hiền kính mến của mình. Hai mẹ con ôm nhau trong khi cha đang ngoái cổ lên để nhìn về hướng cổng làng.
Ba người nằm trốn dưới đó khoảng hai ba tiếng đồng hồ gì đó thì nghe tiếng chó trong làng bắt đầu sủa liên tục trong khi tiếng súng trường và súng tiểu liên nổ giòn trong buổi sáng tại vùng quê hẻo lánh. Cha Nguyên biết Tây Lê Dương và lính Ma Rốc Ken đã vào đến ven làng và có lẻ sẽ đi ngang qua đây trong chốc lát. Ông vội vàng kéo thêm lá tre phủ kín người ông rồi lặng lẽ và hồi hộp... chờ. Thời gian trôi qua thật chậm, ba người cảm thấy trống ngực đập mạnh thêm khi nghe tiếng con chó của ông dân quê hàng xóm vừa kêu ăng ẳng như bị ai đá trúng vừa chạy vừa sủa vang xóm. Thế rồi ba người nghe tiếng tiểu liên nổ một loạt và con chó im không còn sủa nữa.
Nguyên bỗng nhớ lại mấy câu kinh tụng Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát của ông thầy, rồi cậu chợt nghe mẹ đang run giọng thì thầm niệm câu kinh đó. Cha Nguyên đoán chừng tụi Tây đang lùng mấy nhà phía trước và nhà của bà vợ lớn, ông biết bà này cũng có một cái hầm rất bí mật ông đã làm cho bà sau lưng chiếc tủ thờ và ông cầu nguyện bà có đủ thời giờ để vào trốn trong đó. Về phần ông thầy chùa, cha Nguyên thấy ông chạy về hướng núi khi ông đưa hai mẹ con Nguyên ra con rạch này. Bây giờ không biết số phận ông thầy ra sao.
Tiếng súng thỉnh thoảng nghe nổ lên từng hồi tiếp sau đó là tiếng người chạy và súng nổ liên tục. Tiếng Tây nói chuyện với nhau trên máy truyền tin nghe rất rõ và hình như có người đang đi đến gần về phía ba cha con đang trốn. Nguyên không nghe tiếng mẹ niệm kinh nữa, cậu định thì thầm hỏi thì đã bị mẹ lấy tay bịt miệng lại và ra dấu nằm im. Rồi đột nhiên cả ba người nghe tiếng chân đi xào xạt trên lá về hướng rặng tre bên bờ trên con rạch nhỏ.
Tất cả đều nằm im nín thở và lo lắng, mồ hôi rịn ra trên bàn tay mẹ, hơi run run. Nguyên nằm im thinh thích, rồi cậu chợt nghe tiếng nước chảy róc rách đâu đây, giống như có người đang đi tiểu tiện. Mùi nước tiểu xông lên nồng nặc nhưng cậu không dám lấy tay bịt mủi lại vì sợ thằng Tây nó nghe. Có lẽ tên này uống nhiều rượu trước khi đi lùng dân An Nam hay sao mà hắn tiểu lâu quá. Sau khi tưới chết mấy cây tre già xong tên lính này thở ra như thỏa mãn, quay ngược trở về hướng nhà và rồi ba người nghe tiếng xi xô xa dần đi về hướng núi của dãy Trường sơn.
Nguyên nghe tiếng mẹ thở mạnh hơn và một lúc sau cha vén lá tre để nhìn xem tình hình như thế nào. Ông bảo hai mẹ con cứ tiếp tục nằm yên vì ông sợ tụi Tây có thể trở lại đây lúc kéo quân về. Tiếng chó sủa nghe cũng xa dần và sau một lúc tất cả đều im lặng. Ba người nằm dưới hầm cho đến khoảng xế trưa, cha Nguyên đánh bạo ngồi dậy ra khỏi hầm của ông và từ từ cẩn thận bò dọc theo con rạch ra phía cây xoài sau nhà, leo lên cây măng cụt nhìn bốn phía để xem lính Lê Dương đã đi khỏi làng chưa. Từ xa, về hướng đình làng, ông thấy một hai căn nhà tranh bị đốt cháy, khói đen vẫn còn bay nhẹ trong bầu trời xanh không gợn mây của ngày cuối hè đầu thu. Ông thấy dân bắt đầu ra khỏi những nơi trú ẩn, đứng lố nhố chỉ trỏ về hướng cổng làng gần nơi chợ nhóm như bàn tán chuyện gì. Linh tính cho cha biết tụi lính Ma rốc đã rút đi lùng chỗ khác và có lẻ trước khi đi chúng đã để lại xác những người dân bị chúng nó bắn chết khi đi lùng tại làng này.
Ông leo xuống khỏi cây măng cụt, chạy ra hầm trú ẩn và dìu hai mẹ con Nguyên ra khỏi rặng tre. Ông bồng Nguyên lên để đi vào nhà cho nhanh hơn, bỗng nhiên ông cảm thấy cánh tay ông ướt át, ông ngừng lại và mĩm cười, thì ra cậu con trai quý của ông vì quá sợ đã đái trong chiếc quần xà lỏn của cậu hồi nào mà cậu cũng không hay biết. Khi vừa bước vào nhà, ba người thấy bà vợ lớn đã ra khỏi chỗ ẩn trốn, mặt mày vẫn còn sợ hãi, bà nói tụi nó lục soát sơ sơ thôi chứ mà tìm kỹ càng, có lẽ bà cũng bị bắt rồi. Nhìn bàn ghế lăn lóc trên nền nhà và chén bát bể nát tứ tung, cha Nguyên thấy lần này mình quá may mắn nhưng ông sợ rằng những lần sau, khi tụi Tây trở lại không biết có sống sót như thế này nữa không.
Sau khi ăn vào mấy chiếc bánh ú, ông nói với mẹ ở nhà để ông đi ra chợ làng xem chuyện gì đã xảy ra sau khi Tây rút đi. Nguyên năn nỉ xin cha cho đi theo, ban đầu cha từ chối nhưng thấy con nước mắt nước mũi ròng ròng, ông dặn dò hai bà vợ cẩn thận rồi thay quần khác cho Nguyên và nắm tay con trai đi lên chợ làng. Dọc theo con đường dẫn đến chợ làng, những mái nhà tranh còn cháy âm ỉ và đang được dân làng dùng nước giếng để chửa cháy. Từng nhóm người đang đứng bên đường kể cho nhau nghe về những hành động dã man cũng như thiệt hại và mất mác mà Tây đã gây ra cho dân làng.
Khi đến gần chợ làng cha Nguyên để con xuống và cầm tay con đi về phía đám đông đang tụ tập tại khoảng đất trống giữa chợ. Tiếng khóc của những người đàn bà nghe thật não lòng, trước mặt hai cha con là bốn người đàn bà, người thì lăn lộn dưới đất, người thì quỳ gối, đang khóc lóc, kể lể, than trời trách phận cạnh bốn xác chết của những người thân được phủ bằng manh chiếu cũ. Chung quanh họ là các con, thân nhân của gia đình mặt mày đầm đìa nước mắt, đang cố trấn an và vỗ về nhau.
Cha con Nguyên đứng lặng người trước khung cảnh đau lòng của đồng bào mình. Hậu quả chiến tranh đã bắt đầu xảy ra hàng ngày trên dải đất nghèo nàn cằn cỗi, xa xăm ít người biết tới. Cha đứng dáng đăm chiêu như đang suy nghĩ và tính toán điều gì. Mặc dù đang nhỏ nhưng Nguyên cũng thấy buồn và nước mắt mình tự nhiên chảy dài xuống má vì quá cảm động với cảnh tượng đau lòng trước mắt cậu. Cha con Nguyên còn thoáng nghe những người đứng cạnh nói về việc tụi Tây Lê Dương rất tàn nhẫn hảm hiếp đàn bà con gái mà chúng bắt được, có người bị ngất xỉu vì tụi nó thay nhau phá hại đời con gái. Ngoài ra tụi Tây còn bắt nhiều thanh niên mà chúng nghi ngờ có liên hệ đến Việt Minh để đem về tra tấn và hỏi cung.
Trời đã về chiều, trên trời chim vạc bắt đầu bay về núi, cất tiếng kêu cô đơn như muốn chia xẻ và chung hòa vào tiếng oán than trong chiều của những người đàn bà vừa mới trở thành góa phụ, trong cuộc chiến tranh tàn nhẫn đã và đang lan tràn trên quê hương Việt Nam nghèo nàn khốn nạn này.
Lúc hai cha con về đến nhà thì trời vừa chạng vạng tối, những con dơi núi bay đầy trời, chúng nó lùng kiếm và bắt muỗi dưới bầu trời đỏ vì ánh mặt trời lặn về hướng núi. Như vậy là ngày mai trời có thể mưa rồi, Nguyên thầm nghĩ như vậy, vì mẹ thường nói “vàng gió đỏ mưa”. Sau khi mẹ dọn cơm cho gia đình ăn, cha nói với mẹ về ý định của mình. Ông muốn đi về Huế xem xét tình trạng cuộc sống dưới đó trong những ngày sắp tới. Ban đầu mẹ còn ngăn cản vì sợ cha có thể bị Tây bắt, nhưng sau đó cha thuyết phục với những lý do của ông, mẹ chìu ý chồng mình nhưng khuyên là nên chờ đợi vài ngày nữa để tình hình sáng tỏ hơn và dọ hỏi những người về Huế buôn bán rồi quyết định.
Ông thầy chùa cũng đã trở về nhà khoảng nửa giờ sau, ông nói với mọi người là ông cũng quyết định rời La Chữ để đi chỗ khác vì nơi đây gần Huế quá, Tây sẽ đi qua đây nhiều hơn vì làng này nằm giữa giao tuyến chuyển quân của Việt Minh và của Tây. Ông dự đoán trong tương lai nơi này sẽ là bãi chiến trường giữa Tây và Cách mạng. Có lẽ ông thầy chùa biết nhiều hơn nữa nhưng ông không nói cho mọi người hay. Cha nhìn mẹ Nguyên như nói cho mẹ về quyết định của ông càng phải được thi hành sớm hơn dự định. Bà nhìn lại chồng với ánh mắt lo âu nhưng có vẻ rất đồng ý với ông.
Ngoài trời đêm bắt đầu phủ chiếc áo màu đen xuống bao bọc vùng quê vắng, tiếng chuông trống từ hướng đình làng, bỗng nghe vang dội phá tan sự tỉnh mịch của đêm trường. Mọi người đều đi ra vườn nhìn về phía ánh đuốc đang sáng rực trời, họ nghe tiếng phèn la rồi thấy trên đường một chú nhỏ đang vừa đánh phèn vừa la lớn mời dân làng đến sân đình để họp khẩn cấp. Sau lưng chú từng toán dân làng lũ lượt đi về phía đó.
Bà mẹ lớn vào đóng cửa nhà rồi cùng mọi người kể cả Nguyên cũng theo đoàn người vội vàng rảo bước đến đình làng để xem chuyện gì đang xảy ra tại đây. Cha vừa bồng Nguyên vừa nắm tay phải của mẹ, lòng phân vân đi cạnh ông thầy chùa và bà vợ lớn. Nguyên gối đầu lên vai cha vì mệt nhoài, cậu lim nhim ngủ theo nhịp chân của cha.
Khi mọi người đến nơi, sân đình đã chật cứng người, dân chúng đang đứng làm thành một vòng tròn chung quanh khu đất trống. Trước cổng đình ngay tại các tầng cấp dẫn vào điện thờ là một chiếc bàn gỗ dài, bên cạnh là một lá cờ cở trung bình, màu đỏ sao vàng, cán cờ được cột vào chân bàn. Ngồi sau chiếc bàn là năm người mặc áo bà ba đen, cổ choàng những chiếc khăn đỏ, tuổi xấp xỉ từ hai lăm đến ba mươi, mặt người nào cũng có vẻ nghiêm trọng. Mỗi góc sân đình là một người thanh niên một tay cầm ngọn đuốc, một tay cầm súng trường hoặc cây mã tấu, cũng trong bộ đồng phục bà ba đen choàng khăn đỏ với những khuôn mặt còn rất trẻ. Giữa sân đất là một đống củi gỗ lớn được sắp hình kim tự tháp, đang cháy ngùn ngụt sáng cả bầu trời nhiều sao. Hai chiếc hòm gỗ thông được đóng vội đặt nằm trên hai cái đòn dài, kê trước đống lửa với ánh sáng bập bùng, làm tăng thêm vẻ ma quái của buổi tập họp.
Người cán bộ trung niên, ngồi ở giữa nhìn quanh sân đình, có lẽ đã vừa ý với tổng số người tham dự, anh đứng dậy, tay cầm chiếc loa phóng thanh, làm bằng nhôm, với giọng Quảng Trị sang sảng, lớn tiếng tuyên bố lý do buổi tập họp của nhân dân đêm nay. Sau khi lên án tụi Tây thực dân tàn ác dã man, giết hại dân lành vô tội và nêu cao thành tích cứu nước của Cách mạng, anh nói là buổi họp còn để xử án những tên Việt gian nằm vùng, đã chỉ điểm cho Tây giết hại những cán bộ của Cách mạng sáng hôm nay.
Mọi người chợt nghe tiếng khóc của hai người đàn bà từ trong đám đông chạy ra, ôm hai chiếc hòm, kể lể thảm thiết làm ai nấy đều cảm động, rơm rớm nước mắt. Người cán bộ tiếp tục khêu gợi lòng căm thù của dân làng, rồi anh chỉ thị cho đàn em dẫn hai người đàn ông, hai tay bị trói giật về phía sau, đang từ từ bước đến trình diện trước tòa án nhân dân. Cha Nguyên nhận ra được người trẻ tuổi đang đi trước là người thường đi xuống Huế để mua hàng về bán lại cho dân làng nhưng ông không biết người thanh niên thứ hai là ai. Tên cán bộ một tay nắm sợi giây thừng cột tay hai tội nhân của Cách mạng, tay kia vừa cầm khẩu súng lục đẩy mạnh vào lưng của hai người dân quê đang cúi mặt thất thểu lê chân bước đi nhọc nhằn, có lẽ vì kiệt sức sau khi đã bị cán bộ đánh đập tra tấn suốt cả ngày.
Tiếng hoan hô và đả đảo ồn ào làm Nguyên giật mình tỉnh dậy, cậu dụi mắt nhìn quanh trên vai cha, lấy tay che mặt vì ánh lửa sáng rực chói cả mắt của cậu. Cha Nguyên để con xuống đất và đưa tay lên miệng ra dấu cho con đứng im, tay ông nắm chặt lại như sợ mất con. Hai tội nhân bị xô té trước chiếc bàn dài, nằm cong người dưới những cái đá vào mông vào ngực từ người cán bộ, đang được dân làng hoan hô náo nhiệt.
Sau khi xướng ngôn viên đọc bản cáo trạng và kết án hai tội nhân, tiếng người càng la hét ồn ào thêm. Bỗng nhiên trong đám đông, về phía các cán bộ đang đứng, mọi người nghe tiếng hô lớn “giết nó đi” và thế là cả rừng người đều la lớn “giết nó đi, giết tên Việt gian đi”. Người cán bộ ngồi ở giữa bàn đứng lên, đưa hai tay lên khỏi đầu, ra hiệu cho mọi người im lặng, rồi nghiêm nghị tuyên bố, nhân danh Chính phủ Cách mạng, anh ta chấp thuận bản án của nhân dân và ra lệnh xử tử hai tên phản bội dân tộc này. Thế là máu hận thù lại rơi trên nền đất lạnh của vùng quê hương hẻo lánh. Hai thân xác của tội nhân bị bắn chết bởi cán bộ Cách mạng nằm trong tư thế uất ức quằn quại vì không được biện hộ khi bị họ kết án tử hình.
Trên không vầng trăng lưỡi liềm không đủ ánh sáng, đang treo lơ lửng về phía tây, trên đỉnh núi của dãy Trường sơn. Luật của kẻ mạnh dù ở đâu và lúc nào cũng được dùng làm công cụ và là phương tiện sau cùng, để kết thúc bản án dành cho những nạn nhân đối lập của chế độ.
Ngày hôm sau, đúng như lời nói của mẹ, trời mưa như trút suốt ngày, bong bóng nhảy đầy sân. Cha mẹ Nguyên nói chuyện với bà vợ lớn và cho biết là sáng mai, cả gia đình sẽ về lại Huế. Cha đã có quyết định như vậy sau khi chứng kiến những gì đã xảy ra tối hôm qua. Ông không biết chuyện gì sẽ đến trong tương lai cho những “người trên dinh” từ xa tản cư tại đây như gia đình mình. Nhất là việc Tây đi lùng liên tục, làm sao mà trốn tránh mãi được. Thôi thì cứ đánh liều, về lại Huế rồi sẽ tìm cách đối phó với việc gì đến với gia đình.
Nguyên xin phép chạy qua nhà bên cạnh để từ giã anh bạn đã cho mình cởi trâu hôm trước và tặng cho anh chiếc tàu buồm mà cha đã khéo tay làm cho Nguyên trong thời gian rảnh rỗi tại làng La Chữ. Nguyên ở lại chơi với anh này cho đến chiều, cậu ra sau chuồng thăm con trâu, hôm nay khỏi phải ra đồng vì trời mưa. Khi trở về nhà Nguyên khoe với cha mẹ chiếc sáo tre mà anh bạn đã tự tay làm và tặng cho Nguyên để kỷ niệm. Cha Nguyên đang thu xếp áo quần bỏ vào hai chiếc bao vải, còn mẹ thì đang ngồi nhúm lửa để nấu một nồi xôi chuẩn bị mang theo chuyến trở về ngày mai. Khói rơm bay tỏa đầy nhà dưới. Nhìn mẹ đang thổi lửa và cố gắng giữ cho ngọn lửa tiếp tục cháy, nước mắt chảy đầy hai gò má vì khói, Nguyên chạy tới phụ thổi với mẹ làm tro bụi văng lên tung tóe, hai mẹ con ôm nhau cười vui trong ánh lửa bập bùng. Bên ngoài trời vẫn còn mưa rả rích, thỉnh thoảng một cơn gió lạnh thổi xuyên qua tấm liếp che cửa nhà bếp, báo hiệu cho ngày vào thu sắp đến.
Tối hôm đó ông thầy chùa nói vài câu từ giã với cha mẹ Nguyên, trước khi ông bắt đầu tụng kinh, ông chúc hai người may mắn và nhiều sức khỏe. Thế rồi ông xoa đầu Nguyên, khen Nguyên giỏi và thích hoạt động, biết nghe lời và thương cha mẹ. Ông nói với cha mẹ là ông coi tướng Nguyên trong tương lai sẽ trở thành một người có tiếng tăm trong xã hội. Mọi người đi ngủ sớm vì cha Nguyên dự trù sẽ lên đường khi trời rạng sáng để có thể đến Huế vào buổi chiều. Nguyên chập chờn trong tiếng tụng kinh trầm bỗng của ông thầy, một con người mang nhiều bí ẩn sau chiếc áo nâu sồng và rồi khi tiếng mưa róc rách bắt đầu nghe nhẹ bớt, Nguyên đã đắm chìm vào cơn ngủ say, trong bóng tối của một vùng quê chỉ biết một lần, nhưng kỷ niệm vẫn nhớ mãi trong tim của cậu bé vừa chập chững vào đời.
Sáng hôm sau khi tiếng gà của nhà hàng xóm bắt đầu gáy, ba người đã lên đường trong lúc bà mẹ lớn và ông thầy chùa đang còn ngủ mê. Cha mẹ Nguyên đã từ giã và cám ơn bà từ tối hôm qua và nói sẽ rời nhà rất sớm nên sẽ không đánh thức bà dậy. Mẹ đã tế nhị để lại cho bà tất cả gạo và thức ăn, đồ đạc mà mẹ đã mua sắm trong thời gian gia đình tạm trú tại đây. Cha đã biết con đường tắt dọc theo cánh đồng lúa nằm phía sau nhà về hướng đông, nên ông đưa hai mẹ con theo con đường đất này. Lần này ba người đều có mang ba đôi dép mà cha đã làm từ mấy miếng cao su mua ở chợ làng, nên đi êm và không bị đau chân như trước đây.
Trời đã tạnh mưa từ khuya, hạt mưa chỉ còn đọng lại trên cành tre và những rừng lau bên đường. Xa xa về hướng đông, vầng dương đã bắt đầu tỏa những tia sáng nhiều màu sắc, khởi đầu cho một ngày mới. Vầng mây hồng lờ lững trong gió trên bầu trời màu xanh nhạt và vài con cò trắng đang lượn bay trên ruộng lúa vàng chưa gặt. Nguyên cảm thấy thích thú trước thiên nhiên và không khí buổi sáng trong lành của quê hương yêu dấu, cậu chạy tung tăng đuổi theo những con chim sẻ đang bay vờn sát mặt đất. Nguyên rất thoải mái vì lần này cậu không phải mang trên vai túi gạo như lần đi tản cư cách đây hơn một tháng.
Khi ba người ra đến quốc lộ Một thì mặt trời đã lên cao. Trên đường tấp nập người dân hồi cư trở về Huế sau một cuộc tản cư ngắn ngủi. Nào là xe bò, xe ngựa, xe thổ mộ, xe đạp và xe kéo...thôi thì rộn rịp và đông đúc. Cha mẹ Nguyên bắt đầu thấy yên lòng hơn khi nghe những người hồi cư nói về tình hình sáng sủa tại Huế. Có lẽ vì muốn mua lòng dân thuộc địa nên tụi Tây đã nới tay và không gây khó dễ cho dân địa phương. Ngoài ra để trấn an dân chúng, chính phủ Tây tại đây còn đưa ra tòa xử án những tên lính Lê Dương bị tố cáo đã hãm hiếp đàn bà con gái khi tụi nó đi hành quân. Chợ Đông Ba đã được nhóm họp và buôn bán như thường lệ, miễn là phải đóng thuế cho Tây và cho chính phủ bù nhìn địa phương do tụi nó mới thành lập. Cha mẹ Nguyên rất vui với quyết định sáng suốt của mình, định mệnh đã an bài cho gia đình ông, vì nếu không có những biến cố đau buồn xảy ra ngày hôm qua, có lẽ cha mẹ và Nguyên sẽ ở mãi tại La Chữ, một vùng quê mộc mạc và bị chia cách với xã hội bên ngoài này.
Khi đi ngang qua chợ An Hòa, ba người thấy người ta tụ tập buôn bán đông đúc. Mẹ thấy Nguyên có vẻ như đã thấm mệt nên đề nghị với cha dừng lại để nghỉ chân và ăn trưa. Cha Nguyên chọn một chỗ ngồi cạnh một cây bàng lớn, lấy trong túi áo ra một ít kẹo dừa đưa cho Nguyên, trong khi mẹ lấy ra mấy nắm xôi gói bằng lá chuối và một gói muối mè từ trong chiếc giỏ mây đan. Thế rồi ba người vừa thưởng thức món ăn thuần túy ngon miệng của quê hương, vừa ngắm đoàn người hồi cư đang lũ lượt nối đuôi nhau xuôi về Huế. Sau khi ăn xong, cha ngồi xỉa răng, còn mẹ thì thu xếp đồ đạc bỏ vào giỏ, riêng Nguyên thì tò mò đứng ngắm những con chim bồ câu “mới ra ràng” được dân quê bày bán trong lồng.
Đang say mê nhìn chim, chợt Nguyên nghe tiếng của một đứa con gái đứng bên cạnh nói với người bán chim: “thả chim ra đi, thả chim ra đi”. Cậu quay nhìn và gật đầu như đồng ý. Chim trời thì phải được tự do bay lượn, chứ đâu lại bị bắt nhốt trong lồng như thế. Hai đứa trẻ bắt đầu gợi chuyện để nói với nhau, ban đầu thì nói về chim bồ câu, dần dần về mấy con thỏ, con trâu... và rồi khi hai cha mẹ của cô bé đã làm quen với cha mẹ Nguyên, hỏi lý lịch quê quán của nhau, thì Nguyên và Huyền, tên cô bé, đang chia nhau những chiếc kẹo dừa mà cha vừa cho hồi nãy.
