Thứ Ba, 8 tháng 12, 2020

Ba người bạn, một cuộc chiến 2

Ba người bạn, một cuộc chiến 2

Chương 6
Từng cơn gió mát thổi vào từ biển Thái Bình Dương qua những cụm lau mọc lưa thưa trên đụn cát dọc theo bãi biển chạy dài từ Lại Hà lên đến Quảng Trị. Làng Vân Trình nằm giữa con đường nối liền các làng quê rải rác cạnh con sông Ô Lâu, bên những ruộng muối gần biển và các đồng ruộng thưa thớt, không người cày cấy, chạy ra đến quốc lộ Một trên dải đất dài gần 8 cây số nối liền Vân Trình và Mỹ Chánh.
Trung trầm ngâm ngồi trên nắp chiếc hầm công sự chiến đấu, phủ kín với những cây lá ngụy trang để tránh máy bay bà già thám sát của Tây bay từ Huế lên. Anh nhìn ra phía bờ biển, từ xa những cánh chim hải âu đang vờn trên cơn sóng bạc đầu, một vài thuyền chài nhấp nhô cuối chân mây. Buổi trưa cuối tháng bảy tại một vùng biển cạnh làng Vân Trình thật yên lặng, trên bầu trời xanh lơ, mây trắng lờ lững bay trong nắng. Trung vói tay lấy bình nước chè xanh bên cạnh, uống một ngụm lớn, vị chè mát dịu chạy dài xuống cơ thể làm Trung cảm thấy thỏa mái, rồi anh chợt nhớ đến chuyến đi lần cuối trên sông Hương với đồng chí năm Dương cách đây hơn hai năm khi Trung quyết định ly khai gia đình để gia nhập kháng chiến. Anh nhớ đến Nguyên, người bạn học, đến bức tranh mà anh đã để lại tặng Huyền, cô bạn gái dễ thương mà thỉnh thoảng anh đã nằm mơ thấy trong giấc mộng đẹp trong suốt hai năm qua. Trung lơ đãng thả hồn bay theo cánh diều đang lơ lửng lượn trong gió, trở về dĩ vãng.
Ngày chia tay giữa ba người đồng chí mới quen nhưng đã trở nên thắm thiết sau gần hơn một năm cùng nhau thụ huấn tại cục “H” là một kỷ niệm làm cho Trung, Luân và Huấn nhớ mãi. Chương trình huấn luyện cực nhọc trong rừng về cách sử dụng vũ khí, mìn bẩy mới của Mỹ, Tàu, Nhật, Tây... đã chấm dứt. Những lớp học chán ngấy về chính trị, những bài giảng hun nóng lòng căm thù thực dân Pháp, ca ngợi Hồ chủ tịch, công trạng của kháng chiến và lý thuyết xã hội chủ nghĩa Mác Lê, cũng như chiến lược “lùi một tiến hai”, hay về chiến thuật “công đồn đả viện”, đã cải biến ba thanh niên học trò trở thành chiến sĩ của Cách mạng, cán bộ Cộng sản, sẵn sàng xả thân hy sinh cứu nước, giành độc lập.
Thời gian trôi qua thật chậm chạp, cô đơn trống vắng, mặc dù chương trình của khóa huấn luyện không cho phép học viên có thì giờ riêng tư để suy tư và nhớ nhà, không chú tâm vào việc học tập và có thể làm cho họ nản chí, thay đổi thái độ về lý tưởng Cách mạng. Buổi lễ mản khóa huấn luyện căn bản được khai diễn đơn giản vì học viên phải lên đường tân đáo các đơn vị tác chiến đang cần bổ sung quân số gấp.
Những tin tức về các trận đánh lớn giữa quân đội Cách mạng và quân lính Lê Dương, cũng như thiệt hại về nhân mạng, bị cán bộ dấu kín không cho học viên biết, sợ họ phân tâm. Tuy thế Luân, Huấn, Trung và những đồng chí khác trong tổ, cũng tìm hiểu được qua các lá thư của những người đã đổi ra đơn vị tác chiến trước đây lén lút gửi về cho bạn.
Họ làm quen với tên các Sư đoàn anh hùng đang tham chiến khắp các mặt trận từ biên giới Lào tại thượng du Bắc Việt, đến ngã ba biên giới Việt Miên Lào tại vùng cao nguyên Trung phần. Những chiến công của Sư đoàn Sao Vàng, Sư đoàn 101, Sư đoàn Thép... Trung đoàn 95 tại phía đông bắc Huế, Trung đoàn 803 với chiến thắng tại An Khê trên quốc lộ 19... đã được các cán bộ chính trị viên và Sĩ quan Chỉ huy Trung tâm huấn luyện ca tụng phổ biến rộng rãi đến học viên, đang suy nghĩ và lo âu cho tương lai của mình.
Huấn được chỉ định bổ sung cho Trung đoàn 108 đang tham chiến tại vùng Pleiku. Trung và Luân đổi ra Trung đoàn 95 trách nhiệm khu vực làng Vân Trình, Lại Hà bao gồm “Huyết lộ Ô Lâu” nối liền duyên hải Thừa Thiên và tỉnh Quảng Trị .
Trung tặng hai người bạn đồng chí hướng bức tranh mà anh đã vẽ vội trong những lúc rảnh rỗi tại căn cứ huấn luyện, sau đó Huấn bùi ngùi chia tay hai bạn và theo toán quân bổ sung vượt đường rừng xuôi về nam. Luân và Trung cũng rời cục “H” vài ngày sau đó trên hai chiếc xe đạp cũ, chở hành trang cá nhân, vai mang vũ khí cùng với đồng bạn theo con đường mòn dọc theo dãy núi Trường Sơn trực chỉ hướng tây bắc về phía A Sao, A Lưới, cách căn cứ gần hai ngày đường, để nhận chỉ thị. Sau ba ngày di hành, ngày đi đêm nghỉ, ăn lót bụng bằng những nắm xôi muối mè, tráng miệng bằng trái cây rừng mọc đầy nhan nhãn bên triền thung lũng màu xanh, uống nước từ những rễ sậy leo chằng chịt, bám vào thân cây cổ thụ cao lớn, che bóng con đường đất chạy ngoằn ngoèo theo chân núi. Cuối cùng Trung và Luân đến ven núi gần làng La Chữ, trình diện cán bộ Thủ trưởng tại đây và được chỉ định ra bổ sung quân số cho Tiểu đoàn địa phương, có nhiệm vụ kiểm soát huyết lộ Vân Trình - Quảng Trị, có biệt danh là “Huyết Lộ Ô Lâu” mà quân đội thực dân Pháp đã đặt tên cho huyết lộ nổi tiếng này.
Trung nhớ đến câu chuyện của Nguyên, người bạn học cũ, khi Trung đi ngang qua làng La Chữ, anh cố mường tượng lại hình ảnh những cánh đồng ruộng cò bay thẳng cánh, bao la tràn ngập lúa vàng. Trung nghĩ đến anh láng giềng mục đồng, ngày nào thơ thẩn trên mình con trâu mập mạp bên bờ đê, người đã tặng cho anh bạn Nguyên cây sáo tre mà Nguyên nói đã cho cậu Tuấn của Nguyên trong ngày cậu Tuấn từ giã gia đình để theo kháng chiến. Chung quanh Trung cảnh vật nay đã hoàn toàn đổi khác, cánh đồng lúa vàng trong câu chuyện ngày xưa, trước mặt Trung chỉ là cánh đồng không người cày cấy, lau sậy mọc lưa thưa, rải rác cạnh những hố bom đạn pháo binh chứa đầy nước bùn đục ngầu. Bờ tre xanh tươi bao quanh con rạch nhỏ mà Nguyên diễn tả, nay đã trở thành trơ trụi lá nằm dọc theo bờ đê tan vỡ bao quanh những căn nhà cháy nám, hư hại bỏ hoang không người ở.
Cảnh tượng điêu tàn tại một vùng quê chỉ cách thành phố Huế không đầy mười ba cây số đường chim bay làm cho Trung suy nghĩ nhiều về cuộc chiến mà anh sẽ tham dự. Biết đâu một ngày nào đó anh sẽ gặp lại người cha nghiêm nghị và người mẹ yêu dấu trong một trường hợp đặc biệt mà anh không dám nghĩ tới, khi chiến tranh xảy ra ngay tại Cố đô và tàn phá cung điện, đền đài của đất Thần kinh ngàn năm văn vật. Trung lắc đầu như muốn xóa đi những ý nghĩ viển vông trong tư tưởng, nhưng rồi anh cũng không quên được chuỗi ngày thơ mộng lúc ấu thơ bên cạnh Nguyên và Huyền, hai người bạn học mà anh đã từng chia xẻ buồn vui.
Không biết giờ này họ đang làm gì và Huyền có còn giữ bức tranh mà Trung đã nhờ cha mẹ đưa lại cho nàng không.
Tiếng động cơ máy bay nghe rõ dần từ phía Lại Hà, Trung vội vàng nhảy xuống chiếc hầm công sự, hai đồng chí khác ở trong tổ chiến đấu cũng đang sữa soạn khẩu đại liên phòng không, chĩa súng về phía hai chiếc phi cơ khu trục đang bay dọc theo bờ biển về phía bắc. Trung lấy ống nhòm, nằm tựa mình vào bao cát chất trên miệng hầm, nhìn về hướng hai chiếc máy bay. Đây là hai khu trục cánh quạt của không quân Pháp thường dùng để thả bom và yểm trợ các đoàn công voa với hỏa lực rất mạnh, hiệu nghiệm vô cùng.
Tiếng súng “ tạch... tạch... tạch” của các đơn vị phòng không Việt Minh từ phía nam làng Vân Trình nghe ròn rã. Hai chiếc phi cơ bay ra hướng biển để tránh đạn rồi vòng trở lại, đâm thẳng vào phía bờ biển. Trung thấy từng làn khói từ mũi chiếc máy bay phun ra khi hai chiếc này thay nhau bắn đại liên vào các công sự chiến đấu từ phía xa. Rồi khi hai phi cơ bay dựng ngược trở lên trời, những tiếng nổ long trời làm rúng động các đồi cát, nghe vọng lại từ xa. Phi cơ thả bom liên tục, sau những tiếng “đùng... đùng...” làm khói mù bay lên cao, che khuất tầm mắt quan sát của Trung. Bỗng nhiên, một trong hai chiếc khu trục bay về hướng làng Vân Trình, ngang qua hầm công sự của tổ phòng không, Trung hô lớn:
- “Bắn... bắn...” và anh bóp cò cây trung liên, tiếng “tạch... tạch... tạch...”
cùng với những tiếng súng đại liên 50 nổ giòn inh ỏi làm nhói cả lỗ tai.
Từng làn đạn thay nhau bay hướng lên không trung về phía chiếc phi cơ đang vờn tránh, bay lộn trên bầu trời màu xanh vắt không gợn mây.
Sau hơn mười lăm phút quần thảo trên không, hai phi cơ có lẽ đã dùng hết bom đạn, bay về hướng nam, để lại phía sau dưới cánh bay, những đám cháy với ngọn khói đen bốc lên cao từ các căn nhà dân, những hầm hố tan tành, những xác chết không toàn thây đầy máu của cán binh Cọng sản, của dân lành vô tội không chạy trốn kịp khi máy bay địch tới tấn công.
Suốt mấy ngày liên tiếp, phi cơ khu trục phóng pháo của Pháp xuất phát từ Phú Bài, Đà Nẵng thay nhau oanh tạc khu vực từ Quảng Trị trở vào phá Tam Giang. Riêng pháo binh của Pháp từ các cao điểm chiến lược phía bắc thành phố Huế cũng tác xạ vào làng La Chữ, quận Hương Điền... vào những nơi nghi ngờ là căn cứ địa của Việt Minh, gây nhiều thiệt hại đáng kể cho binh lính thuộc Trung đoàn 95 và quân du kích địa phương. Dân chúng bắt đầu tản cư ra khỏi vùng này, đổ xô về thành phố Quảng Trị và Huế để lánh nạn.
Trung được gọi vào Bộ Chỉ Huy của Trung đoàn để học tập cùng với các cán bộ khác về chiến thuật mới, chống cuộc hành quân sắp tới của quân lực Pháp mà Việt Minh tiên đoán sẽ xảy ra trong tương lai gần đây. Với kinh nghiệm chiến trường trong gần mười năm kháng chiến chống thực dân Pháp, các cấp chỉ huy cao cấp Việt Minh biết rằng sau khi dùng máy bay và pháo binh không tập và pháo kích để chuẩn bị chiến trường, mở đường trước, tụi Tây sẽ tung toàn lực lượng vào vùng này để tiêu diệt các đơn vị Việt Minh đồn trú tại đây. Lần này chúng nó cũng sẽ không ra ngoài chiến thuật đó, có thể đây là một cuộc hành quân quy mô cấp Sư đoàn trở lên với đầy đủ sự tham dự của Hải Lục Không quân Pháp.
Tin tức nội tuyến và tình báo địa phương cho biết Tây đã cấm trại binh lính từ nhiều ngày nay. Các quán rượu tại thành phố vắng bóng mấy thằng tây Lê Dương thường say rượu hằng đêm, làm mấy em ca ve than trời như bộng. Quán cơm âm phủ ở gần sân vận động Huế cũng trở nên ế ẩm, đĩ điếm me Tây không đến ăn khuya vì bồ bịch và khách chơi bị cấm không cho ra phố. Ngoài ra tại quân cảng Đà Nẵng, cán bộ Việt Minh nằm vùng giả dạng dân chài lưới, báo cáo thấy nhiều chiến hạm đủ các loại kể cả những Dương Vận Hạm (LST) ít thường thấy sử dụng tại chiến trường Việt Nam, hoặc là cặp tại cầu tàu hay neo tại vịnh Đà Nẵng. Trên các trục lộ lưu thông chung quanh Huế từ đèo Hải Vân, nhiều đoàn công voa chở quân đội Pháp di chuyển về hướng thành phố Huế. Những khẩu đại pháo được kéo sau xe quân đội mười bánh, những xe thiết giáp trang bị đầy đủ súng ống thay nhau chạy ngang qua vùng quê hẻo lánh.
Những cặp vợ chồng nông dân mộc mạc đứng lặng im bên cạnh các đứa con nhỏ gầy gò vì thiếu ăn, đôi mắt to tròn ngây thơ, ngơ ngác nhìn theo bụi mù bốc lên cao từ những bánh xe xích sắt đang kêu ồn ào, nặng nề lăn trên quốc lộ Một. Lòng họ hoang mang vì không biết vùng đất khốn nạn nào sẽ trở thành chiến địa trong những ngày sắp tới.
Với những tin tức về hoạt động của quân đội Pháp, liên tiếp được gửi tới các đơn vị Việt Minh trú đóng trong vùng Quảng Trị, Huế và Đà Nẵng, những buổi hội họp khẩn cấp được Việt Minh triệu tập để bàn định kế hoạch di tản và chống trả trong trường hợp bị Tây tấn công vào các căn cứ hậu cần.
Trung bước vào phòng họp với tư cách tổ trưởng khu vực Vân Trình, gồm hai đại đội vừa chính quy vừa là du kích Cộng sản địa phương.
Trời đêm cuối tháng bảy không trăng, những vì sao lấp lánh không đủ ánh sáng soi đường cho anh cán binh kháng chiến đang lo âu cúi đầu thả bước bên rặng tre già sau buổi họp kéo dài gần một tiếng đồng hồ. Trung nhớ lại giọng nói khàn khàn của người cán bộ chính trị viên đảng thuyết trình về tình hình địch trong vùng Huế và phụ cận:
- “Thưa các đồng chí, theo như tin tình báo mà chúng tôi nhận được từ cảm tình viên khắp nơi gửi về cho biết, hiện nay thực dân Pháp đã tập trung gần thành phố Quảng Trị, Huế và bến tàu Đà Nẵng, một quân số khổng lồ gồm có mười Trung đoàn bộ binh, hai Tiểu đoàn lính nhảy dù, ba Tiểu đoàn kỵ binh thiết giáp, trên mười chiến hạm đủ loại và hơn hai mươi máy bay khu trục phóng pháo, phi cơ chuyên chở, thám sát... Bộ Chỉ huy tối cao của chúng đặt tại đồn Mang Cá dưới quyền chỉ huy của tên Đại tướng khát máu Leblanc với Bộ Tham Mưu gồm các Sĩ quan cao cấp Hải Lục Không Quân của lũ thực dân Pháp.”
Sau khi nói về ưu và khuyết điểm của ta và địch, với lời lẽ tuyên truyền cố hữu của một cán binh chính trị Cộng sản, đồng chí chính ủy yêu cầu mọi người hãy tin tưởng vào tài năng lãnh đạo và đức độ của chủ tịch Hồ Chí Minh để hy sinh cho chính nghĩa của đảng Cộng sản Đông dương, đánh đuổi bọn thực dân Pháp và tiêu diệt bè lũ tay sai bù nhìn Bảo Đại. Trước khi chấm dứt phần thuyết trình, người cán bộ chính ủy này hô lớn nhiều khẩu hiệu hoan hô, đả đảo và có vẻ không vừa lòng vì ông ta chỉ nghe một số rất ít đồng chí khác trong hội trường hưởng ứng.
Chiếc xe ngựa cũ kỹ chở hành khách từ Mỹ Chánh về Vân Trình nặng nề lăn bánh trên đường đất, con ngựa già ốm nhom ráng sức kéo xe dưới cơn nóng buổi trưa tháng bảy. Ông già chủ xe ngựa ngồi nghiêng người phía tay phải của chiếc xe, tay cầm chiếc roi có cột sợi dây mây dài nhỏ, thỉnh thoảng phất nhẹ trên không như nhắc nhở và khuyến khích con ngựa chạy nhanh hơn.
Huyền và người mợ cùng hai đứa con của mợ ngồi trên xe phía bên trái, hai vợ chồng người dân quê ngồi phía bên phải. Tất cả mọi người im lặng lơ đảng nhìn cánh đồng ruộng cằn cỗi bỏ hoang, không người cày cấy, mang đầy dấu vết của chiến tranh. Tiếng chân ngựa lọc cọc đều đặn nhịp nhàng như muốn ru ngủ hành khách. Huyền nhìn hai đứa em họ đang lim dim mắt, đầu gật gù theo nhạc ngựa. Lần này Huyền tình nguyện đưa mợ về làng Vân Trình theo lời yêu cầu của mẹ, khi người làng đi vào Huế báo tin cho biết bà ngoại của hai đứa nhỏ bị bệnh nặng tại đây và sắp qua đời. Mẹ Huyền sợ người em dâu khi phải trở lại làng cũ, quá đau buồn, không chịu đựng nỗi vì sắp mất một người thân yêu thứ hai và phải nhìn lại vùng quê hương nhiều kỷ niệm đau thương, nơi an nghỉ ngàn đời của người chồng quá cố.
Khi đi qua con đường làng dẫn vào căn nhà cũ của mợ, Huyền nhớ đến chuyến về thăm làng mấy năm trước đây với người bạn trai. Nàng nhớ Nguyên trong ánh nắng vàng, đạp xe song song bên cạnh nhau dọc theo con sông nhỏ. Ba ngày vui đùa hôm ấy là một chuỗi thời gian tuyệt vời trong đời người con gái đa cảm và nhiều mộng mơ. Huyền nhìn về phía trước mặt, những con chim biển đang lượn bay trên bầu trời trong xanh. Mùi thơm của biển cả phảng phất trong gió, Huyền thở vào thật mạnh như cố quên đi ý nghĩ về kỷ niệm đi tắm biển Thuận An với Trung và Nguyên.
Cổng làng Vân Trình đã hiện ra trước mặt, Huyền chợt nhớ đến câu hò mà mẹ thường ngâm nga khi dỗ nàng ngủ trưa lúc còn bé:
- “Ai về cầu ngói Thanh Toàn, cho em theo với một đoàn cho vui.”
Trên không trung, những đám mây bàng bạc bay về hướng dãy núi Trường Sơn.
Trung vừa về đến đơn vị của mình, anh bước vào căn nhà dùng làm nơi liên lạc. Trung ngạc nhiên và vui mừng khi thấy Luân đang đứng nói chuyện với một đồng chí khác trong tổ:
- “Chào đồng chí Luân, lâu lắm không gặp, đi công tác đâu mà lại lạc đến đây vậy? Có mạnh khỏe không?”
Luân đưa tay bắt rồi hai người đi ra sau khu vườn bên cạnh nhà để nói chuyện thân mật với nhau hơn:
- “Cám ơn Trung, anh cũng bình thường. Anh theo đoàn văn công đi giúp vui và ủy lạo các đơn vị trong vùng nên ghé lại thăm các đồng chí? Còn Trung thế nào, vẫn dồi dào sức khỏe chứ? Trông Trung có vẻ hơi gầy và đen hơn trước đó nghe. Mấy hôm rày có thì giờ vẽ thêm bức tranh nào nữa không?”