Hai gia đình đang định đứng lên để tiếp tục hành trình thì một gia đình thứ ba cũng vừa đi ngang qua, gồm có hai vợ chồng và một cậu bé lớn hơn Nguyên khoảng hai ba tuổi, nhưng có vẻ ẻo lả yếu đuối. Ba gia đình vừa đi vừa hỏi thăm nhau về cuộc tản cư, những người lớn thì bàn luận và chia xẻ những kinh nghiệm trong biến cố này và hy vọng tình hình tại Huế sẽ không đến nỗi nào như người ta đồn đại. Riêng các nhóc tì thì quá vui vì có bạn cùng lứa tuổi trên đoạn đường dài. Chỉ trong chốc lát mà Nguyên, Huyền và Trung, cậu bé “ẻo lả như con gái” đã nói tía lia như quen nhau lâu lắm và nhất là Trung, lúc này cậu cũng hoạt động không kém, đang vui vẻ đùa giỡn bên cạnh hai người bạn mới. Nguyên cũng kể cho hai bạn nghe về chuyện Tây đi lùng tại làng La Chữ, cậu kể chẳng có đầu đuôi chi hết, hai đứa kia hỏi tùm lum, Nguyên trả lời hết ngoại trừ chuyện chiếc quần bị ướt vì “tai nạn” thì không được cậu nhắc đến.
Cha mẹ Huyền tản cư cách đây hai tháng, về quê mẹ của Huyền tại làng Mỹ Chánh, một làng nhỏ cách quốc lộ Một về phía đông, nằm giữa An Lỗ và Quảng Trị. Tây chưa đi lùng tại làng này nên Huyền không biết chi về những chuyện như Nguyên vừa kể. Huyền có một người em gái tên là Hoa, đang còn nhỏ mới ba tuổi mà cha đang bồng trên tay. Mẹ Trung là một giáo chức, tên là Hương, cách đây ba tháng, bà phải ngưng dạy học và theo chồng, một thư ký bưu điện, gia đình cũng chỉ có ba người như gia đình Nguyên chạy ra trốn tại làng An Hòa, bị Tây đi lùng hai lần nhưng đều trốn thoát được. Cha mẹ và Trung đã chứng kiến cảnh Tây Lê Dương giết hại dân lành tại đây và tận mắt thấy tụi Tây dã man đánh đập những ông cụ già không chịu chỉ chỗ trốn của thanh niên trong làng. Khi kể chuyện này, Trung có vẻ rất ghét Tây, hắn nói khi lớn lên hắn sẽ đi theo mấy anh kháng chiến để dẹp Tây. Cha mẹ Trung vội vàng la hắn và hăm sẽ đánh đòn nếu còn nói như thế nữa.
Mẹ Huyền ít nói và có vẻ rất mến mẹ Nguyên. Ông bà này nói cho biết, họ sẽ trở về cái nhà ở sau lưng sông Hàng Bè mà họ đã thuê từ mấy năm nay. Khi biết cha mẹ Nguyên cũng dự trù kiếm một cái nhà để thuê, vì lần này chỉ về ở tạm tại nhà người anh gần bến đò Cồn, hai ông bà này hứa sẽ giới thiệu cho cha mẹ Nguyên thuê nhà để ở gần gia đình mình. Vừa nói chuyện vừa đi theo đoàn người hồi cư, vào khoảng xế chiều mọi người đã thấy cầu Bạch Hổ ngay phía trước mặt. Tất cả đều thở ra nhẹ nhõm khi đi ngang qua cầu Tràng Tiền về hướng chợ Đông Ba. Quả thật như người ta truyền miệng, tình hình ở Huế rất yên tỉnh, không thấy bóng dáng lính Tây trên đường, có lẽ tụi nó bị cấm trại ở bên phía hữu ngạn sông Hương, tại Tòa Khâm và đồn Đập Đá.
Ba gia đình chia tay đi về ba hướng khác nhau, gia đình bà Hương đi về bên kia sông Đông Ba, gia đình của Huyền về phía cầu Thanh Long và cha mẹ Nguyên đi về bến đò Cồn. Ba đứa nhỏ không muốn chia tay nhau, la lối om sòm sau đó được cha mẹ hứa sẽ cho gặp lại trong một ngày gần đây, chúng nó mới chịu từ giã nhau.
Chương 2: 
Đêm mồng 9 tháng 3 năm 1945, tiếng súng nổ ròn rã từ phía bên kia cầu Trường Tiền và dưới đồn Mang Cá phá tan sự yên lặng trong đêm tối oi bức của ngày cuối xuân đầu hè tại Huế.
Mọi người đều thức giấc, hoảng sợ và phân vân vì không biết có chuyện gì đang xẩy ra. Họ vội đưa thân nhân xuống những chiếc hầm nổi đã được làm sẵn trong nhà, dưới những chiếc phản hay giường gỗ sau khi hồi cư về lại Huế hơn một năm trước đây.
Cha Nguyên đưa vợ con xuống nằm dưới chiếc hầm rồi ông đánh bạo bò lên cửa trước, nhìn xuyên qua bóng tối ra đường bờ sông Hàng Bè. Ông thấy qua khung cửa, những chiếc xe mười bánh quân đội rọi đèn pha sáng rực cả con đường dọc theo sông Đông Ba, chạy về hướng cầu Thanh Long và có lẽ đang chuyên chở lính về đồn Mang Cá.
Dưới ánh đèn của những chiếc xe nối đuôi nhau, cha Nguyên nhìn thấy không phải giống như những chiếc xe GMC của tụi Tây thường lái hàng ngày, mà là những xe nhỏ, kiểu khác hơn và trước mỗi xe có cắm cờ màu trắng với hình mặt trời mọc.
Ông thắc mắc, không tin những gì ông đang nhìn thấy, nhưng sau khi nghe tiếng người ngoại quốc nói xí xô văng vẳng qua máy truyền tin, ông biết mình đoán không lầm.
Trong vài năm vừa qua, tin tức đã truyền miệng tại Huế và cho biết rằng Nhật Bản, tự xưng là Đại Á quốc, phối hợp đứng chung với Đức quốc và nước Ý Đại Lợi đang đánh chiếm các quốc gia tại Âu Châu. Nhật tấn công và đã làm bá chủ Trung Hoa, Miến Điện tại Đông Nam Á.
Vào 12 giờ đêm ngày 22 tháng 9 năm 1940, Nhật Bản đã chuyển quân từ hướng biên giới Trung Hoa qua ngả tỉnh Lạng Sơn, tiến đánh các căn cứ của thực dân Pháp ngoài Bắc kỳ, trên một trận tuyến dài hơn 40 cây số dọc theo biên giới Việt Hoa.
Hai ngày sau, Không quân Nhật đã thả bom xuống hải cảng Hải Phòng. Sau đó vào chiều ngày 24 tháng 9, Hải quân Nhật đổ bộ lên thành phố Hải Phòng để tiến quân về Hà Nội. Chỉ trong vòng hai ngày mà đoàn quân viễn chinh thiện chiến của Thiên Hoàng đã tiêu diệt hơn 800 lính Tây để áp lực Thống tướng Pétain, chỉ huy quân đội Pháp, phải ký thỏa ước đồng ý cho Nhật Bản được đóng quân tại các vùng đã chiếm được.
Nhật Bản đồng ý và Đại tướng Nishihara, vị tướng lảnh cầm đầu phái đoàn thương nghị với Pháp, đã viết trong văn thư ký kết là “sự tấn công của Nhật là một lầm lẫn tai hại.”
Chiến trường Đông Dương thật sự bùng nổ dữ dội kể từ đó và toàn thể lảnh thổ Việt Miên Lào chìm đắm trong ngọn lửa chiến tranh chung với thế giới, giữa Lực lượng Đồng Minh và khối Trục tam quốc Đức Nhật Ý.
Sau gần ba năm hòa hoãn chiến, đêm nay quân Nhật bất ngờ tấn công trên khắp lảnh thổ Việt Nam và trong cuộc đảo chánh Tây tại Huế, Nhật đánh bại quân đội Pháp đồn trú rải rác tại đây và họ đã chiến thắng không đầy một đêm.
Lính Pháp đầu hàng khi bị tấn công bất thình lình bởi đoàn quân thiện chiến và đông đảo của Thiên Hoàng. Một số nhiều lính Lê Dương bị giết chết sau khi chống trả mãnh liệt tại đồn Mang Cá, một số bị bắt làm tù binh và bị lính Nhật hành hạ nhục nhã trước dân địa phương để lấy lòng dân đang căm thù thực dân Tây tại Huế.
Sau một đêm sống trong bàng hoàng và lo sợ, người dân Huế thức dậy với tiếng ồn ào của xe mười bánh quân đội và tiếng kêu gọi tuyên truyền trên loa phóng thanh của một số người Việt địa phương đã lợi dụng thời cơ để hợp tác với quân Nhật Bản. Họ nói lính Nhật đã đến giúp dân ta đánh tan quân đội thực dân và giải phóng Việt Nam khỏi sự thống trị của Tây phương.
Vị tướng lảnh chỉ huy quân lực Thiên Hoàng tại Huế yêu cầu dân chúng an lòng và cứ sinh hoạt như thường lệ, chợ Đông Ba sẽ tiếp tục buôn bán và học trò vẫn đi đến trường học. Ông tướng này thông báo cho dân biết là trên toàn lảnh thổ Việt Nam, quân đội Thiên Hoàng đã nắm phần chủ động, riêng tại Huế, quân đội thực dân đã bị đánh tan bởi lực lượng oai hùng của ông ta. Ngoài ra một chính phủ lâm thời Việt Nam dưới sự bảo trợ của Nhật Bản sẽ được thành lập để điều hành quốc gia và quản trị công việc hành chánh tại địa phương.
Quả thật sau đó vào ngày 11 tháng 9 năm 1945, Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố độc lập, nước Việt Nam không còn thống thuộc thực dân Pháp và một chính phủ mới vừa được thành lập dưới sự bảo hộ của Đại Á quốc.
Cha Nguyên có vẻ nghi ngờ thiện chí và những lời hứa của người Nhật ngoại lai, nên ông khuyên mẹ nên chờ cho tình hình sáng tỏ hơn, rồi hãy tiếp tục ra buôn bán tại cửa hàng áo quần cũ của mẹ tại chợ Đông Ba.
Chiều hôm đó, sau khi nói chuyện với cha Huyền, người hàng xóm mà ông đã quen hơn một năm ở phía sau căn nhà thuê, cha dẫn Nguyên và Huyền đi về bến đò Cồn ăn kỵ tại nhà bà con trong phủ Thoại Thái. Khi đi ngang qua cầu Đông Ba về phía đường Ngự Viên, cả ba người thấy tại dốc cầu, hai tên lính Tây, một đen một trắng, máu đang chảy rịn ra hai bên khóe miệng, tay bị trói giật về phía sau, quỳ gối trước một đống phân trâu. Mỗi tên lính đeo trước ngực áo, một tấm bảng có hàng chữ “đả đảo thực dân Pháp”. Đứng bên cạnh là hai tên lính Nhật tay cầm khẩu súng trường có gắn lưỡi lê, đôi mắt một mí ti hí, khuôn mặt dữ dằn trong bộ quân phục ka ki vàng nhạt bạc màu, dưới chiếc nón sắt nặng trĩu so với kích thước của thân hình lùn tịt của những tên lính này.
Cha Nguyên cầm tay hai đứa bé đi nhanh qua chiếc cầu gỗ, đang kêu kẻo kẹt dưới bước chân ngập ngừng của hai tí nhóc, ánh mắt sợ sệt nhìn qua kẻ hở của những tấm ván cầu bắt đầu mục nát, xuống dòng nước trong vắt màu lục đậm nhiều cỏ rong của sông Đông Ba.
Nguyên và Huyền đã trở thành đôi bạn thân thiết và quyến luyến với nhau hơn kể từ khi cha mẹ Nguyên dọn về căn nhà thuê tọa lạc cạnh bờ sông Đông Ba, gần “lò sát sinh trâu bò heo”, nằm bên trái trường tiểu học Thanh Long. Trung cũng đi học tại trường này và cô Đốc Hương đã trở thành cô hiệu trưởng của ba đứa nhỏ.
Ba người bạn nhỏ tuổi thường đi chơi với nhau, mặc dù Huyền không thích tính tình của Trung lắm. Cậu này lớn nhất trong ba đứa nhưng sở thích cũng khác hơn nhiều. Trung thường rất là ủy mị, hay nóng giận và dễ chảy nước mắt khi bị bạn bè chọc quê, nhưng cậu ta lại rất thích nghe những chuyện giết chóc, đặc biệt mỗi lần như thế, Huyền và Nguyên lại thấy cặp mắt long lanh của Trung, như đang chăm chú hòa mình vào câu chuyện dễ sợ này, môi cậu ta mím lại như muốn cắn xé một cái gì.
Ngoài việc thích nghe kể chuyện chiến tranh rùng rợn, Trung thích đọc sách và rất có tài về hội họa, vẽ chân dung là một sở trường của Trung. Mặc dù chỉ mới mười một tuổi nhưng Trung đã tỏ ra rất chững chạc trong những vần đề liên quan đến người lớn, cậu ta rất ghét Tây Lê Dương, có lẽ vì kinh nghiệm lúc đi tản cư và đã chứng kiến những hành động dã man của tụi lính đánh mướn này. Trung thường không giữ gìn ý tứ khi nói đến giấc mơ của cậu ta, trong tương lai cậu sẽ trở thành một lãnh tụ kháng chiến quân nếu Tây còn bén mảng trở lại đất nước này.
Cha Trung thường hay nạt nộ và la rầy Trung về ý tưởng đó, nhất là ông sợ người khác nghe và có thể hiểu lầm, rất nguy hiểm cho gia đình ông. Tuy nhiên trong thâm tâm, ông biết Trung không nói đùa về ước mơ của cậu.
Trong thời buổi đất nước loạn lạc, tranh tối tranh sáng, nhiều thanh thiếu nữ vừa chập chững vào đời, bị ảnh hưởng bởi những lời tuyên truyền rỉ tai của cán bộ Cách mạng, đang hòa nhập đầy rẫy vào sinh hoạt của học sinh để chiêu hồi và tuyển mộ cho kháng chiến, dưới chiêu bài cứu nước đánh đuổi thực dân và quân ngoại xâm. Nguyên cũng có một người anh cùng cha khác mẹ đã bỏ học đi theo kháng chiến cách đây hơn ba năm và bây giờ không biết ở đâu và còn sống hay đã chết rồi.
Tối nay trời mưa rả rích, báo hiệu mùa thu đã sang, ngày tựu trường sắp đến, Nguyên sẽ lên học lớp nhất cùng với Huyền và Trung.
Ở Huế mùa này trời bắt đầu mưa nhiều nhất là vào những buổi chiều tối. “Mưa thối đất” như mẹ thường nói, mẹ không thích mưa, vì mẹ phải thức dậy từ sáng sớm mang mấy bao áo quần cũ ra bán ngoài chợ Đông Ba. Trời mưa làm ướt hết hàng hóa và bùn lầy làm dơ bẩn tất cả vải vóc, ngoài ra lại ít khách đi chợ mua sắm.
Cả nhà đang ăn cơm tối dưới ánh đèn dầu hỏa, cơm rau muống chấm mắm nêm và thịt heo nạt kho tàu do tài nấu nướng ngon hết sẩy của mẹ. Bỗng Nguyên nghe tiếng gỏ cửa và cha đứng dậy ra xem ai đến chơi trong đêm tối mưa gió như thế này. Có tiếng mở cửa rồi Nguyên nghe giọng nói trầm ấm của cậu Tuấn, em trai cùng mẹ khác cha của mẹ Nguyên:
- “Kính chào anh, thưa anh có mạnh khỏe không ạ?”
- “Chào cậu Tuấn, cũng bình thường thôi, hôm nay cậu đi đâu mà lại ghé qua đây?”
Nguyên nghe người cậu của mình đến, bèn bỏ ăn chạy ra, nhảy lên vai người cậu mà Nguyên rất quý mến:
- “Cậu Tuấn tối nay ở lại đây chơi với Nguyên nghe.” Nguyên vừa ôm cậu vừa năn nỉ. Nguyên thích cậu ở lại để kể cho Nguyên nghe về những câu chuyện của kháng chiến.
- “Không được đâu con à, tối nay cậu ghé thăm cha mẹ Nguyên rồi cậu phải đi liền. Lần này không biết bao lâu mới gặp lại gia đình nữa đây.”
Cậu vừa hôn trên vầng trán của đứa cháu thân yêu vừa nói, có vẻ hơi buồn.
Mẹ vừa bước từ nhà sau ra, chợt nghe người em trai nói như vậy, bà ngạc nhiên và không được vui:
- “Cậu Tuấn nói chi, đi đâu mà nói là lâu lắm mới gặp lại, đã nói cho ôn mệ biết chưa?”
- “Dạ thưa chị em có thưa với cậu mạ rồi, em biết mọi người sẽ buồn nhưng xin chị thương mà thông cảm, em đã suy nghĩ nhiều lắm và đi đến quyết định này đó thưa chị”.
Mẹ không nói thêm gì cả, mắt bà rơm rớm nước mắt như không muốn nghe lời phân trần của cậu em khác cha nhưng được bà thương rất nhiều vì tính tình cương nghị và đứng đắn.
- “Cậu dự trù khi nào thì lên đường?”
Cha vừa ngồi xuống chiếc sập gụ vừa ra dấu cho cậu Tuấn ngồi xuống chiếc ghế đối diện.
- “Dạ thưa anh, em sẽ cùng với các đồng chí khác lên đường trước khi trời sáng. Chúng em dự trù phải có mặt tại An Hòa lúc 10 giờ sáng mai để được di chuyển ra căn cứ huấn luyện.”
Cha không hỏi thêm chi tiết vì ông biết Tuấn sẽ không muốn tiết lộ. Ông ngồi trầm ngâm, chậm rãi vấn điếu thuốc lá cẩm lệ, đưa lên môi thấm nước miếng chung quanh tấm giấy bổi, rồi ve tròn lại trước khi lấy chiếc hộp quẹt, châm lửa vào điếu thuốc. Sau đó ông vói tay lấy bình trà Tam Hỷ, rót vào hai cái tách nhỏ xíu, đưa cho Tuấn một tách trà. Ông hít một hơi thuốc thật dài, đóm lửa trên điếu thuốc sáng lên rồi dịu xuống khi theo nhịp hít thở của ông.
Tuấn nhấp một ngụm trà, vị trà Tam Hỷ ngọt đắng thật dịu, cậu nhìn về phía Nguyên đang bất mãn, thập thò đứng tựa cửa hông:
- “Nguyên vào mời mẹ ra cho cậu nói chuyện đi con.”
Trong khi Nguyên vùng vằng đi xuống phía nhà bếp, Tuấn đứng dậy, hai tay lễ phép chấp lại trước ngực:
- “Thưa anh, hôm nay ngoài việc đến đây từ giã anh chị để em đi, em còn mạn phép xin anh chị suy nghĩ và nếu có thể được cho cháu Nguyên đi theo em và Cách mạng để đào tạo cho cháu sau này... và...”
- “Cậu Tuấn nói gì? Không được đâu, không được đâu!!!...” Cha đang ngồi bỗng đứng dậy, thái độ không bằng lòng, phản ứng của ông làm cho Tuấn giật mình, mặc dù Tuấn cũng đã dự đoán trước, vì Tuấn biết anh chị chỉ có Nguyên là con trai độc nhất mà thôi, tuy vậy cậu cũng đánh bạo xin anh rể và chị để xem như thế nào.
Trong thâm tâm của Tuấn, cậu biết Nguyên là tương lai của đất nước, một tài năng đang tiềm tàng trong thân thể của đứa cháu khôi ngô, thông minh và đầy lòng yêu nước. Do đó cậu muốn đem cháu theo bên cạnh mình để hướng dẫn và nung đúc đứa cháu thân yêu trở thành một thành viên kháng chiến xuất sắc, cùng sát cánh với những thanh niên yêu nước khác, đánh đuổi thực dân Pháp và cứu quê hương ra khỏi sự thống trị của ngoại bang.
Trước đây khi Nhật chưa đảo chánh, cậu Tuấn đã nhiều lần lén lút tổ chức các học trò đang theo học tại trường tiểu học Thanh Long, thành một đội thiếu niên yêu nước, chống Tây thực dân. Vào mỗi cuối tuần, cậu Tuấn tập họp các cô, các cậu nhỏ lại trong lớp học, kể chuyện cho lũ nhóc nghe về những huyền thoại và thành tích của sáng lập viên Cách mạng như các ông Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh... Cậu Tuấn còn tập cho đoàn viên sắp hàng đi vòng quanh sân trường, hát những bài ca của kháng chiến, dạy cho Nguyên và những bạn học khác như Trung, Nông, Hoàng, Phượng, Lan và Huyền lấy đất sét và mảnh chai, đinh nhọn làm thành những quả lựu đạn. Rồi trong đêm tối, leo lên hàng cây bòn hòn trên con đường nằm dọc theo sông Hàng Bè, gần nhà máy đèn bỏ trống của Tây tại chân cầu Thanh Long. Nguyên và lũ nhóc chờ đoàn “công voa” của Lê Dương chạy ngang qua, các cô cậu nhắm hướng rồi liệng những quả “lựu đạn đất sét” vào trong xe mười bánh của địch quân, rồi vội vàng leo xuống chạy nhanh vào trốn sau khu vườn của nhà máy đèn, trong bóng tối của đêm hè nóng nực.
Mặc dầu hành động phá hoại trên không gây thiệt hại gì cho lính Lê Dương và có lẽ chúng cũng không thèm để ý nữa, vì cho rằng đây là trò chơi đánh giặc của lũ nhóc trong lúc rảnh rỗi, đối với đoàn thiếu niên của cậu Tuấn, đây là một khích lệ thích thú vì đã có công tấn công xe Tây thực dân.
Sau đêm Nhật đảo chánh, đoàn không còn tiếp tục họp nữa và tan rả lần lần vì cậu Tuấn quá bận rộn với những việc làm bí mật của cậu và thường hay đi vắng không về nhà điều đặn như trước nữa.
Nguyên hay hỏi bà ngoại về cậu Tuấn và mỗi lần như thế, Nguyên thấy mặt mày ngoại đổi khác, có vẻ rất buồn rầu. Đã nhiều lần Nguyên thoáng nghe ngoại than phiền với mẹ về cậu Tuấn, ngoại sợ cậu sẽ bỏ nhà đi theo Việt Minh và ngoại sẽ không bao giờ gặp lại cậu nữa.
Trời vẫn tiếp tục mưa lớn, tiếng mưa rơi ngoài hiên nghe thật rõ trong căn phòng khách nhỏ. Cha đã chuẩn bị cho mình một điếu thuốc lá cẩm lệ khác và rót thêm nước sôi vào bình trà Tam Hỷ. Cậu Tuấn ngồi lặng yên trong ánh sáng chập chờn của ngọn đèn sáp trên chiếc bàn gỗ trong góc phòng. Cậu biết người anh rễ vẫn còn bực mình về việc cậu xin cho Nguyên đi theo kháng chiến.
Có tiếng chân người từ phía nhà bếp đi lên, cha Nguyên nhìn cậu Tuấn và để tay lên môi như ra hiệu cho cậu Tuấn đừng nhắc nhở gì đến việc này với vợ con của ông. Tuấn gật đầu như đã nhận hiểu và quay về phía hai mẹ con Nguyên đang vừa lên đến. Cậu đứng dậy và chờ người chị:
- “Chị lại cho Tuấn gì nữa đây?”
- “À, chỉ một vài cái áo sơ mi đang còn mới và một chiếc áo len chị đan cho cậu để mặc cho ấm và bốn trái cam sành thôi.”
Mẹ vừa nói vừa đưa cho cậu em một chiếc bao nhỏ trong đó đựng những áo quần mẹ tặng cho Tuấn với tất cả tình thương dành cho em mình.
- “Cháu cũng có quà cho cậu nữa à?”
Tuấn ngồi chòm hỏm trước mặt Nguyên, vừa ôm cháu vào lòng vừa hỏi.
- “Dạ cháu không có chi nhiều, chỉ có cái này Nguyên tặng cậu làm kỷ niệm.”
Tuấn cảm động nhận cây sáo tre và khung ảnh chụp hình cậu Tuấn và Nguyên đang đứng cạnh bờ hồ sen phía sau trường Tiểu học. Thế rồi Nguyên khóc òa lên trên vai người cậu lý tưởng của đời mình. Nguyên phân vân và muốn đi theo cậu, nhưng lại quá thương cha mẹ, cậu chưa hiểu nhiều về lý do và động lực nào đã thúc đẩy cậu Tuấn, một thanh niên vừa hơn hai mươi tuổi, nhiều tương lai, lại tình nguyện xung phong đi xa nhà, làm chuyện nguy hiểm như thế. Nguyên thương cậu nhưng cũng giận cậu đã bỏ Nguyên và ngoại để đi xa. Bỗng nhiên Nguyên thấy ghét Việt Minh vì đã giành mất người cậu thân mến của đời mình, cậu cảm thấy nước mắt chảy dài xuống má rồi khóc tức tưởi chạy vào phòng mình đóng cửa lại.
Tuấn cầm chiếc sáo tre, đi theo đến cửa phòng, đưa tay lên ngần ngừ định gõ cửa nhưng suy nghĩ lại rồi dừng tay không gỏ nữa. Cậu đứng yên trước cửa phòng, đầu cúi xuống, nghẹn ngào rồi quay lại, đi ra phòng khách, đến bên cạnh chị, hai tay ôm đôi vai đang run nhẹ vì nức nở. Cậu Tuấn gục đầu vào vai người chị kính mến, bờ vai mẹ Nguyên thấm ướt từ từ.
Cha Nguyên vẫn không có phản ứng gì trước cảnh hai chị em đang xúc cảm vì sắp chia tay nhau. Ông cầm điếu thuốc lá đưa lên môi và nhớ đến đứa con trai đầu lòng của ông cũng đã bỏ gia đình đi theo kháng chiến cách đây hơn hai năm và đến nay biệt tăm biệt tích, không ai biết con ông đang làm gì và ở đâu cả. Cũng vì thế, khi ông nghe cậu Tuấn xin cho Nguyên đi theo cậu, phản ứng của ông rất là dữ dội, vì trong thâm tâm, ông rất oán ghét những người đã lợi dụng lòng hăng say của tuổi trẻ để dụ dỗ thanh thiếu niên nam nữ, bỏ nhà đi theo chiêu bài kháng chiến của họ.
Với những kinh nghiệm sống trên hơn bốn mươi năm, sinh ra và lớn lên trong hai trận thế chiến, ông thừa hiểu đâu là chính, đâu là tà. Những người quốc gia yêu nước chân chính là những người không tham vọng chính trị, không đưa những mầm non tương lai của đất nước vào con đường thù hận, sắt máu, làm bình phong đỡ đạn cho những lãnh tụ Cách mạng, xây đắp mộng ảo trên xương máu của đồng bào. Mọi phương tiện đều tốt cho đảng và cho lý tưởng cuồng tín của những người núp sau chiêu bài kháng chiến chống thực dân.
Những thanh thiếu niên thất học vì đất nước đâu có lúc nào được yên bình, quê hương đã và đang bị tàn phá vì bom đạn khắp nơi, thanh niên gục ngã trên mảnh đất cằn cỗi thiếu hoa màu. Đồng ruộng, cây trái được tưới bằng máu thay vì nước mưa ấm mát của miền nhiệt đới bên bờ Thái Bình Dương. Ông cảm thấy uất ức và thương hại cậu Tuấn cũng như con trai của mình. Hai đứa nó quá ngây thơ và vô tội, đã tin tưởng vào một nhóm người muốn đuổi ngoại bang ra khỏi quê hương, trong khi đó lại bắt tay với những thực dân mới đang chuẩn bị và rình rập, chờ thời cơ thuận tiện để chinh phục đất nước thân yêu khô cằn này.
Tuấn từ giã anh chị và nhờ chị nói với Nguyên là cậu Tuấn sẽ giữ mãi kỷ vật của Nguyên, rồi Tuấn mở cửa và choàng lên người chiếc áo mưa lá, co ro đi nhanh dưới cơn mưa đang rơi xuống nặng hạt trên con đường Hàng Bè trống vắng. Mẹ lau vội nước mắt, nhìn theo người em trai lần cuối cho đến khi hình bóng của cậu Tuấn khuất dần vào bóng đêm.
Vào cuối tháng 8 năm 1945, cả nước xôn xao và náo nức về tin Việt Minh, nay đã thuộc đảng Cọng Sản Đông Dương đã họp tại Tân Trảo, thuộc khu đồi núi tỉnh Tuyên Quang vào ngày 13 tháng 8, tuyên bố tổng khởi nghĩa và sẽ thành lập chính phủ Dân chủ Cọng hòa Việt Nam vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, với những thành viên nồng cốt của đảng nắm giữ tất cả các ghế trong Quốc hội Quốc Gia cũng mới ra đời.
Nhật Bản đã thua trận và Đồng Minh đã chỉ định Trung Hoa gửi quân đội vượt biên giới Việt Hoa đi bằng đường bộ suốt ròng rã hơn ba tháng trời, tiến vào lãnh thổ Việt Nam để giải giới quân Nhật.
Việt Minh đã lợi dụng thời gian chuyển tiếp ba tháng này để tiếp thu tất cả vũ khí tân tiến còn tốt từ tay quân bại trận Nhật Bản và di chuyển vào các căn cứ bí mật tận trong rừng sâu chôn dấu để dùng sau này, trước khi quân đội Tàu đến nơi.
Quân Tàu Ô vào nước Việt Nam, đói khát, thiếu tổ chức và lại còn bán cho Việt Minh tất cả những vũ khí mới tinh của nước cờ hoa, Mỹ quốc, trước đây dùng để trang bị cho họ chống Nhật Bản tại lục địa Trung Hoa. Với vũ khí và phương tiện này, không bao lâu, thành viên nòng cốt của đảng Cộng Sản Đông Dương đã có đủ tư thế cho phép Việt Minh đại diện Việt Nam thỏa thuận với Tàu để cho hai Sư đoàn thực dân Tây trở lại Việt Nam, trong một thỏa hiệp tay ba Việt, Tây và Tàu.
Chính phủ Dân Chủ Cọng Hòa Việt Nam phải mất gần 10 tháng để thành lập các cơ cấu hành chánh điều hành Quốc gia. Cũng trong thời gian này, với sự giúp đỡ của huấn luyện viên Nhật và Tàu, Việt Minh đã huấn luyện các thanh niên nhẹ dạ nghe lời và theo họ, sử dụng thuần thục không những các vũ khí chiếm được của Nhật, mà kể cả vũ khí Mỹ mua lại từ quân đội Tàu.
Những người Quốc gia chân chính đã thấy bộ mặt thật của Việt Minh. Họ nhất quyết không muốn thực dân Pháp trở lại quê hương mình và nhất là không muốn nước Việt Nam nằm dưới ách thống trị của Cộng sản. Vì thế họ chống đối mãnh liệt nhưng rồi vì cô thế những người Quốc gia này bị Việt Minh khủng bố và thủ tiêu trong đêm tối khắp vùng đất Mẹ Việt Nam.
Chương 3: 
Huyền chợt giật mình thức giấc, ánh nắng ban mai xuyên qua song cửa sổ soi sáng căn phòng ngủ nhỏ bé của Huyền.
Trời đã bắt đầu vào thu, học trò đã đi học trở lại hơn hai tuần rồi. Huyền rất vui khi gặp lại những người bạn gái cũ và những khuôn mặt mới như Hồng và Quyên, hai người con gái từ miền Bắc mới cùng với gia đình di cư vào Nam, theo học lớp đệ thất tại trường Bình Minh cùng với Huyền.
Ban đầu hai đứa này còn giữ gìn ý tứ và mắc cở khi Huyền giới thiệu tụi nó với Nguyên và Trung, nhưng chỉ sau vài ngày, Huyền đã nóng mặt và bực mình khi thấy con Hồng cứ kiếm chuyện để được gần Nguyên hoài.
Còn Quyên thì có vẻ thùy mị hơn, giọng nói thánh thót của người con gái Bắc với âm từ cao chứ không nặng như người Huế của mình. Quyên có nét đẹp dịu dàng, dáng người thanh cảnh, mái tóc dài xuống tận lưng, bay theo gió theo nhịp bước đi khoan thai không vội vã của cô.
Có lẽ vì vậy nên Huyền thích chơi với Quyên nhiều hơn với Hồng vì Huyền thấy con này lẳng lơ lắm, nghe đâu nó gần mười bốn tuổi ta rồi đó. Hèn gì mà thấy trai Huế khôi ngô, cao ráo là chập chộ.
Mà Nguyên cũng vậy, làm chi mà cứ một tiếng là Hồng, hai tiếng là Hồng, cứ như là chỉ có một đứa con gái tên Hồng trên đời này thôi, đôi khi Huyền thấy ghét Nguyên chi lạ, nhưng rồi lại thấy nhớ Nguyên dễ sợ trong những ngày cuối tuần như sáng hôm nay.
Huyền nhớ lại, cách đây khoảng hơn một tháng, sau một ngày hè nóng nực, trời mưa giông thật lớn vào buổi chiều.
Cũng như những lần trời mưa trước mà Huyền thường thích, lần này nàng cũng để nguyên cả bộ áo quần màu tím hoa cà đang mặc, đứng tắm dưới máng xối tại góc sau nhà. Nước mưa mát rượi chảy tuôn xối xả xuống thân hình bắt đầu nẩy nở của Huyền. Nàng thấy thích thú khi xoa hai tay dọc theo cơ thể của mình.
Huyền đang nhắm mắt, ngửa mặt lên và để mặc cho dòng nước chảy qua dưới chiếc áo mỏng nâng niu vuốt ve thân hình. Chợt nàng nghe tiếng động từ cửa nhà sau của Nguyên, nàng mở mắt ra quay nhìn về phía đó. Nàng thấy Nguyên cũng vừa đi ra, trong chiếc quần tắm màu xanh đậm, làm nổi bật thân hình trắng trẻo cân đối của cậu con trai đang lớn.
Nguyên cười và hỏi Huyền có lạnh không? rồi không chú ý gì đến thân hình của Huyền đang hiện ra dưới lớp áo quần dính sát vào người của cô bạn gái. Sau đó hai đứa đứng cạnh nhau dưới máng xối và vui vẻ đùa tắm với nhau như mọi lần.
Tuy nhiên đây là lần đầu tiên trong tâm tư của cô láng giềng, một cảm giác lạ lùng đang dâng lên, một thứ tình cảm tuyệt vời làm nàng đỏ mặt lúc Nguyên vô tình chạm phải người nàng, khi cậu cúi xuống lượm cục xà phòng bị tuộc khỏi tay rơi xuống đất.
Chiều hôm ấy sau khi tắm xong, hai đứa vào nhà thay áo quần rồi rủ nhau ra sau bờ hồ xem hoa sen đang nở đầy. Huyền ngồi cạnh Nguyên trầm ngâm không líu lo như mọi lần, đến nỗi Nguyên phải hỏi đi hỏi lại nhiều lần về đề tài một câu chuyện.
Huyền đang còn bị ám ảnh bởi sự đụng chạm vô tình hồi chiều khi hai đứa tắm dưới mưa. Nàng vẫn thắc mắc không biết có thật là Nguyên không chú ý hay là cậu ta giả vờ khi thấy Huyền có vẻ lúng túng đỏ mặt. Nếu là giả vờ vô tình trong khi Nguyên cố ý thì thiệt là dễ ghét.
Trên không trung, về phía bên kia hồ, cạnh bức thành xây bằng gạch đỏ chạy quanh bờ hồ, phân chia ngoại thành và nội thành, những con chim én bay lượn trong ánh tà dương. Từng bong bóng cá thỉnh thoảng gây thành những tiếng động nhỏ lách tách trên mặt hồ sen, thấp thoáng dưới mặt nước là những thân hình đen tuyền, dài bằng hai, ba gang bàn tay, đang lội tìm mồi. Đây là những con cá trầu lớn, thường nổi lên mặt nước hồ để kiếm muỗi và sâu bọ, đặc biệt sau những trận mưa giông như chiều hôm nay.
Từ xa thỉnh thoảng vọng lại những tiếng súng pháo binh bắn đi từ các đơn vị đồn trú chung quanh ngoại ô thành phố Huế, nhắc nhở cho mọi người Huế biết là quân đội viễn chinh Pháp đã trở lại vùng đất khô cằn này.
Cha Nguyên nói chiến tranh đã tiếp tục dữ dội và tàn khốc giữa Việt Minh và Pháp khắp toàn lảnh thổ, nhất là tại vùng thượng du Bắc Việt, sau khi Quân đội Pháp đổ bộ hai Sư đoàn lính từ Bắc chí Nam vào tháng 2 năm 1946 theo thỏa ước giữa quân đội giải giới Trung Hoa, Pháp và Việt Minh.
Tình hình an ninh chung quanh thành phố Huế cũng không được khả quan gì lắm, từng toán quân nhỏ của Việt Minh thường xuất hiện, phục kích và tấn công các đoàn công voa của Tây dọc theo quốc lộ Một trên lộ trình từ Huế đến Quảng Trị. Ngoài ra Việt Minh còn đặt mìn giật sập cầu cống và đường xe lửa Huế - Đà Nẵng, gây nhiều thiệt hại và kinh hoàng cho người dân Huế.
Huyền dự trù về thăm quê mẹ tại làng Mỹ Chánh trước khi tựu trường, nàng hỏi Nguyên:
- “Nguyên ơi, thứ bảy này Huyền theo mẹ ra Mỹ Chánh thăm bà con, Nguyên muốn đi theo với Huyền cho vui không?”
- “Thật à, Nguyên thích lắm nhưng phải xin phép cha đã, mà chắc thế nào ông cũng cho đi. Nguyên cũng muốn đi ngang qua An Hòa và An Lỗ để xem có gì thay đổi so với ba năm trước hay không. Mới đó mà mau ghê Huyền hí, Nguyên nhớ lại buổi đầu tiên mình mới quen nhau, Huyền bảo người bán chim thả mấy con bồ câu, thế mà đã hơn ba năm rồi.”
Huyền không trả lời, nàng đang vui khi nghe Nguyên đồng ý đi về làng với mình, để có thời giờ gần gũi nhau:
- “Huyền còn nhớ cậu Tuấn của Nguyên không?” Nguyên vừa ném hòn đá sỏi xuống mặt hồ vừa nói tiếp:
- “Cậu ấy đi kháng chiến cũng được hai năm rồi, Nguyên chưa gặp lại và cũng không biết cậu ấy đang ở đâu và làm gì.” Huyền ngồi yên lặng, nàng biết mỗi lần nhắc đến người cậu là Nguyên rất buồn.
- “Cách đây một năm, cậu ấy về thăm ngoại trong một buổi tối, rồi vội vàng dẫn dì Bé đi với cậu luôn. Cậu ấy quá tệ, không ghé thăm mẹ và thăm Nguyên một phút nào cả.”
Nguyên ngừng nói, lượm một hòn đá khác tung mạnh ra xa làm nước văng lên tung tóe.
Mùi thơm của hoa sen đang nở đầy, thoang thoảng bay theo làn gió mát của buổi hoàng hôn. Bỗng nhiên đôi bạn trẻ nghe trên không trung văng vẳng tiếng sáo của ai thổi, trầm bổng réo rức với điệu nhạc buồn muôn thuở của quê hương. Nguyên lắng nghe, hình như là bản “Tiếng xưa” thì phải.
Nguyên cảm thấy mắt của mình hơi ươn ướt, Nguyên đang nhớ đến cây sáo tre của anh bạn tại làng La Chữ mà Nguyên đã tặng cho cậu Tuấn. Kỷ niệm và lòng thương nhớ làm cho Nguyên xúc động nhiều. Nguyên chợt thấy bàn tay của Huyền đang vỗ về trên vai mình như an ủi, cậu lấy tay gạt nhanh hai hàng nước mắt rồi nhìn Huyền cười gượng như thú thật và cám ơn.
Đột nhiên Huyền xoay người lại hôn nhẹ vào má Nguyên, rồi như thẹn thùng, nàng đứng nhanh dậy chạy về phía nhà của hai người.
Nguyên chậm rãi đứng dậy, nhìn về phía đông, về hướng vầng trăng mười bảy đang từ từ lên cao dần sau ngọn dừa bên cạnh hồ sen.
Những hồi còi xe lửa vang dội trên sân ga lớn, thúc dục hành khách đang vội vã leo lên cầu thang của những toa xe cũ kỹ.
Sau một hồi còi dài, chuyến tàu lửa đi Quảng Trị rời sân ga và xình xịch lăn trên con đường rầy sắt, nặng nề di chuyển về hướng bắc.
Hai mẹ con Huyền và Nguyên chọn chỗ ngồi ở giữa toa xe và gần cửa sổ nhìn ra ngoài. Tàu vừa đi ngang qua cầu Bạch Hổ trên sông Hương. Từng cơn gió mát rượi từ sông thổi lên làm tung mái tóc dài của Huyền vướng vào mặt Nguyên. Huyền nhìn bạn cười thích thú, bàn tay nàng đang rụt rè tìm bàn tay người bạn học quý mến, rồi siết chặt lại như muốn âu yếm tỏ một điều gì.
Chiếc xe lửa chạy một hồi rồi đừng lại tại ga An Hòa, ga An Lỗ, tại nhà ga người buôn kẻ bán thật là tấp nập, họ bán nào là hột vịt lộn, xôi đậu xanh, cam sành, mảng cầu..., thôi thì đủ thứ. Ba người mua một ít trái cây và vài gói xôi để ăn dằn bụng.
Những người dân quê khổ sở, khiêm nhượng buôn bán kiếm tiền nuôi gia đình qua ngày, thiếu ăn thiếu mặc hằng ngày, thỉnh thoảng lại phải trốn tránh bom nổ đạn bay, mạng sống bấp bênh vì bị giành giật giữa Cọng sản và thực dân Pháp.
Mặc dầu vậy họ vẫn không than thân trách phận mà luôn luôn cần cù, chịu đựng tranh sống với định mệnh an bài cho gia đình mình.
Nguyên đăm chiêu trong ý nghĩ, thẫn thờ nhìn những hàng cau, rặng dừa đang chạy thụt lùi về sau, trước dãy núi xanh tươi hùng vĩ của dãy Trường Sơn, nằm tận phía xa, bên trái quốc lộ Một. Phía bên tay mặt của quốc lộ là những đụn cát trắng xóa trải dài, sau lưng bãi cát này, là những làng đánh cá dọc theo bờ biển thuộc quận Hương Điền giữa làng Lại Hà và Vân Trình.
Những hồi còi tàu vang lên rộn rã, tàu sắp sửa đến ga xe lửa Mỹ Chánh. Hành khách đứng dậy chuẩn bị hành lý, Huyền ra dấu cho Nguyên cứ ngồi yên chỗ cũ, chờ cho xe lửa dừng hẳn và đợi hành khách xuống trước, sau đó cả ba người từ từ bước ra cầu thang và đi vào sân ga.
Trời đã xế trưa, trên trời từng đám mây trắng lờ lững bay cao dưới bầu trời xanh ngắt. Từng cơn gió thỉnh thoảng thổi nhẹ mang theo mùi lúa chín chưa gặt.
Nguyên cầm chiếc xách tay và chiếc giỏ đựng quà của mẹ Huyền mang về tặng bà con, sánh bước cạnh hai mẹ con Huyền, đi về phía cổng làng. Hai bên đường là ruộng lúa màu vàng đậm đang cuộn sóng theo ngọn gió của một ngày cuối mùa hè.
Gió mát dìu dịu làm giảm bớt cơn nóng của buổi trưa. Văng vẳng trong gió tiếng sáo diều đâu đây. Từ xa bên bờ đê của con sông Ô Lâu nhỏ cạnh làng Mỹ Chánh, chú mục đồng đang thơ thẩn trên mình trâu, thản nhiên chăn đàn trâu đang ăn cỏ bên cạnh bờ lau. Thiên nhiên là một bức tranh sống đang hiện ra trước mắt Nguyên, cậu thích thú và thầm cám ơn Huyền đã cho mình cơ hội được gần quê hương xinh đẹp của nàng.
Căn nhà của cậu mợ Huyền nằm gần cuối làng trên một khu đất thật lớn, có chuồng trâu phía sau nhà và vườn trồng trái cây đang nặng trĩu cành. Bên hông nhà là một vườn rau cải, bắp, bầu bí..., thôi thì đủ thứ rau cải, trái nào trái nấy mập tròn và dài tận xuống đất.
Cậu của Huyền vui vẻ ra đón ba người từ Huế về thăm, vợ của ông sau khi ra chào hỏi, hướng dẫn ba người để chỉ cho biết chỗ ngủ tạm sau nhà.
Hai đứa con trai vừa lên năm và bảy tuổi đến làm quen với Nguyên và hỏi chuyện líu lo. Chúng nó cầm tay Nguyên kéo ra sau chuồng trâu và khoe với Nguyên con trâu mẹ mập mạp trong chuồng, bên cạnh là con nghé đang chạy quanh mẹ tìm vú sữa để bú.
Sau khi ăn cơm chiều, Huyền dẫn Nguyên ra con đê bên cạnh nhà, đối diện với hàng dừa xanh, cạnh ruộng lúa của cậu. Đôi bạn trẻ tay trong tay, thảnh thơi rảo bước dọc theo bờ lau, thả hồn nhìn những con cò trắng đang bay lượn rồi đáp xuống ruộng lúa tìm mồi. Trời đã bắt đầu về chiều, từng đàn chim tung cánh về hướng núi, buông những tiếng kêu gọi đàn, bay trong đội hình hành dọc trong buổi hoàng hôn màu tím nhạt của miền quê thanh bình.
Tối hôm đó, một lần nữa, Nguyên trằn trọc không ngủ được, cậu đang nhớ lại những đêm dài, ba năm trước đây, khi theo cha mẹ tản cư trốn Tây tại căn nhà của bà mẹ cả. Nguyên nhớ ông thầy chùa và tiếng tụng kinh trầm bổng của ông. Không biết ông còn sống hay không và đang làm gì. Một con người thật là bí mật núp dưới chiếc áo nâu sồng.
Mặt trời đã lên cao trên ngọn tre trước nhà, Nguyên dụi mắt ngồi dậy, cậu đã ngủ mê và chìm đắm trong một cơn mộng ảo. Nguyên đi ra phía nhà sau, cạnh lu nước để đánh răng và rửa mặt. Nước mát lạnh làm Nguyên tỉnh hẳn và cảm thấy thoải mái.
Nguyên đi ra nhà trước, Huyền đang giúp mợ dọn thức ăn sáng ra bàn, nàng mĩm cười khi Nguyên đến gần, âu yếm nói:
- “Thấy Nguyên ngủ ngon quá nên Huyền không thức Nguyên dậy, chắc tối qua thao thức hay sao mà ngủ dữ vậy.”
Nguyên gật đầu như thú nhận rồi chào mẹ và mợ Huyền.
Cậu Huyền và hai đứa con trai đã dậy sớm và dẫn trâu ra ruộng từ rạng đông như thường lệ. Hai đứa nhỏ nhờ nhắn lại với Nguyên là chúng nó sẽ dẫn Nguyên đi câu cá, trưa nay khi trở về nhà.
Sau khi ăn sáng, Huyền dẫn Nguyên ra chợ làng đang nhóm họp trước sân đình. Thật đúng là chợ miền quê vì hàng hóa là sản phẩm địa phương, rau cải, thịt heo, cá bắt được từ đìa như cà tràu, cá trê... tôm càng nước ngọt đánh được từ sông đang còn tươi xanh, nhảy lung tung trong chiếc rổ tre.
Hàng buôn bán áo quần chở ra từ Huế, ít được người dân quê tại đây chiếu cố nhiều, có lẽ vì họ đã an phận với những gì họ đang có và chỉ mua sắm áo quần mới trong những dịp đặc biệt như cưới hỏi hay Tết âm lịch mà thôi.
Nguyên và Huyền ghé lại cửa hàng bán thức ăn, mua một ít trái cây rồi thuê hai chiếc xe đạp. Hai đứa đạp xe song song bên cạnh nhau trên con đường làng, đi về hướng biển. Bầu trời trong xanh, không một gợn mây, gió từ đồng lúa thổi nhè nhẹ, chim én bay lượn bên dòng sông Ô Lâu chảy dọc theo con đường dẫn về làng Vân Trình.
Hai bạn trẻ thích thú chậm rãi trên bàn đạp, thưởng thức những giây phút thoải mái bên nhau với cảnh đẹp đồng quê.