- “Dạ thưa không anh ạ, có rảnh rỗi được tí nào đâu, suốt ngày mấy thằng lái máy bay cánh quạt của Tây cứ bắn phá hoài, lo phòng thủ muốn chết nên làm gì có thì giờ thưa anh.”
Hai người bạn xưng hô với nhau một cách thân mật, họ không gọi nhau là “đồng chí ” khi không có sự hiện diện của những người khác.
- “Ừ phải rồi, hôm qua lúc vừa đến Bộ Chỉ huy Trung đoàn, anh có nghe cán bộ nói về cuộc hành quân mà tụi Tây đang dự định tổ chức. Anh mong rằng điều này không đúng sự thật vì anh sợ quân mình không đủ sức chống cự lại một đạo quân Tây quá nhiều như vậy. Nghe đâu gần ba Sư đoàn lận mà.”
- “Dạ, Trung cũng hy vọng chúng nó chỉ phô trương thanh thế để gây áp lực tại hội nghị Geneve thôi, chứ nếu chúng nó thật sự tung ra một lực lượng lớn lao như vậy, Trung sợ tụi Tây sẽ gây nhiều thiệt hại cho đơn vị mình.”
Hai người bạn trẻ tâm sự với nhau dưới bóng mát của hàng cau, họ mang cùng tâm trạng với những đồng chí khác trong Trung đoàn 95, lo âu phân vân và mất dần niềm tin vào chính nghĩa kháng chiến. Nguồn tin giữa các đồng chí trẻ cho biết nhiều thành phần kháng chiến nòng cốt, những người có công trong cuộc tổng khởi nghĩa đã bị thủ tiểu, tên tuổi không còn trong danh sách lãnh đạo của đảng Cộng sản Đông dương.
Từng cơn sóng bạc đầu cuốn vào bờ biển vắng không du khách tắm nắng. Thỉnh thoảng một vài con chim hải âu bay trên bãi cát đầy cây lau sậy mọc dài, chăm chú kiếm bắt những con còng còng không chạy nhanh. Bãi biển vùng này sâu từ từ, thuận tiện cho các tàu thuyền vào ra vì sóng biển không cuồn cuộn và đập mạnh vào bờ khi trời yên bể lặng.
Huyền và hai đứa em họ đang rảo bước trên đụn cát nhìn ra biển, nắng vàng hoe soi bóng ba người. Hai đứa con trai thích thú trước phong cảnh biển trời thiên nhiên, đang tung tăng chạy lượm những vỏ nghêu sò đem đến cho Huyền. Xa xa thấp thoáng trên ngọn sóng bạc đầu, vài cánh buồm nâu nhấp nhô ẩn hiện trong bầu trời màu xanh nhạt. Biển trời đã dính liền thành một khối. Những cụm mây cao như núi bốc lên từ góc chân trời báo hiệu cơn mưa giông đang hướng về vùng đất liền phía nam, hướng quận Hương Điền.
Huyền và hai em họ đi trở về làng của mợ, cây cối mọc nhiều hơn khi đến cạnh ven làng. Ba người chợt nhìn thấy hình như có những người thanh niên trong bộ áo quần bà ba đen đang dùng xẻng cuốc đào hầm hố tại rặng cây tre. Huyền phân vân nhớ đến lời dặn dò của người em trai của mợ khi nghe nàng có ý định dẫn hai em đi ra biển. Cậu này là một du kích của đơn vị địa phương dưới quyền chỉ huy của quân đội chinh quy tại vùng này. Cậu ta khuyên Huyền nên cẩn thận vì mìn bẫy đã và đang được kháng chiến gài đặt khắp nơi để chống quân địch.
Khi đến gần những cán binh đang hùng hục đào xới, Huyền nghe hai trong ba người đàn ông nói với nhau bằng tiếng Huế, một giọng nói ỏng ẻo nghe thật là quen:
- “Đồng chí phải đào sâu thêm một tí nữa, có như rứa mới mong sống còn khi đạn pháo binh của Tây rớt gần hầm ẩn núp.”
Huyền cảm thấy trống ngực mình đạp nhanh hơn, đúng rồi, đúng đây là giọng nói của người bạn học mà đã hơn hai năm nay cả nhà cha mẹ anh ta đi tìm kiếm khắp nơi, Huyền bỏ tay hai đứa em họ và vội vàng chạy đến. Nghe tiếng chân người chạy sau lưng, Trung dừng tay cuốc, rút khẩu súng lục ra khỏi thắt lưng, quay về hướng tiếng động, rồi khi nhận ra người con gái đang chạy tới miệng tươi cười với chiếc má lúm đồng tiền, Trung trố mắt lên, ngạc nhiên mừng rỡ:
- “Huyền, trời ơi có thật là Huyền đó phải không? Huyền làm chi mà đến Vân Trình rứa?”
Huyền cũng vui mừng không kém, nàng quên rằng có hai người lạ mặt đang dừng tay, chống xẻng trố mắt nhìn, Huyền dang rộng hai tay và ôm chầm người bạn trai đang đỏ mặt ngượng ngùng:
- “Trung còn sống, Huyền vui quá, cứ tưởng là không bao giờ mình gặp lại nhau. Tại răng Trung bỏ ra đi mà không một lời từ giã rứa?”
Trung không trả lời ngay, anh quay lại phía hai người thanh niên đồng chí chiến sĩ:
- “Hai đồng chí vào trong kia nghỉ tay một lúc, tôi sẽ gọi và mình tiếp tục đào hố sau. À xin lỗi hai đồng chí, đây là cô Huyền, bạn học cùng lớp ngày trước của tôi tại Huế, mãi vui vì lâu ngày mới gặp nhau mà quên cả giới thiệu, xin lỗi nghe.”
Hai cán binh Cộng sản chào Huyền rồi nhìn nhau mỉm cười rồi cầm cuốc xẻng đi vào khu vườn cạnh căn nhà tranh trong khi Huyền chỉ hai cậu bé trai đang đứng tần ngần bên cạnh và nói với Trung:
- “Đây là hai em họ của Huyền, hôm nay Huyền từ Huế theo mẹ của hai em này về đây thăm bà ngoại của hai em, đang bệnh nặng sắp qua đời, mà cũng may quá, nhờ rứa mới gặp lại Trung tại đây hí.”
Huyền ngừng lại, bảo hai đứa em họ đi ra chơi ở ven làng và nhớ cẩn thận, đừng đi xa quá, rồi nàng cùng Trung ngồi xuống cạnh lùm tre tâm sự với nhau. Giây phút vui mừng hội ngộ đã qua, hai người bạn cũ ngồi kể cho nhau nghe về những đổi thay trong thời gian xa cách nhau. Huyền nói cho Trung biết về Nguyên, về việc cha mẹ Trung đi tìm kiếm con trai, về Huế, về chợ Đông Ba bị đốt cháy, thôi thì đủ thứ chuyện... và rồi cũng không quên cám ơn Trung đã tặng nàng bức tranh tuyệt đẹp.
Trung ngồi trầm ngâm nhìn say đắm người bạn gái có đôi mắt bồ câu, đôi môi ướt mọng, chiếc lúm đồng tiền. Anh bồi hồi xúc động khi nghe Huyền nói về chuyện mẹ Trung đã bỏ ăn bỏ ngủ vì buồn vắng bóng con trai.
Huyền thích thú khi nghe Trung nói về những cuộc di hành trong rừng núi Trường Sơn, những mạo hiểm mà Trung đã đương đầu hơn hai năm qua. Tuy nhiên trong thâm tâm của Huyền, nàng cảm thấy khó chịu khi nghe Trung đề cập đến kháng chiến và Cộng sản. Nàng vẫn còn thương người cậu đã chết dưới bàn tay tàn nhẫn của những cán binh núp dưới chiêu bài kháng chiến để chém giết dân lành vô tội. Tuy vậy khi thấy Trung có vẻ như tôn sùng đảng, vì thương bạn và không muốn đi sâu vào vấn đề này, Huyền xoay câu chuyện về đề tài khác:
- “Nguyên cũng thường hay nhắc nhở đến những kỷ niệm của ba đứa mình hoài, nhất là chuyến tắm biển Thuận An cuối cùng trước khi Trung ra đi, nhớ bửa ăn còng còng nướng vĩ dã chiến ngon tuyệt do tài... nướng xuất sắc của Trung, hôm đó thật là vui, phải không Trung?”
- “Huyền nhắc Trung mới nhớ, ừ hôm đó thật là vui quá. À mà Nguyên có mạnh khỏe không? Cha mẹ Nguyên vẫn còn ở nhà cũ hay thế nào?”
Huyền lần lượt kể cho Trung nghe về gia đình mình và gia đình Nguyên, về hai cô gái Bắc kỳ, nhất là về Hồng, cứ đeo đuổi anh bạn trai người Huế mãi. Trung biết Huyền ghen nhiều qua giọng nói gay gắt của nàng khi nhắc nhở đến lần tắm sông ngày đó, khi Huyền bắt gặp Nguyên và Hồng nhởn nhơ bơi lội bên nhau trên sông Hàng Bè.
Trời đã về chiều trên miền quê hương êm đềm, hai người bạn trẻ đắm chìm trong kỷ niệm của tuổi ấu thơ mà quên mất thực tại và thời gian. Hai cậu em họ chạy chơi cho đến khi Huyền chợt nhớ là đã trễ, kêu chúng nó trở lại, sau đó Trung đi theo Huyền về nhà bà ngoại của hai cậu này và ở lại nói chuyện với Huyền cho đến khuya mới chia tay về. Trung hẹn ngày hôm sau, nếu không có công tác gì khẩn cấp, sẽ đến đón Huyền đi ra biển chơi.
Đám tang của bà ngoại hai đứa nhỏ được dân làng tham dự rất đông đảo. Huyền và Trung cũng theo đoàn người đi đưa đám sau linh cửu, đặt trên hai đòn gánh gỗ sơn màu đỏ thật dài và được bốn người đàn ông trong dòng họ vác trên vai. Tiếng khóc than ai oán của mợ và mấy người em hòa lẫn với tiếng tụng kinh của hai ông thầy chùa vang dội trên con đường làng dẫn đến nghĩa địa gần cuối xóm, cạnh bên đình làng, nơi cha của mợ đã được chôn từ khi mợ đang còn nhỏ. Hai bên đường, những người dân quê đứng lặng yên cúi đầu khi linh cữu đi ngang qua, những trẻ con ngây thơ, vui vẻ chạy theo đoàn người đi đưa đám, như là xem hội lớn. Đời người dân quê Việt Nam trong thập niên 40 và 50 như thoáng mây trắng bay trên bầu trời mênh mông vô tận, không định hướng và tan dần theo gió cuốn muôn phương. Khi còn nhỏ, ngây thơ vô tội thiếu thốn, không đủ điều kiện dinh dưỡng, lớn lên trong cuộc chiến không tương lai, lê lất với chuỗi ngày dài lo âu, sợ sệt, rồi đến khi già cả, bệnh hoạn không phương tiện y học, thiếu thuốc men chữa trị, dần mòn nằm chờ chết trong tuyệt vọng, cô đơn.
Những thắc mắc, phân vân xâm chiếm tâm hồn Huyền, giọt lệ chảy dài khi thấy thân hình mợ run rẩy dựa vào vai người em trai, chân không lê bước, đầu mợ cúi xuống, đang nức nở dưới chiếc mũ mấn bằng vải thô màu trắng. Mọi người đứng quanh cái huyệt mới đào, chiếc quan tài từ từ hạ xuống giữa tiếng kinh cầu siêu của hai ông thầy chùa. Mợ khóc ngất khi những người phu xúc đất đổ xuống huyệt che phủ linh cửu của người mẹ hiền.
Trung kế tiếp Huyền tung một nắm đất trên ngôi mộ người quá cố rồi hai người quyết định đi ra phía bờ sông Ô Lâu, rảo bước dọc theo bờ đê, bâng khuâng thả hồn theo ngọn gió chiều bắt đầu thổi mạnh từ biển vào. Huyền thở ra thật mạnh, Trung liếc qua nhìn người bạn gái mà anh mến thương nhiều, anh cố gắng gợi chuyện để mong Huyền quên đi nỗi buồn của mợ:
- “Khi nào Huyền trở về lại Huế? Trung ước mong Huyền có thể ở lâu thêm vài ngày nữa với Trung, vì không biết ngày nào chúng mình và Nguyên mới gặp lại nhau.”
Huyền lắc đầu nhỏ nhẹ trả lời:
- “Ngày mai Huyền phải về Huế rồi Trung ơi, thôi thì nhờ trời giúp cho tình bạn giữa ba đứa mình được bền chặt mãi mãi, dù mỗi người một phương trời và trong hoàn cảnh khác nhau. Trung có mong muốn như thế không?”
- “Trung mong lắm, mong tình bạn giữa Nguyên, Huyền và Trung luôn luôn trường cửu như dãy núi Trường Sơn, như biển Thái Bình Dương ngoài kia kìa.”
Trung nắm tay Huyền, say sưa nói như một lời thề nguyền kết nghĩa dưới vườn đào của Quan Công, Lưu Bị trong Tam Quốc Chí. Huyền để yên bàn tay mình trong bàn tay người bạn trai một lúc rồi bóp nhè nhẹ để tỏ cho bạn biết mình cũng chấp nhận lời hứa này. Huyền bỗng nhận thấy một sự thay đổi kỳ lạ trong tình cảm của mình, chỉ trong một khoảng khắc thật ngắn ngủi, chỉ một câu nói thành thật của một người bạn trai nhiều lý tưởng, chứa đầy lòng thương yêu những vẻ đẹp từ thiên nhiên qua các bức họa, cho đến nét đẹp tuyệt vời thiêng liêng của tình bạn. Huyền cảm thấy thương cả Trung, thương cả Nguyên, không phải thứ tình yêu trai gái mà với một mối tình cao đẹp hơn tất cả, đó là tình bằng hữu giữa ba người.
- “Mợ của Huyền đã quyết định ở lại đây với hai đứa con trai của mợ và sẽ không trở về Huế nữa. Mợ nói là mợ có quá nhiều kỷ niệm ở đây từ thuở ấu thơ cho đến khi khôn lớn, lấy chồng, đời của mợ đã gắn liền với mảnh đất của tổ tiên này.”
Huyền ngừng lại, cố gắng không để lộ sự xúc cảm, nàng nhìn người bạn trai đang chăm chú nghe:
- “Vì thế sáng sớm mai Huyền sẽ về ga Mỹ Chánh thật sớm để cho kịp chuyến xe lửa từ Quảng Trị vào Huế. Trung ở lại ráng giữ gìn sức khỏe và cẩn thận. Huyền sẽ nói lại cho Nguyên biết về Trung, chắc anh ấy mừng lắm.”
Trung ngồi lặng yên, không trả lời, tâm tư anh đang bị giành giật bởi những ý nghĩ tương phản nhau. Đã là một cán bộ đảng, Trung không cho phép mình bị chi phối bởi tư tưởng bi quan yếm thế, ủy mị, ảnh hưởng đến tinh thần quyết chiến, có thể bị các đồng chí chính trị viên lên án và hạ tầng công tác. Ngược lại, Trung cũng vẫn còn là một con người đầy tình cảm và thích chiêm ngưỡng những cái hay cái đẹp chung quanh mình mà tâm tình cũng như thái độ này đã diễn tả và trải bày qua các bức tranh ghi lại hình ảnh tuyệt vời của những gì mà Trung thương.
Huyền vỗ nhẹ trên cánh tay bạn, nghiêng người qua, âu yếm hỏi nhỏ:
- “Trung suy nghĩ chi rứa? Trời sắp tối rồi, chắc hai đứa mình phải đi về Trung à.”
Hai người bạn trẻ đứng dậy và hình như Trung chợt nghĩ ra điều gì, anh kéo tay Huyền dừng lại:
- “Trung muốn yêu cầu Huyền giúp Trung một điều, xin Huyền đừng đề cập gì với cha mẹ của Trung về sự gặp gỡ của hai đứa mình tại đây. Trung không muốn khơi lại sự buồn phiền của cha mẹ thêm một lần nữa, cứ để cho nó chìm dần vào quên lãng, rồi trong tương lai, khi nào cơ hội cho phép, Trung sẽ liên lạc với gia đình của mình.”
Huyền gật đầu như thông cảm nỗi lòng của bạn. Hai người thân mật sánh vai nhau đi về hướng mặt trời đang lặn dần sau đỉnh núi trùng điệp của dãy Trường Sơn hùng vĩ.
Đoàn tàu chiến lần lượt kéo lên những chiếc neo vướng đầy bùn cát của vịnh Đà Nẵng dưới tia sáng chói chan của các ngọn đèn pha rọi từ đài chỉ huy, rồi từ từ hướng ra biển Đông. Trên boong tàu của chiếc Dương Vận Hạm, binh lính Pháp sinh hoạt rộn ràng, chuẩn bị vũ khí, quân dụng cho cuộc hành quân sắp diễn ra trong Chiến dịch Camargue.
Dưới hầm tàu, những thủy vận xa LVT, xe tăng M24, xe thiết giáp ... được buộc chặt vào sàn tàu bởi dây xích, dây cáp to bằng cổ tay để giữ cho các quân xa này khỏi di chuyển vì sóng biển làm lắc tàu.
Các chiến hạm vừa ra khỏi vịnh, trực chỉ đến điểm hẹn đã được chỉ định trước trong lệnh hành quân. Điểm hẹn này nằm về phía đông bắc ngoài khơi bờ biển Thuận An, trước khi tàu đổ bộ tiến vào mục tiêu lúc rạng đông. Từng cơn sóng vỗ nhẹ vào boong tàu, chiến hạm lắc lư trên những lượn sóng dài. Bầu trời cuối tháng bảy, không trăng với hàng ngàn vì sao lấp lánh trên biển Thái Bình Dương êm như mặt nước hồ thu, trong một đêm gió nhẹ thổi. Bờ biển Lại Hà đang say ngủ, không hay biết gì về những tàn khốc sắp đến trên vùng đất dấu yêu khi tia sáng đầu tiên của một ngày mới bắt đầu.
Trên quốc lộ Một từ Quảng Trị trở vào và từ thành phố Huế trở ra, người dân lành ở phía bắc làng Mỹ Chánh, ở tại Văn Xá, An Hòa, giật mình thức giấc vì tiếng động cơ ồn ào và tiếng xích sắt rầm rộ của xe tăng, xe thiết giáp đang chạy ngang qua trước mặt nhà. Những người này đánh bạo, hé liếp cửa, co ro sau bức tường phên mỏng lén nhìn ra đường. Họ phân vân và lo âu khi thấy trên quốc lộ Một, những tia đèn pha của đoàn quân xa Pháp rọi sáng rực cả màn trời đêm, kéo dài cả cây số.
Đoàn quân viễn chinh Pháp đang phô diễn trước mắt người dân quê vô tội một lực lượng hùng hậu chưa từng thấy trên chiến trường Đông Dương. Với một cuộc hành quân lớn lao và quy mô như cuộc hành quân vào những ngày cuối cùng của tháng 7 năm 1953, Bộ Tư Lệnh quân đội Pháp đã quyết tâm tấn công, ngăn chặn và tiêu diệt toàn bộ Trung đoàn 95 Việt Minh và các đơn vị du kích địa phương đồn trú giữa Quảng Trị và Huế. Từ bờ biển Lại Hà đến Cửa Việt trên dải đất gần 8 cây số nối liền bờ biển và quốc lộ Một, với những công sự chiến đấu, các hầm hồ và địa đạo dây chuyền gắn đầy mìn bẫy đã được Việt Minh xây cất kiên cố trong hơn hai năm qua, bao bọc chung quanh con đường có tên “Huyết Lộ Ô Lâu” mang nhiều chiến sử.
Những đụn cát lớn, bờ tre dày, bãi sình lầy rải rác và các đầm nước sâu là chướng ngại vật thiên nhiên, cản bước tiến quân hoặc gây khó khăn cho thiết giáp xa và xe tăng M24 nặng nề của quân đội Pháp. Ngoài ra tại vùng này, Việt Minh được rất nhiều cảm tình của dân làng, vì phần đông họ có con cái đi theo kháng chiến, do đó quân đội Pháp và lính quốc gia gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát trục lộ giao thông chính yếu này.
Buổi văn nghệ giúp vui của đoàn văn công Việt Minh vùng bị gián đoạn khi đồng chí Thủ trưởng lên sân khấu loan báo cho mọi người, nguồn tin tình báo vừa nhận được từ Bộ Chỉ huy Trung đoàn về việc quân đội Tây đang di chuyển quân trên quốc lộ Một và các chiến hạm Hải quân của chúng nó đã khởi hành từ vịnh Đà Nẵng. Mọi người được lệnh trở về đơn vị để chuẩn bị và sẵn sàng chiến đấu tử thủ chống quân đội thực dân Pháp bảo vệ đất nước.