Sau khi đạp xe độ một tiếng đồng hồ, lúc gần được nửa đường đến biển, phong cảnh hai bên dần dần đổi khác. Huyền và Nguyên bắt đầu nhận thấy những dấu vết của chiến tranh để lại trên miền quê yêu dấu. Những ngôi nhà cháy nám đen nằm thiểu não, trên bãi đất nhiều hoa màu, nay đã bị bỏ phế. Thỉnh thoảng, trên vệ đường, những gì còn lại của vài chiếc xe quân đội Pháp, nằm ngả nghiêng và bắt đầu rỉ sét, bên hông xe là những vết đạn không đều đặn và những lỗ hổng do mìn bẫy tạo ra.
Nguyên cảm thấy không được vui trước hình ảnh thực tại của đất nước, chiến tranh đã và đang tiếp tục dày xé quê hương Việt Nam, đang tiêu diệt những đồng lúa vàng nặng trĩu hạt, nuôi sống dân quê nghèo khổ và gieo tang tóc cho những người dân mộc mạc khắp từ thành thị đến thôn quê.
Nguyên nói với Huyền quay trở về Mỹ Chánh. Trên đoạn đường về, hai đứa không nói với nhau nhiều như hồi sáng và cảnh vật chung quanh cũng không còn làm cho họ vui thích như trước nữa.
Ba ngày trôi qua thật nhanh, sáng nay, Nguyên và hai mẹ con Huyền từ giã cậu mợ Huyền và hai đứa nhỏ để trở về Huế. Chuyến xe lửa rời ga Mỹ Chánh trong một buổi sáng nhiều mây. Khi xe chạy được một lúc, gần đến ga An Lỗ, Nguyên nhìn thấy từng đoàn công voa, chạy ngược chiều về hướng Quảng Trị. Xe chuyên chở đầy lính Lê Dương, trang bị đầy đủ súng ống như là đi hành quân lớn. Theo sau đoàn công voa là những xe tăng, xe thiết giáp chạy chậm hơn. Nhìn những khẩu đại pháo kéo sau xe mười bánh, Nguyên đoán biết lần này lính Tây đang đưa quân đi tham chiến lớn tại một nơi nào đó.
Đoàn công voa chạy ngược chiều chấm dứt với những chiếc xe mang cần câu dài, những xe truyền tin, đầu nảo liên lạc với đội quân viễn chinh.
Hành khách trên xe lửa nhìn theo đoàn công voa với ánh mắt lo âu và buồn bã. Mọi người không biết vùng đất nào sẽ trở thành tử địa trong những ngày sắp tới.
Chiến tranh phá nước và hại dân còn triền miên xảy ra hàng ngày trên quê hương Mẹ Việt nam đã làm cho biết bao nhiêu mầm non đất nước nằm xuống trong lòng đất lạnh cằn cỗi này.
Trường Trung học đệ nhất cấp được xây cạnh nhà máy đèn cũ phía nam cầu Thanh Long, cách trường Tiểu học Thanh Long chừng bốn trăm thước.
Trường Bình Minh được hướng dẫn bởi cha Thành, hiệu trưởng và một số nhiều giáo sư tiếng tăm tại Huế. Trường chỉ có sáu lớp, hai lớp đệ thất, hai lớp đệ lục, một lớp đệ ngũ và một lớp đệ tứ.
Đây là một trường tư nhưng tiền học phí rất rẻ so với những trường khác như là trường Thiên Hựu hay trường Bồ Đề.
Sáng nay như thường lệ, sau khi chào cờ xong, học sinh bắt đầu vào lớp học, đột nhiên cả trường nhốn nháo vì thấy xe của cảnh sát chạy vào đậu tại sân trường.
Nguyên và Huyền ngạc nhiên nhìn thấy ngoài những cảnh sát viên trong đồng phục, còn có những người đàn ông trong y phục dân sự, có lẽ là an ninh thì phải, mang những khẩu súng lục sau thắt lưng.
Những người này đi vào văn phòng của trường, một lúc sau mọi người thấy cha Thành ra nói chuyện với họ, trên tay ông là một xấp truyền đơn, ông đang đưa cho người trưởng toán cảnh sát.
Nói chuyện được một hồi, cha Thành hướng dẫn hai người, một người trong đồng phục, người kia mặc đồ dân sự đi vào từng lớp học như lùng kiếm ai.
Khi đến lớp đệ tứ, họ nói chuyện với vị giáo sư đang dạy tại đây và một lúc sau, Nguyên thấy họ còng tay hai nam học sinh, khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, dẫn ra xe Jeep và chở hai học sinh này về bót cảnh sát.
Cha hiệu trưởng tập họp tất cả học sinh tại sân trường và thông báo cho biết những gì đã xẩy ra. Cha Thành nói là sáng hôm nay thầy giám thị đến trường rất sớm như mọi ngày và khi đi kiểm soát các lớp học để chuẩn bị trước khi học trò đến, thầy lượm nhiều truyền đơn của Việt Minh kêu gọi học trò hãy sẵn sàng tiếp tay với kháng chiến nổi dậy đánh đuổi thực dân và lật đổ chính phủ bù nhìn Bảo Đại. Thầy đã thông báo cho cơ quan chính quyền biết và hai học sinh liên hệ với Cọng sản đã bị bắt điều tra. Cha yêu cầu học trò nên chăm chú vào việc học vấn và đừng đem những việc làm chính trị vào trường học. Việc điều tra của cảnh sát vẫn còn tiếp tục và cha rất buồn về những biến cố đã xảy ra trong trường Bình Minh của cha.
Sau câu chuyện truyền đơn tại trường, Nguyên thấy Trung ít nói hơn thường lệ và nhiều lúc hắn thường ngồi một mình và có vẻ đăm chiêu suy nghĩ về một việc gì.
Hôm nay thứ bảy, ba đứa rủ nhau đi tắm biển Thuận An, cách Huế khoảng 10 cây số. Chúng nó dậy thật sớm và lên đường khi mặt trời sắp mọc. Ba chiếc xe đạp của ba người bạn qua cầu Trường Tiền trước đây có sáu vài, nay chỉ còn lại bốn vài và tám nhịp vì hai vài cầu đã bị sập vì phá hoại.
Sau khi qua khỏi Vĩ Dạ, rồi chợ Mai, cảnh vật miền quê bắt đầu hiện ra, nhà cửa thưa thớt dần dần. Những hàng dừa xanh rũ bóng trên nhánh sông nhỏ của dòng Hương Giang lờ lững, xen lẫn vào là những cây cau với chùm cau nặng trĩu trái. Cánh đồng lúa vừa gặt xong còn lại những đụn rơm rải rác chưa dọn.
Từng con cò trắng bay lên, đáp xuống thong thả rảo bước kiếm mồi. Xa xa về hướng biển, vừng dương vừa mọc, tỏa ra những tia sáng màu hồng nhạt trên vòm trời trong xanh của buổi sáng.
Muốn đến Thuận An, thuở ấy phải qua đò, chuyên chở khách từ Huế về chơi ngang qua phá Tam Giang, sông không rộng lắm nhưng đôi lúc mặt nước nổi sóng chập chùng, nhất là vào những buổi chiều nhiều gió.
Chiếc thuyền nhỏ chở Huyền, Trung, Nguyên và ba chiếc xe đạp do một cậu bé nhỏ hơn họ khoảng vài tuổi nhưng đã rất thành thạo lèo lái. Mạn của thuyền chỉ còn cao hơn mặt nước độ hai gang tay làm Huyền lo sợ nước vào chìm thuyền nên nàng ngồi yên không dám nhúc nhích.
Ba người trả tiền đò rồi dắt xe đạp lên khỏi bến, tiếp tục nhấn mạnh bàn đạp hướng về bãi tắm Thuận An cách đó không bao xa. Khách đi tắm biển rất đông, vì hôm nay cuối tuần trời đẹp, tiếng cười nói xôn xao vui vẻ.
Bãi cát trắng xóa trải dài đã hiện ra trước mắt mọi người. Từng tiếng sóng vỗ rì rào như thúc dục họ đạp xe nhanh hơn trên con đường đất dẫn đến bãi biển.
Ba người xuống xe, đi bộ ra bãi cát của bờ biển nổi tiếng miền Trung. Huyền quá thích thú, nàng nói với hai bạn đang cắm cúi dựng những chiếc xe đạp lại với nhau để làm giá dựng lều:
- “Này Nguyên và Trung ơi, đây là lần đầu tiên mình đi tắm biển đây nghe, chưa tắm mà đã thấy thích quá rồi, biển Thuận An quá đẹp phải không hai bạn?”
Trung nhanh nhẩu trả lời:
- “Trung cũng vậy, đây cũng là lần đầu, may có Nguyên biết đường hướng dẫn nên hai đứa mình mới có một cơ hội đi xuống biển chơi như hôm nay.”
Nguyên tiếp lời hai bạn:
- “Cha Nguyên đưa gia đình xuống đây mấy lần rồi, vì biết Nguyên thích biển, à mà lạ thật nghe, mỗi lần nói đến biển là Nguyên cảm thấy như được gần với một môi trường đem đến phấn khởi cho Nguyên.”
- “Huyền nghe bác gái nói Nguyên say mê biển lắm, nhất là những lần xuống đây, Nguyên ở mãi dưới nước không thèm ăn uống chi cả, phải không?”
- “Ừ đúng như vậy Huyền ơi, mình không thấy đói, chỉ ham mê được dầm mình dưới làn nước ấm của Thuận An là đã thấy no bụng rồi”
Nguyên vừa cười vừa trả lời người bạn gái rồi say sưa diễn tả tâm tư của một người yêu biển:
- “Hai bạn chờ cho đến chiều, khi mặt trời sắp lặn, bãi biển nổi gió, để rồi ngồi nhìn ra biển màu xanh thẩm, nhìn những cơn sóng bạc đầu đuổi nhau cuồn cuộn vào bờ rồi vỗ mạnh trên bờ cát, làm văng tung tóe những bọt nước bay theo ngọn gió biển mang mùi thơm của đại dương, khi đó hai bạn mới thấy tại sao Nguyên thích xuống đây để được gần biển.”
Huyền ngồi trên cát, yên lặng đắm đuối nghe người bạn trai yêu mến của mình đang thả hồn trong câu chuyện nói về biển mà quên hết không gian chung quanh.
Nàng biết lòng mình thật nhiều. Một thứ cảm tình đặc biệt đã đến với người con gái mười bốn tuổi, lứa tuổi dậy thì, nhưng lớn hơn trong tình cảm gái trai. Không biết đây là tình thương hay chỉ là tình bạn, dù vậy nhưng Huyền cũng biết đời mình sẽ rất thiếu thốn nếu không có Nguyên bên cạnh. Mẹ thường nói con gái Huế lãng mạn lắm, có lẽ vì họ lớn lên trong hoàn cảnh chiến tranh và trong môi trường sống thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự, với phong cảnh nên thơ và trữ tình chung quanh. Đặc biệt hơn nữa, những sách báo tiểu thuyết xuất bản, những sáng tác thơ và nhạc trong thời gian gần đây đều có khuynh hướng ca tụng về tình yêu trai gái đã ảnh hưởng rất nhiều tâm tư của gái trai trong lứa tuổi mười bốn mười lăm.
Ngoài ra với hoạt động và phương tiện di chuyển thiếu thốn, học trò đi bộ đến trường mỗi ngày, tập thể dục và giúp đỡ cha mẹ công việc đòi hỏi đến sự vận dụng tay chân, cơ thể của họ nẩy nở tự nhiên với những sinh hoạt hàng ngày.
Huyền còn nhớ chiều hôm qua, như thường lệ khi mẹ giúp kỳ cọ sau lưng trong lúc Huyền đang tắm, mẹ rất ngạc nhiên và làm cho Huyền đỏ mặt khi bà nhận xét về thân hình nẩy nở và thay đổi quá nhanh của nàng. Mẹ còn nói là thân hình Huyền có lẽ còn bự hơn thân hình của mẹ lúc bà lấy ba khi bà vừa hơn mười sáu tuổi một tí.
- “Làm gì mà đăm chiêu giữ vậy? Chuẩn bị xuống tắm với tụi này đi chứ”
Trung vừa đến bên cạnh Huyền và đưa tâm tư nàng trở về với tiếng sóng rì rào lớn hơn lúc mới đến. Huyền nhìn quanh, những con hải âu màu trắng xám đang bay lượn kiếm mồi trên cơn sóng bạc đầu. Những cuộn mây hồng lơ lửng trên bầu trời. Từ xa những thuyền cá đang thấp thoáng nhấp nhô trên biển trời đã nối lại thành một bức thảm màu xanh dương trải dài đến nơi xa thẳm ngàn trùng, vô tận.
Nguyên đang vùng vẫy bơi lội trong dòng nước biển trong, cậu bơi dọc theo bờ biển thay vì bơi ra xa, có vẻ thích thú và quên hết những ưu tư của cuộc đời, của chiến tranh, mặc dù chỉ trong khoảng khắc này thôi.
Trung thì vẫn lăng xăng bên cạnh Huyền và như muốn gây sự chú ý của Huyền về sự hiện diện của cậu ta. Nhưng nào Huyền có để ý gì đến thân hình ốm nhom, trắng bệt của người bạn thư sinh này đâu, nàng đang theo dõi một thân hình đang trườn mình trên sóng và rồi Huyền đứng dậy, chạy nhanh trên cát như bị lôi cuốn bởi sự nung nấu của lòng mình, nhào xuống làn nước biển một cách vội vã như buông trôi, như thả lỏng tâm tình, để mặc cho cậu Trung đang đứng ngẩn ngơ nhìn theo thân hình tròn trịa dễ thương trong bộ áo màu tím nhạt của người bạn gái mà Trung thương mến nhiều. Thế rồi cậu ta cũng chạy xuống và nhào mình vào những cơn sóng đang cuộn vào bờ.
Ba người tung tăng trong sóng nước của đại dương mãi cho đến gần xế trưa, thỉnh thoảng Huyền thấm mệt chạy lên ngồi nghỉ trong căn lều vải khéo dựng lên bởi Trung, rồi sau đó lại chạy xuống hòa mình với dòng nước và với tình bạn thân thiết của ba người.
Tối hôm đó trăng mười bốn mọc sớm trên biển xanh đậm, ba người đến cạnh khán đài cất vội, nơi đang trình diễn văn nghệ dành cho du khách tắm biển của Bộ thông tin Huế. Ban nhạc đơn giản với ba người chơi nhạc cụ và vài nam nữ ca sĩ được biết tiếng tại Cố đô.
Nghe hát một lúc, họ rủ nhau lấy đèn bin để đi bắt mấy chú còng còng đang chạy trên cát. Chỉ trong một giờ rượt đuổi mà ba người đã chụp được gần ba chục con còng còng, mập ú giống như những con rạm đồng thường thấy bày bán ở chợ cá trên Huế.
Trung chạy quanh vào trong khu cây mọc phía sau những quán lá, lượm một ít cành cây khô và rong biển khô rồi cùng Nguyên nhúm lửa. Không biết cậu ta học được từ đâu mà rất thành thạo về việc này, Trung chất cành khô theo hình tam giác, quẹt diêm nhóm lửa và để lửa bắt mồi và cháy bùng từ các rêu biển, bắt vào cành cây khô. Trung lấy mấy que nhọn xâm vào vài con còng còng rồi nướng trên ngọn lửa đỏ. Thế là ba người bạn có một chầu còng còng nướng vỉ ngon ngọt tuyệt vời nhờ tài nấu nướng dã chiến của Trung.
Trời về khuya, trăng cũng đã lên cao rồi, nhẹ tỏa ánh sáng trắng đục xuống biển Thái Bình Dương, lóng lánh như suối vàng. Trên bãi biển, từng chiếc lều vải dựng cạnh nhau, bên trong lều, bập bùng ánh đèn sáp hay chập chờn ánh sáng đèn bin.
Cảnh vật quá nên thơ và đơn giản như cuộc sống của thanh thiếu nữ Việt Nam trong cuối năm bốn mươi và đang chuẩn bị đi vào thập niên mới, thập niên năm mươi, trong hoàn cảnh bấp bênh và không tương lai vì hậu quả chiến tranh đang tiếp tục xảy ra trên đất nước thân yêu của họ.
Những thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên trong cuộc chiến không trận tuyến, giữa những tranh giành quyền lực của đại cường quốc đang đi tìm thuộc địa tại các quốc gia nhược tiểu quật cường. Những người trẻ này chỉ muốn tìm quên định mệnh trong giây lát bên cạnh người thân, những người bạn đồng chí, đồng hành trong chuyến viễn du không định hướng của cuộc đời son trẻ và đã lớn trước tuổi, mang tâm trạng yêu cuồng sống vội.
Những cuộc điều tra và bắt bớ học sinh thân Cọng sản tại trường Trung học Bình Minh vẫn tiếp tục trong tuần lễ kế tiếp. Một bầu không khí lo sợ và nghi ngờ lẫn nhau luôn luôn bao trùm sinh hoạt của trường và ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần và sự học vấn của học sinh.
Trong lúc chiến cuộc lan tràn khắp miền Bắc, thì tại ngoại ô thành phố Huế, những cuộc chạm súng giữa Cộng sản và thực dân Pháp tăng dần lên đến cấp Tiểu đoàn, rồi Trung đoàn. Hằng đêm người dân hiền hòa nghe từng tiếng súng pháo binh vọng về càng gần hơn. Sau đêm ngủ trong phập phồng suy tư, họ tỉnh dậy với những tin tức chết chóc, thiệt hại của đôi bên, được thổi phồng bởi các nhà báo hoặc những phóng viên chiến trường.
Hằng ngày trên con đường đi về hướng phi trường Phú Bài, người dân ở dọc hai bên đường An Cựu nhìn thấy từng đoàn xe mười bánh của quân đội Tây, chở thi hài của lính bị tử thương trong các trận đánh, chạy về phi trường để máy bay mang họ về quê hương bên phương trời Tây.
Cuộc sống trong thành phố bề ngoài vẫn yên ổn nhưng trong thâm tâm ai cũng biết chỉ là giai đoạn, vì tình hình an ninh chung quanh Huế không mấy khả quan. Những chuyến tàu lửa đi Đà Nẵng thường bị giật mìn tại đèo Hải Vân; tàu đi Quảng Trị thì bị phục kích tại Mỹ Chánh, An Hòa...
Đoạn đường ngày trước Nguyên và Huyền vui vẻ dạo chơi trên hai chiếc xe đạp cách đây một năm, nay đã trở thành huyết lộ với những trận chiến dữ dội cấp Trung đoàn, giữa đơn vị thuộc Trung đoàn 95 của Việt Minh và quân đội Pháp. Con đường này được các cấp chỉ huy của thực dân Tây đặt tên là “Con Đường Không Vui” để nói đến những nguy hiểm, lo âu, thiệt hại và ưu tiên quân sự của con đường “thơ mộng” không còn nữa này, một con đường mang nhiều kỷ niệm ngày nào của hai cô cậu học trò nhỏ mà có tâm hồn người lớn.
Những địa danh như Vân Trình, Phò Trạch, sông Ô Lâu, Lại Hà, La Chữ thường được nhắc đến hằng ngày trong các bản tin tới tấp gửi về báo cáo và đăng tải trên báo chí tại Huế, liên quan đến các cuộc đụng độ giữa Việt Minh và Tây Lê Dương.
Mợ của Huyền đã đưa hai đứa con trai vào Huế và ở tại nhà của cha mẹ Huyền sau khi chồng của bà bị Việt Minh đưa ra đấu tố và kết án là điền chủ “bóc lột?” máu mủ của đồng bào. Cậu mợ của Huyền đã than khóc, năn nỉ và giải thích cho họ biết mình là người vô tội, cần cù lo việc đồng áng và mặc dù chỉ vừa đủ ăn, vẫn thường hay giúp đở những đồng bào thiếu thốn, chứ chưa lần nào bóc lột sức lao động như những lời buộc tội.
Sau khi lên án là địa chủ ngoan cố, nhưng với lòng khoan hồng của chính phủ “Cách mạng”, tòa án nhân dân tha cho vợ con của tội nhân và thi hành bản án tử hình tên địa chủ “khát máu” đồng thời tịch biên nhà cửa, ruộng vườn kể cả hai con trâu của “kẻ thù nhân dân”. Chiếc hòm làm bằng gỗ thông được đóng sơ sài và vội vã bởi những người nông dân mà trước đây cậu mợ thường hay giúp đỡ. Đám táng đơn giản do những người bạn thân liều lĩnh tổ chức cho gia đình sau khi cán bộ Việt Minh niêm phong nhà của mợ và dẫn hai con trâu đi mất.
Mợ thu xếp vài áo quần cũ và những đồ kỷ niệm của hai vợ chồng, từ giã những người bạn đưa tiễn tại sân ga Mỹ Chánh rồi gạt lệ cùng hai đứa con trai rời bỏ mảnh đất yêu dấu mà mợ đã lớn lên và chung sống với cậu trong tình thương vợ chồng, hơn ba mươi năm cần cù làm việc.
Nước mắt chảy dài trên gò má của người quả phụ, nạn nhân của chiến tranh và Cách mạng giải phóng dân tộc. Nhìn những hàng cau, rặng dừa chạy thụt lùi về phía sau, mợ đau buồn thương tiếc người chồng quá cố, chết tức tưởi không toàn thây, đang nằm cô đơn trong lòng đất lạnh nơi quê hương chôn nhau cắt rún của ông. Những mộng ước của cuộc đời, những đêm vắng cùng nhau ngồi nhìn trăng lên cao dần sau hàng cau trước sân nhà, trong đêm thâu tỉnh mịch với tiếng côn trùng hòa nhịp trong vùng quê hẻo lánh hiền hòa, nay chỉ là những kỷ niệm đau thương trong lòng người thiếu phụ, đang ôm chặt hai đứa con trai vừa mồ côi cha.
Huyền ngồi thờ thẫn bên cạnh Nguyên, nước mắt chảy dài xuống má, nàng cảm thấy oán ghét chiến tranh, hận thù Cách mạng, uất ức và giận dữ khi kể cho Nguyên nghe về câu chuyện đau buồn của gia đình cậu mình.
Chương 4: 
Trung ngồi trước tập giấy, đang chăm chú vẽ. Cây bút chì đen thoăn thoắt dưới bàn tay điêu luyện của nhà họa sĩ trẻ tuổi, chỉ trong chốt lát, Trung đã vẽ xong bức hình của Huyền đang đứng trên bãi biển Thuận An nhiều nắng, làn tóc lả lơi buông thả bay trong gió. Trung thích thú chiêm ngưỡng người đẹp trong tranh mà quên cả giờ đi học. Cha Trung cũng đang sửa soạn đi làm, ông thấy Trung đang còn ngồi thờ thẫn sau vườn, bèn gọi vói ra:
- “Này ông họa sĩ ơi, đã đến giờ đi học, mau vào thay áo quần kẻo trễ giờ nghe con.”
- “Dạ con vào liền thưa ba, con không ăn sáng nên cũng kịp giờ học chứ không trễ đâu.”
Trung nói cho cha yên lòng, mặc dù anh đã dự định chương trình sẽ phải thi hành hôm nay, sau khi cha đi làm. Mẹ Trung đã đi dạy học từ sáng sớm. Ông Phương không trả lời, ông đang tìm chiếc cặp da đen để đựng hồ sơ mà ông mang về nhà. Trung vừa đi vào nhà:
- “Ba đang tìm gì vậy thưa ba?”
- “À con có thấy chiếc cập da của ba ở đâu không? Lâu lắm rồi ba không dùng, không biết mẹ con dọn dẹp và cất ở đâu.”
- “Dạ con biết chỗ, để con đi lấy cho ba.”
Trung có vẻ lúng túng và vội vã đi vào phòng ngủ của cậu ta, một lúc sau, trở ra với chiếc cập da, đang được mở sẵn sàng và đưa cho ông Phương.
Vừa dẫn chiếc xe đạp ra cổng, ông vừa dục Trung nhanh lên để đi học cho đúng giờ. Trung trở vào phòng mình, miệng càu nhàu khi nhìn thấy giấy tờ ngổn ngang trên sàn nhà. Trung sợ cha bắt gặp và biết về những truyền đơn và tài liệu mà cậu ta đã dấu kín trong chiếc cập da đen.
Trung nhớ lại hơn hai năm trước đây khi cậu Tuấn của Nguyên trở về thăm mẹ và dẫn cô em gái đi theo kháng chiến, cậu đã hẹn gặp Trung trong một phòng học tại trường Thanh Long và nói chuyện với Trung về kháng chiến. Cậu Tuấn nói Cách mạng đang cần những thanh niên có nhiều tài năng và lòng yêu nước như Trung để giúp đỡ kháng chiến thành công trong việc đuổi quân thực dân ra khỏi đất nước thân yêu của chúng ta. Cậu Tuấn còn nói, trong thời gian trước đây khi huấn luyện cho Trung và bạn bè về những hoạt động phá hoại Tây bằng lựu đạn đất sét..., cậu nhận thấy Trung là một trong những thành viên hăng say nhất, hơn cả Nguyên nữa. Ngoài ra với sự khéo tay, thích học hỏi và tìm tòi, Trung là tương lai của Cách mạng.
Trước khi chia tay, cậu Tuấn còn dặn Trung không được nói cho Nguyên biết về việc này, sợ Trung thưa lại cho người lớn biết và sẽ làm bại lộ kế hoạch, không tốt cho Cách mạng. Cậu cho Trung biết trong tương lai sẽ có nhân viên nằm vùng tại đây tiếp xúc và bàn định chương trình hoạt động với Trung.
Suốt trong thời gian qua, vì sự kiểm soát và theo dõi chặt chẽ của công an Pháp, đội Thiếu niên tiền phong của Trung không hoạt động gì nhiều, chỉ làm truyền đơn và rỉ tai thâu nhận thêm thành viên vào tổ chức. Gần đây khi quân giải phóng tăng cường hoạt động quân sự chung quanh ngoại ô thành phố Huế, đặc công lén lút xâm nhập và lẫn lộn trong dân chúng, gây nhiều thiệt hại cho chính quyền địa phương. Công an hoang mang chuyển hướng vào việc chống đặc công nhiều hơn.
Lợi dụng thời cơ thuận tiện này, tổ chức dưới quyền điều khiển của Trung đã tung nhiều truyền đơn chống thực dân và tuyên dương công trạng Lực lượng kháng chiến, đồng thời phổ biến lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, thúc dục toàn dân tổng khởi nghĩa và thông báo cho mọi người biết là quân đội Cách mạng của nhân dân đã gặt hái nhiều thành công kể từ ngày chủ tịch Hồ Chí Minh vào Hà nội trong trung tuần tháng 8 năm 1946. Chợ Đông Ba và các trường học là những địa điểm thích hợp cho công tác này vì nhiều người sẽ đọc truyền đơn của Cách mạng.
Cách đây sáu tháng khi hai thành viên của Trung vì sơ suất, bị cảnh sát bắt tại trường Bình Minh, Trung mất ăn mất ngủ nhiều ngày, cậu ta sợ hai đồng chí này sẽ khai hoạt động của tổ chức và cậu cũng bị bắt luôn, nhưng mãi cho đến tuần vừa qua, Trung không nghe thêm tin tức gì cả, chỉ biết là hai người này đang bị giam tại nhà lao Thừa Phủ bên kia cầu Trường Tiền. Thế rồi, trong đầu tuần này, công an đã bắt đầu trở lại trường và bắt thêm hai thành viên nữa, do đó Trung thấy đã đến lúc cậu ta phải đi trốn vào mật khu trước khi bị công an bắt.
Trung lấy hồ sơ của đoàn Thiếu niên tiền phong ra xem tên và địa chỉ của liên lạc viên địa phương, bản đồ đường đi... Sau đó anh đem tất cả truyền đơn còn lại và những giấy tờ liên hệ đến đoàn thiếu nhi ra sau vườn. Trung quẹt diêm đốt cháy và thiêu hủy các tài liệu rồi trở vào nhà viết một lá thư để lại cho cha mẹ trước khi lấy chiếc xách tay, bỏ vào áo quần cần thiết, xong rồi đập vỡ chiếc bình đựng tiền để dành của cậu từ mấy lâu nay, lấy tiền ra và bỏ vào túi.
Trung lấy lá thư vừa viết xong cho cha mẹ và bức hình của Huyền, để ngay ngắn trên chiếc bàn tại phòng khách. Cậu ta nhìn quanh nhà, kiểm soát một lần cuối xem có quên làm việc gì không rồi đóng cửa nhà lại. Trung nhìn qua nhà hàng xóm xem có ai để ý không, trước khi lên chiếc xe đạp đã để sẵn bên cạnh hàng rào, từ giã căn nhà mà Trung đã sinh sống và lớn lên trong nhiều năm qua mà không biết khi nào mới quay trở lại.
Trên bầu trời xanh dương, từng sợi tơ trời lơ lửng trong gió ban mai như những màn nhện bị đứt lìa, vài con chim én bay đuổi theo một con diều với tiếng kêu thanh thảnh rời rạt. Từng đám mây trắng chầm chậm trôi về hướng chùa Thiên Mụ, đồi Vọng Cảnh, lăng Minh Mạng... trong nắng ấm tháng tư.
Trung đang cắm cúi đạp chiếc xe đạp qua khỏi Kim Long và đi lên ngả chợ Tuần, phía tây của chùa Thiên Mụ. Hai bên đường, từng cây phượng vĩ vẫn chưa nở hoa, nghiêng mình trên dòng Hương, nước sông trong vắt đang lững lờ trôi chậm rãi như cuộc sống bình thản bên ngoài của người dân xứ Huế, ngược lại bên trong chan chứa những tâm hồn tràn đầy nhiệt huyết, tình cảm bồng bột, lãng mạn nồng nàn, mơ mộng ngây thơ, những con người đa dạng như phong thổ của Thần kinh muôn thuở.
Trung đã gần đến địa điểm ghi trên bản đồ, một căn nhà nằm trên con đường đất, giữa mảnh vườn trồng cây ăn trái. Những cây thanh trà với cành cây cong vòng dưới sức nặng của những trái thanh trà nổi tiếng của Kim Long, chợ Tuần và từng cây măng cụt nặng trĩu trái màu tím đang lòng thòng giữa chùm vòm lá xanh tươi, che bóng mát cho căn nhà tranh vắng vẻ. Trung dựng chiếc xe đạp bên cạnh cây măng cụt, đeo chiếc xách tay lên vai, rồi rụt rè đi qua chiếc sân đất dẫn đến trước cổng nhà. Nghe tiếng động, một người đàn ông đang tưới vườn rau sau nhà, dừng tay lại và bước ra gặp Trung:
- “Xin lỗi cậu muốn tìm ai?”
Người đàn ông tuổi cở trung niên, mặt mày hơi sạm nắng, đôi lông mày đậm nét, môi mỏng dưới bộ râu mép mọc lơ thơ, vừa chùi tay vào chiếc áo bà ba đen vừa hỏi Trung.
- “Dạ thưa chú, cháu muốn tìm bà Tâm, “bốn chín”, không biết bà có nhà không ạ?”
Trung ngập ngừng nói mật hiệu rồi ngừng lại như chờ đợi.
- “Có, bà Tâm “năm mốt” đang ở trong nhà, xin lỗi cậu là ai?”
Người đàn ông có vẻ hơi ngạc nhiên trả lời và đưa tay ra hiệu cho Trung đi vào nhà.
- “Dạ tên cháu là Trung, thuộc đoàn “bốn chín”, cháu cần bà Tâm giúp đỡ để rời khỏi vùng này và đưa vào địa điểm mới. Hoạt động của đoàn bị bại lộ và nhiều thành viên đã bị tụi công an ngụy bắt giữ, cháu biết rồi đây thế nào cũng đến phiên cháu luôn, nên cháu quyết định ly khai với gia đình và gia nhập vào trung ương tổ để tiếp tục chiến đấu cho Cách mạng.”
Trung ngừng nói rồi lấy trong chiếc xách tay ra một tờ giấy giới thiệu của tổ chức và đưa cho ông này.
- “Đây là giấy của Đoàn trưởng đoàn Thanh niên tiền phong thành phố Huế cấp cho cháu, Đoàn trưởng đoàn Thiếu niên tiền phong “bốn chín”.
Người đàn ông chăm chú đọc tờ giấy giới thiệu rồi tiến tới bắt tay Trung:
- “Chào đồng chí Trung, tôi là Hùng, bí danh sáu Hùng, biệt hiệu là “bà Tâm”, vui mừng gặp đồng chí và được biết đồng chí đã ly khai với gia đình để gia nhập vào Lực lượng kháng chiến để đánh đổ thực dân và tụi bù nhìn, kẻ thù của đảng và dân tộc.” Ông kéo chiếc ghế gỗ và nói Trung ngồi xuống.
Trung nhìn quanh căn nhà, tranh tối tranh sáng, với hai chiếc ghế gỗ đặt cạnh một chiếc bàn trải khăn vải trắng ca rô đỏ. Trên bàn để một bộ khay trà, bên cạnh là một dĩa măng cụt; cuối phòng một chiếc giường tre kê trong góc nhà, cạnh chiếc cửa sổ có chấn song bằng tre, nhìn ra phía sau khu vườn, đồ đạc trong nhà rất đơn giản và Trung không thấy bóng dáng đàn bà.
- “Đây là trạm tiếp liên của kháng chiến,” ông sáu Hùng rót nước trà ra một cái tách, đưa cho Trung rồi nói tiếp: “nơi này được dùng để đón tiếp những thành viên vừa mới gia nhập Lực lượng chính quy như đồng chí, trong khi chờ được hướng dẫn đến địa điểm mới, nằm sâu trong rừng.”
Ông sáu Hùng ngừng lại, nhấp một ngụm trà rồi vói tay lấy một bản đồ nhỏ trải ra bàn và chỉ cho Trung một vòng tròn ghi bằng bút chì đỏ:
- “Đây là vị trí của trung tâm huấn luyện cán bộ mới, chỉ cách đây vào khoảng năm giờ đi đường, phía tây nam của Bảng Lãng, cuối nguồn sông Hương, gần lăng Minh Mạng.”
- “Dạ thưa chú Sáu, cháu có được phép đem theo chiếc xe đạp của cháu theo không?” Trung ngập ngừng hỏi người cán bộ.
- “Được chứ, đây là phương tiện chính và cần thiết dùng để di chuyển và chuyên chở dụng cụ khi di động qua đường mòn trong rừng núi Trường Sơn mà đồng chí sẽ dùng trong tương lai.”
Hai người chợt nghe có tiếng chân người và tiếng chó sủa từ nhà bên cạnh, ông sáu Hùng ngừng nói và đứng dậy đi ra ngoài sân như đã biết có người đang đi vào. Trung cũng theo ra trước cổng nhà.
Trung thấy hai thanh niên còn trẻ, chỉ hơn Trung khoảng một hai tuổi, chừng 17 hay 18, nhưng có thân hình cao lớn và thân thể rắn chắc, khuôn mặt sạm nắng, trong hai bộ áo quần vải đen, cổ choàng khăn ca rô màu đỏ. Họ dựng hai chiếc xe đạp cũ kỹ cạch cây thanh trà rồi đến nói chuyện với ông sáu Hùng, chỉ về hướng Trung, đang đứng tần ngần tại cửa:
- “Đồng chí Trung lại đây để tôi giới thiệu với hai người bạn mới.”
Trung đến gần bắt tay hai thanh niên trong khi ông sáu Hùng giới thiệu ba người với nhau:
- “Đây là đồng chí Luân và đồng chí Huấn, đồng chí Trung vừa mới gia nhập Lực lượng và sẽ tháp tùng hai đồng chí vào cục “H” chiều hôm nay,” ông dẫn ba thành viên kháng chiến trẻ tuổi vào nhà rồi nói tiếp:
- “Nhân tiện đây tôi cũng nhắc nhở các đồng chí là kể từ nay, phải cẩn thận hơn khi di chuyển trên sông Hương đặc biệt là đoạn sông từ cầu Bạch Hổ đến điện Hòn Chén vì Hải quân Tây đã tăng cường thêm nhiều chiến đỉnh tuần tiểu trong vài ngày vừa qua.”
Ông ngừng lại như chờ ba thanh niên có hỏi gì không, rồi tiếp tục:
- “Ba đồng chí sẽ khởi hành trong khoảng nửa giờ, chú năm Dương sẽ dùng chiếc thuyền của chú để đưa các đồng chí lên nguồn. Chúc các đồng chí may mắn và hoan hô Cách mạng thành công, chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm.”
Sau khi chuẩn bị hành trang, hai thanh niên tên Luân và Huấn cùng Trung từ giã ông sáu Hùng và lên ba chiếc xe đạp đi ra bến đò cách đó khoảng một cây số để gặp đồng chí năm Dương, đang chờ đợi bên cạnh chiếc đò nhỏ tại thượng dòng sông Hương. Chiếc thuyền với ba chiếc xe đạp dựng hai bên mạn thuyền để giữ thăng bằng, ba thanh niên ngồi ở giữa thuyền, từ từ được ông năm Dương chèo ra khỏi bến đò.
Đồng chí năm Dương là một người trung niên xấp xỉ bốn mươi tuổi, trông vẫn còn rất khỏe mạnh. Ông ít nói, chỉ nhếch mép cười khi ba người thanh niên đến gặp và lễ phép chào ông. Cũng như những cán bộ khác, năm Dương chỉ là bí danh của ông mà thôi, ba người không biết tên thật ông là gì.
Ông năm Dương chèo thuyền dọc theo bờ sông hướng về phía điện Hòn Chén. Hai bên bờ sông, Trung thấy những hàng tre rủ lá soi cành trên dòng nước trong vắt đang chảy lững lờ của sông Hương. Từ phía tay trái, trên bờ cỏ dựng cao với nhiều cây phượng nhỏ, những cây thông già cành lá xanh tươi, đứng thẳng trên đồi Vọng Cảnh thơ mộng và nổi tiếng của Cố đô, nơi hò hẹn của thanh niên thiếu nữ đa tình vào cuối tuần hay sau những giờ học. Dòng sông Hương cuộn vòng như ôm lấy ngọn đồi tại chỗ này, chuyển về hướng tây nam với lòng sông trở nên sâu dần cho đến điện Hòn Chén thì sâu hẳn xuống đến cả trăm thước như những người dân địa phương thường nói. Vì lòng sông sâu nên người ta nói có những con chình lớn hơn bắp đùi sinh sống dưới đó vì họ thường thấy những con này nổi lên trên mặt nước, lội quanh ghành đá gần điện thờ. Dân địa phương tin rằng những con chình này là lính hầu của “Bà Chúa Liễu Hạnh” vì vậy dân chài lưới tại đây không dám bắt cá chình vì họ sợ bị “Bà Chúa” phạt.
Khi thuyền vừa qua khỏi đồi Vọng Cảnh, ba người thanh niên rất ngạc nhiên nhìn thấy từ phía trước, thuyền bè lớn nhỏ tấp nập trên sông Hương. Tiếng kèn trống nghe rõ dần khi thuyền của ông năm Dương tiến đến gần:
- “Hôm nay người ta đi cúng “Bà Chúa” tại điện Hòn Chén, họ “lên đồng” và làm lễ suốt ba ngày rồi “thả đèn phóng sanh” trên sông vui lắm.”
Ông năm Dương giải thích cho ba người trẻ đang chăm chú nghe.
- “Cũng vì thế nên tôi đã đề nghị với anh sáu Hùng đưa ba đồng chí đi lên căn cứ hôm nay, vì tôi biết tụi Tây đã biệt phái nhiều giang đĩnh tuần tiểu tại vùng sông này, chút nữa các đồng chí sẽ thấy tàu tụi nó khi mình gần đến điện Hòn Chén.”
Ông năm Dương vừa thành thạo nhấn mạnh mái chèo vừa nói tiếp:
- “Các đồng chí cứ vững tâm đừng lo gì cả, cứ làm như lời tôi nói là qua khỏi trạm kiểm soát của tụi Tây. Mình sẽ xen lẫn vào với những thuyền đò đi lễ là tụi nó sẽ không khám xét gì đâu.”
Ông năm Dương dừng lại rồi lấy ra ba chiếc nón lá và đưa cho ba người đồng chí:
- “Các đồng chí đội chiếc nón lá này đi để che không cho tụi Tây thấy mặt. Tụi nó thấy thanh niên khả nghi là tụi nó chận lại hỏi giấy tờ liền.”
Trung và hai thanh niên lấy nón đội lên đầu rồi hồi hộp ngồi yên chờ đợi. Chỉ trong chốc lát, thuyền của ông năm Dương đã xen kẽ vào với những thuyền bè đi lễ, đang chen chúc rộn rịp với tiếng chuông mõ, kèn trống tưng bừng. Trên những chiếc thuyền kết hoa lộng lẫy, nhiều người đồng bóng đang say sưa múa nhảy, trong y phục đầy màu sắc rất rườm rà.
Trên những chiếc đò cho khách mướn rất là đặc biệt của xứ Huế, những khách đi cúng “Bà Chúa Liễu Hạnh” đang ăn uống và vẫy tay chào ông năm Dương khi thuyền của ông đi ngang qua. Đây là những chiếc đò thường thấy đậu tại sông Hàng Bè hay dưới chân cầu Gia Hội, dành cho khách du lịch thuê mướn để ra tắm tại giữa sông Hương gần Đập Đá, giống như chiếc đò mà cha mẹ Trung thường thuê vào mùa hè và nói người chủ đò chèo ra neo trước mặt chợ Đông Ba để ngủ cho mát. Trung còn nhớ những chiếc thuyền nhỏ với ngọn đèn dầu leo lét, và các cô gái trẻ tuổi xinh đẹp. nụ cười rất có duyên, bán nào là bún bò, cháo hến, nem chua, chả khối, chè hột sen bọc thịt quay hay nhỡn lồng... thường được cha gọi và cặp lại bên cạnh chiếc đò, để ăn khuya trong những lần đi chơi trên sông Hương.
Đang thả hồn với những kỷ niệm dĩ vãng, Trung giật mình trở về với thực tại bởi bàn tay của đồng chí Luân đang lay nhẹ trên vai mình:
- “Đồng chí Trung, làm gì mà thẫn thờ vậy? Nhìn tụi lính thủy Tây đằng kia kìa.”
Trung ngước nhìn về phía ngón tay trỏ của đồng chí Luân; từ phía thượng dòng, hai chiếc giang đỉnh, trang bị súng đại liên đang xình xịt chạy về hướng đoàn thuyền bè đi lễ. Trên tàu lố nhố những thủy thủ Tây chỉ tay và có lẽ đang bàn tán về những chiếc thuyền của người Huế này. Ba thanh niên cố làm ra vẻ tự nhiên và ngồi ngay ngắn giữa thuyền, mặt che khuất sau những chiếc nón lá. Tụi Tây không nghi ngờ gì cả, chúng vẫn tiếp tục lộ trình và giảm bớt tốc độ tàu lại vì sợ chạy nhanh, sóng lớn chìm thuyền bè của người dân.
Khi tàu chạy ngang qua, Trung liếc nhìn thấy trên boong tàu. Những lính thủy mặt mày non choẹt, trong bộ quân phục màu xanh dương, vài thằng lớn tuổi ở trần, lông ngực cả chùm, gớm ghiếc, đang chỉ chỏ bàn tán với tên Tây đen cũng ở trần, thân thể đen như cục than, miệng cười toe toét đưa hai hàm răng trắng bệt, nham nhở vẫy tay về phía mấy cô gái Huế đang ngồi trên mạn thuyền.
Bốn người thở ra nhẹ nhõm:
- “Thế là qua khỏi nguy hiểm rồi, có lẽ đây là đơn vị tuần tiểu cuối cùng của tụi Tây, chúng nó thường đi từng cặp như vậy.”
Ông năm Dương ngừng lại rồi nhờ Trung lấy bình nước rót cho ông một ly nước chè xanh và nói ba người cứ tự nhiên uống với ông. Vị chè xanh hơi chát làm thỏa mãn cơn khát nước của ba người, họ ngồi trầm ngâm thưởng thức hương vị nước chè Huế và ngắm điện Hòn Chén nằm về phía bên tay phải. Điện trông thật trang nghiêm và huyền bí, tọa lạc trên một bán đảo như một ngọn đồi, bao bọc bởi cây cối xanh tươi, nối vào đất liền, nhìn xuống dòng sông Hương. Từ phía sông nhìn vào là những bậc thang bằng đá cẩm thạch xây dần lên cao đến chánh điện. Phía bên mặt là chỗ dành cho thuyền bè đậu, cũng có những tầng cấp bằng đá chạy vòng theo sau điện để cho người đi cúng bái đi lên. Nước sông Hương phản chiếu hình thể tựa như cái chén úp ngược của bán đảo, nước sông màu lục đậm, gợn sóng lăn tăn dưới làn gió mát của buổi chiều sắp tắt nắng.
Ông Dương đẩy mạnh tay chèo dần dần vượt qua khỏi đoàn thuyền đò đi lễ đang lần lượt ghé lại, cặp bến bên mặt điện thờ và cột vào nhau, sữa soạn lên chánh điện để bắt đầu ba ngày lên đồng và rước “Bà Chúa” về. Từ đây cho đến Bảng Lãng dòng sông Hương chảy nhanh và nhỏ hơn, hai bên bờ nhà cửa thưa thớt. Trên sông thỉnh thoảng Trung thấy một vài chiếc thuyền chài thả lưới dọc hai bên bờ, những vợ chồng ngư phủ lơ đễnh dừng tay nhìn chiếc thuyền của ông năm Dương chèo ngang qua. Cuộc sống của họ thật là bình dị, đơn giản nhưng tiềm tàng một sức chịu đựng mạnh mẽ, bền bỉ trong cuộc chiến đã và đang kéo dài trên quê hương, như dòng sông Hương, ngàn đời vẫn lững lờ trôi trong vùng đất nắng ấm của dân Huế.
Thuyền tiếp tục đi ngược dòng khoảng hơn một tiếng đồng hồ thì đến một bến đò bên tay mặt, ông năm Dương từ từ lái thuyền vào bến và gác mái chèo lên, đi ra phía trước mũi thuyền rồi nhảy xuống đất. Ông cột chiếc thuyền vào thân cây bên đường rồi quay lại phía ba người đồng chí trẻ tuổi đang sửa soạn hành lý và lần lượt vác xe đạp lên vai:
- “Nhiệm vụ của tôi đến đây là xong, các đồng chí cứ tiếp tục theo con đường đất này, đi thẳng vào sâu trong rừng, khoảng hai cây số sẽ đến lăng Minh Mạng và từ đó sẽ có người hướng dẫn vào cục “H”. Đoạn đường này là vùng an toàn được kháng chiến kiểm soát, lính Tây không dám vào đây vì chúng không biết địa thế vùng này, cũng như khó cho Tây di chuyển từng đoàn quân lớn. Dân địa phương rất có cảm tình với Cách mạng nên đã che chở và giúp đỡ những hoạt động của mình.”
Ông ngừng lại, đưa tay ra bắt tay ba người thanh niên và chúc họ may mắn trong nhiệm vụ mới. Trung và hai đồng chí này đứng tần ngần một lúc, nhìn theo ông năm Dương đẩy thuyền ra khỏi bến, chèo ngược trở về phía hạ dòng sông Hương. Sau đó ba người leo lên xe và nhấn mạnh bàn đạp khởi hành đến địa điểm mới để bắt đầu một cuộc hành trình vô định mà họ đã chọn cho cuộc đời mình.
Ông năm Dương ngoái cổ nhìn lại, ba thanh niên trẻ đã đạp xe khuất sau lùm cây cạnh bến đò. Trời bắt đầu đi vào hoàng hôn, mặt trời chỉ còn chiếu tia sáng yếu ớt trên ngọn cây tùng cao trên ngọn đồi bên tay trái. Ông nghĩ đến ba hành khách trẻ mà ông vừa đưa họ đi vào một định mệnh mới, ông chợt nhớ đến đứa con trai của ông, cũng bằng lứa tuổi của những thanh niên này khi bị Tây hành hạ và bắn chết tại làng Thanh Thủy Hạ, trong một cuộc hành quân lùng Việt Minh, khi con ông vừa mừng sinh nhật thứ mười sáu. Ông chảy nước mắt khi nhớ đến đứa con gái yêu mười lăm tuổi của ông cũng bị Tây Lê Dương hãm hiếp trong ngày đau buồn đó. Những hình ảnh khủng khiếp, thê thảm lần lượt hiện về trong ý nghĩ của người kép hát nổi tiếng ngày nào.