Trung bước ra sau sân khấu để từ giã Luân, đang cùng các đồng chí khác thu dọn dụng cụ âm thanh, hai người bạn trẻ bắt tay thật chặt như không muốn rời nhau:
- “Anh Luân giữ gìn sức khỏe và nên cẩn thận, nghe nói lần này tụi Tây tung toàn lực lượng quyết tâm tiêu diệt Trung đoàn của mình đó.”
Luân mỉm cười vỗ vai bạn trả lời:
- “Đời con người ta sống chết đều có số mạng, Luân cũng không lo chi nhiều. Nói vậy thôi chứ Luân cũng muốn Trung cẩn thận, luôn luôn dùng sự hiểu biết và lý trí của mình khi đương đầu với hiểm nguy. Phải biết tùy cơ mà phản ứng cho đúng nghe Trung.”
- “Trung cám ơn anh rất nhiều, chúc anh về hậu cứ bình an và xin hẹn gặp lại anh trong một cơ hội khác.”
Hai người ngừng nói khi thấy một đồng chí đang đi vào, người này vóc dáng hơi cao, thân hình lớn hơn Trung, khuôn mặt có vẻ khắc khổ. Trung bắt tay Luân định bước đi thì nghe đồng chí này hỏi Luân bằng tiếng Huế:
- “Ai đây đồng chí Luân? Nghe giọng Huế làm tôi nhớ nhà. Lâu lắm mình cứ đi công tác tại các đơn vị ngoài Quảng Bình, Thanh Hóa hoài, không được nghe tiếng nói của người cùng xứ, nay mới về đây được hơn một ngày thì đã phải đi nữa vì mấy thằng Tây trời đánh phá rối.”
Đồng chí này ngừng nói và chờ Luân trả lời.
- “Dạ thưa đồng chí Nghĩa, đây là đồng chí Trung, đơn vị 95, một người bạn cũ trước đây đã gia nhập kháng chiến cùng một lần với tôi tại cục “H”, đồng chí Trung không những là chiến sĩ kháng chiến kiên trường mà còn là một họa sĩ có thiên tài đặc biệt.”
Trung ấp úng cám ơn bạn và bắt tay người đàn ông lớn hơn mình khoảng tám chín tuổi, trong khi Luân tiếp tục giới thiệu người này:
- “Và đây là đồng chí Nghĩa, trưởng đoàn văn công vùng, trách nhiệm chương trình giúp vui tối nay đó.”
Đồng chí Nghĩa nhìn quanh rồi khi không thấy có người khác bên cạnh, Nghĩa kéo hai người thanh niên trẻ ngồi xuống chiếc băng gỗ dài, anh cũng ngồi xuống và nói nhỏ:
- “Các chú gọi anh bằng tên cho nó thân mật, tuổi của hai chú cũng bằng thằng em trai của tôi thôi, chú Luân thì tôi đã biết là ở làng Vân Cù rồi, còn chú Trung ở Huế mà ở đâu? Có gần phủ Thoại Thái Vương và bến đò Cồn không? Anh xa Huế gần mười năm rồi nên quên hết, không biết Huế thay đổi nhiều không và có còn giống như năm bốn ba, bốn bốn không?”
- “Dạ thưa anh, nhà cha mẹ tôi ở gần cầu Đông Ba và vì cũng đã rời Huế hơn hai năm rồi, tôi không biết Huế có thay đổi gì khác không, chứ cho đến ngày đó tôi không thấy Huế thay đổi chi nhiều lắm. Anh cũng biết đất Huế và nhất là người Huế mình luôn luôn muốn giữ những gì đẹp đã làm cho cố đô, đã tạo cho đất Thần kinh có những nét đặc thù mà không một nơi nào trên khắp quê hương Việt Nam chúng ta có thể bắt chước được.”
- “Chú nói rất đúng, không một người Huế nào có thể quên được kỷ niệm về Huề, dù cho ở bất cứ nơi đâu và lúc nào, cứ thấy nhớ làm sao khi nghe nhắc tới Huế. Đến ngay cả anh cũng vậy, nói để mà nghe giữa ba đứa mình thôi nhé, đôi lúc anh cũng muốn bỏ tất cả để về sống với gia đình như ngày xưa đó.”
Anh Nghĩa ngừng lại, nhìn quanh xem thử có ai nghe niềm tâm sự ủy mị của mình không, rồi tiếp lời:
- “Nói thì nói vậy thôi chứ biết đến khi nào ước mơ đó mới thành sự thật được. Họa may chờ khi tụi Tây nhớ mấy bà Đầm ở bên Paris và sợ mấy bà đó đi lấy trai mà cặm sừng chúng nó để rồi lo quá mà bỏ Việt Nam chạy về Tây thì mình mới đoàn tụ với gia đình cha mẹ được. Đùa tí chơi cho vui mà, ha... ha... ha...”
Anh Nghĩa cười nghiêng ngửa, cười chảy cả nước mắt như người khùng. Trung hơi ngạc nhiên về thái độ của người kháng chiến quân kỳ cựu, trung kiên, đã hy sinh tất cả cho Cách mạng, tin tưởng ở chính nghĩa đấu tranh và nhất là đang ở trong ban tuyên truyền, có nhiệm vụ đi khắp các đơn vị để nâng cao tinh thần và ủy lạo cán binh, lại có những ngôn từ đi ngược lại đường lối của đảng như vậy.
- “Anh biết hai chú ngạc nhiên lắm phải không? Anh cảm thấy chán nản lắm rồi, nhất là trong khoảng thời gian gần đây, khi nhìn thấy dân lành vô tội bị chết lây lất dọc đường, nhà cửa, mồ mả tổ tiên bị tàn phá. Còn những người Cách mạng thật sự thì đã biến mất trong hàng ngũ của đảng, không biết họ đã chết tại nơi đâu hay đang ở trong tù. Anh cũng lo cho chính bản thân của anh không biết còn được sống sót cho đến khi nào nữa đây.”
Luân và Trung cảm thấy rất bối rối và phân vân không biết phải phản ứng như thế nào cho đúng. Trong thâm tâm, hai đứa cũng rất đồng ý với anh Nghĩa nhưng ngoài mặt, vì hoàn cảnh hiện tại, họ thấy không thể chấp nhận một cách chính thức những ngôn từ đi ngược lại lời tuyên truyền của cán bộ chính trị đảng, thường nói trong những buổi học tập tại đơn vị. Luân nhìn bạn rồi đánh trống lảng:
- “Có lẽ đã đến giờ Trung phải về đơn vị để chuẩn bị tổ chức chiến đấu rồi phải không?”
Trung nhìn chiếc đồng hồ tay rồi đứng lên trả lời:
- “Dạ tổ chiến đấu của Trung cũng gần đây thôi, nhưng nhờ anh Luân nhắc nhở Trung mới nhớ là có thể tụi Tây sẽ tấn công Trung đoàn của mình nay mai, không biết chắc chắn khi nào, nhưng mình cũng phải chuẩn bị trước.”
Anh Nghĩa cũng đứng lên theo và nói:
- “Chú Trung tướng tá nhỏ mà giỏi hí, nếu bây giờ tôi gặp lại Nguyên, thằng em trai của tôi, chắc tôi cũng không làm gì nhận ra được nó. Có lẽ Nguyên còn cao lớn hơn chú Trung nữa là khác.”
Trung khựng lại khi nghe anh Nghĩa nhắc đến tên người bạn trai mà mình hằng quí mến, anh trố mắt ngạc nhiên, nắm lấy cánh tay trái của anh Nghĩa miệng tíu tít hỏi:
- “Anh nói Nguyên nào, có phải là Nguyên trước đây ở tại phủ Thoại Thái Vương không? Vậy ra anh Nghĩa là người anh đã theo kháng chiến mà Nguyên đã từng kể chuyện cho tôi nghe hoài đây à.”
Anh Nghĩa và Luân cũng ngạc nhiên không kém, thế mới biết là trái đất tròn. Anh Nghĩa lại kéo tay Trung ngồi xuống bên cạnh mình, hỏi thăm rối rít về gia đình cha mẹ và về Nguyên. Luân xin lỗi hai người và mang đồ đạc ra trước căn trại, chất trên chiếc quân xa cũ kỹ chế tạo tại Nga Sô vì Luân biết anh Nghĩa cần có thời giờ riêng tư với Trung, người bạn thân của em mình.
Một lúc sau khi Luân trở vào, thấy anh Nghĩa hai tay ôm đầu, vai rung nhẹ như đang khóc. Trung ngồi lặng im bên cạnh, ngước nhìn Luân, gật đầu như đồng ý với ý nghĩ và những câu hỏi đang vấn vương trong đầu của Luân. Trung cúi xuống nói nhỏ gì với anh Nghĩa, anh ta đứng dậy, lau khô những giọt nước mắt trên gò má xương xẩu, một tay nắm lấy bàn tay của Trung, lắc nhẹ, một tay vỗ về đôi vai Trung. Anh Nghĩa nói vài lời cám ơn và dặn dò Trung như người anh cả dặn dò em mình trước khi giã biệt rồi cùng Luân đi ra ngoài chiếc quân xa, hai người leo lên và ra hiệu người cán bộ tài xế lái xe, khởi hành về hậu cứ.
Trung đưa tay lên khỏi đầu chào lại Luân, đang ngoái cổ ra vẫy vẫy chào, rồi anh đứng tần ngần một lúc, nhìn theo hai tia đèn pha của chiếc quân xa mờ dần trong màn đêm.
Rạng đông bắt đầu với những tia sáng màu hồng nhạt xuyên qua đám mây trắng. Mặt trời đỏ chói từ từ nhô lên khỏi chân trời, soi sáng biển đông, trên những làn sóng óng ánh như con suối vàng. Từ xa hình dáng của các chiến hạm màu xám, trong đội hình hàng ngang, nổi bật trên nền trời màu xanh dương, bập bồng lướt sóng, đang tiến vào vị trí đổ bộ để chiếm các mục tiêu đã định trước. Ba chiếc Dương Vận Hạm (LST) của Hải quân Pháp ủi vào bờ tại ba bãi đổ bộ khác nhau nằm dọc theo bờ biển từ Lại Hà lên đến làng An Hội.
Lực lượng hành quân tổ chức thành năm mũi dùi để bao vây và tiêu diệt các đơn vị Việt Minh tại đây. Ba mũi dùi đổ bộ từ biển vào lúc mặt trời mọc, một toán quân đổ bộ tại bãi biển giữa làng Tân An và Mỹ Thụy với xe tăng M24 và bộ binh. Toán thứ hai gồm các Tiểu đoàn Thủy quân lục chiến từ các Hải Vận Hạm (LSM) ủi bãi cạnh làng An Hội và toán thứ ba với các thủy vận xa (LVT) thọc mũi dùi từ bờ biển Vân Trình tiến thẳng về phía tây hướng về sông Ô Lâu.
Tại quốc lộ Một, lực lượng Tây tung ra hai toán quân, một từ phía làng Mỹ Chánh đánh ra hướng đông và một đạo quân thứ hai từ Quảng Trị tiến xuống hướng đông nam tạo thành thế gọng kềm, với mục đích dồn các đơn vị Việt Minh về phía bờ biển để lực lượng thủy bộ của Tây tiêu diệt.
Tiếng súng hải pháo từ các chiến hạm bắn mở đường cho lực lượng đổ bộ nổ vang rền, xóa tan bầu không khí trong lành của một buổi sáng nhiều sương mù trên một dải đất nhiều chướng ngại vật, vừa thiên nhiên vừa nhân tạo, được xây cất kiên cố bởi các đơn vị phòng thủ của Trung đoàn 95 Việt Minh và các du kích địa phương tại đây. Từ những thủy vận xa, lính Lê Dương vội vàng nhảy xuống ẩn núp sau các đụn cát cao để tránh đạn bắn ra từ các công sự phòng thủ dọc theo bờ biển. Những tiếng súng “tạch, tạch, tạch... đùng, đùng, đùng...” nổ rền vang át hẳn tiếng gọi máy ơi ới trên máy truyền tin, tiếng la lớn của các quân nhân bị thương vì trúng đạn, cát bụi bay cao dưới làn đạn đại liên, súng cối, đại bác...
“Oành.... oành... oành”... từng công sự trúng pháo, gạch gỗ văng lên tung tóe cùng với xác lính Cộng sản không toàn thây, máu hồng nhuộm đỏ những lá dừa ngụy trang. Trên không những phi cơ thám thính bay quanh để hướng dẫn phi pháo bắn vào các mục tiêu của địch. Từ phía nam, khu trục phóng pháo cơ bay lên hướng bãi chiến trường, nhào lượn trên không, bắn đại liên và thả bom xuống các hầm hố, công sự chiến đấu của Cộng sản. Cuộc chiến khốc liệt kéo dài từ rạng đông, đoàn quân viễn chinh với một lực lượng Hải Lục Không Quân hùng hậu khổng lồ, lần đầu tiên được sử dụng trong một cuộc hành quân thủy bộ của quân đội Pháp, lớn hơn bất cứ một hành quân nào trên chiến trường tại Đông Dương.
Để chuẩn bị cho những thương vong lớn có thể xảy đến cho các đơn vị hành quân, một Bệnh Viện Hạm đã neo sẵn ngoài khơi để chửa trị tại chỗ các thương bệnh binh được trực thăng chuyên chở thẳng ra tàu. Ngoài ra cấp Chỉ huy Pháp gồm có Tướng Leblan và Sĩ quan cao cấp còn đặt Trung tâm hành quân ngay trên chiến hạm để theo dõi trực tiếp và quyết định tại chỗ các đề nghị và nhận báo cáo của năm vị Chỉ huy trưởng đơn vị cấp Đại tá đang chiến đấu tại các mũi dùi trên chiến trường đã đến hồi sôi động và đẫm máu.
Lực lượng hành quân đang gặp sự chống cự mạnh mẽ của địch quân với quân số ít ỏi của Trung đoàn 95 và các đơn vị du kích đặc công cảm tử địa phương đã cầm chân đoàn quân thiện chiến trên khắp mọi phòng tuyến chung quanh một con đường chiến lược, huyết lộ nổi tiếng nối liền hai thành phố Huế và Quảng Trị.
Huyền ngồi trên chiếc xe ngựa chuyên chở hành khách và hàng hóa từ làng Vân Trình về Mỹ Chánh. Trên xe ngoài Huyền ra còn có ba hành khách đem cây trái, rau cải về bán tại chợ Mỹ Chánh. Bầu trời lờ mờ sáng, sương mù còn dày đặc trong không khí trong lành, mát dịu của một ngày cuối tháng bảy.
Chú nài ngựa và cũng là chủ chiếc xe, tuổi cũng trên dưới năm mươi, thả lỏng cương ngựa, chăm chú nhìn về phía cổng làng phía xa xa, đang đưa tay lên che miệng ngáp dài. Huyền cũng cảm thấy buồn ngủ, nàng để chiếc cặp nhỏ trong đó đựng giấy tờ và một ít tiền giữa hai chân, cất vào túi áo bà ba cành hoa lan trắng mùi thơm dịu dàng mà Trung đã ngắt từ cây lan dại leo quanh cây cổ thụ nằm bên vệ đường làng chiều hôm qua, để tặng nàng khi hai người từ giã nhau.
Huyền tựa đầu vào thành xe, mắt lim dim, bên tai nàng nghe thoang thoáng điệu nhạc ngựa đang lóc cóc đều đặn trên con đường đất sét nện cứng, đầy sỏi trắng.
Huyền đã dậy và từ giã mợ từ bốn giờ sáng nay, nàng xách chiếc giỏ đựng mấy trái quít Hương Cần và hai cái bánh tét nhân thịt và đậu xanh, quà của mợ, rồi đón chiếc xe ngựa mà Huyền đã dặn chú nài quen biết của mợ tối hôm qua, để ra nhà ga Mỹ Chánh và đáp chuyến xe lửa sớm, trở về Huế.
Đang thiu thiu ngủ bỗng nhiên Huyền choàng tỉnh dậy vì nghe tiếng nổ lớn chung quanh mình, dọc theo hai bên vệ đường, trên cánh đồng ruộng bỏ hoang. Đất cát, nước bùn lầy văng lên cao trong không khí cùng với khói mờ mịt khi những viên đạn pháo binh nổ bùng.
Một thân cây dừa cao lớn bên đường làng gảy hai, ngả xuống sau tiếng “đùng... đoành... đùng... đoành” liên tục nghe điếc cả lỗ tai. Thân cây đổ nhào ra đường ngay phía trước chiếc xe làm cho con ngựa già hoảng sợ hí vang rồi nhảy dựng lên, đá hai chân trước lên cao, những người trên chiếc xe ngựa mất thăng bằng, té ngửa về sau, rơi xuống con đường đất, rau cải và hàng hóa rơi tung tóe khắp mặt đường.
Tiếng rít của đạn pháo binh nghe bay ngang qua đầu mọi người rồi rơi xuống cạnh chiếc xe ngựa nổ “ầm... ầm... đùng... đùng...”. Chú nài trúng mảnh đạn, thân hình đầy máu té nhào xuống chết bên vệ đường. Ba người hành khách khác cũng cùng chung số phận nằm rải rác gần xác chết của con ngựa ruột gan lòng thòng.
Huyền bị sức áp lực của tiếng nổ, thân hình bay tung lên trời, rơi xuống sát cạnh thân cây dừa, chân bên trái đau nhói như bị gảy lìa, đầu nàng bị đập mạnh vào thân cây, làm nàng như muốn bất tỉnh. Thoang thoảng trong gió sớm ban mai, Huyền nghe tiếng súng “tạch... tạch... tạch”, nhỏ dần rồi tiếng động cơ xe thiết giáp nghe tiến đến gần và trước khi nàng nhắm mắt ngất xỉu, nàng cảm thấy hình như có một bàn tay ấm đang rờ mạch máu tại cổ của nàng và rồi tiếng xí xô trên máy liên lạc truyền tin, tiếng cánh quạt phần phật của máy bay trực thăng, nghe xa dần trong giấc ngủ triền miên.
Ngọn khói từ những căn nhà tranh bị cháy bốc lên cao trên bầu trời màu xám xịt. Mây cuồn cuộn từ hướng tây nam mang theo cơn mưa giông đang tiến dần về hướng đông bắc.
Từ xa thỉnh thoảng vài tia sét chớp sáng lóe dài trong cụm mây đen, tiếp theo là tiếng sấm ì ầm dữ dội át cả tiếng súng nổ ròn rã của quân đội viễn chinh, đang cố gắng khép kín gọng kìm chiến thuật đã vạch định sẳn trong kế hoạch hành quân.
Những phóng pháo khu trục cơ và các máy bay thám thính đã rời vùng vì lý do thời tiết. Thiếu Không quân yểm trợ, quân tấn công như mất đi thế thượng phong vì quân lính của lực lượng phòng thủ Việt Minh lợi dụng địa thế sình lầy và lau sậy, tung ra những đợt phản kích cảm tử, gây thiệt hại nhiều cho các chiến xa đang gặp khó khăn trong việc vận chuyển xe qua bãi sình.
Ngọn lửa bốc cháy dữ dội từ các xe tăng bị trúng đạn Bazooka của cảm tử quân Việt Minh, những lính Lê Dương đầu không đội nón sắt nhảy vội vàng ra khỏi xe, trước khi xe tăng nổ bùng, lăn lộn rên rỉ vì vết bỏng bên cạnh bãi lầy.
Những xe mang dấu hiệu Hồng Thập tự vội vàng chạy đến, trên xe nhảy xuống những Y tá, mang chiếc băng ca, lom khom cúi mình dưới tiếng súng “tạch... tạch... tạch...”, cát bụi văng tung tóe chung quanh, can đảm chạy về các quân nhân đang quằn quại vì trúng đạn, khiêng họ trở về xe tản thương.
Cuộc hành quân đã kéo dài hơn hai ngày qua, số thương vong hai bên lên rất cao. Ngoài những tổn thất về nhân mạng, lực lượng hành quân còn bị thiệt hại nhiều về quân dụng. Nhiều thủy vận xa, chiến xa bị thiêu hủy bởi súng Bazooka, chống chiến xa của Việt Minh trong ngày đầu tiên. Những chiếc xe tăng bị bỏ lại rồi Tây phải đặt chất nổ phá hủy vì xe bị kẹt trong bãi sình lầy nằm dọc theo bờ biển Lại Hà - Vân Trình - Đồng Quế.
Đám mây đen cuồn cuộn mang theo trận mưa giông thật lớn kéo dài suốt đêm cho đến sáng hôm sau. Lợi dụng cơn mưa và trời tối, thành phần nòng cốt của lực lượng phòng thủ thuộc Trung đoàn 95 đã dùng các địa đạo và các con đường tắt quen thuộc, chia thành từng toán nhỏ, lén lút né tránh các trận đụng độ, xuyên qua phòng tuyến của các đơn vị hành quân Pháp, rút về phía dãy Trường Sơn, trốn thoát vào mật khu nằm sâu trong núi. Việt Minh chỉ để lại trận tuyến các thành phần đặc công cảm tử với vũ khí và dụng cụ nhẹ, cùng với các đơn vị du kích địa phương để cầm chân lực lượng hành quân của quân đội Pháp.