Đoàn hát Kim sanh tối nay sẽ trình diễn tại đình làng với cặp đào kép có giọng hát và lối trình diễn rất hay vừa từ Huế xuống. Cặp đào kép này không những đóng tuồng với nhau rất xứng đôi mà rất là tình tứ vì đó là cặp vợ chồng anh năm Hải, anh sinh ra và lớn lên tại đây. Trước đây anh đi học tại trường làng, chơi đá banh nổi tiếng với tài chạy nhanh và có đôi chân thiện nghệ làm bàn tung lưới và đã giúp đội bóng tròn làng Thanh Thủy Hạ giữ chức vô địch trong nhiều mùa tranh giải do huyện Hương Thủy tổ chức.
Ngoài tài thể thao, anh còn được trời cho có giọng hát mạnh và rất cao nên anh thích hát Kim sanh và được nhiều cô gái trong làng để ý. Nào là con Lượm, con Quít, con Lan... mấy cô này mê anh lắm, cứ mỗi lần nghe anh cất tiếng ca và đá chân làm điệu bộ như Lữ Bố trong tuồng Lữ Bố Hí Điêu Thuyền là mấy nàng ta ngồi nhìn say đắm như lạc vào mê hồn trận.
Tuy được những cô gái bạn từ nhỏ này thương và chiêm ngưỡng, anh năm Hải vẫn không để ý vì anh đã mơ mộng đến một người đẹp có thân hình thon nhỏ, mềm mại, lả lướt như cây liễu đầu làng, đẹp vô cùng nhất là khi nàng mặc những y phục lộng lẫy khi đóng tuồng trong những vai Điêu Thuyền, Đắc Kỷ... tình tứ nâng ly rượu mời Lữ Bố hay lẳng lơ quyến rũ Trụ Vương. Cô đào của đoàn hát thành phố Huế đã làm cho anh năm Hải mơ mộng nhiều sau đêm trình diễn lớn tại sân đình làng trên chiếc rạp hát được đặc biệt dựng lên cho đêm ca diễn vở tuồng Tam Anh Chiến Lữ Bố, trong ngày Tết âm lịch. Sau đó đã nhiều lần, anh năm Hải đi xe đạp lên tận hội Quảng Tri, rạp hát Kim sanh bên bờ sông Hàng Bè, gần cầu Gia Hội mãi tận trên Huế để xem cô Cương trình diễn.
Đoàn thường hát ban đêm, chỉ có thêm hai xuất hát ban ngày vào ba giờ chiều thứ bảy và chúa nhật mà thôi. Đường đi xa lắm vì thế đôi lúc anh phải ở lại Huế, khi tan hát cũng gần mười giờ đêm và vì không có nhà bà con tại đây, nên anh mang theo một chiếc chiếu và một cái mền mỏng, trải nằm ngay tại tầng cấp phía sau rạp hát ngủ qua đêm, hy vọng được gặp cô Cương để tỏ lòng chiêm ngưỡng và làm quen. Định mệnh xui khiến anh được ông bầu gặp vào một đêm ngày thứ bảy và sau đó được ông này cho vào đoàn hát đóng các vai phụ trong những vỡ tuồng Tàu. Nhờ khá bảnh trai và giọng hát hay, anh chiếm được sự chú ý của cô Cương và chỉ trong hơn một năm sau, anh dành dụm được một số tiền, xin cưới người đẹp.
Hai người hát chung với nhau tại hội Quảng Tri, thỉnh thoảng về các làng quận kế cận thành phố Huế trình diễn trong những ngày hội, ngày lễ lớn. Năm đầu sinh một bé trai và chỉ hơn một năm sau hai vợ chồng lại có thêm một bé gái nữa. Ông bà già của anh Hải thay nhau qua đời khi thằng Trực, con trai hai vợ chồng anh Hải vừa tròn bốn tuổi và để lại cho anh Hải, đứa con trai độc nhất căn nhà và thửa ruộng nhỏ tại làng Thanh Thủy Hạ.
Vừa đúng lúc đó chiến tranh và thời thế khó khăn làm cho việc làm ăn của đoàn hát Kim sanh thất bại, người dân thiếu thốn, không đủ tiền mua gạo nuôi bao tử hàng ngày chứ đừng nói là dư dã để đi xem hát. Vì thế sau khi đoàn Kim sanh giải tán, hai vợ chồng từ giã bạn đào kép và đưa hai đứa con mình trở về quê sinh sống.
Thằng Trực và con Sương lớn dần theo thời gian và trong tình thương của hai vợ chồng ông, trong khi đó cô Cương ngày nào, nay đã trở thành một người đàn bà cần cù với việc nội trợ, tuy nhiên dòng máu nghệ sĩ vẫn còn lưu chuyển và sống mãi trong cô. Thỉnh thoảng nghe vợ ngâm nga, ca hát, anh Hải biết vợ mình còn thích nghiệp cầm ca, vì thế mỗi lần có dịp là hai người tình nguyện trình diễn giúp vui dân làng.
Vào một buổi sáng đẹp trời, khoảng gần một năm sau ngày Pháp bắt tay với Việt Minh và Trung Hoa để rồi đem quân trở lại Việt Nam, chúng nó gửi một tiểu đoàn lính Lê Dương đi hành quân tại núi Voi, phía tây bắc của làng Thanh Thủy Thượng, bị Việt Minh phục kích, gây thiệt hại nặng cho tụi nó. Trong ba ngày liên tiếp tụi Tây cho máy bay thả bom sâu trong núi, vào những nơi mà chúng nghi ngờ là căn cứ của quân kháng chiến, thế rồi tụi Tây đổ quân phía nam từ sân bay Phú Bài, phía bắc từ Huế xuống làm thành hai mũi dùi càn quét khu vực nằm trong quận Hương Thủy, kể cả hai làng Thanh Thủy Thượng và Thanh Thủy Hạ để bắt thanh niên thiếu nữ trong vùng.
Hai vợ chồng anh Hải hôm đó chạy trốn kịp trong khu rừng lau cạnh làng, riêng hai đứa con ông đang làm việc ngoài đồng khi Tây tới, chạy không kịp nên thằng con trai bị bắt và tra khảo, đánh đập bởi mấy thằng Việt gian rồi bị tụi Tây bắn chết trước khi rút quân ra khỏi làng. Về phần đứa con gái, bị Tây đen thay nhau hãm hiếp và sau đó bỏ nằm lăn lóc bên bờ ruộng bên cạnh xác chết của người anh đã liều mình cứu em gái. Cho đến khi trời tối, Tây Lê Dương rút đi, hai vợ chồng anh Hải quay trở về tìm kiếm và mang con Sương và xác thằng Trực về căn nhà còn cháy âm ỉ trong cơn gió thổi nhè nhẹ của một đêm hè không trăng.
Tiếng nổ tí tách của những thanh tre làm sườn của căn nhà thân yêu đang cháy dần trong ngọn lửa bị át mất bởi tiếng khóc não lòng của hai vợ chồng người kép hát đáng thương, ôm đứa con gái đang thoi thóp thở bên cạnh thi hài của thằng Trực được phủ bằng chiếc mền độc nhất của gia đình. Những người láng giềng cũng cùng chung cảnh ngộ, người thì mất con, người thì vợ bị hãm hiếp, nhà bị đốt cháy, trâu bò heo, gà vịt... bị Tây cướp dẫn đi.
Ba ngày sau khi chôn cất đứa con trai và chữa bệnh cho cô con gái, hai người theo đám người tị nạn quyết định rời bỏ nơi chôn nhau cắt rún, mang theo những gì còn lại, lên Huế để xa lánh nạn chiến tranh đang lan tràn tại quê nhà. Họ sợ sẽ lâm vào cảnh bom nổ đạn bay và bỏ thây trong những trận đụng độ của Tây thực dân và Cách mạng giải phóng.
Riêng anh Hải với lòng căm thù Tây tột độ, anh đã có dự định tham gia vào kháng chiến sau khi ở Huế một thời gian và trong bốn năm sau đó, anh năm Hải đã bí mật chính thức hoạt động tích cực với kháng chiến và phối hợp với đơn vị địa phương do ông trưởng tổ, sáu Hùng biệt danh “Bà Tâm”, điều khiển và chỉ huy.
Sau đó vợ anh từ giã chồng, mang theo đứa con gái để đi theo một đoàn ca Huế, vừa mới được thành lập để lên Đà Lạt giúp vui thường trực cho Hoàng đế Bảo Đại. Ông cũng mới vừa được Pháp quốc mời về nước giữ chức vụ Quốc Trưởng nước Việt Nam đã được Pháp công nhận là một Quốc gia độc lập vào ngày 1 tháng Giêng năm 1950. Quốc Trưởng Bảo Đại đã quyết định lên sinh sống trong dinh thự của ông tại xứ hoa đào Đà Lạt thơ mộng vào khoảng đầu mùa hè năm 1950.
Anh năm Hải không đi theo vợ con vì anh đã hy sinh, hăng say trong hoạt động kháng chiến và thấy có bổn phận phải giúp Cách mạng đánh đuổi kẻ thù của dân tộc nói chung và của chính anh nói riêng...
Chiếc thuyền vẫn tiếp tục xuôi theo hạ dòng sông Hương đi về hướng chùa Thiên Mụ và điện Hòn Chén đã hiện ra trước mặt. Tiếng kèn trống bắt đầu nghe rộn rã từ phía xa, đèn đuốc trên điện và dưới ghe thuyền thắp sáng rực cả một khúc sông. Sau một hồi suy nghĩ về những chiếc giang đỉnh của Tây đang tuần tiểu trên sông Hương, anh quyết định ghé thuyền lại và đậu cách những ghe đò kia một khoảng ngắn, cạnh một cây nhỡn cao bên bờ hòn bán đảo nổi tiếng của xứ Huế. Anh trải chiếc chiếu ra giữa thuyền rồi thiu thiu dỗ mình vào giấc ngủ, sau một ngày chèo đò mệt nhọc.
Ba cậu thanh niên cắm cúi trên chiếc xe đạp, băng qua những rặng thông già và cây rừng rậm rạp, nhiều cây sim mọc hai bên đường nặng trĩu trái sim tím, xen lẫn giữa một rừng hoa dại đủ màu sắc. Những đàn bươm bướm trắng nhởn nhơ bay vờn trên hoa lá trang điểm cho cảnh đẹp của núi rừng. Những cây tùng cao vút, che bóng mát cho con đường đất dẫn đến lăng Minh Mạng, thấp thoáng thấy từ đằng xa.
Lăng Minh Mạng tọa lạc trên một khu đất thật rộng lớn. Lăng được xây theo lối kiến trúc cổ kính như một cung điện trong nội thành Huế, bao bọc bởi một rừng cây thông chạy quanh từ trước vòng ra phía sau chánh điện. Trước mặt chính điện mồ vua Minh Mạng là một dãy tầng cấp xây bằng đá, dẫn xuống hai sân rộng lát gạch ca rô màu trắng đục. Một chiếc cầu đá bắt qua chiếc hồ sen, nối liền sân chính và cổng trước, hai bên hồ là những cây hoa sứ với đầy hoa trắng thơm lừng. Một con đường đất chạy quanh làm thành một vòng tròn dẫn đến hai chiếc cầu gạch nằm hai bên lăng, cũng bắt ngang qua hồ sen đưa vào khu chánh điện.
Trung và hai đồng chí vừa đến trước cổng của lăng Minh Mạng. Luân là người lớn tuổi nhất trong nhóm, dừng xe lại, lấy trong túi vải ra một tấm bản đồ, anh ta nhìn quanh, định vị trí rồi nói với hai bạn đồng hành:
- “Mình chỉ còn cách cục “H” khoảng hơn một cây số nữa thôi, căn cứ nằm về hướng chính tây, sau lưng của lăng Minh Mạng. Tôi đề nghị chúng ta nghỉ tại đây chốc lát, rồi tiếp tục, tôi tin tưởng là chúng mình sẽ đến địa điểm trước khi trời tối.”
Luân ngừng lại, lấy bình nước ra, uống một ngụm lớn rồi đưa cho hai người bạn đồng hành, chuyền tay nhau giải khát. Trung dựng chiếc xe đạp rồi ngồi nhìn quanh, anh lắng nghe tiếng chim sẻ ríu rít trên cây tùng cao lớn mọc bên cạnh vách tường đầy rêu phong che phủ. Chiến tranh làm cho người ta quên lãng các vua chúa triều Nguyễn đã nằm xuống, những lăng tẩm đã bị bỏ phế, không người chăm sóc, tu bổ. Thành vách tróc sơn, mái nhà ngói trụt, cây cỏ mọc đầy sân, ngổn ngang đá vụn bể nát hai bên hồ, còn chăng là những cây hoa sứ trời nuôi, bông sứ màu trắng trinh nguyên, thơm phức nở đầy qua năm tháng theo thời gian như không nuối tiếc thuở vàng son ngày nào.
Ngồi nghỉ chân một lúc, ba người lại leo lên xe đạp theo con đường đất, đi vòng quanh bờ hồ sen ra phía sau lăng, tiếp tục theo con đường núi chạy ngoằn ngoèo dẫn về căn cứ địa phương bí mật của Việt Minh. Trung ngoái cổ nhìn lại về hướng lăng Minh Mạng một lần cuối. Anh biết kể từ giờ phút này, anh đã để lại sau lưng những kỷ niệm thuở ấu thơ, những gì quý giá nhất trong đời son trẻ để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm mà anh đã chọn cho đời mình. Trung chợt nghĩ đến hai người bạn học thân thiết mà anh không một lời từ giã trước khi lên đường, anh nghĩ đến bức tranh vẽ hình của Huyền tắm biển Thuận An mà anh đã nhờ cha đưa lại cho Huyền trong bức thư từ giã chứa đựng những lời tạ lỗi của anh đối với cha mẹ, nhất là với mẹ, người từ mẫu đã thương yêu trìu mến anh như một quý vật.
Trung cảm thấy một thoáng chạnh lòng và dừng chân đạp, để cho xe thụt lùi về phía sau hai người bạn mới, lấy tay lau vội những giọt nước mắt đang chảy dài xuống má. Trung lắc đầu thật mạnh và cố quên đi những ý nghĩ yếu đuối trong đầu, anh ngẩng mặt lên nhìn bầu trời đã bắt đầu chạng vạng tối, hít vào một hơi thật dài, rồi cong mình trên chiếc xe, nhấn mạnh đôi bàn chân, đạp nhanh để bắt kịp hai người đồng chí.
Trên không những con chim vạc với tiếng kêu rời rạc, cũng đang bay theo đội hình tam giác về hướng núi rừng trùng điệp của dãy Trường Sơn.
Ông năm Dương giật mình tỉnh dậy, dụi mắt nhìn quanh. Trời đã lờ mờ sáng, sương mù phủ kín những tàng cây tùng dọc hai bên bờ. Trên mặt sông Hương làn hơi nước lững lờ bay nhẹ là đà theo cơn gió sớm ban mai. Về phía điện Hòn Chén, các thuyền bè neo, cột cạnh bên nhau và khách đi lễ vẫn còn say ngủ sau một đêm thức khuya cúng bái và lên đồng. Họ sẽ tiếp tục buổi lễ khi mặt trời đứng bóng.
Ông năm Dương cảm thấy hơi lạnh, ông kéo cổ áo lên cao, lấy chiếc gàu nhỏ múc nước sông lên súc miệng và rửa mặt. Ông kéo sợi dây dừa nhỏ đang cột lòng thòng dưới nước bên cạnh chỗ ngồi của ông.
Một bao ny lông cột kỹ lưỡng hiện lên từ từ trong dòng nước xanh dưới sức kéo. Ông năm Dương cẩn thận vói tay lấy chiếc bao đẫm nước rồi mở ra để kiểm soát. Bên trong là hai quả lựu đạn và một khẩu súng lục ngắn nòng và vài băng đạn, ông cầm khẩu súng lên và lắp một băng đạn vào súng.
Sau đó ông cột bao ny lông lại và thòng dây thả bao xuống nước sông. Đây là phương pháp che dấu vũ khí hiệu nghiệm của những thành viên kháng chiến có kinh nghiệm như ông năm Dương khi di chuyển trên sông rạch và phòng ngừa trường hợp không may bị giang đỉnh Tây chận lại khám xét. Trong những lúc nguy hiểm này, ông có hai giải pháp, một là chống cự và chỉ cần kéo bao ny lông lên lấy vũ khí, hai là lấy dao chặt đứt sợi dây dừa để bao ny lông chìm xuống lòng sông và phi tan vũ khí. Trong suốt thời gian hoạt động vừa qua, chưa có khi nào ông năm Dương bị Tây chận lại khám xét cũng như gặp khó khăn, nhờ sự khôn khéo và kinh nghiệm của ông.
Mặt trời đã bắt đầu rọi tia sáng trên bầy trời xanh thẩm và sương mù cũng đã tan dần. Ông năm Dương ăn vội nắm xôi nguội chấm muối mè, rồi mở giây lên đường trở về Kim Long.
Khi thuyền ông vừa qua khỏi điện Hòn Chén khoảng hai ba cây số, ông thấy từ đằng xa hai phóng giang đĩnh treo cờ tam tài xanh trắng đỏ đang xả hết máy chạy về phía thuyền của ông.
Ông ta giật mình vì đây là lần đầu tiên những tàu tuần tiểu lại lên đến khu vực này quá sớm như vậy, bình thường chúng nó khởi hành từ căn cứ tại Đập Đá rất trễ. Ông vội vàng chèo thật nhanh mong rằng có thể lái chiếc thuyền vào sát cạnh bờ và núp dưới những tàng cây lớn để tụi lính thủy không thấy.
Đang nhấn mạnh mái chèo, ông nghe tiếng loa phóng thanh với giọng Việt học lóm và tiếng Tây gọi lớn:
- “Dừng lại, dừng lại, “Arrêtez - vous ou Je tirais”, dừng lại không tau bắn”.
Ông giả vờ như không nghe và vẫn tiếp tục tay chèo rồi bỗng nhiên từng loại súng bắn từ hai giang đỉnh Tây “tạch... tạch... tạch” vang lên xóa tan bầu không khí buổi sáng mai, làm cho những con chim quạ hoảng hốt tung cánh bay lên từ những cành cây hai bên bờ.
Ông năm Dương bàng hoàng trong chốc lát, phân vân và rồi ông nhớ đến hình ảnh thảm thiết của xác thằng Trực, con trai ông, cuộn trong chiếc mền nâu nằm trước sân căn nhà thân yêu đang cháy bùng, đến thân hình đầy máu của con Sương, đứa con gái vừa tròn mười lăm tuổi, bị Tây hãm hiếp một cách tàn nhẫn. Tất cả quá khứ đau thương chợt đến với ông giữa tiếng máy tàu, tiếng súng tiểu liên nổ ròn rã, đạn bay trúng mặt sông chung quanh thuyền làm nước văng tung tóe lên chiếc nón, ướt đẫm áo quần của người kháng chiến quân, đang cúi sát người dưới mạn thuyền để tránh đạn.
Thế rồi đột nhiên một ý nghĩ liều lĩnh chợt đến làm ông nhếch mép cười và ông năm Dương quay thuyền lại, hướng về những giang đĩnh đang vừa bắn vừa phăng phăng tiến tới. Ông dừng mái chèo và kéo nhanh sợi dây dừa, lấy bao ny lông, tháo dây cột, lấy hai quả lựu đạn để dưới chân, ngay trước mặt, dưới tấm vải lót chân, nhét khẩu súng lục vào thắt lưng dưới chiếc áo bà ba đen rồi chèo từ từ chiếc thuyền ra ngay giữa sông.
Hai chiếc giang đĩnh giảm bớt máy lại và ngưng bắn, từ từ cặp vào thuyền ông năm Dương, đang giả vờ sữa soạn dụng cụ. Trên tàu một tên lính thủy đang hườm sẵn súng đại liên, hai tên khác cầm tiểu liên đứng trên bong, cạnh mạn tàu, lơ đểnh như coi thường việc lùng xét mà chúng tưởng như những lần khác. Một tên lính Tây ra hiệu cho ông tung giây lên tàu, rồi nói chập chững tiếng Việt xen với tiếng Tây:
- “Dong tay lên... Dong tay lên, “Haut les mains... Haut les mains” Mau lên... Mau lên, “Vite... Vite.”
Ông năm Dương giả vờ như không nghe rõ, ông lấy tay chỉ vào tai mình và lắc đầu, rồi cầm lấy sợi dây và tung lên cho thằng Tây đứng trước mũi tàu. Tên này vừa chụp sợi dây vừa cúi xuống cột vào chiếc “bít” tàu. Từ trong hầm máy ông thấy thằng Tây đen đang dụi mắt như vừa ngủ dậy đang leo lên cầu thang và lên tiếng hỏi những tên cầm tiểu liên. Hai tên lính thủy này quay lại như để trả lời.
Lợi dụng cơ hội tụi lính Tây không chú ý, ông cúi xuống nhặt quả lựu đạn, rút chốt tung về phía hầm máy tàu, chỗ thằng Tây đen vừa lên, quả lựu đạn lăn theo cầu thang xuống hầm máy tàu. Ông nhanh nhẹn tháo chốt quả lựu đạn thứ hai tung mạnh lên vào đài chỉ huy, ông rút khẩu súng lục từ thắt lưng, bắn xối xả về phía hai tên lính thủy cầm tiểu liên. Những tên này trúng đạn nhào ngay xuống nước sông Hương.
Hai tiếng nổ liên tục nối tiếp nhau làm rung chuyển cả núi rừng rồi một rừng lửa cháy bùng dữ dội, chiếc giang đỉnh đang nổ lớn trong ngọn lửa từ hầm máy bốc lên. Từng tiếng la lối, tiếng la hoảng của những tên lính bị phỏng cháy, đang vội vàng nhảy xuống dòng sông Hương để trầm mình.
Chiếc giang đỉnh thứ hai chĩa súng về phía tàu ông Dương, nhưng không dám bắn vì sợ trúng đồng bọn đang cố gắng chạy thoát ngọn lửa đang cháy bùng và vì tàu sắp nổ.
Ông năm Dương thay băng đạn cuối cùng và bắn vài phát đạn về phía kẻ thù đã giết con trai mình và phá tan nát gia đình ông, rồi ông quay khẩu súng chĩa vào màng tang mình và bóp cò trước khi một tiếng nổ bùng dữ dội làm giang đỉnh tan tành tung lên không trung, cùng với chiếc thuyền và thân thể của người kép hát một thời.
Ngọn khói đen từ giang đỉnh của Tây bay lên cao trên tàng cây phượng vĩ, rặng thông già hai bên bờ sông Hương, về phía đồi Vọng Cảnh.
Một phần của chiếc nón lá còn lại của người cha vừa trả thù xong cho con mình, trôi bập bồng giữa những mảng gỗ ván cháy sạm đen, trên dòng nước đang lững lờ phản chiếu phong cảnh núi đồi của miền sông Hương núi Ngự, xứ ngàn năm văn vật, đã nổi tiếng một thời là chốn mộng mơ thanh bình.
Chiến tranh, hận thù, giết chóc nay chỉ là những chuyện xảy ra thường xuyên, hằng ngày trên khắp mọi nẻo đường đất nước. Những người nằm xuống vì lý tưởng mà họ đã chọn hay là những người dân vô tội chết oan, kể cả những quân nhân thi hành nhiệm vụ, đã bỏ xác nơi chiến trường, đều là nạn nhân chiến tranh, là hậu quả gây ra bởi những kẻ cầm đầu, thực dân đi chiếm thuộc địa hay những lãnh tụ vì tham quyền cố vị lợi dụng danh nghĩa giải phóng dân tộc.
Ông năm Dương là một trong những nạn nhân này, hồn ông bay lên cao, vượt qua núi Ngự Bình trở về làng Thanh Thủy Hạ, nơi có dòng sông nhỏ uốn khúc chảy mãi lên đến An Cựu, qua ruộng đồng phì nhiêu, được bao bọc bởi rặng tre già ngày nào của cặp đào kép trẻ đẹp gánh hát Kim Sanh.