Vần dương sáng chói lên cao dần từ phía chân trời, chiến hạm nhấp nhô trên những lượn sóng dài màu xanh thẩm.
Bãi chiến trường trở nên yên tỉnh so với hai ngày trước, tiếng súng nghe rời rạc chứ không ầm ĩ như lúc mới khởi đầu cuộc hành quân.
Trên không trung những thám thính cơ đã trở lại chiến trường sau cơn mưa giông sấm sét ngập trời chiều hôm trước. Vẫn không thấy bóng dáng các khu trục phóng pháo cơ trên bầu trời xanh lơ không gợn mây, có lẽ vì chiến cuộc nay đã lắng dịu xuống nhiều.
Trong ngày cuối cùng của cuộc hành quân, các đơn vị thuộc năm mũi dùi tấn công đã chiếm mục tiêu và vòng tròn của thế gọng kìm bắt đầu thu hẹp lại. Sức chống cự của Việt Minh trở nên yếu ớt dần dần với những cuộc đụng độ lẻ tẻ trên khắp các trận tuyến.
Với một lực lượng tấn công nhiều gấp gần 20 lần quân số của Việt Minh trú đóng tại đây, quân đội viễn chinh Pháp đã đánh đuổi Trung đoàn 95, lực lượng nòng cốt đã kiểm soát hơn hai năm qua, con đường chiến lược quan trọng nối liền các làng mạc dọc theo duyên hải phía bắc thành phố Huế, ra khỏi “Huyết Lộ Ô Lâu”
Tướng Leblanc báo cáo về Bộ Chỉ Huy tối cao của Pháp là cuộc hành quân càn quét lực lượng của Trung đoàn 95 Việt Minh đã thành công mỹ mãn.
Cuộc hành quân mang tên Camargue, một địa danh của vùng bờ biển đầm lầy phía tây ngoại ô thành phố Marseilles của Pháp kéo dài trong ba ngày.
Quân lực Pháp sau đó đã thành lập được cơ cấu hành chánh cho gần hai mươi lăm làng mạc gồm cả làng đánh cá dọc vùng duyên hải từ Thuận An ra đến Cửa Việt và được đặt dưới quyền kiểm soát của chính quyền quốc gia.
Riêng Trung đoàn 95, sau trận đánh này, vì quân số thương vong và bị bắt làm tù binh rất lớn, vũ khí mất mát, tịch thu bởi Tây quá nhiều, nên kể từ đó vắng bóng trên chiến trường vùng Quảng Trị, Thừa Thiên.
Tàn quân Trung đoàn có lẽ đã rút về hậu cứ tại mật khu A Sao, A Lưới để dưỡng sức và tái bổ sung trước khi tung ra các trận tuyến đang sôi động tại miền bắc và cao nguyên trung phần Việt Nam.
Chiến tranh Đông Dương đang được các Đại cường quốc trên thế giới quyết định tại bàn hội nghị Geneve, Thụy sĩ. Trong khi phái đoàn gồm có đại diện của các nước như Pháp, Hoa Kỳ, Trung Cọng, Nga Sô, Việt Cộng và Việt Nam Quốc gia... đang bàn cãi để đi đến một giải pháp chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, thì tại Điện Biên Phủ, quân đội Cọng sản tăng cường áp lực quân sự, vây hãm lực lượng của Pháp trú đóng tại đây.
Hội nghị quốc tế này rất được chú ý khắp toàn thế giới vì đã mở đầu cho một kỷ nguyên mới về vai trò ngoại giao trên bàn hội nghị thay vì giải quyết vấn đề tranh chấp bằng vũ lực trên chiến trường.
Kinh nghiệm đắt giá trong hai trận thế chiến và chiến tranh Cao Ly với tổng số nhân mạng bị chết quá cao và những hậu quả tàn khốc gây ra bởi chiến tranh, đã làm cho các nhà lãnh đạo quốc gia phải thay đổi quan điểm để tìm đường lối giải quyết mọi vấn đề tranh chấp bằng cách thương thuyết trên bàn hội nghị.
Cọng sản quốc tế Nga Tàu đã tiếp tế quân dụng, vũ khí tối tân cho binh lính Việt Minh với quyết tâm giúp Hồ Chí Minh đánh đuổi đoàn quân viễn chinh Pháp ra khỏi vùng Đông Dương, rồi gây ảnh hưởng với Việt Nam và bành trướng lý thuyết và chủ nghĩa Cộng sản tại vùng Đông Nam Á.
Các quốc gia tự do trên thế giới đã đoán biết ý định của bè lũ Cộng sản quốc tế, đặc biệt là Hoa Kỳ, sau trận chiến tại Cao Ly, đã nhận thức và quyết định chấp nhận vai trò lãnh đạo Thế giới tự do, bằng mọi giá phải ngăn chặn làn sóng đỏ đang mưu đồ thống trị thế giới nói chung và Đông Nam Á nói riêng.
Việt Nam đã trở thành một vị trí chiến lược và là đầu cầu quan trọng của Thế giới tự do, được dùng để thử thách và chống trả Cộng sản. Chiến tranh Ý thức hệ đã bắt đầu giữa người Quốc gia và Cộng sản, khởi đầu cho một cuộc chiến không trận tuyến của những người đồng chủng tộc.
Một nhân vật quan trọng được Hoa Kỳ ủng hộ và giúp đỡ đã nắm giữ vai trò lèo lái con thuyền Việt Nam qua cơn sóng gió.
Ông Ngô Đình Diệm với chức vụ Thủ Tướng, được Quốc Trưởng Bảo Đại giao phó tất cả quyền hành và trách nhiệm, đã và đang cải tổ thành phần nội các.
Với quyết tâm xây dựng một Quốc gia tự do hùng mạnh, ông thành lập một Chính phủ gồm những người có tư tưởng chống cộng và thay thế Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng để chuẩn bị đương đầu các Lực lượng giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo...đang chia phần tại miền Nam.
Giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo đã kiểm soát vùng đồng bằng sông Cửu Long từ hơn một thập niên qua, được sự yểm trợ quân sự và tài chánh của Pháp để chống lại Việt Minh.
Họ rất hữu hiệu trong việc bảo tồn khu vực kiểm soát của giáo phái, dù Việt Minh hay chính quyền thuộc địa Sài gòn cũng rất khó xâm nhập vào địa phận của hai giáo phái này.
Riêng Bình Xuyên, dưới quyền của Bảy Viễn, kiểm soát vùng Chợ lớn và ngoại ô thành phố Sài gòn, điều hành hai sòng bạc Kim Chung và Đại Thế giới. Trong mấy năm vừa qua, thực dân Pháp phong cho Bảy Viễn chức vụ Thiếu tướng và chấp thuận cho Bình Xuyên quyền thâu thuế các thương gia Tàu giàu có đang hành nghề buôn bán tại Chợ Lớn.
Khi mới trở về nước, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã gặp nhiều khó khăn và sự bất cọng tác của mọi thành phần trong chính trường hiện tại.
Họ cho rằng ông là người công giáo, người Trung và các Sĩ quan cũng như nhân viên trong chính phủ trách ông Ngô Đình Diệm, đã bỏ quê hương ra đi trong hơn bốn năm qua, khi tất cả toàn dân đang ở trong giai đoạn tranh đấu giành độc lập cho Việt Nam.
Quốc Trưởng Bảo Đại đã rời Đà Lạt, cùng Nam Phương Hoàng Hậu và Hoàng gia lên đường qua Ba Lê trong khi chiến trường cao nguyên giữa Lực lượng đặc nhiệm Pháp và các Sư đoàn Việt Minh đã đi đến giai đoạn quyết liệt.
Những địa danh như Pleiku, Kontum, Quốc lộ 19, đèo Chu-Dreh, An Khê, Dak Doa... đã ghi lại trong trang chiến sử của những trận phục kích, tấn công và đụng độ khốc liệt, đẫm máu giữa Pháp và Việt Minh trong những ngày cuối của quân đội viễn chinh Pháp mà Hiệp định đình chiến sẽ được ký kết trong một thời gian rất gần đây.
Trong gần một thế kỷ đô hộ nước nhược tiểu tại một dải đất hình chữ S trên ven biển Thái Bình Dương xa xôi tận mãi ở viễn đông, chính phủ và giới lãnh đạo Pháp đã đương đầu hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, trong một cuộc chiến tranh không giới tuyến, sức chống cự anh dũng của dân tộc Việt Nam kiên cường đấu tranh giành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước.
Biết bao nhiêu thanh niên của thế hệ trẻ, mầm non của hai dân tộc đã bỏ thây trên chiến trường Việt Nam. Những người cha mất con, người vợ mất chồng, đau buồn khi nhận được tin từ chiến trường tận phía bên kia của nửa quả địa cầu.
Con trai của nhiều vị Tướng lảnh của Pháp phục vụ tại các đơn vị tham chiến của đoàn quân viễn chinh đã tử trận trong các cuộc hành quân từ Bắc bộ đến cao nguyên trung phần Việt Nam:
- Trung Úy Bernard de Lattre de Tassigny tử trận tại mặt trận Ninh Bình là con trai độc nhất của Thống chế De Lattre de Tassigny,
- Trung Úy Gambiez, con của vị Tham Mưu Trưởng của Đại tướng Navarre, bị chết tại Điện Biên Phủ...
Ngoài ra người ta còn được biết nhiều Tướng tá thuộc quân đội Pháp cũng đã bỏ mình trên chiến trường Việt Nam, như Tướng Chanson, Tướng Không quân Hartmann, Đại tá Blankaert...
Về phía Việt Nam, nguyên cả một thế hệ trẻ, một dân tộc bị đày đọa, khổ sở, chết chóc vì chế độ thực dân và Cộng sản núp dưới chiêu bài kháng chiến. Những mầm non tài năng tương lai của đất nước, bị tiêu diệt dần mòn vì không may đã sinh ra và sống dưới sự cai trị của dân Âu Châu đi chiếm thuộc địa cùng với chủ nghĩa ngoại lai Mác Lê, với ước mộng nhuộm đỏ toàn thế giới để tiến tới thiên đường Cộng sản.
Những kỷ niệm của tuổi ấu thơ, những mất mát trong cuộc chiến, những lời tâm sự, khắc khoải đớn đau được ghi lại và trình bày qua các sáng tác phẩm nghệ thuật thời tiền chiến chỉ nói lên một phần nào tâm trạng của một dân tộc nhiều chịu đựng, can trường. Những nấm mồ của chiến sĩ vô danh rải rác được chôn vội trên vạn nẻo đường quê hương mới thực sự diễn tả tất cả niềm uất hận của người dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh tàn nhẫn này.
Chương 7: 
Chiếc Bệnh Viện Hạm neo ngoài khơi cách bờ biển làng Vân Trình khoảng 5 hải lý, đang nhún nhảy nhẹ nhàng theo đợt sóng từ phía mũi tàu.
Thân tàu sơn màu trắng với dấu hiệu Hồng Thập tự đỏ chói hai bên tả và hữu hạm của đài chỉ huy. Đây là một loại tàu dùng cho khách du lịch được cải biến thành một bệnh viện nổi, trang bị dụng cụ Y khoa, giải phẫu... và đầy đủ tiện nghi cho nhân viên cũng như bệnh nhân.
Mặt biển lặng êm dưới bầu trời trong xanh, ánh nắng vàng hoe soi hình chiếc trực thăng đang đậu trên bong phía sau lái tàu. Đây là chiếc trực thăng dùng để chuyên chở những thương bệnh binh từ chiến trường trong các cuộc hành quân đang diễn biến trong đất liền.
Từ loa phóng thanh, tiếng kêu gọi tên của Bác sĩ đến phòng giải phẫu nghe rõ ràng át hẳn đi tiếng rì rầm của máy tàu.
Trung úy Bác sĩ Maurice mở cửa bước vào phòng hồi sinh của thương binh, trên tầng thứ hai của bong tàu. Anh Y tá người Việt Nam đang kiểm soát giấy tờ theo dõi tình trạng của người bệnh, ngừng đọc, đứng dậy chào ông bác sĩ bằng tiếng Pháp:
- “Chào Bác sĩ Maurice, hôm nay ông mạnh khỏe không?”
- “Chào ông Quang, tôi mạnh khỏe lắm, cám ơn, và ông?”
- “Khỏe lắm, cám ơn Bác sĩ.”
Sau khi nói vài câu chào hỏi xã giao, người Y tá tên Quang hướng dẫn Bác sĩ Maurice đến cạnh chiếc giường bệnh trải tấm “drap” trắng tinh.
Trên giường bệnh, một người con gái trẻ đang nhắm mắt trong cơn mê, vầng trán quấn đầy băng trắng, che kín khuôn mặt ngâm đen duyên dáng, miệng phì phò thở qua ống dưỡng khí. Một bình nước biển treo tại đầu giường đang chuyền nước vào cánh tay trái của cô gái.
Thân hình của bệnh nhân được phủ bằng một chiếc mền mỏng màu xanh lục đậm của quân đội, chỉ chừa ra chiếc chân trái bị gảy, được băng bột đến tận đầu gối.
Bác sĩ Maurice quay lại hỏi người Y tá đang đứng bên cạnh:
- “Cô ấy thế nào, đã hồi tỉnh lần nào chưa?”
- “Dạ thưa Bác sĩ, đã hơn hai hôm nay, kể từ khi cô ấy được trực thăng tải thương về đây, chưa khi nào cô ấy tỉnh dậy cả. Vết thương trên đầu đã cầm máu, chân trái của cô ta bị gảy tại xương ống quyển. Tôi thấy cô bị thương rất nặng, may nhờ được chở ra Bệnh Viện Hạm để cấp cứu và giải phẫu kịp thời mới như vầy, chứ nếu trễ hơn một tí nữa thì không tài nào cứu sống được.”
Bác sĩ Maurice cầm tấm bảng nhỏ ghi nhiệt độ và áp huyết của bệnh nhân lên xem, rồi vừa lấy tay bắt mạch của cô bệnh nhân vừa hỏi anh Quang:
- “Ông Quang có biết cô này tên gì không? Cô ấy có mang giấy tờ gì trong người không?”
- “Thưa Bác sĩ, không ai biết cô ấy tên gì cả, vì khi vị Sĩ quan trưởng toán viễn thám “Commando” tìm thấy cô ấy bị thương nặng và bất tỉnh nằm bên vệ đường, họ gọi ngay trực thăng tản thương chở về đây, không có giấy tờ gì trên người ngoại trừ cánh hoa này trong túi áo của cô ấy.”
Anh Quang ngừng lại và kéo hộc bàn bên cạnh giường bệnh, lấy ra một cành hoa lan trắng đã héo úa và đưa cho Bác sĩ Maurice. Ông này cầm lấy, quan sát rồi khi thấy đây chỉ là một hoa lan trắng như hoa lan khác, ông đưa trả lại cho anh Quang, miệng lẩm bẩm “Orchid, Orchid”, sau đó vị Bác sĩ dặn dò người Y tá gọi ông nếu bệnh nhân tỉnh dậy, rồi đi ra khỏi phòng hồi sinh.
Anh Quang nhìn theo vị Bác sĩ người Pháp, rồi lẳng lặng đi vào, đến gần giường bệnh, đăm chiêu nhìn người thiếu nữ đồng hương không may mắn đang chìm đắm trong giấc “coma”, bất tỉnh mê man. Anh làm dấu thánh giá rồi lầm thầm cầu nguyện cho người con gái xấu số được phước lành qua khỏi hoạn nạn.
Quang là một người thanh niên khoảng chừng trên dưới ba mươi tuổi, người hơi gầy, sinh trưởng trong một gia đình Tây học, cha anh hiện nay là thư ký tòa án tại Sài Gòn.
Phục vụ trên Bệnh Viện Hạm với nhiệm vụ vừa là Y tá vừa là Thông dịch viên, Quang đã nhiều lần chứng kiến hậu quả do chiến tranh gây ra, qua các thương bệnh binh chửa trị trên tàu.
Nhìn những quân nhân quằn quại đau lớn, rên rỉ la khóc vì vết thương, quang cảnh chết chóc xảy ra hàng ngày trên bàn giải phẫu, người Y tá Việt Nam cảm thấy ưu tư trước sự tàn nhẫn của chiến tranh đang diễn tiến trên đất nước Việt Nam, đã mang lại biết bao đau thương cho nhiều gia đình có thân nhân tham chiến và tử trận trong cuộc chiến này.
Đọc qua các bản báo cáo hàng ngày, nhiều lúc Quang bàng hoàng trước con số thương vong lớn lao của quân đội Pháp cũng như của Việt Minh. Con số tổn thất này tăng lên khi các mặt trận từ Bắc chí Nam càng ngày càng sôi động trong thời gian vừa qua.
Quang xúc động nhiều khi nhìn thấy những thương binh bị giải phẫu cắt cụt tay chân, những thương phế binh còn trẻ măng trên chiếc xe lăn, trên đôi nạng gỗ, chiều chiều bên mạn tàu nhìn biển khơi với ánh mắt xa vời, trống vắng. Quang đã đau lòng đi đến kết luận:
“Chiến tranh đem đến tan vỡ cho nhân loại, gây cảnh điêu tàn và chết chóc cho quân nhân và dân lành vô tội để rồi cuối cùng không có ai là người thắng trận trong chiến tranh, tất cả đều là kẻ chiến bại”.
Tiếng động cơ máy bay trực thăng nghe thật rõ đưa tâm tư Quang trở về với hiện tại, anh mở cửa bước ra ngoài lan can cạnh mạn tàu. Cơn gió từ phía đông biển Nam Hải mát dịu thổi vào phòng hồi sinh. Trên không trung, dưới bầu trời xanh dương, vần mây cao màu trắng lăn tăn như đợt sóng nhỏ cuồn cuộn về hướng đất liền.
Chiếc trực thăng cất cánh từ bong tàu phía sau lái, trực chỉ hướng tây bắc, bay nhanh về phía bờ biển nơi trận chiến vẫn đang còn tiếp diễn.
“Lại thêm một chuyến tản thương nữa.”
Quang bâng khuâng với ý nghĩ trong đầu, anh quay vào phòng bệnh, đóng cửa lại và sửa soạn giấy tờ để bàn giao cho người Y tá sắp đến thay thế phiên trực của anh.
Trên giường bệnh, cô gái tuổi chừng mười bảy, mười tám tiếp tục say sưa trong giấc ngủ dài.
Sau hơn bốn ngày neo tại một vùng biển êm trên Thái Bình Dương, để làm nhà thương nổi chữa trị và cứu cấp cho các binh lính bị thương được trực thăng vận ra tàu, sáng hôm nay, theo lệnh của Bộ Chỉ Huy hành quân, Bệnh Viện Hạm nhổ neo vượt biển trực chỉ về vịnh Đà Nẵng.
Cô bệnh nhân “vô danh” vẫn còn trong cơn mê, Bác sĩ Maurice khám bệnh hàng ngày và báo cáo lên cấp chỉ huy, tình trạng của bệnh nhân này, đề nghị đưa cô qua tiếp tục điều trị tại phòng bệnh đặc biệt có Y tá túc trực ngày đêm.
Vị Chỉ Huy Trưởng Quân Y sau khi đọc báo cáo, vì lý do nhân đạo, chấp thuận đề nghị của Bác sĩ Maurice và cho phép tiếp tục dùng tất cả phương tiện để cứu bệnh nhân này cho đến khi nào hoàn toàn bình phục, rồi mới chuyển giao lại cho chính quyền địa phương để sưu tầm tung tích của cô thiếu nữ “vô danh”.
Vì Y tá Quang là nhân viên người Việt Nam độc nhất thuộc ban Quân Y, lại vừa thông thạo hai thứ tiếng Việt Pháp, nên Quang được cấp chỉ huy chỉ định làm việc thường trực tại phòng chữa bệnh này.
Trên tàu còn có những nhân viên người Việt Nam làm bồi, phụ bếp và thủy thủ lái tàu... Những người này được biết về người nữ bệnh nhân Việt Nam đang say ngủ trong cơn “coma”, họ mang hoa đến để đầy trong phòng bệnh.
Hằng đêm mọi người cầu nguyện đức Phật tổ, Chúa Jesus phù hộ và ban phước lành cho người con gái bất hạnh được sớm hồi tỉnh.
Họ tổ chức quyên tiền để dành cho cô gái và rồi đồng ý đặt tên cho chương trình đóng góp này là “Một tấm lòng Việt Nam cho Bạch Lan”.