Chương 5: 
Ba người trai trẻ ở trần, mặc quần đùi đen, thân hình sạm nắng, đang dùng những cây sào dài chống một bè tre thật lớn, xuôi dòng sông Hàng Bè về phía Bao Vinh.
Nguyên đang thích thú lội từ sông trước mặt nhà qua phía bên kia bờ dưới cây sung già cao lớn. Cành cây sung nghiêng hẳn ra mặt sông rất thuận tiện cho những thể tháo gia như Nguyên leo ra và phóng mình xuống dòng nước màu lục đậm của sông Hàng Bè. Khi vừa đến bờ, Nguyên leo lên cành cây để nghỉ mệt trước khi tiếp tục vui tắm với những người thanh niên thiếu nữ khác tại đây.
Trời chiều mùa hè oi bức khó chịu, không một gợn mây, thỉnh thoảng một cơn gió đầu hè thổi nhẹ không đủ làm mát những người thanh niên đang tiếp tục chống bè tre trên sông. Nguyên nhìn về phía bên kia bờ, anh thấy một người con gái tay cầm chiếc khăn tắm đang đi xuống bến sông, cách nhà Nguyên khoảng ba bốn bến gì đó, cạnh một bè tre cột gần chân cầu Đông Ba. Anh lấy tay che mắt để khỏi bị chói nắng và nhìn cho rõ ràng, hình như là Hồng thì phải, đúng thật rồi, Nguyên tự nhủ thầm, cũng cái lối đi yểu điệu và nhún nhẩy đó với thân hình cân đối như mời mọc những chàng trai đa tình. Nguyên thấy Hồng lội ra bè tre, leo lên ngồi, vừa vuốt mái tóc dài đẫm ướt, vừa nhìn quanh quẩn như tìm kiếm người nào. Nguyên nhảy từ trên cành cây sung xuống nước và bơi nhanh về phía Hồng đang đùa giỡn trong dòng nước mát. Chỉ vài phút sau, Hồng đã nhận ra người thanh niên đang vùng vẫy lội về phía nàng và nàng kêu mừng rối rít:
- “Nguyên bơi nhanh lại đây, biết ngay mà, biết là thế nào cũng gặp Nguyên chiều nay tại chỗ này.”
Hai người lội đến chiếc bè tre và Hồng chống tay lên vai Nguyên leo lên bè trước:
- “Ai nói cho Hồng biết mà tài vậy?”
Nguyên vừa vuốt nước khỏi mặt mình vừa ngồi xuống cạnh Hồng, đôi chân trắng hồng của nàng thòng dưới nước, đá văng tung tóe và đang cười khúc khích, vừa vén tóc ra sau chiếc cổ cao vừa nhí nhảnh trong giọng Bắc kỳ dễ thương:
- “Thì mấy đứa bạn cùng lớp chứ ai nữa, thằng Nông này, thằng Hoàng này, Hồng hỏi gì mà chúng nó không nói. Vì thế nên Hồng mới ra đây tắm để gặp anh đó.”
Hồng nhỏng nhẻo lấy tay đánh nhẹ vào vai Nguyên khi chấm dứt câu trả lời. Nguyên khựng lại một lúc vì cách xưng hô của Hồng, đây là lần đầu tiên sau gần hai năm cùng học chung một trường, Hồng dùng tiếng “anh” để gọi Nguyên thay vì gọi tên như những lần trước. Ánh mắt anh vô tình nhìn xuống thân hình của Hồng, nẩy nở tròn trịa dưới bộ đồ tắm nhiều màu. Hồng biết Nguyên đang nhìn mình, nàng quay lại miệng mĩm cười rồi hỏi nhỏ:
- “Anh làm gì mà nhìn em dữ vậy? Bộ em xấu lắm sao?”
Nguyên đỏ mặt vì bị người con gái bắt gặp mình đang nhìn trộm thân hình đẹp, anh ấp úng trả lời:
- “À... à không, à... đâu có, Hồng đâu có xấu..., Nguyên...”.
Anh ngượng quá không thể tiếp tục trả lời.
- “Em không xấu sao mà anh đâu có thèm để ý gì đến em, suốt ngày cứ thấy đeo theo con Huyền mãi vậy?” Hồng hất mặt nàng lên, chìa môi ra như hờn dỗi.
Nguyên nghĩ thầm trong bụng: “Trời ơi thật là con gái quá nhiều chuyện, Nguyên theo ai thì mặc kệ Nguyên, mà theo thì theo, đâu có phải mình theo là thương đâu, người ta là bạn thôi mà.” Nhưng Nguyên không đính chính với cô gái nhiều chuyện này, anh vui vẻ cười rồi để Hồng ngồi trên bè, anh phóng mình xuống nước bơi ra xa. Hồng cũng đứng dậy nhảy theo xuống và hai người thanh thiếu nữ thích thú từ từ bơi cạnh nhau dọc theo bờ về phía cầu Thanh Long.
Trên bờ dưới tàng cây bò hòn, một người con gái Huế mân mê chiếc nón lá bài thơ, tần ngần nhìn xuống dòng sông, trầm ngâm buồn bã đứng ngắm thân hình người hai người bạn học đang tung tăng lội. Huyền cảm thấy một niềm cay đắng dâng lên khi đứng trước cảnh này, nhìn người bạn trai đã quen từ hơn sáu năm nay, người đã từng chia xẻ với nhau nhiều kỷ niệm của tuổi ấu thơ. Huyền thường mơ mộng, rồi biết rằng tình yêu đã nảy nở và càng ngày càng thắm thía hơn giữa hai đứa. Đâu ngờ nay khi Huyền và Nguyên lớn lên, lại ít gặp nhau kể từ ngày cha mẹ Huyền dọn nhà qua ở trên con đường Gia Hội, cách đây hơn sáu tháng, vì lý do công việc của cha Huyền. Ông bắt đầu làm việc với bộ Công chánh Tây tại Huế và mua một căn nhà nhỏ nhìn ra bờ sông Hương, gần nhà thờ đường Trung Bộ. Riêng Huyền, nàng cũng đổi trường vì thi đậu vào trường Đồng Khánh và đã đi học tại đây trước khi niên khóa chấm dứt.
Hôm nay Huyền đi qua đây với dự định rủ Nguyên ngày mai đi lên lăng Tự Đức chơi với Huyền, vì đã lâu lắm hai đứa không đi chơi riêng với nhau và nhất là vì nàng thấy nhớ Nguyên kinh khủng. Khi đến nhà Nguyên, Huyền được biết Nguyên đang tắm sông, nàng đi ra đây và muốn làm Nguyên ngạc nhiên khi thấy nàng, nhưng nay thì lại chính Huyền ngạc nhiên và đau khổ khi nhìn thấy chàng trai của mình đang đùa giỡn với một người con gái khác, mà nhất là với con Hồng, thấy mà dễ ghét. Huyền cảm thấy hờn giỗi, nước mắt như muốn chảy ra, nhưng cố cầm lại và tức tối định quay đi. Nhưng rồi Huyền thay đổi ý kiến, vì tự ái người con gái bị xúc phạm, vì nàng muốn giành lại người con trai mà nàng đã thương nhiều, từ tay đứa con gái Bắc kỳ, lẳng lơ dễ ghét và trơ trẽn mất cảm tình kia. Ai dại gì mà chịu thua nó, Huyền thấy máu ghen tuông của mình dâng tràn lên dữ dội, mặt nàng nóng bừng không biết tại vì ghen hay là vì ý định sắp thi hành của nàng. Huyền ra đến bờ sông, đi xuống mấy tầng cấp bằng đá trước nhà tế sinh, lò thịt trâu bò heo, và cổi chiếc áo sơ mi đang mặc, vắt bên cành cây nhỏ, rồi với chiếc xu chiêng và quần tây dài, Huyền nhảy xuống nước lội ra ngay bè tre đang cột tại đây, leo lên, vất chiếc khăn tắm của Hồng xuống nước rồi hai tay chống nạnh, đôi lông mày đậm nét cong lên dữ dằn, đứng chờ Nguyên và Hồng đang bơi trở về đây.
Nguyên bối rối, mặt mày đỏ bừng khi nhận ra Huyền, thân hình ngâm đen đẹp nõn nà với đường cong của đồi núi nhọn đỉnh, không che dấu dưới làn vải mỏng màu trắng của chiếc xu chiêng nhỏ xinh xắn, hai ống quần dài màu xanh dính sát vào tấm thân cân đối, khỏe mạnh làm cho Huyền trông thật khêu gợi, hấp dẫn.
- “Huyền... à... Huyền đến hồi nào vậy, đến đây làm chi vậy... có chuyện gì không?”
Nguyên vừa lấy tay chống vào bè tre, vừa nhún mình nhảy lên cạnh Huyền đang đứng nhìn lên phía cầu Đông Ba như không để ý đến Nguyên, vừa bối rối ngượng ngùng nói câu trước, câu sau không ăn khớp gì với nhau cả. Nguyên để mặc cho Hồng đang chới với bơi cạnh chiếc bè và rồi có vẻ giận hờn cả hai người, Hồng lội vô bến, quay lại nhìn về phía bè tre chìa môi ra, nguýt một cái, rồi nhún nhảy bỏ đi về phía nhà của mình.
Huyền vẫn còn giận Nguyên nhiều, nàng ngồi thả hai bàn chân trắng hồng xuống mặt sông, đá mạnh làm nước văng tung tóe lên cao, làn hơi nước dưới ánh nắng chiều thấp thoáng những màu sắc như của chiếc lẹm trời sau cơn mưa lớn.
- “Huyền mạnh khỏe không? Hai bác thế nào? Hè này có định đi chơi đâu không?” Nguyên biết Huyền đang hờn dỗi nên cố gắng gợi chuyện để làm hòa.
- “Huyền mạnh khỏe hay không thì cũng mặc kệ Huyền, mà Huyền có đau, có chết đi nữa thì đâu có mắc mớ gì đến anh... à mắc mớ gì đến Nguyên mà phải hỏi. Cứ làm như lo cho em... à cho Huyền lắm đó, sao không nói thật là Nguyên chỉ lo cho ai kia kìa... lo cho cô gái Bắc kỳ yểu điệu mà Nguyên mê lên mê xuống đó.” Huyền vừa dằn mạnh từng tiếng nói vừa háy vừa nguýt chàng trai tơ đang cúi mặt ngồi bên cạnh.
- “Đâu có mê mệt gì đâu, Nguyên đang tắm thì Hồng... ứ... thì cô ấy đến tắm nên gặp nhau chứ có hò hẹn chi đâu.”
Nguyên vội vàng tìm lời đính chính và cũng không dám gọi Hồng bằng tên vì biết sẽ làm Huyền giận thêm. Đang ngồi, Huyền bỗng quay qua phía Nguyên, giọng nói khan lại như nghẹn ngào và hờn giỗi:
- “Này, này thôi nghe, không có Hồng Hồng, Hoa Hoa gì nữa nghe, “em” khóc bây giờ.”
Vừa nói xong Huyền vùng vằng xô vào vai của Nguyên một cái thật mạnh. Nguyên giật mình trước thái độ của người bạn gái, rồi kêu “ui chao,” và giã vờ té xuống nước, nín thở lặn ra xa, mở mắt dưới nước nhìn về chiếc bè tre thấp thoáng bóng người con gái đang ngồi. Huyền hoảng hốt đứng dậy, hai tay bụm lấy miệng khi thấy Nguyên lăn té xuống nước, rồi một lúc sau, vẫn không thấy Nguyên nổi lên khỏi mặt nước, nàng hoảng sợ và kêu gọi cuống quít:
- “Nguyên ơi, anh Nguyên ơi... đâu rồi, trời ơi... Nguyên đâu rồi... Nguyên... Nguyên ơi!!!”
Huyền vừa chạy lui, chạy tới nước mắt chảy dài xuống má, rồi nàng nhìn lên phía bờ như muốn cầu cứu. Nguyên thấp thoáng thấy hình dáng hoảng sợ của Huyền từ dưới nước, anh cảm thấy mình dọa cho Huyền sợ như thế là đủ rồi, cho bỏ tật ghen bóng ghen gió bậy bạ, Nguyên có thương ai đâu mà Huyền cứ nói là thương với mê hoài. Anh vươn mình lên khỏi mặt nước, hít vào một hơi dài không khí trong mát của một buổi nắng chiều êm đềm đẹp trời, rồi nhìn về phía Huyền, mỉm cười chọc quê người bạn gái của mình đang mừng rỡ khi thấy Nguyên còn sống:
- “Huyền làm gì mà khóc vậy? Nguyên chỉ lặn xuống thăm ông Hà Bá một tí thôi mà.”
Huyền vùng vằng giọng nói âu yếm và có vẻ trách móc:
- “Nguyên thật là dễ ghét, làm người ta sợ muốn chết, Huyền ghét anh lắm, không thèm chơi với anh nữa đâu.”
Huyền vừa quay người lại, giọng nói nũng nịu, vừa gạt những giọt nước mắt đang còn đọng trên đôi gò má đang ửng hồng, thẹn thùng vì bị chọc quê.
- “Nguyên xin lỗi đã làm Huyền sợ, chỉ đùa cho vui thôi mà, ai ngờ lại làm Huyền lo sợ dữ vậy, thôi tha lỗi cho Nguyên nghe Huyền.”
Huyền quay lại, không trả lời, nhìn Nguyên với cặp mắt nũng nịu, trìu mến, miệng vẫn còn hơi mếu máo, gật đầu nhè nhẹ. Thế rồi đôi bạn làm hòa với nhau như những lần trước, nhưng tình cảm của người con gái Huế lần này đã phơi bày không giấu diếm như mọi lần.
Hai người bạn trẻ ngồi cạnh nhau một lúc, không nói gì cả, mỗi người đang theo đuổi một ý nghĩ riêng. Những tia nắng cuối ngày đã bắt đầu bị che khuất sau mái nhà cao bên bờ sông. Nguyên lấy chiếc khăn tắm choàng qua vai của người bạn gái cho nàng khỏi lạnh. Huyền biết tình bạn giữa hai đứa nay đã xoay chiều theo với thời gian, không còn như sáu năm trước đây, khi còn chia nhau từng chiếc kẹo mè xửng. Tâm tình của người con gái Huế vừa qua khỏi tuổi dậy thì mười sáu, đi từ mơ mộng vẩn vơ trong những đêm nằm trống vắng trong căn phòng tối, chuyển qua những nỗi niềm suy tư ngây thơ lãng mạn và những ước vọng tình cảm đẹp với người mình thương. Sự thay đổi quá nhanh, nhanh hơn tuổi đời, từ thể xác đến tâm hồn, từ một cô gái trước đây vui chơi bên người bạn trai một cách vô tư khi còn bé, lúc Huyền lấy những lá mít kết thành chiếc nón cho Nguyên đội làm chồng và Nguyên lấy hoa bưởi cài lên mái tóc bum bê của tân giai nhân có tên Huyền. Bên cạnh vườn sắn dưới bóng cây mít già sau trường tiểu học hôm đó, còn có Trung, chú phụ rể bất đắc dĩ, đang càu nhàu vì cậu này thích đóng vai người chồng của Huyền, cô dâu duyên dáng hơn là làm phụ rể cho Nguyên. Thắm thoát thời gian trôi qua cùng với cuộc chiến đã và đang tàn phá quê hương, Trung ra đi không một lời từ giã. Bức ảnh kỷ niệm buổi đi tắm biển Thuận An hai năm trước đây, được Huyền đóng khung treo trên tường trong phòng ngủ của nàng như là một kỷ vật quý giá của một người bạn trai đa dạng đa tài.
Nguyên cũng đang nghĩ về Trung, không biết giờ này người bạn cũ đang ở đâu và làm gì. Nguyên nhớ lại, ngày hôm ấy, cha mẹ của Trung đến nhà nói chuyện với Nguyên để tìm hiểu xem Trung có nói gì với Nguyên trước khi anh ra đi hay không. Cha của Trung cho biết cô Hương đau buồn không ăn, không ngủ đã hơn hai ngày nay, mặc dù ông ráng khuyên răn và hứa sẽ bỏ công việc làm để đi tìm con về, bà vẫn nằm dài trên giường không chịu ra ăn uống gì cả.
Nguyên thương thầy cô và thương Trung, cảm thấy bực mình và trách Trung không một lời từ giã bạn bè. Nhưng rồi suy nghĩ lại, Nguyên thấy Trung làm như thế cũng phải, vì với tình bạn thắm thiết giữa ba đứa, Huyền, Trung và Nguyên, làm sao Trung có thể quyết định dứt khoát nếu tìm gặp bạn trước khi ra đi. Nguyên thông cảm cho người bạn trai đã theo đuổi lý tưởng của anh ta, mặc dù Nguyên hoàn toàn không đồng ý với Trung về quyết định thoát ly gia đình và mang lại khổ đau cho cha mẹ của Trung. Nguyên đã đổi trường gần hai năm nay sau khi những bắt bớ xảy ra tại đây, Nguyên nghi ngờ là Trung có liên hệ với việc này ngay khi nghe tin Trung bỏ đi. Anh nói cho cha Trung về việc công an cảnh sát đến trường và điều tra học sinh và đưa ra nghi vấn không biết có phải là vì lý do đó mà Trung ra đi không.
Hai người bạn trẻ lội vào bờ, Huyền lau khô người, mặc áo vào và sau đó về nhà Trung ở chơi cho đến tối mới lên xe đạp trở về nhà, sau khi hai đứa đồng ý sẽ đi thăm lăng Tự Đức vào tuần tới.
Nguyên và Huyền đạp hai chiếc xe cạnh nhau trên con đường đất dẫn vào lăng Tự Đức, hai bên đường là những cây hoa dại đủ màu trải theo sườn đồi như một tấm thảm thêu tay tuyệt đẹp. Từng đàn bướm muôn sắc bay vờn trên triền cỏ non xanh mướt. Bầu trời trong vắt của mùa hè với làn mây trắng mỏng lơ thơ đang lững lờ trôi về hướng núi rừng. Một vài cánh diều đang lơ đểnh lượn cánh trong bầu không khí trong lành buổi sáng.
Huyền dang cánh tay trái ra và cầm lấy bàn tay mặt của người bạn trai, bóp nhẹ như muốn diễn tả một tâm tình. Cứ mỗi lần đi chơi riêng với nhau là Huyền thấy rất thích thú, nàng mong ước sẽ như thế này mãi mãi, bên cạnh người bạn trai đã được nàng thương mến với tất cả tấm lòng bồng bột đa cảm của người con gái Huế mới lớn và bắt đầu biết yêu.
Cổng chính của lăng Tự Đức đây rồi, phong rêu phủ đầy bức tường xây bằng gạch đỏ bao quanh chiếc lăng rộng lớn. Nguyên và Huyền đến gửi xe tại chiếc quán lá bên cạnh cổng chính, sau đó hai người nắm tay nhau theo những du khách khác đi vào thăm viếng và dạo chơi, ngắm cảnh mộ của vua Tự Đức. Đây là một trong những lăng tẩm lớn và là thắng cảnh với lối kiến trúc qui mô nhất trong số các lăng tẩm khác như lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị... Lăng Tự Đức tọa lạc giữa một khu đất thật rộng với rừng cây tùng bao bọc chung quanh. Giữa khu đất lót bằng đá là ngôi mộ lớn mà chính điện nhìn xuống một căn nhà thủy tạ được xây trên hồ sen đầy cá vàng nhởn nhơ chờ mồi của du khách liệng xuống cho cá ăn.
Nguyên và Huyền theo chiếc cầu gỗ nhỏ, cạnh cây cổ thụ cành lá sum sê, đi ra nhà thủy tạ ngắm cá vàng và nhìn hoa sen đang nở đầy trên mặt hồ. Sàn nhà thủy tạ lót bằng gỗ cứng kêu kẽo kẹt dưới bước chân hai người. Sau khi ngồi nghỉ chân tại nhà thủy tạ được một lúc, Nguyên và Huyền trở ra rồi theo bậc thang đá dẫn lên khu đất trống trước chính điện, chung quanh sân là những cây bông sứ tỏa mùi hoa thơm ngát.
Hai người cầm tay nhau rảo bước về phía sau điện thờ nơi có những cây ăn trái như cam, quít, vú sửa, măng cụt... và một căn nhà nhỏ, hình như dành cho gia đình người giữ lăng này thì phải. Khi đến dưới một tàng cây đầy bóng mát, cành cây nghiêng xuống sát gần đầu người, có vẻ rất kín đáo, Huyền kéo tay Nguyên dừng lại, mắt nhìn âu yếm như chờ đợi, nàng nghiêng người, đứng thật sát vào thân hình người bạn trai, đang chăm chú nhìn về hướng căn nhà nhỏ. Huyền bực mình, vùng vằng định bỏ đi khi thấy Nguyên không chú ý đến mình. Nguyên kéo tay Huyền giữ lại, nhìn vào mặt Huyền và đưa ngón tay trỏ lên miệng ra hiệu đừng nói gì cả. Huyền ngạc nhiên chờ đợi, Nguyên ra dấu chỉ về phía căn nhà, rồi nói nhỏ:
- “Ông thầy chùa, ông thầy chùa ở trong đó...”
Huyền bực mình cụt hứng dằn tay ra khỏi bàn tay của Nguyên:
- “Ừ thì Nguyên thấy ông thầy chùa, ở chỗ lăng tẩm thờ phụng thì phải có thầy chùa chứ, làm chi mà có vẻ ngạc nhiên rối rít lên vậy.”
Huyền ngoai ngoai cái miệng xinh xắn, chiếc má lúm đồng tiền lên xuống thật dễ thương, nàng nguýt Nguyên một cái thật dài như tỏ cho Nguyên biết là nàng bất mãn thật sự.
- “Không, không phải, Nguyên muốn nói là Nguyên thấy ông thầy chùa trước đây ở tại nhà bà mẹ lớn của Nguyên trên làng La Chữ, lúc đi tản cư với cha mẹ đó.”
Nguyên giải thích cho Huyền, đang trố mắt ngạc nhiên im lặng lắng tai nghe rồi nhìn về hướng bàn tay trỏ của Nguyên.
- “Huyền còn nhớ câu chuyện mà Nguyên đã kể cho Huyền nghe về ông thầy chùa bí mật hồi hơn sáu năm trước, lúc Nguyên cùng với cha mẹ tản cư trốn Tây không?”
- “Có phải cái ông mà Nguyên nói có giọng tụng kinh hay lắm phải không?”
- “Đúng là ông này, cho đến bây giờ Nguyên vẫn còn nhớ những câu kinh ông ấy tụng với giọng lên xuống trầm bổng ngày đó nữa kìa.”
Nguyên đang nói, bỗng nhiên ngừng lại và nắm tay Huyền kéo ra núp sau thân cây măng cụt, kín đáo nhìn về phía căn nhà kia. Hai người nhìn thấy ông thầy chùa từ trong nhà đi ra với hai người đàn ông khác, vừa đi vừa chỉ chỏ bàn tán chuyện gì. Nguyên nhận thấy ông thầy chùa vẫn không thay đổi trong chiếc áo nâu sồng như ngày xưa, vẫn chiếc đầu cạo trọc lóc bóng loáng với chiếc mũi lớn và đôi lông mày chổi sể. Huyền đứng bên cạnh bạn, nàng cảm thấy tay Nguyên nắm chặt bàn tay mình, hơi ấm truyền qua từ thân thể người thương làm nàng tự động siết chặt bàn tay Nguyên làm cậu này liếc qua nhìn Huyền, rồi như mãi say sưa với câu chuyện ông thầy chùa và không để ý gì tới tâm tình của người bạn gái đang dựa sát vào mình, Nguyên nói tiếp:
- “Mà Huyền biết không, cha nói ông này có thể là một cán bộ cao cấp nằm vùng hoạt động cho tụi Cộng sản đó. Cha nghe nói tụi nó giả vờ làm thầy chùa và sinh sống tại các ngôi chùa để che mắt chính quyền và lính Tây rồi lén lút hoạt động phá hoại và tuyên truyền cho đảng.”
Huyền gật đầu như nghe hiểu những gì Nguyên đang nói, nhưng thật sự nàng đâu có để tâm về câu chuyện thầy chùa thầy tụng này đâu. Huyền chỉ ước mong giây phút này kéo dài mãi mãi để nàng được gần Nguyên mà thôi.
Hai người đàn ông chia tay ông thầy chùa và đi ra phía sau lưng chánh điện, riêng ông thầy chùa thì vội vã đi ra phía cổng trước và khuất sau rặng cây thông già. Nguyên kéo tay Huyền để đi theo ông thầy chùa với ý định theo dõi ông này, nhưng Huyền giữ lại và lắc đầu như ngăn cản không cho Nguyên đi. Mặc dù hơi phật ý vì không được thỏa mãn tính tò mò cố hữu, Nguyên cũng chìu theo ý người bạn gái và sau đó hai đứa tiếp tục cùng chung vui với những cặp thanh niên thiếu nữ khác dạo chơi ngắm cảnh lăng tẩm, trong một ngày đẹp trời nhiều gió. Những chiếc áo dài tha thước màu tím, màu lục, màu đỏ...bên cạnh những cậu học sinh đơn giản trong chiếc quần xanh sơ mi trắng, tay trong tay, sánh bước thì thầm thỏ thẻ tâm tình. Họ muốn tìm quên chiến tranh và đời sống bấp bênh trong giây lát, để sống trong hiện tại tuyệt vời với tình bạn, tình yêu trai gái thơ ngây, đắm đuối, bồng bột, với tất cả tâm hồn yêu cuồng sống vội của một thế hệ thanh niên, thiếu nữ giữa thời buổi chiến tranh đã kéo quá dài trên dải đất thân yêu.
Trời mưa tầm tã hơn một tuần lễ rồi. Cả thành phố Huế đắm chìm trong màn lưới mù mịt, ướt át, mặt trời đi trốn làm cho bầu trời trở nên xám xịt từ ngày này qua ngày khác. Mưa rơi liên tục, bong bóng ngập đường đi. Người dân xứ Huế đã quen với cảnh mưa dầm dề tháng bảy và sẵn sàng đối phó với thiên tai lụt lội trong mùa này. Mỗi năm cứ đến tháng bảy âm lịch, nước nhảy lên bờ; dòng sông Hương nhỏ bé, không kham nỗi thể tích và lượng nước tuôn trào từ Bảng Lãng chảy về. Vì thế khi trời mưa nhiều trên dãy núi Trường Sơn, nước nguồn cuồn cuộn chảy qua Thiên Mụ, tràn ngập chợ Kim Long, qua cầu Bạch Hổ, ngập Phu Văn Lâu, Thượng Tứ. Nước sông Hương tiếp tục chảy về Thuận An ra biển, sau khi tuôn vào chợ Đông Ba, Đập Đá, Bao Vinh... vào các con đường chính và phụ cận trong thành phố Huế.
Năm nay các cụ nói thời tiết thay đổi nhiều, khí hậu oi bức trong mùa hè, nên tiên đoán Huế sẽ bị một trận lụt lớn và kéo dài lâu hơn mọi năm. Những năm con rồng, con rắn thường hay xảy ra tai ương bão lụt, giống như trận bão năm thìn, đã tàn khốc gây thiệt hại nhiều về nhân mạng và vật chất cho người dân Huế nghèo khổ. Căn nhà mới mua của gia đình Nguyên nằm trên con đường phía sau sông Hàng Bè; đây là một căn nhà gạch khá lớn mà cha mẹ Nguyên đã dọn về ở hơn một năm nay.
Nước lụt ngập bờ sông Hàng Bè sau khi trời mưa liên tục trong tuần lễ qua. Nước tràn vào nhà, mực nước dâng lên từ từ và trong mấy ngày đầu, hai cha con Nguyên phải chất giường lên cao để nằm ngủ. Sau đó, vì nước lên quá cao, cả nhà phải đóng cửa lại và mang mền gối, gạo nếp, cá hộp, nước mắm..., băng ngang qua con đường nước ngập lên đến tận ngực, trước nhà và lội qua trường trung học tọa lạc trên khu đất cao gần đó, để lánh nạn cùng với những gia đình láng giềng khác trong vùng.
Nguyên đã quen với lụt lội hàng năm, anh thường lội quanh các nhà láng giềng và giúp đỡ những người già cả ốm yếu, di chuyển trẻ con đến lánh nạn trường trung học cũng như đi mua thực phẩm giùm cho láng giềng. Sau gần ba ngày tị nạn tại đây, mưa bắt đầu rơi nhẹ hạt và sau đó, mặt trời le lói vào một buổi sáng ít mây, phản chiếu trên mặt nước đục ngầu đầy phù sa và rong rêu, lục bình... Nước lụt rút xuống từ từ đến đầu gối rồi đến mắt cá chân, để lại bùn lầy dày đặc trong nhà, trên mặt đường... Nguyên và các bạn trong xóm như Nông, Hoàng tháo cửa sổ ra chùi rửa, rồi giúp cha mẹ dội sạch bùn non trên nền nhà của họ, sau đó rủ nhau ra sông Hàng Bè xem người ta cất rớ bắt cá dọc theo bờ sông Hương, lên mãi tận Phu Vân Lâu. Trên những lưới cá lớn nhỏ, nào là cá gáy, cá hanh, tôm càng... thôi thì đủ thứ hải sản nhảy lung tung.
Chợ Đông Ba cũng đông người buôn bán và chùi dọn, những người chủ sạp, kể cả mẹ Nguyên đang kiểm soát hàng hóa bị hư hại vì nước lụt. Các cửa tiệm tạp hóa dọc theo đường Trần Hưng Đạo, đường Gia Long cũng bắt đầu mở cửa nhưng rất vắng khách hàng sau cơn lụt lớn trong năm “năm ba” này. Sông Hương giống như rộng hơn thường lệ, với rong bèo, lục bình trôi nhanh theo dòng nước lũ đục ngầu, đang cuồn cuộn chảy ra biển Thuận An. Bên kia bờ sông gần Đập Đá là căn cứ Hải quân Pháp, các giang đỉnh di tản cơn lụt tại Bao Vinh đã trở về cột cạnh nhau bên cầu tàu. Trên bong, các lính thủy đang dội nước chùi rửa sàn chiến đỉnh. Những khẩu đại pháo được bọc kín bằng vải bố và kéo lên nằm trên khu đất cao, thay vì tại vị trí sẵn sàng tác xạ như thường lệ. Chiến tranh cũng tạm ngưng khi sông Hương nổi giận tuôn trào, nước tràn ngập ngay trên cả dải đất quê hương yêu dấu của mình.
Trong một đêm không trăng, vào lúc gần nửa đêm, khi người dân Huế đang say ngủ, họ bỗng giật mình thức dậy vì tiếng còi inh ỏi từ phía cầu Trường Tiền. Mọi người lo sợ, tưởng lại thêm một lần đảo chánh nữa, như của quân đội Nhật trước đây. Sau một hồi lâu, qua khung cửa sổ, họ thấy lửa cháy sáng rực cả bầu trời, vợ chồng, con cái bèn đánh bạo mở cửa trước, ra đường xem thử chuyện gì đang xẩy ra. Về phía cầu Gia Hội, cầu Trường Tiền, khói bốc lên cao trong ánh sáng bập bồng, ngùn ngụt trong ngọn lửa. Người dân bàn tán xôn xao và biết là chợ Đông Ba đang cháy, nhưng không biết có phải là do Cộng sản phá hoại hay là do tai nạn.
Cha mẹ và Nguyên ra đường, đứng trước nhà cạnh bên cây đèn đường leo lét, nhìn về hướng cầu Đông Ba. Lửa vẫn tiếp tục cháy dữ dội, thỉnh thoảng ba người nghe một tiếng nổ bùng và rồi thấy ngọn lửa phọt mạnh lên trên trời cao. Tiếng còi xe chửa lửa nghe thật rõ trong đêm vắng hòa lẫn với tiếng súng trường, súng tiểu liên như là Tây đang đánh nhau với Việt Minh. Mẹ lo lắng về cửa hàng buôn bán của mẹ tại chợ Đông Ba. Mặc dù mẹ đã mang nhiều hàng về nhà mỗi đêm, nhưng vẫn còn để lại một ít tại sạp hàng, do đó sự thiệt hại cũng không thế nào tránh khỏi, vốn liếng cũng bị thâm lỗ vì cơn hỏa tai này. Nguyên an ủi mẹ trong khi cha ôm đôi vai đang rung nhẹ của mẹ và vỗ về trấn an, khuyên nhủ.
Sau một đêm dài không ngủ chờ sáng, cha mẹ và Nguyên chờ cho hết giờ Thiết quân luật, vội vàng đi ra chợ Đông Ba để xem xét tình hình. Trên đường, mặc dù đang còn tờ mờ sương, ba người đã thấy từng đoàn người, mặt mày lo âu, đang im lặng bước nhanh về một hướng. Một rừng người âm thầm chịu đựng đang đi với tâm trạng giống nhau của những con người sống trong thời loạn lạc mà định mệnh đã an bài cho họ, không than van, không hờn trách thân phận, chỉ biết cam sống qua thời gian. Cuộc đời của người dân Việt Nam nói chung và thanh niên thiếu nữ nói riêng sinh ra trong chiến tranh, lớn lên cùng cuộc chiến, tranh sống qua ngày, không tương lai và sự nghiệp.
Trước mặt mọi người chợ Đông Ba là một cảnh tượng điêu tàn trên một đống gỗ đá nám đen, vẫn còn âm ỉ cháy. Chiến tranh đã vào đến thành phố, cùng với những cuộc đụng độ ở ngoại ô giữa các đơn vị thuộc cấp Sư đoàn của Việt Minh và Tây trong thời gian gần đây, báo động cho người dân Huế biết cuộc chiến đã đến hồi quyết liệt.
Hôm nay trời Huế bắt đầu trở lạnh, chim én không còn bay lượn nhiều trên bầu trời nhiều mây nhiều gió. Mùa thu đã đến từ hơn một tháng nay, học trò đã bắt đầu học niên khóa mới. Trên đường ngập tràn những tà áo bay bên cạnh những chàng trai quần xanh áo trắng. Xe đạp, người đi bộ tấp nập qua những cây cầu nổi tiếng bắt ngang sông Hương như cầu Trường Tiền, cầu Gia Hội, Bến Ngự, An Cựu... Những thanh niên, thiếu nữ miền sông Hương núi Ngự mộng mơ cũng đã nhận thức được vai trò của họ trong tương lai, họ chăm chú học hành vì biết mình là những mầm non của dân tộc, là cột trụ của một căn nhà đã và đang tiếp tục đổ nát vì tai họa chiến tranh gây ra bởi ngoại bang và giải phóng. Chỉ có thế hệ trẻ với nhiệt huyết và nhiều lòng hăng hái, hy sinh hiếu học mới hy vọng cứu vãn được dãi đất cằn cổi nằm cạnh dãy Trường Sơn, bên cạnh bờ biển Thái Bình Dương này.
Nguyên và mẹ trở về nhà khi mặt trời vừa khuất bóng sau bức tường của nội thành. Sau giờ học, Nguyên ra giúp mẹ dọn dẹp cửa hàng mới tại chợ Đông Ba vừa được chính quyền xây cất lại.
Vừa mở cửa vào nhà, hai mẹ con thấy tại phòng khách, cha Nguyên đang ngồi nói chuyện với một người đàn ông trung niên mà Nguyên nhận ra là cháu họ của cha, kêu cha bằng chú. Anh này ở dưới làng nội, làng Thanh Thủy Thượng mà Nguyên đã gặp nhiều lần khi cha Nguyên dẫn Nguyên về làng cúng giỗ trước đây. Trong thời gian sau này, vì tình hình an ninh không khả quan lắm, Việt Minh quấy phá hàng ngày, giết dân lành vô tội bị chúng kết án là Việt gian địa chủ, khi đêm về, nên cha Nguyên không về làng nữa.
Anh Điền, tên người cháu họ, đứng dậy và lễ phép chào mẹ:
- “Kính chào thím, thím mới về, thưa thím có mạnh khỏe không? Buôn bán được không vậy thím?”
- “Cám ơn anh Điền, nhờ trời tôi cũng bình thường, buôn bán ế ẩm lắm, trước đây nhờ nhà quê lên mua sắm, nay đường đi lại khó khăn nên họ ít lên tỉnh như trước nữa.”
- “Dạ thím nói rất đúng, ngay chính gia đình cháu cũng gặp khó khăn trong việc cày cấy, ráng lắm mới đủ sống qua ngày và nuôi mấy đứa nhỏ. Vợ cháu kính gửi lời thăm chú thím.”
Anh Điền ngừng lại và quay nhìn Nguyên đang tần ngần đứng bên mẹ:
- “Chào chú Nguyên, chà bửa nay trông lớn và đẹp trai quá, lâu nay không thấy Nguyên về làng chơi, chị nhắc đến chú hoài, nói là chú giỏi lắm, giỏi đủ thứ và chị có gởi lên cho chú nửa chục hột vịt lộn vừa ra ràng mà chú thường thích ăn.”
Nguyên đỏ mặt trước lời khen tặng của người anh họ, ấp úng trả lời cám ơn. Trong đầu Nguyên, đang hiện ra hình ảnh của chị Điền, một người đàn bà nhỏ nhắn, da dẻ hồng hào, khuôn mặt trái xoan với đôi môi hồng xinh xắn của người con gái miền quê. Chị Điền nổi tiếng là hoa khôi của làng Thanh Thủy Thượng, sắc đẹp dịu dàng của chị đã làm nhiều chàng trai làng theo đuổi nhưng anh Điền đã chiếm được tình thương của chị và cưới về làm vợ khi chị vừa lên mười sáu tuổi. Hai người có ba người con, Châm con gái đầu lòng bằng tuổi Nguyên, Quá là đứa trai lớn nhỏ hơn Nguyên gần hai tuổi, và Nghiệp, một trai út đang còn nhỏ.
Tối hôm đó, cả nhà quây quần chung quanh anh Điền để nghe anh kể chuyện thời sự. Nguyên cùng Châm và Quá say sưa nghe anh Điền, một thành viên Quốc dân đảng nói về tiểu sử của người đảng trưởng, Nguyễn Thái Học, một nhân tài mà anh kính nể, đã xả thân vì đại cuộc. Anh Điền còn cho biết hiện nay, Việt Minh đang cùng các cường quốc khác như Pháp, Hoa Kỳ và Trung Cộng... đang nhóm họp tại Genève để bàn cãi về một hiệp định đình chiến cho Việt Nam. Trong khi trận chiến Điện Biên Phủ đang đến hồi quyết liệt giữa Việt Minh và quân đội viễn chinh Pháp, các mặt trận khác trên cao nguyên Trung phần, Việt Minh cũng tăng cường tấn công dữ dội để gây áp lực tại bàn hội nghị ở thủ đô nước Thụy Sĩ. Riêng tại Huế, các hoạt động khủng bố, giết chóc và quân sự cũng tăng cường bởi những du kích và quân đội chính quy Cộng sản chung quanh ngoại ô thành phố. Đường xe lửa Huế - Đà Nẵng bị giật mìn và các đồn lính Tây tại đèo Hải Vân bị tấn công liên miên. Trên “Huyết Lộ Ô Lâu”, dọc theo quốc lộ Một chạy từ Huế đến Quảng Trị, cạnh những đụn cát cao của làng Lại Hà, Phú An, Vân Trình, Đồng Quế bên dòng sông Ô Lâu, các đơn vị của Trung đoàn 95 Việt Minh gây thiệt hại nặng nề cho các đoàn công voa cũng như những chuyến xe lửa chở quân lính Tây và quân dụng. Tại làng La Chữ, nơi mà khoảng tám năm trước đây Nguyên và cha mẹ đi tản cư, nay đã trở thành hậu phương của kháng chiến với cơ sở làm lựu đạn cho quân lính Việt Minh, cũng là bãi chiến trường hàng ngày giữa du kích Cộng sản và lính Lê Dương.
Hôm nay anh Điền đưa hai đứa con lớn lên Huế và xin chú họ của anh cho phép con mình tạm trú ăn học tại đây vì ở dưới làng Thanh Thủy, Việt Minh đang để ý đến gia đình của anh và trong tương lai có lẽ anh Điền cũng phải rời bỏ nơi sinh trưởng và di chuyển lên An Cựu lánh nạn. Nguyên rất vui khi được biết sắp có bạn, bà con cùng tuổi ở trong nhà học chung với mình. Riêng Châm và Quá thì có vẻ buồn vì đây là lần đầu tiên đi học trường trung học tại tỉnh và xa nhà, xa cánh đồng ruộng, mảnh vườn yêu dấu dưới làng, nhất là phải xa hai con nghé vừa mới sinh cách đây không lâu.
Anh Điền cũng còn cho biết về một nhân tài đang được nhắc nhở đến rất nhiều trong các buổi họp của Quốc dân đảng mà anh đã tham dự vào thời gian gần đây. Một nhân sĩ người Huế, xuất thân từ gia đình Công giáo nổi tiếng tại địa phương, từng làm quan lớn triều Nguyễn. Đó là ông Ngô Đình Diệm, con của cụ Ngô Đình Khả và là em ruột của linh mục Ngô Đình Thục.
Nhân sĩ Ngô Đình Diệm nổi tiếng nhờ đức tính cương trực và tinh thần bất khuất của ông.
- “Có phải là ông này đã trao ấn từ quan trước đây không?”
Cha Nguyên vừa nhấp trà vừa hỏi anh Điền.
- “Dạ thưa chú, đúng là ông Diệm đó ạ, không những thế mà khi Nhật đảo chánh chiến thắng Pháp, họ muốn mời ông Diệm ra giữ chức Thủ Tướng trong chính phủ bù nhìn do Nhật thành lập, ông ta đã khẳng khái từ chối không chịu tham gia với ngoại bang.”
Anh Điền rành rõi xác nhận và có vẽ rất thán phục ông Ngô Đình Diệm, anh nói tiếp:
- “Còn hơn thế nữa, vài tháng sau khi từ chối hợp tác với Nhật Bản Phát Xít, khi Hồ Chí Minh ra lệnh bắt ông Diệm và mang ông này ra gặp Hồ tại Bắc bộ, Hồ Chí Minh ngỏ lời mời ông Diệm làm việc với chính phủ Cách mạng, ông Ngô Đình Diệm một lần nữa đã khôn khéo không nhận lời, lấy cớ vì du kích Việt Minh trước đây đã giết người anh cả của mình là ông Ngô Đình Khôi.”
Anh Điền ngừng lại, xoa đầu Nguyên, đang theo dõi câu chuyện về một nhân vật anh hùng mà trong đầu anh hình dung là rất cao lớn, hiên ngang, dũng mãnh như một vị nguyên soái trong truyện Tàu mà anh thường đọc. Có lẽ đoán được ý nghĩ của người em họ tuổi chỉ bằng con mình, anh Điền tiếp lời:
- “Ai cũng tự hỏi khi nghe về nhân vật đã có những hành động cương trực này và tưởng là ông rất cao lớn như là một đại hán, mọi người đã lầm khi biết rằng, ông Ngô Đình Diệm là một người rất thấp, hơi mập nhưng là một người thông minh tột đỉnh. Tôi tin rằng với khả năng lãnh đạo, con người đạo đức như vầy, không bao lâu ông sẽ là người giúp đất nước chúng ta rất nhiều.”
- “Ông Diệm bây giờ đang ở đâu và có gia đình không vậy cháu?” Mẹ Nguyên muốn biết thêm về con người đặc biệt xuất chúng này.
Anh Điền nhận tách trà từ tay mẹ Nguyên đang ngồi đối diện, cám ơn người thím rồi từ tốn nhấp một ngụm nhỏ, lễ phép trả lời:
- “Dạ thưa thím ông Diệm không lấy vợ. Sau khi ông từ chối lời yêu cầu hợp tác với Hồ Chí Minh, ông bị Việt Minh theo dõi vì vậy ông quyết định vào Sài Gòn sống với anh của ông là linh mục Ngô Đình Thục. Rồi vào năm 1950, ông Ngô Đình Diệm rời Việt Nam đi Hoa Kỳ để vận động nước này giúp giải quyết vấn đề Việt Nam.”
- “Nguyên nghe mấy thầy giáo nói ông Diệm đã về nước lại rồi phải không anh?” Nguyên cũng tò mò về vị nhân sĩ người Huế này.
Cha Nguyên biết rõ nguồn tin này từ hơn mấy tháng qua khi cha vào đánh me với Đức Từ Cung, mẹ của vua Bảo Đại trong Đại nội nên ông trả lời thay cho người cháu họ đang gật đầu như xác nhận:
- “Hôm trước tôi nghe Đức Từ nói là Hoàng Đế Bảo Đại đã mời ông Diệm về nhận chức Thủ Tướng thay thế ông Nguyễn Văn Tâm, đương kim Thủ Tướng, có người con trai là tướng Nguyễn Văn Hinh, đang làm Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội và Hoàng Đế dự trù sẽ đi Pháp để theo dõi hội nghị Genève trong vài tháng tới đây. Hoàng Đế Bảo Đại sẽ giao hết tất cả mọi việc cho ông Ngô Đình Diệm điều hành khi ngài ở tại Pháp.”
- “Dạ thưa chú nói rất đúng, người Mỹ đã vận động và gây áp lực để đưa ông Diệm về nước thành lập chính phủ chống cộng tại Việt Nam, vì Hoa Kỳ sợ Cộng sản Nga Tàu sẽ lợi dụng cơ hội Hồ Chí Minh giành độc lập và nắm chính quyền từ tay tụi Tây, sau đó sẽ bành trướng xuống chiếm vùng Đông Dương, Việt Miên Lào, rồi mấy nước láng giềng như Thái Lan, Ấn Độ, Phi Luật Tân... cũng vào tay Cộng sản luôn theo chiến lược dây chuyền “Domino” của Cộng sản Quốc Tế.”
Nguyên vừa lắng tai nghe vừa thán phục sự hiểu biết của anh Điền, Nguyên đâu ngờ con người bề ngoài có vẻ như là một nông dân hiền hòa, bình thường mà bên trong lại chứa đựng một kiến thức rộng lớn, vượt bực hơn những người khác. Thế mới biết những nhân vật làm Cách mạng là những người mang trong họ một khả năng đặc biệt, một sự hiểu biết bao quát và nhất là phải nắm vững thời cuộc chung quanh mình.
- “Ông ấy được sự ủng hộ của các nhân vật quan trọng trong chính quyền và Quốc hội Mỹ như các Thượng Nghị Sĩ John F Kennedy, Mike Mansfield và đặc biệt là người công giáo Việt Nam được vị Hồng Y Giáo Chủ Spellman nhiều thế lực và có tiếng tại Mỹ bảo trợ và giúp đỡ hết mình.”
- “Chú còn nghe là ông Diệm đã được Mỹ hứa giúp phương tiện để tản cư những người công giáo thuộc các giáo xứ Bùi Chu, Phát Diệm ngoài Bắc vào Nam lánh nạn Cộng sản và tìm tự do tại đây phải không cháu?” Cha Nguyên vừa hít một hơi thuốc lá cẩm lệ vừa hỏi anh Điền.
- “Dạ thưa chú, cháu cũng nghe các đồng chí niên trưởng trong tổ chức nói với nhau về chuyện này. Các niên trưởng nói là ông Ngô Đình Diệm không những chỉ can thiệp cho giáo dân thuộc hai giáo xứ này ra đi mà hình như cho rất nhiều dân Bắc kỳ, những người nào muốn tìm về vùng ánh sáng miền Nam, không muốn sống chung với Cộng sản, đều được cứu xét, giúp đỡ rồi khi hiệp định đình chiến Geneve được ký kết, họ sẽ được di chuyển vào miền Nam sống đời sống mới trong tự do. Cháu nghe đâu số người di cư tỵ nạn phỏng đoán sẽ lên đến hơn nửa triệu người lận.”
Nguyên chợt nghĩ đến Hồng, cô bạn học, người con gái Bắc kỳ có thân hình nẩy nở, tính tình dễ thương, đã theo cha mẹ vào Nam cách đây hơn hai năm để lánh nạn Việt Minh đang chiếm từng mảnh đất của tổ tiên mình.
Trời đã về khuya, mọi người chia tay đi ngủ, từ xa tiếng súng pháo binh vọng về trong đêm vắng.
Lê Bá Thông 
Theo http://dev.kilopad.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Lời Tạ Lỗi Muộn Màng Viết cho H., HQ Tr.Uý tại BTL/HQ bến Bạch Đằng ngày xưa. Nếu anh tình cờ đọc được thì xem như đây là một lời tạ l...