Kể từ ngày đó, hồ sơ “không tên” của người nữ bệnh nhân đang say ngủ được đổi lại là “Hồ sơ của Bạch Lan”. Quang đã có ý nghĩ đó từ cành hoa lan trắng tìm được trong túi chiếc áo bà ba mà cô gái đã mặc khi bị thương trên con đường làng giữa Vân Trình và Mỹ Chánh, cạnh dòng sông Ô Lâu, vào buổi sáng trong ngày đầu tiên của cuộc hành quân quy mô cuối cùng của quân đội viễn chinh Pháp tại Huế và Quảng Trị.
Ngoài Y tá Quang còn nhiều nữ Y tá người Pháp có nhiệm vụ chăm sóc người nữ bệnh nhân “vô danh”, mà họ thương hại và càng ngày càng có cảm tình khi nhìn thấy một con người vô tội, nạn nhân của chiến tranh, bất lực đang nằm mê man trước mắt.
Sau hơn năm giờ hải hành Bệnh Viện Hạm thả neo tại vịnh Đà Nẵng, bên cạnh chân đèo Hải Vân mây vần phủ đỉnh núi cao, trong một buổi chiều âm u, không nắng, nhiều mây.
Sinh hoạt trên tàu lắng xuống, mọi người thở ra thoải mái trên bong trước, bong sau. Bệnh nhân với thương tích nhẹ, rảo bước ngắm nhìn những cánh chim biển đang bay lượn tìm mồi trên mặt biển. Từ xa, thấp thoáng dưới rặng dừa xanh của ngọn núi Sơn Chà là bãi biển Tiên Sa ít sóng.
Sân vận động đông nghẹt cả khán giả đang ồn ào cổ võ trận đấu bóng tròn giữa hai hội tuyển Cảnh sát Huế và hội tuyển của quân đội Pháp. Cuộc tranh tài đã gần hết hiệp đầu, với tỉ số Cảnh sát 2 và quân đội Pháp 1.
Trên khán đài chính, các Sĩ quan cao cấp Pháp ngồi tại dãy ghế hàng đầu bên cạnh các nhân viên cao cấp trong ngành Cảnh sát tại Huế. Mọi người sau những hàng ghế sau đều đứng dậy vỗ tay khi thủ môn Hào của Cảnh sát Huế tung mình lên cao dùng tay đánh mạnh ra khỏi vùng cấm địa, trái banh phạt góc được tả biên Pháp đá vào thật chính xác.
Chung quanh vòng chảo của sân vận động, khán giã bình dân lớn bé già trẻ đông đảo chật cứng, kẻ đứng người ngồi tựa vào lan can trước mặt, thả hai chân lòng thòng xuống vòng chảo xi măng mà trong chốt lát nữa đây, khi hiệp đầu chấm dứt, các xe mô tô Cảnh sát sẽ biểu diễn, tài xế nhào lộn khi xe chạy quanh trên vòng chảo này.
Trọng tài Xáng vừa thổi súp lê và khoát tay ra hiệu chấm dứt hiệp đầu, ôm quả bóng tròn chạy vào phòng nghỉ. Các cầu thủ của hai đội bóng cũng bước nhanh ra phía sau khán đài chính, trong khi cả vận động trường vang dội tiếng la ó và vỗ tay khi một đoàn bốn chiếc xe mô tô do những Cảnh sát viên trong bộ đồng phục ka ki vàng đậm, đeo mặt nạ như phi công lái máy bay, đầu đội nón sắt, đang nối đuôi chạy ra từ phía sau sân vận động rồi tăng tốc lực lên và lượn quanh vòng chảo trong đội hình hàng dọc rồi đổi qua hình thoi.
Khán giả reo hò, tán thưởng khi người Cảnh sát thả tay lái, lấy thăng bằng rồi đứng thẳng lên trên yên xe, hai tay dang thẳng ra, khi chiếc mô tô vẫn còn chạy với tốc độ thật nhanh trên vòng chảo. Kinh nghiệm và tài lái xe mô tô của những Cảnh sát viên Huế đã làm mọi người dân Huế hãnh diện mỗi lần xem họ biểu diễn và đã được báo chí toàn quốc ca ngợi rất nhiều.
Sau phần biểu diễn xe mô tô của Cảnh sát Huế là cuộc thi tài chạy đua 1500 thước vòng chung kết giữa lực sĩ các trường trung học tại Huế như trường Khải Định, Thiên Hựu, Bình Linh, Bồ Đề, Bình Minh, Nguyễn Du...
Nguyên đại diện trường của mình, trong chiếc quần sọt màu xanh Hải Quân, với chiếc áo “maillot” màu trắng mang số 32, khom mình chống tay trước vạch vôi đánh dấu đường khởi hành, bên cạnh những lực sĩ học sinh của trường bạn cũng đang trong tư thế sẵn sàng chờ phát súng ra hiệu của ông trọng tài.
Nguyên tập trung tư tưởng và dồn tất cả sức mạnh xuống đôi bàn chân, anh biết giây phút đầu của cuộc đua rất quan trọng và sẽ có nhiều lợi điểm nếu anh khởi hành đúng vào lúc tiếng súng báo hiệu nổ lên.
Người trọng tài cầm cây súng lục, chĩa lên trời và hô lớn:
- “Vào chỗ, sẵn sàng...” rồi bấm cò
“Đùng”, tiếng súng báo hiệu khởi hành vang dội cùng với tiếng reo hò và cổ võ của hàng ngàn khán giả bao quanh vận động trường.
Nguyên nhấn mạnh đôi bàn chân xuống nền đất đỏ, dùng hết sức lực của mình bung mạnh về phía trước, anh cắm đầu tung mình chạy nhanh, qua ngang khán đài, hướng về phía cổng chánh của vận động trường, vòng quanh sân điền kinh.
Nguyên giữ nhịp thở đều đặn và dẫn đầu toán lực sĩ chạy bộ gồm gần 15 học sinh đồng tuổi đang nối đuôi nhau, chạy vòng trước một rừng khán giả đang đứng dậy hoan hô, vỗ tay khi đoàn lực sĩ chạy ngang qua.
Chiều dài của đoạn đường tranh giải gồm ba vòng tròn của sân điền kinh. Khi qua vòng thứ hai Nguyên trụt xuống hàng thứ ba, chạy sau hai lực sĩ cao lớn của trường Thiên Hựu và Bình Linh.
Nguyên muốn giữ sức mạnh và giành cho những giây phút gần mức tới, vì thế anh chỉ chạy cầm chừng theo sát gót hai học sinh kia.
Vòng thứ ba bắt đầu, cả ba lực sĩ đều tăng thêm tốc độ, dồn hết sức mạnh lên đôi chân.
Trên khán đài chính, mọi người kể cả những Sĩ quan Pháp đều đứng dậy, miệng la to “bravo... bravo... bravo...” khi ba lực sĩ này chạy ngang qua và bỏ xa toán thứ hai đang chạy theo sau cách xa gần hai mươi thước.
Chỉ còn ba trăm thước nữa là tới mức đến, Nguyên bặm miệng lại, bọc ra phía ngoài, chạy nhanh hơn, vượt qua Hoàng của trường Bình Linh rồi Lượng của trường Thiên Hựu, dẫn đầu toán. Nguyên thở đều, ưởn vòng ngực đôi chân thoăn thoắt vượt đoạn đường cuối, chỉ còn cách khoảng một trăm năm mươi thước. Từ xa trước khán đài, người trọng tài tay cầm lá cờ vẽ hình ca rô đen đỏ đang đứng sẵn chờ đợi.
Tiếng reo hò cổ võ vang rền, làm Nguyên lên tinh thần, anh liếc nhìn Lượng chạy chếch về phía sau, bên mặt đang cố gắng vượt lên.
Nguyên nhấn mạnh đôi chân, bỗng nhiên anh cảm thấy bắp vế của chân trái đau buốt như bị vọp bẻ. Anh giảm tốc độ nhăn mặt vì đau, hai lực sĩ thứ hai, thứ ba chạy vượt qua, liếc nhìn Nguyên với đôi mắt ngạc nhiên trong khi những tiếng “... ồ... ồ...”, bất mãn lẫn thương hại của khán giả vang dội khắp vận động trường. Họ thấy Nguyên, anh học sinh lực sĩ chạy bộ đang đi cà nhắc, rồi ngồi xuống bên vệ đường nhìn những người bạn trẻ khác đang lần lượt vượt mức đến cuối cùng của giải chạy đua.
Hai người Y tá trong ban tổ chức mang dụng cụ cứu thương chạy đến bên cạnh Nguyên, quỳ xuống nhấc chân trái lên khám xét, rồi lấy dầu nóng ra thoa bóp bắp vế đang đau nhiều của Nguyên.
Một lúc sau, khi cơn đau giảm dần, Nguyên cám ơn hai anh Y tá và đứng dậy đi lui đi tới để thử xem chân đã hết bị rút gân chưa, rồi buồn bực đi ra phía sau sân vận động để thay áo quần và không thèm để ý gì đến buổi lễ trao cúp đang diễn tiến trước khán đài.
Nguyên đi vào phòng vệ sinh công cọng, rửa mặt, cám ơn những khán giả gặp trong đó chia buồn với anh về sự thiếu may mắn trong cuộc chạy đua, rồi đi trở ra xem trận tranh tài giữa hai hội tuyển bóng tròn đang bắt đầu đá hiệp hai.
Khán giả một lần nữa đứng lên, vỗ tay reo hò ồn ào khi hậu vệ có tên “Được em” đón banh, lừa lên, vượt qua khỏi hai cầu thủ Pháp, đưa banh sâu xuống cho anh mình là trung phong “Được anh”, đang chạy nhanh vượt qua trung vệ địch, đón trái banh bằng chân trái, hất nhẹ qua đầu hậu vệ địch, lừa qua hàng phòng thủ Pháp, dùng chân mặt từ ngoài xa đá mạnh vào góc lưới.
Thủ môn Pháp phóng mình đỡ banh nhưng đã quá muộn, trái bóng hình tròn tung lưới giữa tiếng hoan hô vang dội ồn ào của khán giả.
Hội tuyển Pháp 1, hội tuyển Cảnh sát Huế 3.
Trái bóng tròn được trọng tài đặt giữa sân, ba cầu thủ Pháp sắp sửa đưa banh, bỗng mọi người nhốn nháo khi nghe tiếng súng lục “bốp... bốp... bốp”, tiếp theo là tiếng súng tiểu liên “tạch... tạch... tạch” từ phía sau khán đài chính.
Mọi người nhìn nhau nửa thắc mắc, nửa lo âu, khi thấy lính Hiến binh, tay cầm súng trường chạy ra bao vây chung quanh khán đài để bảo vệ những nhân vật cao cấp đang ngồi tại đây.
Nhưng khán giả không tỏ ra có dấu hiệu hoảng hốt vì đã quen với tiếng súng và sự khủng bố của đặc công Cọng sản đang tăng cường trong thời gian gần đây.
Tiếng nói của phát ngôn nhân trong ban tổ chức nghe vang dội lớn khắp vận động trường, giải thích biến cố vừa xảy ra:
- “A lô, A lô, xin chú ý, xin chú ý... chúng tôi thông báo cùng khán giả, lực lượng an ninh vừa bắn trọng thương và bắt sống một tên đặc công khủng bố Cọng sản trá hình len lỏi vào vận động trường với mưu đồ phá hoại. Yêu cầu khán giả bình tỉnh, tất cả mọi việc đã được chúng tôi thu xếp để bảo vệ an ninh cho khán giả, xin cám ơn quí vị.”
Khán giả vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt hòa lẫn với điệu nhạc quân hành trổi lên từ khán đài phụ, do ban nhạc của Bộ Chỉ Huy Cảnh sát giúp vui cho ngày hôm nay. Trận đấu bóng tròn tiếp tục nhưng không hào hứng như trước, vì trong thâm tâm mọi người, họ vẫn còn bị ám ảnh bởi bóng ma chiến tranh đang đe dọa đời sống của người dân hiền hòa tại xứ Huế.
Trận đá banh chấm dứt với cùng một tỉ số 3-1, hội tuyển Cảnh sát Huế lại một lần nữa đá bại đội bóng khách từ xa tới và không bao lâu nữa sẽ lên đường vào Sài Gòn tranh giải vô địch toàn quốc với hội tuyển Tổng Tham Mưu, một đội bóng tròn có thành tích rất cao, được dân Sài Gòn ủng hộ và ngưỡng mộ nhiều.
Mọi người đổ xô ra hai cổng vận động trường, đi khắp bốn hướng, người đông chật cả đường về phía cầu Trường Tiền, cầu An Cựu, Bến Ngự, Vĩ Dạ...
Nguyên đến chỗ giữ xe đạp, đưa giấy biên nhận cho người giữ xe, mở khóa lấy chiếc xe đạp hiệu Sterling màu đỏ. Anh đi tránh đám đông đang đổ dồn về hướng cầu Trường Tiền, đạp xe qua ngả đường Hàng Me, về phía Đập Đá đến bến đò cạn đưa hành khách qua chợ Đông Ba.
Khi chiếc đò nhỏ chở đầy hành khách và Trung ngồi bên cạnh chiếc xe Sterling đi ngang qua khu đất nhỏ bên tay mặt trên Cồn Hến, Nguyên thấy những người đồng bóng đang nhảy múa theo nhạc điệu chầu văn, lẫn tiếng kèn trống inh ỏi với khói hương mù mịt. Thấp thoáng bên trong đền là những người say mê lên đồng, trong y phục hoa hòe lộng lẫy, đang cúi xuống nghiêm trang khấn vái, chấp tay lạy liên tục trước bàn thờ “Bà”.
Chung quanh Cồn Hến, nhiều chiếc đò nhỏ, đậu chen chúc, người đi cúng bái thật là đông đảo. Những người có óc mê tín dị đoan thường tin vào sức mạnh thần thánh, vào ảo mộng có tính cách siêu phàm, nhất là tin vào một cái gì linh thiêng, để tìm quên đời sống cơ hàn, bấp bênh trong cuộc chiến tranh đang đe dọa dân chúng hàng ngày.
Những hiện tượng cầu cơ, lên đồng..., những câu chuyện về Đức Mẹ hiện xuống tại La Vang, Quảng Trị, hình ảnh Đức Quán Thế Âm với ánh hào quang sáng chói trong mây, trên bầu trời một buổi trưa, được mọi người truyền miệng đồn đãi và họ tiên đoán là phép lạ sắp xảy đến cho dân tộc Việt Nam.
Ngay cả trên các truyền đơn của Cọng sản lén lút phổ biến tại thành phố Huế trong thời gian gần đây, Việt Minh cũng đề cập đến hiện tượng trên và họ đi đến kết luận là phép lạ đã báo trước sự thành công của Cách mạng trong cuộc tranh đấu giành độc lập cho đất nước.
Cọng sản nói thành quả này sẽ đến nhanh hơn nếu toàn dân đoàn kết mạnh hơn sau lưng Cách mạng, tiếp tay với kháng chiến phá hoại cơ sở thực dân, gây khó khăn nhiều hơn cho chính phủ bù nhìn Ngô Đình Diệm tại Sài Gòn.
Chiếc đò đưa khách từ Đập Đá từ từ cặp vào bến đò cạnh bãi đậu xe buýt dưới chân cầu Gia Hội. Nguyên đưa cô lái đò 50 xu để trả tiền qua đò cho anh và chiếc xe đạp, rồi nhắc chiếc xe đạp Sterling lên bờ và đổi ý, thay vì vào chợ thăm mẹ tại cửa hàng trong chợ Đông Ba, Nguyên đạp xe trên con đường nhựa chạy vòng sau chợ, đi về hướng cầu Trường Tiền, qua sân bóng tròn trước rạp chiếu bóng Tân Tân, đến vườn hoa Nguyễn Hoàng.
Nguyên tìm một băng đá trên bồn cỏ cạnh bờ Hương Giang, dựng chiếc xe đạp trên cái càng xe, rồi ngồi xuống nhìn đoàn người đi coi đá banh về, vẫn còn rộn rịp, từ phía đài Phát thanh Huế, bên hữu ngạn sông Hương, qua cầu Trường Tiền, tiếp tục đổ xuống đường Trần Hưng Đạo.
Mặt trời đã khuất bóng sau Kỳ đài trước cửa Ngọ Môn, tia nắng vàng còn le lói trên bầu trời bắt đầu chuyển sang màu tím nhạt. Vài ba con dơi núi đang bay lượn bắt muỗi mòng trên vườn hoa, hoàng hôn đang xuống dần trên thành phố Huế.
Nguyên đăm chiêu suy nghĩ về người bạn gái thân yêu đã thất lạc hơn hai tháng nay. Huyền mất tích trong chuyến đi ra Vân Trình vào cuối tháng bảy vừa qua. Nguyên buồn rầu khi nhớ đến kỷ niệm của hai đứa trong tám năm vui đùa bên cạnh nhau.
Trong ngày đó gia đình Huyền chờ đón con gái tại sân ga Huế và khổ đau sau khi chờ mãi để rồi biết tin con gái không có mặt trên chuyến tàu lửa từ Mỹ Chánh vào.
Cha mẹ của Huyền phải chờ gần hơn một tuần lễ, cho đến khi con đường từ Huế, Mỹ Chánh đến Vân Trình giải tỏa mới được phép đi ra tìm kiếm đứa con gái thân yêu.
Họ cảm thấy tuyệt vọng sau nhiều ngày đi hỏi khắp mọi nơi, từ làng Lại Hà lên đến làng An Hội tại phía bắc Vân Trình. Không có người dân quê nào hay biết gì về tung tích của cô con gái 17 tuổi này cả.
Trong cuộc hành trình tìm con, họ chỉ thấy trước mắt sự tàn phá của chiến tranh, chứng kiến cảnh điêu tàn để lại từ cuộc tranh hùng giữa hai lực lượng thù nghịch bắn giết nhau.
Những căn nhà đổ nát tiêu điều không người ở, những nấm mộ đất còn mới của xác chết được chôn vội bên vệ đường làng, bên rặng tre già, bên bờ sông Ô Lâu nước cạn, lững lờ chảy xuôi dòng về phá Tam Giang.
Cha mẹ Huyền cũng còn thấy những người quả phụ, đầu quấn vành khăn tang trắng, bồng đứa con thơ với chiếc khăn nhỏ cũng màu trắng, rộng hơn cái đầu bé tí, đang tụt xuống tận đôi mắt đen tròn ngơ ngác, đang thẫn thờ lê đôi bàn chân không trên con đường làng, về hướng vô định.
Mợ cũng buồn khổ không kém, bà tự trách mình đã để cho Huyền về Huế một mình trên chuyến xe ngựa.
Trong đầu mợ luôn luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ tội lỗi mỗi khi nhớ đến hình dáng yêu kiều của Huyền trong chiếc áo bà ba màu hoa cà, miệng tươi cười với chiếc má lúm đồng tiền, đưa tay vẫy chào mợ trước khi chiếc xe ngựa lọc cọc xa dần trong buổi sáng nhiều sương mù hôm đó.
Quân đội Tây rút quân ra khỏi khu vực hành quân bắt theo thanh niên thiếu nữ, cùng với cán binh Cọng sản thuộc Trung đoàn 95 và du kích địa phương làm tù binh, tổng số lên đến gần 200 người, trong đó có cả người em trai út của mợ.
Sau đó dân làng mới ra khỏi hầm trú ẩn, dọn dẹp và thu nhặt những gì còn lại của căn nhà, của mảnh vườn thân yêu mà tổ tiên đã sinh sống trước đây và để lại cho con cháu.
Ban đầu mợ không hay biết gì về việc Huyền mất tích vì tưởng rằng Huyền đã đáp kịp chuyến tàu lửa và đã về đến Huế trước khi Tây đi lùng.
Mợ cũng buồn khi nghe dân làng nói về chuyện ông nài ngựa bị chết và chiếc xe ngựa bị tan tành mà họ cho là con ngựa đạp một quả mìn gài trên đường làng.
Cho đến khi cha mẹ Huyền ra gặp mợ, Huyền vẫn chưa về đến nhà.
Nguyên thở dài vươn vai đứng dậy, sương bắt đầu xuống trên vườn hoa Nguyễn Hoàng, gió từ sông Hương thổi lên mang theo làn hơi nước làm Nguyên cảm thấy lành lạnh. Anh leo lên chiếc xe đạp đi ra đường Trần Hưng Đạo, ghé lại tiệm bán thực phẩm Nam Thiên, mua 100 gram thịt Jambon cắt thật mỏng như tờ giấy và 50 gram Fromage của Pháp, loại mà mẹ rất thích ăn với bành mì Tây đang còn nóng và một chai bia hiệu bông hồng của Đức quốc đem về cho mẹ ăn uống tối nay.
Khi vừa về đến gần nhà, Nguyên thắc mắc và ngạc nhiên khi thấy đậu ngay trước cửa, một chiếc xe hơi “con cóc” màu xanh nhạt, mà Nguyên biết là loại Renault 4 rất được mọi người ưa chuộng và thông dụng hiện nay. Anh mở cửa hông đem chiếc xe đạp dựng dựa vào tường rồi đi vào phòng khách.
Hai đứa em họ đang ngồi nói chuyện với cha, đứng dậy khi thấy Nguyên đi vào:
- “Xe của ai mà trông ngon lành vậy thưa ba, trông đẹp quá trời, ba mới thuê phải không?”
Cha Nguyên mĩm cười ngoắc tay ra hiệu cho con trai đi theo mình ra xem chiếc xe:
- “Xe của mình đó, thích không, mẹ con cũng chưa biết, chút nữa hai cha con mình đi đón mẹ con ở chợ Đông Ba để làm mẹ con ngạc nhiên chơi”.
Nguyên ngẩn người ra, không tin những gì đang nghe, nhà mình có xe hơi thật à. Đã nhiều lần Nguyên nhận thấy tinh thần minh mẫn, quyết định sáng suốt và khả năng giao tế của cha cùng với sức chịu đựng, đức tính tháo vác và chịu khó của mẹ trong hơn mười năm qua, khi anh vừa bắt đầu biết nhận xét.
Nguyên rất vui khi thấy cha mẹ thành công và có ngày hôm nay, sau bao nhiêu năm cần cù buôn bán áo quần cũ, kể từ khi rời làng La Chữ hồi cư về lại Huế. Trong thời gian gần đây cửa hàng tạp hóa của mẹ càng ngày càng lớn hơn, bán đắt hơn cho nhiều khách hàng khác nhau.
Những người nhà quê vừa tản cư về thành phố tránh nạn chiến tranh, những người Thượng mang đồ thủ công nghệ, da thú về bán cho người Kinh, rồi mua đồ dùng đem lên núi...
Các ông Tây bà Đầm cũng đi mua sản phẩm địa phương, rất rẻ tiền so với đồ đạc bày bán tại các cửa hàng ở thủ đô Ba Lê của họ, có lẽ để đem về xứ vì biết sắp đến ngày họ phải rời Việt Nam khi Hiệp định Geneve được ký kết trong tương lai.
Nguyên cảm thấy vui và thương cha mẹ thật nhiều, anh nhớ lại những buổi trưa hè, khi anh đang vừa mới hơn mười tuổi, ngồi nhổ vài sợi tóc bạc vừa mọc lưa thưa trên đầu của cha, Nguyên được nghe ông kể một cách hãnh diện về dòng giống Hoàng phái của gia đình.
Cha nói một cách say sưa về ông nội của mình, người anh hùng núi Voi, đã có công rất lớn với nhà Nguyễn, từng giữ chức Thượng Thư Bộ Binh triều Thiệu Trị, Đô Đốc Tổng Trấn thành Thuận An, được phong tước Tứ Phẩm triều vua Thiệu Trị và Nhị Phẩm triều vua Tự Đức và còn là Quan Án Sát tỉnh Quảng Bình dưới triều vua Thành Thái.
Một trong những người con của ngài tức là ông nội của Nguyên giữ chức Giám Thủ triều vua Khải Định và đã kết hôn với một bà Quận Chúa dòng dõi Công Tằng Tôn Nữ, thuộc Thoại Thái Vương phòng. Đây là bà nội của Nguyên, một người hiền mẫu mà cha nói đã bị gió thổi bay qua một bức tường cao hơn hai thước, trước Phủ Thoại Thái mà chỉ bị thương tích nhẹ, trong trận bão lớn nhất của thế kỷ tại Huế, đó là trận bão năm Thìn.
Nguyên lơ đãng vuốt nhẹ bàn tay phải dọc theo sườn chiếc xe hơi, nhìn khuôn mặt mình phản chiếu trên cái nắp xe vừa được chùi rửa bóng loáng.
Bàn tay của thằng Hoàng run run nắm nhẹ miếng gỗ nhỏ hình trái tim làm bằng tấm gỗ đóng hòm mà nó đã lén lút lấy từ sau nhà của bác Khang làm thợ mộc trong xóm, chuyên môn đóng bàn ghế, giường tủ và kể cả hòm đủ loại nữa. Nó không thể kiếm ra miếng ván hòm người chết thật sự.
Miếng gỗ dùng để cầu cơ đang lướt nhẹ trên tấm vải thô dày có viết chữ ABCD... Mặt Hoàng đỏ hồng như vừa uống ly rượu mạnh, đôi mắt nó lim dim, mồ hôi rịn ra ở trên vầng trán thấp.
Thằng Hoàng được các bạn cùng xóm đặt tên là “Hoàng ngông” vì tính nghịch ngợm và rất là gan dạ của nó.
Sau nhiều ngày tháng chờ đợi và tìm kiếm, gia đình của Huyền đi coi thầy bói, nhờ thầy cho biết là Huyền còn sống hay đã chết rồi, để lo việc tang chế cho hồn Huyền được siêu thoát. Họ thất vọng khi nghe mỗi thầy nói một khác, người thì nói còn sống và đang ở trong rừng với Việt Minh, ông khác nói là đã bị Tây bắn chết và dập thây bên vệ đường làng Mỹ Chánh.... Cả nhà khóc ròng và bạn bè của Huyền trở nên lo lắng và mất hy vọng, sợ rằng nàng thật sự đã chết, trong cuộc hành quân quy mô của Pháp tại vùng duyên hải phía bắc Thừa Thiên, ba tháng trước đây.
Trong một buổi tiệc ăn mừng ngày sinh nhật 17 tuổi của Hồng, cô láng giềng người Bắc kỳ, khi nhắc đến Huyền, mọi người cảm thấy nhớ người bạn gái bất hạnh, mà các bạn trẻ rất mong vẫn còn sống sót và thất lạc tại một nơi nào đó. Thế rồi Hoàng đưa ra ý kiến cầu “cơ” tại nhà của Long, một người bạn ở tại ngả ba bùng binh đường Trung bộ, sau lưng chùa Diệu Đế, gần khuôn hội Phật giáo Thuận Hóa.
Con đường này nối liền đường Ngự Viên và bờ sông Hàng Bè, không những được biết đến vì nhà của hai chị em “song Mai” đẹp nổi tiếng ở tại đây, mà còn nghe nói là con đường có ma hiện ra hằng đêm.
Những mẫu chuyện được kể lại từ các chị bán hột vịt lộn, những anh bán bánh mì nóng, các em nhỏ bán đậu phụng rang về cô gái mặc đồ trắng mua đậu phụng, bánh mì... trả bằng tiền giấy vàng bạc đốt trong các đám kỵ giỗ.
Ngọn đèn bạch lạp nhấp nháy, khi sáng bùng lên, khi tối lại theo chiều cơn gió nhẹ thổi từ vườn hoa làm lung lay hình bóng chập chờn của năm bóng đen đang nhảy múa trên bức tường phía sau lưng.
Nguyên ngồi lặng yên bên cạnh Hồng, đang lợi dụng cơ hội nắm tay, dựa tấm thân mềm mại, nẩy nở vào đôi vai rắn chắc của người bạn trai như để được che chở. Thằng Nông cũng đang nổi da gà vì nhìn thấy miếng gỗ dừng tại chỗ chữ “nữ”, khi “cơ” trả lời về câu hỏi của Long về lý lịch của “cơ”.
Hoàng tiếp tục chất vấn và người của Hồng run nhẹ trên bờ vai của Nguyên, khi mọi người được “cơ” cho biết đây là hồn của một cô gái đã bị chết trôi trên sông Hàng Bè từ lâu, cho đến nay vẫn chưa được siêu thoát.
Nguyên đánh bạo hỏi hồn “cơ” về tình trạng của Huyền, hiện nay sống chết như thế nào và nếu còn sống “cơ” có biết Huyền đang ở đâu không?
Hoàng cảm thấy tay mình run nhè nhẹ, miếng gỗ có hình trái tim dường như ngập ngừng, di chuyển qua lại chậm rãi hơn những lần trước khi đáp các câu hỏi của mọi người.
Bỗng mọi người thở ra nhẹ nhõm khi “cơ” di chuyển đến chữ S rồi Ô...N...G và dấu “sắc”, họ nín thở khi thấy trái tim gỗ tiếp tục đánh vần chữ H...A...I dấu “hỏi” rồi Đ...Ă...N...G, Hải Đăng, sao lại là Hải Đăng, thật không có nghĩa gì hết khi “cơ” trả lời về câu hỏi “Huyền đang ở đâu?”.
Nguyên lên tiếng định hỏi thêm cho rõ ràng hơn thì chợt thấy đầu thằng Hoàng gục lên gục xuống lia lịa, mặt mày có vẻ dữ tợn, rồi mảnh gỗ di chuyển đến chữ “thăng” và rồi thằng Hoàng thở mạnh ra như đang vừa tỉnh dậy từ một cơn mê.
“Hải Đăng, Hải Đăng, Huyền đang còn sống và ở tại một Hải Đăng, trên biển chăng? Hay là trên một bán đảo? Hoặc là tại một nơi nằm cạnh ven biển có ngọn đèn pha hướng dẫn đường cho tàu bè vào ra trong vịnh?”
Năm người bạn trẻ, một người một ý nghĩ, tranh luận với nhau về tung tích người bạn gái mà họ rất thương mến và mong rằng mọi việc sẽ đúng như lời hướng dẫn của một linh hồn đã khuất, qua cuộc cầu cơ đêm nay.
Bạch Lan mất hết trí nhớ khi nàng tỉnh dậy từ cơn mê sau gần hai tuần lễ điều trị trên tàu, trong một đêm mưa giông, biển động mạnh. Con tàu lắc lư trên triền sóng vượt nốt đoạn hải trình dài từ Đà Nẵng về Quy Nhơn.
Ngọn Hải Đăng trên đỉnh núi cao của vịnh Quy Nhơn chớp sáng theo chu kỳ quay của cây đèn pha thấp thoáng từ xa, làm mốc định vị trí của con tàu, đang hải hành trên biển trong cơn giông, sóng cuốn đập mạnh vào sườn tàu, phủ kín bong tàu của chiếc Bệnh Viện Hạm.
Bạch Lan cảm thấy nhức đầu kinh khủng, chiếc băng trắng bịt đầu được tháo bỏ vì vết thương trên vầng trán của nàng đã liền da, chỉ để lại một cái sẹo dài nhỏ màu hồng cạnh chân mày bên trái.
Trong cơn mê, Bạch Lan tưởng như thân hình đang bay bổng lên tận trời cao, theo vầng mây hồng nhạt, vượt qua ngàn vì sao lấp lánh, trôi về miền hư ảo. Với giải Ngân Hà trắng đục vắt ngang bầu trời xanh thẩm, linh hồn nàng nương theo cơn gió lộng, bồng bềnh trong cõi không trung im lặng.
Qua cuộc hành trình phiêu lưu của tâm linh, nàng tưởng như đã gặp lại hình ảnh thân yêu của người cậu trong bộ quần áo trắng phất phơ theo gió, đang mĩm cười vẫy vẫy tay xua đuổi nàng bay trở về vùng trời cũ.
Với vầng mây hồn nàng lờ lững, thoang thoáng bên tai nàng nghe tiếng ngựa hý, rồi chợt thấy trong sương mù, con ngựa già đang rảo bước trên tầng mây xám .
Những làn sấm sét nổ bùng lên trong tiềm thức làm tan biến tất cả dĩ vãng, hồn nàng bơ vơ trôi dạt về nơi vô định, hoàn toàn xa lạ, để lại cơn đau đớn dữ dội dằng xé tâm cang, làm nàng choáng váng, ngất ngư dật dờ như đang say sóng .
Quang ngồi bên chiếc ghế cạnh giường bệnh của người con gái “vô danh”, hai tay anh níu thành giường để giữ thăng bằng, mỗi khi chiếc tàu lắc lư theo ngọn sóng ngang và rồi dằn mạnh thân tàu xuống mặt biển, với cơn sóng ngược chiều đang gào thét phía bên ngoài.
Anh vén chiếc mền đắp ngang người Bạch Lan và kiểm soát sợi giây da buộc chặt thân hình bệnh nhân xuống khung giường, để giữ cho người bệnh khỏi bị lăn ra khỏi giường khi tàu lắc mạnh.
Khuôn mặt Bạch Lan bắt đầu thấy hồng hào hơn, đôi lông mày dài đậm nét nhướng lên xuống như suy nghĩ, làm cho Quang biết trong đầu cô gái đang bị khơi động mãnh liệt.
Một triệu chứng tốt vì nó cho biết người bệnh ở thời kỳ hồi sinh và có cơ hội sẽ hồi tĩnh lại trong thời gian rất gần.
Quả như dự đoán của người Y tá Việt Nam, Bạch Lan bỗng thở ra thật mạnh và từ từ mở đôi mắt vẫn còn mệt mỏi trong giấc ngủ quá dài. Nàng nhăn mặt vì còn thấy nhức đầu với vết thương mới lành trên trán, định đưa bàn tay lên dụi mắt nhưng không được vì bị vướng bởi những ống nhựa nhỏ nối chằng chịt quanh cánh tay.
Bạch Lan lim dim mắt vì bị chói bởi ánh đèn sáng chói, rồi nàng ráng nhướng đôi mắt đen tròn lên, nhìn thấy trước mặt mình một người thanh niên xa lạ trong chiếc áo choàng trắng với cặp gương cận thị, đang tươi cười mừng rỡ khi thấy nàng tỉnh dậy.
Bạch Lan định cất tiếng hỏi thì người này lấy ngón tay trỏ để lên môi mình như muốn biểu im lặng vì sợ nàng đang còn mệt.
Chiếc tàu bỗng lắc mạnh, người thanh niên vội chống hai tay xuống thành giường, gần té trên người con gái.
Bạch Lan thấy ruột cồn cào như buồn nôn vì say sóng, nàng nghiêng người qua một bên để nôn. Quang lấy chiếc xô đựng nước dưới chân giường, một tay đỡ người của bệnh nhân, giúp cô này nôn trong chiếc xô, đặt nàng nằm xuống rồi lau miệng cho Bạch Lan.
Người thiếu nữ cảm động nhìn anh Y tá với ánh mắt biết ơn, đôi dòng lệ chợt chảy dài trên gò má. Nàng không nhớ một tí gì cả, tâm trí hoàn toàn trống vắng, cố gắng tìm lời giải đáp cho câu hỏi đang vương vấn trong đầu.
Quang nhấc cần máy điện thoại gọi cho Bác sĩ Maurice và thông báo cho vị này biết là người nữ bệnh nhân “vô danh” đã tỉnh giấc từ cơn mê “coma”.
Mặc dù biển đang còn động mạnh, chiếc tàu nhồi lên nhồi xuống dữ dội, vị Bác sĩ người Pháp cũng lần đi theo hành lang tàu, chầm chậm đến ngay phòng bệnh của Bạch Lan.
- “Chào ông Quang. Cô ấy thế nào? Cô ta đã tỉnh dậy bao lâu rồi?”
- “Chào Bác sĩ Maurice. Tôi nghĩ rằng cô ấy còn mệt nhiều lắm, cô tỉnh dậy cũng gần nửa giờ rồi. Tôi đã gọi Bác sĩ ngay tức khắc.”
Bạch Lan trố mắt nằm yên lặng, ngạc nhiên nhìn người đàn ông tuổi chừng trên dưới ba mươi tóc vàng, mặc chiếc áo choàng màu trắng mà nàng đoán là Bác sĩ đang nói tiếng Tây với anh kia, mẫu đối thoại mà nàng chỉ đoán ý sơ sơ khi nghe những chữ như “bonsoir, comment...”.
Bác sĩ Maurice đi đến cạnh giường, mỉm cười nhìn cô gái rồi cầm tay nàng bắt mạch trong khi anh Y tá đứng bên cạnh âu yếm nhìn người nữ bệnh nhân như trấn an và khuyến khích:
- “Chào cô, xin giới thiệu với cô đây là Bác sĩ Maurice và tôi là Quang, Thông dịch viên và Y tá của Bệnh Viện Hạm của Pháp quốc. Hiện nay tàu đang ở trong hải phận Quy Nhơn và ngày mai sẽ bỏ neo tại đây.”
Ông Bác sĩ tiếp tục khám sức khỏe của người nữ bệnh nhân trong khi Quang giải thích cho nàng:
- “Cô bị thương rất nặng, bị gãy ống quyển chân trái và đã hôn mê trong gần hai tuần nay rồi. Trực thăng tải thương đã đưa cô về tàu để chửa trị khi quân nhân Pháp tìm thấy cô bị thương người đầy máu, nằm bất tỉnh trên con đường đất giữa làng Vân Trình và Mỹ Chánh phía bắc thành phố Huế. Xin lỗi quý danh cô là gì và cô có nhớ chi về việc này không?”
Bạch Lan chăm chú nghe giọng nói trầm trầm của người thanh niên, nàng nhíu mày cố gắng tìm trong ký ức hình ảnh được diễn tả qua câu chuyện liên quan đến định mệnh của nàng, nhưng hoàn toàn không nhớ gì cả, kể cả tên của mình.
Bạch Lan nhìn người Y tá và lắc đầu thay cho câu trả lời.
Quang nhìn vị Bác sĩ đang chờ thông dịch lại sự đối thoại một chiều của hai người:
- “Cô ta không nhớ gì về biến cố này và ngay cả tên của cô, cô cũng không biết nữa.”
- “Tôi đoán chắc là vết thương ở đầu và cái “choke” mạnh đã làm cho cô ta mất hết trí nhớ. Phải cần một thời gian rất lâu họa may y khoa mới giúp cô ấy tìm lại được ký ức của mình. Giờ đây cô là một con người mang tung tích và lý lịch hoàn toàn mới.”
Bác sĩ Maurice lắc đầu và chép miệng như thương hại người con gái không may mắn. Ông nói tiếp:
- “Riêng về sức khỏe, cô ấy gần như hoàn toàn bình phục, nhịp tim đã trở lại bình thường, ngoại trừ chiếc chân trái phải chờ vài tháng cho xương liền lại, nhưng tôi nghĩ cũng nhanh vì cô ấy đang còn trẻ.”
Vừa nói Bác sĩ Maurice vừa biên toa thuốc đưa cho Quang để anh Y tá xuống dược phòng lấy thuốc cho bệnh nhân uống, rồi ông ta bước đến gần cầm tay Bạch Lan, nói đôi câu tiếng Pháp như vỗ về trấn an nàng và sau đó ông rời phòng bệnh.
Bạch Lan nằm yên, nhìn bốn bức tường sắt sơn trắng của căn phòng với những chiếc cửa sổ tròn bằng gương có then gài của chiếc tàu.
Bên cạnh cái giường bệnh của nàng là một hệ thống máy đo, giăng đầy chằng chịt ống nhựa với những nút xanh trắng. Cánh tay trái của nàng cũng được nối vào một ống nhỏ để chuyền nước biển vào cơ thể và nàng cảm thấy hơi đau nhói vì chiếc kim dài xuyên vào mạch máu tại cổ tay mình .
Gần đó là một chiếc bàn giấy bằng sắt sơn màu xám gắn vào tường phía dưới một máy điện thoại và một chiếc ghế sắt bọc da cũng màu xám.
Trận mưa giông có lẽ đã tan dần, gió biển bắt đầu không còn nghe hú nhiều như trước nữa và con tàu cũng lắc lư nhẹ hơn.
Người nữ bệnh nhân “vô danh” cảm thấy choáng váng và mệt mõi, đôi mắt nhắm lại và thiu thiu ngủ, bên tai nàng nghe thoang thoáng tiếng người mở cửa và tiếng chân nhè nhẹ tiến đến gần giường bệnh.
Quang đứng nhìn người con gái có làn da đẹp mặn mà đang say ngủ, anh để bao dựng thuốc uống vào hộc bàn, tắt ngọn đèn trên đầu nằm của người nữ bệnh nhân rồi lặng lẽ bước ra khỏi phòng, đi về phía chiếc máy bán cà phê và nước ngọt tại hành lang.
Quang vội vã cùng với những nhân viên và thủy thủ khác, lên chiếc cầu thang bắt từ chiếc tàu máy “ho bo” lên bong Bệnh Viện Hạm. Họ vừa đi “bờ” dạo phố tại Nha Trang về.
Chiếc tàu đã rời vịnh Qui Nhơn hơn một tháng nay và đang neo tại vịnh Nha Trang, cạnh Cầu Đá cách Hòn Lớn không xa lắm, gần một tuần lễ rồi.
Tàu có nhiệm vụ lo chăm sóc thương binh từ các mặt trận trong vùng hành quân của Pháp tại “Plateaux Montagnards”.
Chiến trường tại cao nguyên trung phần trở nên khốc liệt giữa chiến đoàn thuộc Lực lượng đặc nhiệm lưu động Pháp và các đơn vị của hai trung đoàn 804, 108 của Việt Minh tại Sông Ba, Chéo réo, Buôn Hô chung quanh Pleiku, Kontum và ngã ba biên giới Việt Miên Lào.
Trung Úy Bác sĩ Maurice cũng đã rời tàu theo đơn vị Quân Y biệt phái cho đơn vị Dã chiến của chiến đoàn Pháp đang bảo vệ Quốc lộ 19.
Chiếc bao giấy đựng quà mua tại chợ Nha Trang được Quang để tạm tại chiếc bàn trong phòng ngủ. Anh lấy ra một khung hình nhỏ, mở hộc tủ tìm cành hoa lan mà anh đã ướp khô từ hơn hai tháng nay, cẩn thận đóng khung đóa hoa, cầm lên đưa ra xa ngắm nghía. Anh mĩm cười vừa ý với việc làm của mình.
Quang cầm chiếc khung hình và một gói kẹo Tây, vừa huýt gió bâng quơ, đi về phía phòng bệnh của Bạch Lan.
Anh dừng lại trước cửa phòng, gõ cửa bước vào, chợt nghe tiếng bà Y tá Catherine la lên rối rít:
- “Đừng vào, đi ra, đi ra khỏi chỗ này... Chúng tôi rất bận rộn với cô Bạch Lan. Mời anh vui lòng đi ra khỏi chỗ này nhanh lên.
Quang đứng khựng lại, nhưng đã trễ, mặt anh nóng bừng lên rồi ấp úng xin lỗi:
- “Xin lỗi cô Catherine, tôi không biết... ồ... ồ... xin làm ơn thứ lỗi cho tôi.”
Quang quay lưng lại và đi ra, nửa bối rối ngượng ngùng, nửa nuối tiếc tò mò, mắt vẫn còn liếc về phía chiếc giường của cô nữ bệnh nhân, nơi bà Y tá Catherine đang dùng khăn lau khô thân mình và thay áo quần cho Bạch Lan.
Trống ngực anh đập mạnh khi thoáng thấy qua khóe mắt, một thân hình xinh đẹp nõn nà của người con gái, đang phơi bày, không che dấu dưới ánh đèn sáng trưng của căn phòng bệnh.
Bạch Lan cũng thẹn thùng không kém, nàng kéo vội tấm “drap” che ngực mình lại, nhìn theo người Y tá Việt Nam vội vã đi ra khỏi phòng.
Tối hôm đó, Quang trở lại phòng bệnh của Bạch Lan, xin lỗi nàng về sự đường đột hồi chiều của mình và đưa cho nàng xem khung hình có cành lan trắng và một gói kẹo Tây:
- “Cám ơn anh Quang, nhờ anh để khung hình này trên bàn hộ cho Lan, trông đẹp quá, hoa lan khô ở đâu mà anh có vậy?”
Quang không trả lời ngay, anh biết Bạch Lan không nhớ đây là cành hoa lan mà anh đã tìm thấy trong túi áo bà ba trong ngày đầu tiên khi nàng được chiếc trực thăng tải thương về Bệnh Viện Hạm.
Anh vừa sửa lại cọng gương cận thị vừa đặt chiếc khung hình bên bàn ngủ cạnh giường:
- “À... à... Quang thấy cành hoa này đẹp, mà lại có tên giống như là của Lan nên Quang đóng khung để tặng em đó”
Bạch Lan nhìn xuống chân trái băng bột đầy chữ ký của người đến thăm viếng mà nàng không biết tên, không biết mặt mũi như thế nào cả:
- “Khi nào chân em mới lành hẳn vậy anh Quang? Em muốn ra khỏi phòng này để nhìn trời, nhìn nước một tí chứ nằm đây hoài chán chết.”
- “Bác sĩ cho biết kể từ ngày mai, Bạch Lan sẽ bắt đầu được ngồi trên xe lăn và di chuyển qua phòng bệnh khác vì bệnh tình của Bạch Lan đã cải tiến và thuyên giảm nhiều lắm rồi.”
Quang ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh giường bệnh, âu yếm cầm bàn tay thon mềm của người con gái trẻ đẹp mà anh đã đặt tên và yêu mến.
Chương 8: 
Khi Trung về đến trạm tiếp liên của Trung đoàn 803 thì trời cũng vừa chạng vạng tối. Đồng chí trưởng trạm chỉ định cho Trung nơi ngủ tạm đêm nay rồi ngày mai sẽ lên đường ra tân đáo tại một đơn vị của Trung đoàn đang tham chiến tại vùng Dak Doa, Kontum.
Đoạn đường từ đây đến đó cũng mất đến một ngày đường vì thế phải khởi hành thật sớm, băng con đường rừng tránh máy bay thám thính của địch quân từ phi trường của chúng tại Pleiku bay lên.
Trung gặp những khuôn mặt lạ tại trạm này, vì thế anh không có cơ hội để hỏi xem có ai biết về Huấn, người bạn cách đây gần ba năm ngồi trên cùng một chuyến đò của ông năm Dương, ngược dòng sông Hương qua điện Hòn Chén, lên lăng Minh Mạng.
Năm sau đó Huấn được bổ sung quân số cho Trung đoàn này vào cùng một ngày mà Trung và Luân đổi ra Vân Trình với Trung đoàn 95. Trung hy vọng anh Huấn vẫn còn sống sót sau những trận tác chiến quyết liệt tại vùng cao nguyên rừng sâu nước độc này.
Sau khi Trung đoàn 95 gần như bị xóa tên trong cuộc hành quân của Pháp tại vùng duyên hải Trị Thiên, tàn quân còn lại rút về mật khu A Sao, A lưới để kiểm điểm tình trạng quân số.
Khi nhận thấy môi trường hoạt động tại vùng Mỹ Chánh không thuận tiện cho Việt Minh vì các tổ chức hạ tầng cơ sở bị tiêu diệt và chính quyền địa phương đã được Tây và quốc gia thành lập, kiểm soát chặt chẽ, khó việc xâm nhập của Việt Minh, cấp chỉ huy quyết định phân tán đơn vị và bổ sung cho các đơn vị của hai Trung đoàn 108 và 803 đang đối đầu với Lực lượng đặc nhiệm lưu động 100 thiện chiến của quân đội Pháp trong vùng thung lũng cao nguyên từ Kontum đến Ba Mê Thuộc và xuống tận Tuy Hòa, thuộc vùng duyên hải trung phần.
Cuộc hành trình mất nhiều ngày trên con đường mòn chạy ngoằn ngoèo xuyên qua cánh rừng già trong dãy núi Trường Sơn, gian khổ và mệt nhọc vì khí hậu thay đổi quá nhanh trong cùng một ngày.
Ban ngày thì nóng nực, không khí ẩm ướt oi bức với nhiệt độ có thể lên đến 38, 39 độ lúc mặt trời đứng bóng rồi khi đêm về, cơn lạnh buốt cắt da thịt của núi rừng, cùng với muỗi mòng đầy rẫy làm cho nhiều cán binh đồng hành bị bệnh sốt rét phải bị bỏ lại phía sau.
Dù bận rộn với chuyến di hành ngày đi đêm nghỉ này, Trung vẫn tìm thì giờ để ghi lại vẻ đẹp đặc biệt của quê hương mà ít người được biết đến. Trung đã vẽ được nhiều bức tranh về cảnh đẹp hoàng hôn tím trên triền thung lũng đang đổi màu; những con chim lạ đậu trên cành cây, nhìn xuống đàn bướm rừng đầy màu sắc đang vờn bay trên vườn hoa dại; ngọn thác nước lóng lánh muôn màu tuôn trào từ đỉnh núi đá cao... Trung rất thích thú đã may mắn có cơ hội để thu nhận nét đặc thù của quê hương Mẹ trong những tác phẩm của mình.
Đồn Dak Doa nằm về phía đông nam cách tỉnh Kontum khoảng chừng 30 cây số là một vị trí chiến lược kiểm soát khu vực giữa Quốc lộ 19 và Kontum, do một đơn vị thuộc Lực lượng đặc nhiệm lưu động100 phòng thủ.
Cùng với Dak Tô, các đơn vị của chiến đoàn Pháp nằm về phía tây bắc tỉnh lỵ Kontum bị tấn công dữ dội bởi quân đội chính quy Việt Minh và có thể bị thất thủ trong thời gian gần đây.
Máy bay khu trục phóng pháo, từ các phi trường Nha Trang và Pleiku bay lên thả bom yểm trợ liên tục để mong kéo dài tình thế trước khi quân tiếp viện đến cứu.
Trong khi đó căn cứ An Khê, cách Pleiku 100 cây số về phía đông trên Quốc lộ 19 cũng đang bị áp lực nặng nề của Trung đoàn 803 Việt Minh.
Trung Úy Bác sĩ Maurice cùng với các Bác sĩ khác của bệnh viện Dã chiến tại An Khê đang lăng xăng bận rộn với các thương binh vừa được chở về từ chiến trường.
Tay đeo cặp găng tay đầy máu, đôi kính cận thị trụt xuống sống mũi cao, vầng trán rộng lấm tấm đầy mồ hôi vì cơn nóng oai bức của vùng cao nguyên chiếu vào căn lều vải rộng lớn được dựng lên làm thành bệnh viện tạm, Bác sĩ Maurice chăm chú gắp viên đạn ra khỏi vết thương của một lính Lê Dương đang bặm miệng cắn chặt hàm răng cố nhịn cơn đau của cơ thể.
Ông kẹp viên đạn giữa chiếc kẹp bằng sắt, liệng vào thùng rác cạnh dưới chân, rồi quay lại ra lệnh cho anh Hạ sĩ Y tá rửa sạch và băng bó vết thương lại. Sau đó Bác sĩ Maurice đến bên vòi nước, ông tháo bỏ đôi găng tay plastic, vất vào thùng rác, lấy xà phòng rửa sạch cổ tay và hai bàn tay còn dính máu.
Tiếng súng 105 ly từ đơn vị pháo binh bạn ngoài vòng rào căn cứ đang bắn yểm trợ cho lực lượng hành quân nổ rầm trời, làm rung chuyển cả mặt đất.
Trên trời tiếng máy bay thám sát bay lượn hướng dẫn phi pháo vào các địa điểm nghi ngờ có địch quân ẩn núp.
Ngày hôm sau Bộ Chỉ Huy của Lực lượng đặc nhiệm gửi công điện cho các đơn vị trên Quốc lộ 19 biết mưu đồ tấn công của Việt Minh vào những ngày sắp tới và yêu cầu tăng cường phòng thủ.
Các cấp chỉ huy cũng ra lệnh cho Chỉ Huy Trưởng căn cứ gửi những toán biệt kích đi lùng địch và thâu thập tin tức tình báo để báo động kịp thời về sự chuyển quân của Việt Minh trong vùng.
Về phần đơn vị Quân Y, họ được thông báo về sự tăng cường hoạt động của Việt Minh, đơn vị Dã chiến có thể bị thiệt hại nặng nên được lệnh sắp hạng nặng nhẹ các thương bệnh binh, để được di chuyển về điều trị tại Pleiku hoặc trên Bệnh Viện Hạm đang thả neo tại vịnh Nha Trang. Các Bác sĩ cũng được lệnh tháp tùng trở về những nơi này cùng với thương binh.
Từng chuyến máy bay trục thăng tải thương lên xuống bãi đáp cạnh hàng rào dây kẽm gai tại ngoài vòng đai căn cứ An Khê.
Bác sĩ Maurice được sắp xếp sẽ tháp tùng các bệnh nhân hậu giải phẫu cần được săn sóc và sẽ đáp một trong những chiếc trực thăng cuối cùng rời An Khê trước khi trời tối.
Ông thu dọn hành trang, bỏ vào chiếc ba lô, vác lên vai, đội chiếc nón sắt lên đầu rồi chạy ra chỗ chiếc trực thăng đậu, đang mở máy, cánh quạt quay tròn, sẵn sàng cất cánh.
Khi vị Bác sĩ đến gần đang cúi đầu chạy nhanh về khung cửa trực thăng, bỗng nghe tiếng “đùng... đoành... đùng... đoành” vang dội khắp chung quanh.
Còi báo động vang lên inh ỏi, xen lẫn tiếng Tây la ó và tiếng súng pháo binh đang phản pháo vào vị trí đặt súng của Việt Minh nằm cạnh khu rừng ngoài căn cứ. Tất cả xảy ra rất nhanh, địch vẫn tiếp tục pháo, một quả đạn súng cối rơi cạnh chiếc trực thăng, mảnh đạn văng trúng cánh tay trái của Bác Sĩ Maurice. Ông nhào sấp xuống cạnh đôi càng máy bay, máu ướt đẫm cánh tay qua chiếc áo trận ngụy trang rằn ri.
Người Hạ Sĩ Y tá vội vàng nhảy ra khỏi trực thăng, dìu vị Bác sĩ dậy, xốc lên vai và đẩy ông ta vào sàn chiếc trực thăng, rồi anh nhảy lên theo vừa đúng lúc chiếc trực thăng cất cánh, bay lên cao, lượn vòng nghiêng thân hình máy bay, tránh đạn đại liên “tạch... tạch” từ khu rừng đang bắn lên xối xả.
Hai Sĩ quan phi công trực thăng người Pháp thở ra nhẹ nhõm, quay nhìn dưới cánh bay, thấy những cụm khói trắng đang xa dần rồi khuất hẳn trong làn sương mù mỏng đang buông phủ trên bãi chiến trường.
Người y tá khám vết thương cho Bác sĩ Maurice, cũng may là mảnh đạn chỉ trúng vào bắp thịt, không gây thương tích nặng cho cánh tay. Anh ta mở túi cứu thương lấy dụng cụ ra để băng bó cho vị Bác sĩ này.
Bên ngoài chiếc máy bay, từng khóm mây xám bềnh bồng trôi trên dãy núi Trường Sơn hùng vĩ mang nhiều dấu vết của một chiến sử.
Trời bắt đầu tối trên khu rừng sâu bên cạnh những ngọn đồi chiến lược của Pháp. Căn cứ Dak Doa chìm đắm trong bức màn đen của vũ trụ muôn trùng, các lính Lê Dương đang thay đổi phiên gác đêm.
Bầu trời không mây nhiều sao, nhưng không đủ sáng để chỉ đường cho những bóng đen đang âm thầm nối vết chân của nhau, lầm lũi chạy xuyên qua lá cây rừng.
Vị trưởng toán chạy đầu dẫn đường cho đồng đội của mình theo mũi tên làm bằng ba thanh củi nhỏ cột lại với nhau, gắn trên những thân cây lớn cách nhau hai ba trăm thước. Mũi tên hướng về mục tiêu mà đơn vị sẽ tấn công vào thời điểm đã định trước.
Trung hờm sẵn khẩu súng tiểu liên, khom mình chạy nhanh theo đồng chí phía trước, ba quả lựu đạn lắc lư theo nhịp chân của anh. Họ giữ khoảng cách giữa hai người phỏng chừng một thước để khỏi bị lạc nhau trong đêm tối đen.
Vài con chim đi ăn đêm giật mình vỗ cánh bay lên cành cây cao tạo nên những tiếng kêu rào rạc. Những bóng đèn điện rọi ánh sáng vàng vọt xuống hàng rào dây kẽm gai chung quanh vòng đai căn cứ. Ngọn đèn pha trên trạm gác chính thỉnh thoảng chiếu tia sáng chói chan vào các vị trí nghi ngờ có địch quân.
Tiếng máy đèn xình xịt từ phía sau hầm chỉ huy hành quân của đại đội vang trong đêm vắng, xa đến tận khu rừng phía bắc, làm mốc cho những bóng đen tay cầm vũ khí đang tiến về vùng ánh sáng, trong đội hình hàng ngang.
Trung nằm vào vị trí sau một hòn đá cách vòng rào kẽm gai khoảng 300 thước, anh cùng hai đồng chí trong tổ sửa soạn khẩu súng cối, điều chỉnh chiều cao của súng, chiều bay xa trên đầu đạn, hướng súng về phía trung tâm hành quân của căn cứ địch quân và sẵn sàng chờ lệnh tấn công.
Bầu trời sâu thẳm với ngàn vì sao lóng lánh, nhũng cơn gió núi thổi rù rì bên rặng cây già phía ngoài ngọn đồi chiến lược, đang say ngủ trong đêm tối núi rừng cao nguyên.
Tên lính Lê Dương ngồi trên vọng gác bên cạnh khẩu đại liên 50 ly với dây đạn dài lòng thòng xuống đất, đang từ từ quay hướng ngọn đèn pha rọi chung quanh, về hướng khu rừng phía bắc.
Bỗng nhiên người anh ta bật ngửa về phía sau, cùng với một tiếng “cắt cụp” từ phía rừng, nằm gục xuống chết không kịp la, mặt đầy máu, viên đạn bắn sẻ xuyên qua đầu.
Tiếp theo đó là tiếng hô “xung phong... xung phong” vang dậy khắp núi rừng, xóa tan sự im lặng của đêm trường, hòa với tiếng súng cối, súng trường... súng tiểu liên... lựu đạn... đại liên.. nổ bùng từ hai lực lượng đang chống trả nhau kịch liệt.
Từng làn sóng người tay cầm súng bắn xối xả, đang tung mình về phía vòng rào kẽm gai, những tiếng hô “tiến lên... tiến lên” đôi khi bị tắc nghẽn khi cán binh Cộng sản bị chết vì trúng đạn. Các đồng chí chạy theo sau nhảy qua những xác chết nằm vắt ngang trên hàng rào kẽm gai, đã bị tiêu hủy bằng bộc phá và mìn của toán đặc công.
Trung và hai bạn đồng đội tiếp tục thả đạn vào ống súng cối, ba người cúi người bịt tai lại khi những tiếng “phụt... phụt” bắn ra từ miệng súng.
Bình chứa nhiên liệu cạnh chiếc máy đèn trúng đạn súng cối bốc lửa nổ bùng, đèn vòng rào và các ngọn đèn pha tắt ngúm vì máy đèn bị cháy tan. Đạn súng cối rơi vào khu phòng ngủ của lính Tây, vào trung tâm truyền tin, phá tan máy móc liên lạc.
Hầm chỉ huy cũng cùng chung một số phận, lửa từ bình nhiên liệu cháy lan vào hầm, gây nên cảnh hỗn loạn.
Lực lượng trú đóng anh dũng chiến đấu trong tuyệt vọng suốt đêm dưới sự yểm trợ pháo binh từ Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn đóng tại phía nam căn cứ.
Cọng sản tiếp tục thí quân, tung ra đợt tấn công này rồi đến đợt tấn công khác, cuối cùng tiến chiếm được các tuyến phòng thủ của Pháp và đến lúc đó phi pháo yểm trợ trở thành vô hiệu nghiệm vì hai bên đang đánh xáp lá cà, với lưỡi lê và mã tấu.
Trận chiến kéo dài suốt đêm cho đến sáng và khi tia sáng đầu tiên vừa le lói xuyên qua lá rừng, bãi chiến trường vẫn còn ngùn ngụt cháy, quân đội Cọng sản đã tràn ngập căn cứ Dak Doa.
Hình ảnh khủng khiếp của chiến tranh đang phơi bày trước mắt người kháng chiến quân vừa tròn 19 tuổi. Trung ngồi thờ thẫn bên xác chết của hai đồng chí trong tổ súng cối, cánh tay mặt tê hẳn lại đang rướm máu vì mảnh đạn.
Trước mặt Trung là những gì còn lại của một căn cứ chiến lược, tan hoang, điêu tàn và đầy rẫy xác quân nhân không toàn thây của hai lực lượng thù nghịch, nằm rải rác khắp nơi.
Căn cứ Dak Doa và một đại đội thuộc Chiến đoàn đặc nhiệm lưu động 100 của Pháp tại chiến trường ”Plateaux Montagnards” đã bị xóa tên trên bản đồ của cuộc chiến Việt Nam vào đầu năm 1954, trong khi chiến trường tại Điện Biên Phủ đã đi vào giai đoạn cuối cùng và đang sôi sục dữ dội.
Lực lượng tấn công Cộng sản sau khi chiếm được căn cứ, tiêu diệt toàn bộ quân phòng thủ tại Dak Doa, tịch thâu chiến lợi phẩm và di chuyển ra khỏi căn cứ này ngay tức khắc dưới tầm đạn pháo binh của Pháp đang bắn vào.
Việt Minh rút nhanh vào rừng để lại sau lưng xác chết không kịp chôn của cán binh Cộng sản, nằm vất vưởng trên dây kẽm gai, bên cạnh các công sự chiến đấu đang còn bốc khói đen.
Để tiêu diệt đại đội Pháp trú phòng căn cứ Dak Doa, đồng thời gây tiếng vang và tạo áp lực phe Đồng Minh tại bàn hội nghị Genève, Việt Minh đã điều nghiên kỹ lưỡng trận mạc, cũng như chấp nhận hy sinh và chịu tổn thất rất lớn về nhân mạng trong trận đánh này.
Chiến trường tại cao nguyên trung phần bắt đầu xoay chiều với sự chiến thắng liên tục của các đơn vị Cộng sản thuộc hai Trung đoàn 803 và 103. Lực lượng đặc nhiệm lưu động vang tiếng một thời, nay đang ở trong tình trạng thế thủ trước những cuộc tấn công liên miên của Việt Minh, dần dần rút về các tỉnh lỵ lớn như Kontum, Pleiku, Ba Mê Thuộc, Tuy Hòa...
Khu vực đường mòn kiểm soát những Quốc lộ chính nối liền các tỉnh lỵ nói trên đã hầu như lọt vào tay Cộng sản.
Bạch Lan chống đôi nạng gỗ, từ từ đi ra bong tàu, ngọn gió biển mát rượi thổi tung làn tóc đen bay phất phơ theo chiều gió. Trời chiều trên vịnh Nha Trang thật tuyệt vời. Từng con chim biển lượn là đà tìm mồi quanh ghành đá dưới chân đồi dinh Bảo Đại bên cạnh Hải Học Viện.
Hai chiến hạm Hải Quân đang cặp bên cạnh nhau tại Cầu Đá, những chàng thủy thủ trong bộ áo quần trắng vẫy vẫy tay chào về phía Bệnh Viện Hạm. Bạch Lan đưa tay vẫy chào lại một cách thích thú.
Đối diện với Cầu Đá là đảo Hòn Lớn, với hàng dừa xanh chạy dọc theo bãi cát trắng, mây vờn trên đỉnh núi cao.
Từ xa về phía đông hòn đảo Pyramid với hình tam giác nhô lên trên con sóng bạc đầu, từng cánh buồm nâu của thuyền chài nhấp nhô trên biển.
Bãi biển Nha Trang thấp thoáng từ xa với những tà áo dài lả lướt bay bên cạnh những bộ quân phục của mọi quân binh chủng.
Đang say sưa thưởng thức cảnh đẹp trời non nước thiên nhiên, Bạch Lan chợt nghe tiếng động phía sau lưng, rồi tiếng nói của Quang:
- “Lan đây rồi, anh vào phòng tìm mà không thấy em, nên đoán là em ra đây hóng mát. Trời chiều nay đẹp, biển lại êm, thật là một ngày lý tưởng phải không Bạch Lan?”
Nàng mỉm cười, dựa người vào lan can tàu, tay vịn vào vai Quang, gật đầu đồng ý:
- “Anh nói thật đúng, trời hôm nay quá đẹp, em ước gì mình cứ sống mãi như thế này, này mây, này nước, nào chim biển, nào hàng dừa xanh, cứ như là trong giấc mơ.”
Quang nhìn cô gái đẹp, nàng thật dễ thương và rất có duyên khi nói chuyện. Quả thật Bạch Lan hoàn toàn quên hết dĩ vãng, kể từ hơn ba tháng nay, Lan là một cô gái mang một lý lịch mới được biên soạn bởi những người đến từ một quốc gia xa lạ. Họ đã chấp nhận đỡ đầu cho Bạch Lan và xem nàng như trường hợp một người rơi xuống giữa đại dương, được tàu đi biển cứu sống.
Do đó người bị nạn không tung tích được mang quốc tịch của quốc gia mà chiếc tàu đăng bộ. Bạch Lan từ nay đã chính thức là công dân của Pháp quốc và có tên Tây trên giấy tờ là Orchid Marseilles.
Với tổ chức của những người có lòng nhân từ trên tàu, qua các thư từ gửi về quê nhà của họ bên phía trời tây, kể cho thân nhân nghe về cô gái, có tên Orchid - Bạch Lan, được tàu cứu sống lại từ cõi chết, hàng chục lá thư với lời lẽ cảm động đã nhờ chuyển lại cho cô này.
Thậm chí có những cặp vợ chồng già yêu cầu cho họ được bảo trợ cho Orchid về Pháp, hoặc nhận nàng làm con nuôi.
Trong số những người này có cả bà góa phụ Brigitte De Bormand, mẹ của Bác sĩ Maurice, người mang chiến thương tại mặt trận chiến trường An Khê.
Bạch Lan đưa tay vén những sợi tóc bay vướng vào mặt của Quang, anh đang nói nhỏ bên tai nàng:
- “Em có lạnh không? Anh vào trong lấy chiếc áo ấm cho em nghe, mặt trời bắt đầu lặn rồi, biển trời đổi màu đẹp quá.”
- “Cám ơn anh Quang, nhờ anh lấy áo hộ em, sao mà anh lo lắng cho em dữ vậy?”
Quang khoát tay không trả lời mở cửa bước vào phòng, một lúc sau anh mang chiếc áo ấm và một cành hoa hồng ra, đưa cành hoa cho Bạch Lan, vừa choàng chiếc áo ấm qua vai nàng:
- “Hồi nãy anh mang hoa tặng em nhưng không thấy em nên cắm tạm vào ly nước trong phòng, anh chúc em trẻ đẹp mãi như đóa hoa hồng này.”
Quang vừa nói vừa hôn nhẹ lên má của Bạch Lan, đang cảm động nhìn người con trai mà nàng cảm thấy như đã yêu.
Hình ảnh đã in vào trí nhớ của Bạch Lan, khuôn mặt người đàn ông Việt Nam khá bảnh trai với đôi kính cận thị mĩm cười mừng rỡ khi thấy nàng tĩnh dậy sau giấc ngủ dài,.
Hiện nay Quang là người thân độc nhất của Bạch Lan, là người săn sóc cho nàng từng ly từng tí, đã ở bên cạnh để làm dịu cơn đau của nàng.
Trong những đêm dài trống vắng tại căn phòng bệnh sơn màu trắng, Bạch Lan cố gắng tìm lại trong ký ức dĩ vãng của mình những gì có thể gợi lại trí nhớ, nhưng rồi đành lau đôi dòng nước mắt rưng rưng tuôn trào đẫm ướt chiếc gối có thêu cành hoa lan trắng.
Đôi khi con tàu lắc mạnh làm nàng tỉnh giấc dậy từ những giấc mộng huyền hoặc, mơ hồ với hình ảnh xa lạ không quen biết, thấp thoáng bóng người thả bước trên bãi biển nhiều gió lộng, bên tai nghe hồi còi tàu xe lửa văng vẳng đâu đây.
Mỗi lần như vậy, Lan đều kể cho Quang nghe rồi lắc đầu buồn bã khóc vì nàng không nhớ gì cả về những kỷ niệm này.
Đèn trên hai chiếc chiến hạm đậu tại Cầu Đá bật lên cùng một lượt với Bệnh Viện Hạm khi mặt trời vừa lặn sau dãy núi Đồng Xoài đang chuyển qua màu tím đậm.
Xa xa thành phố Nha Trang cũng đã lên đèn sáng rực cả một vùng trời. Trên không trung nhấp nháy bốn ngọn đèn xanh đỏ, hai chiếc máy bay thuộc Không quân Việt Nam đang bay qua, hướng về phi trường quân sự.
Bạch Lan và Quang chuẩn bị trở vào phòng thì bỗng họ nghe tiếng chân người đi tới.
Bác sĩ Maurice đưa cánh tay mặt lên chào, cánh tay trái vẫn còn băng bó vì vết thương hôm vừa rồi tại chiến trường An khê, trên tay cầm một gói quà, ông đến gần hai người và đưa quà cho Bạch Lan và nhờ Quang thông dịch lại lời giải thích của mình:
- “Đây là hộp kẹo Chocolate của mẹ tôi gửi qua cho cô, 100% Chocolate Tây đó nghe và đây là cuốn tự điển Việt Pháp và sách học tiếng Pháp sơ cấp của tôi tặng cho cô Orchid, mong cô nhận những món quà này.”
Bạch Lan nhìn người Bác sĩ với ánh mắt dịu dàng và cảm động nói: “Merci beaucoup, docteur”, rồi cô cảm thấy tủi thân, nước mắt chảy dài xuống gò má.
Hai người đàn ông vội vàng lấy khăn tay đưa cho Bạch Lan, nàng gượng cười đưa tay cầm lấy cả hai chiếc khăn, quên mất là đang chống nạng, chới với muốn té làm cả hai người lại phải giúp cô lấy lại thăng bằng.
Bạch Lan ngượng ngùng xin lỗi, Quang và Maurice dìu cô gái vào phòng.
- “Nghe nói Trung Tá Y sĩ Trưởng và Đại Tá Hạm Trưởng tàu đã chỉ định cô Catherine và ông Quang dạy tiếng Pháp và căn bản về nghề Y tá cho cô Bạch Lan phải không?”
- “Dạ đúng vậy, thưa Bác sĩ, tôi vừa nhận được lệnh này trưa nay và mãi vui nên tôi cũng chưa thông báo cho cô Lan biết.”
Quang ngừng nói và rồi như chợt nhớ ra, anh đưa tay bắt bàn tay của Maurice và vui vẻ chúc mừng ông ta:
- “À mà tôi cũng xin chúc mừng Đại Úy Bác sĩ, khi nào thì Bác sĩ mang cấp bậc mới vậy?”
Và không chờ Maurice trả lời, Quang xây qua nói bằng tiếng Việt với Bạch Lan:
- “Bác sĩ Maurice được đề nghị lên lon Đại Úy rồi đó em à.”
Bạch Lan cũng rất vui bắt tay Maurice, ông này vừa cám ơn hai người bạn Việt Nam vừa nói:
- “Vị Chỉ huy Phó của Lực lượng đặc nhiệm sẽ đến đây vào sáng mai để chủ tọa buổi lễ thăng cấp cũng như gắn huy chương cho những thương binh có công trạng đang điều trị tại Bệnh Viện Hạm và các Bác sĩ kể cả tôi. Hạm Trưởng mời tất cả nhân viên đến tham dự tại bong sau vào 9 giờ sáng mai. Nhờ ông Quang đưa cô Bạch Lan đến sớm nghe.”
Thế là suốt đêm đó Bạch Lan không ngủ được, nàng nằm phân vân nghĩ đến buổi lễ ngày mai, không biết chiếc áo đầm của cô Catherine cho, Lan mặc có đẹp không? Rồi lo sợ mình có đủ khả năng học nghề Y tá này không?
Chiếc kim đồng hồ chỉ hai giờ, rồi ba giờ và sau đó vì mệt mõi, nàng say ngủ lúc nào không hay.
Tiếng nhạc quân hành trỗi dậy vang lớn trong buổi sáng đẹp trời. Hàng quân đứng nghiêm chỉnh chào lá cờ Tam Tài màu xanh trắng đỏ được kéo lên từ từ trên ngọn kỳ đài, trong khi ban quân nhạc của Trung Tâm Huấn Luyện Hải quân Nha Trang đang trỗi bài Marseillaise, Quốc ca của Pháp.
Sau đó mọi người đứng yên lặng cúi đầu khi vị xướng ngôn viên tuyên bố dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ những anh hùng liệt sĩ Tây đã bỏ mình vì Tổ quốc Pháp trong khi ban Quân nhạc bắt đầu hòa điệu chiêu hồn tử sĩ - “... Aux Morts” - réo rắt trầm buồn.
Quang đứng phía sau, vịn hai tay vào chiếc xe lăn của Bạch Lan, giữa những nhân viên tham dự lễ gắn cấp bậc, trên bong thượng của chiếc Bệnh Viện Hạm, trang hoàng lộng lẫy với rừng hoa giấy đủ màu, giăng từ cột cờ chính xuống lái và mũi tàu.
Hai người chăm chú nhìn về phía đội hình có Bác sĩ Maurice đang sắp hàng trong đó với những Y sĩ khác.
Mặt trời lên cao dần trên vùng biển xanh, rọi tia nắng ấm xuống hai Hộ tống hạm Hải quân Việt Nam đang đậu tại Cầu Đá. Tất cả Thủy thủ đoàn trong quân phục Tiểu lễ, tham dự ngày lễ lớn đang diễn ra trên Bệnh Viện Hạm bạn đang neo gần đó trong vịnh Nha Trang.
Bạch Lan nhìn thấy Bác Sĩ Maurice hiên ngang trong bộ chiến phục màu lục rằn ri, đầu đội chiếc mũ Beret màu đỏ của Binh chủng nhảy dù bên cạnh những Sĩ quan Quân Y Legionnaires, hãnh diện đưa tay lên chào vị Đại Tá đang gắn huy chương Anh dũng bội tinh - Croix de guerre - lên ngực áo bên trái.
Sau khi tất cả quân nhân khác trở về đội hình, ngoại trừ Trung Úy Bác sĩ Maurice đứng lại, vị Sĩ quan chủ tọa tiến tới trước vị Bác sĩ, đọc bản nghị định thăng cấp và gắn lon Đại Úy lên cổ áo của Maurice trong khi tiếng vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt của người tham dự nghe vang dội trên vịnh Nha Trang.
Bạch Lan cũng vỗ tay khen ngợi, trong lòng cảm thấy rất hãnh diện đã có cơ hội chứng kiến một buổi lễ trang nghiêm và oai hùng với đầy đủ lễ nghi quân cách của quân đội Pháp.
Phần nghi thức vừa xong, bỗng mọi người nghe tiếng hoan hô “Vive la France, Vive la Legion” - Nước Pháp muôn năm, Lê Dương muôn năm -, từ những quân nhân Lê Dương vừa la vừa tung chiếc mũ beret đen lên trời. Mọi người hô to theo trong tiếng reo hò ầm ĩ.
Phần đông những Sĩ quan và lính Legionnaires là người ngoại quốc không có quốc tịch Pháp, tình nguyện phục vụ chiến đấu để lãnh tiền lương trong tổ chức quân sự Legion Etranger nổi tiếng này, họ là những lính đánh mướn trong quân đội Pháp.
Buổi lễ chấm dứt với một buổi tiệc trà thân mật và trong dịp này, Bạch Lan đã gặp và được giới thiệu với vị Y sĩ trưởng và Hạm Trưởng của Bệnh Viện Hạm.
Nàng là trung tâm của buổi tiệc đang diễn ra trên bong tàu dưới bầu trời trong vắt, gió thổi nhẹ của một ngày gần cuối năm 1953.
Trên không trung, một chiếc máy bay thuộc loại huấn luyện bay lượn ngang tàu, lắc đôi cánh bạc như chào mừng người con gái Việt Nam.
Nguyên và hai người bạn trai nhấn mạnh bàn đạp trên con đường từ bãi biển Thuận An về phía làng địa phương nằm cạnh bến đò.
Hoàng muốn ghé lại mua vài con ốc xa cừ làm kỷ niệm và Nông cũng muốn ghé lại quán nước để giải khát sau một ngày dài câu cá và dạo chơi trên bãi biển.
Ba người thanh niên dừng lại trước căn nhà tre bày bán các đồ vật kỷ niệm làm bằng hải sản địa phương, nằm dọc theo con đường đất với nhiều cửa hàng và quán ăn trước mặt đồn quân đội Pháp tại Thuận An.
Đây là một thành quách cao lớn xây bằng gạch đỏ, mà trước đây dưới triều nhà Nguyễn, được dùng làm nơi trấn thủ kiểm soát vùng biển đông từ đèo Hải Vân tại phía nam đến Cửa Việt ở phía bắc và khu vực sông ngòi tại phá Tam Giang, từ cửa Tư Hiền đến cực bắc quận Hương Điền.
Đồn Thuận An có hai cổng ra vào, một tại phía sau đồn hướng ra biển, nơi có cầu tàu cho các giang đỉnh cặp bến, cổng chính nằm đối diện với khu vực nhà dân làng địa phương, có cổng lính gác ngày đêm.
Tại bốn góc trên vách thành là các vọng gác có trang bị đại liên và đèn rọi chỉ được lính Tây lên ngồi canh gác ban đêm.
Đang ngồi uống nước trong tiệm bán đồ giải khát, Nguyên chợt thoáng nghe từ một bàn tại góc phòng, giọng nói của người xứ Quảng Bình, Quảng Trị.
Anh liếc nhìn về phía ba người đàn ông có vẻ lớn tuổi, châm đầu vào nhau, thì thầm như bàn định một việc gì quan trọng, một trong ba người thỉnh thoảng nhìn về phía ba thanh niên trẻ đang chăm chú lắng nghe.
Sau đó ba người mặc áo quần bà ba đen này đứng dậy chia tay, hai người đi ra cửa hông về phía sông, còn người lớn tuổi nhất đi ra phía chợ Thuận An.
Nguyên thì thầm với hai bạn khi ba người này đi ra khỏi quán giải khát:
- “Nguyên đánh cá với Hoàng và Nông mấy người này là cán bộ Việt Minh đó, chắc đang tính làm chuyện chi đây.”
- “Hoàng cũng tin như vậy, mình thấy họ có thái độ khả nghi quá, Nông có đồng ý không?”
- “Đồng ý lắm, thôi mình ra bến đò kẻo trễ, phải lên Huế và về nhà trước khi trời tối kẻo bà già lo.”
Họ trả tiền những ly đá chanh rồi lên xe đạp ra bến, đáp chuyến đò đưa khách qua phá Tam Giang.
Gió chiều thổi mạnh trên sóng bập bồng, lườn chiếc thuyền chỉ cách mặt nước chừng một gang bàn tay, ba chàng trai trẻ ngồi yên không dám động đậy sợ nhúc nhích, nước có thể tràn vào chìm thuyền.
Từ xa hàng rớ cá nhô lên cao, giăng ngang qua dòng sông nhỏ bé, vài chiếc thuyền cá nhấp nhô theo nhịp sóng. Chân trời màu tím với tia sáng le lói cuối ngày đang mờ dần trên phá Tam Giang.
Bến đò Thuận An tấp nập với thuyền đánh cá ra vào, những thúng mây lớn chứa đầy cá đang còn tươi xanh: nào là cá sòng, cá nhám, cá nục, cá hồng... mực ống, mực nang... tôm bạc, tôm càng..., cua sông, ghẹ biển... còn sống, nhảy nhót bò quanh tứ tung.
Trên bến rộng, dân Huế đi xe xuống chơi và hóng mát, đứng nhìn thích thú, vài người mua cá, tôm, cua... tại chỗ trước khi những người bán cá chuyên chở hàng của họ trên các chiếc xe buýt đang chờ sẵn lên chợ Đông Ba.
Cuộc sống bình thản của người dân chài vẫn tiếp tục trong cuộc chiến đang dày xé quê hương. Ngày ngày họ chèo chiếc thuyền ra biển đánh cá, mồ hôi rịn đầy trên tấm thân màu nâu nhạt dưới cơn nắng chói của mặt trời miền nhiệt đới hay run rẫy với cơn gió lạnh với bộ áo quần đẫm ướt khi biển động, sóng nước phủ qua thuyền.
Đời người dân chài dính liền với sóng nước đại dương bởi một sợi dây vô hình bền chặt như những chàng thủy thủ lấy biển cả, phong sương làm nhà.
Tiếng chó sủa nghe dồn dập, tiếng chân người chạy trong khu vườn sau lưng các căn nhà tranh nằm dọc theo con đường làng dẫn đến thành Thuận An.
Mặt trời bình minh vẫn còn ở dưới chân biển tận phương xa, tia sáng đầu ngày lờ mờ trong sương sớm. Những quân lính Tây đang say ngủ trong căn phòng rộng, trên ghế bố, vũ khí cá nhân dựng trong các giá để súng ống đạn dược cuối góc nhà.
Ánh sáng vàng vọt của đèn phòng thủ mờ dần khi rạng đông bắt đầu. Những chú lính gác lơ đểnh đứng nhìn chung quanh, vài tên đưa tay lên che miệng ngáp dài vì buồn ngủ.
Các khẩu đại liên trên vọng gác cao tại góc bức thành được che đậy lại và lính gác leo xuống cầu thang đi làm vệ sinh cá nhân.
Dân làng bắt đầu di chuyển ra chợ, những người dân quê cần cù thường đi ngủ sớm và dậy từ ba bốn giờ sáng để chuẩn bị cho một ngày đi kiếm ăn.
Hai cô con gái dáng dấp cao ráo, trong chiếc quần đen với áo cánh bà ba khác màu, mặt mày sáng sủa xinh đẹp như người thành phố, đầu xõa tóc ngang bờ vai như những cô gái tân thời, thân hình nẩy nở, đôi thúng nhún nhẩy dưới bước chân đi ẻo lả.
Họ đang cãi nhau dữ dội không biết vì lý do gì. Khi đi đến ngang qua trước cổng chính của trại lính Pháp, hai cô này lại càng lớn tiếng hơn nữa, mặt mày giận dữ, một người liệng đôi thúng xuống đất, cầm chiếc đòn gánh như muốn đánh vào đầu cô thứ hai, đang chạy quanh như cầu cứu.
Thế rồi hai cô gái trẻ đẹp túm lấy đầu tóc dài của nhau, vật nhào lăn xuống đất, tay chân đấm đá lung tung, đất bụi bám đầy áo quần.
Trong khi chú lính gác da đen thích thú gọi bạn đồng đội ra chiêm ngưỡng hai cô gái Việt Nam, hình như cố ý, đang xé áo nhau, đưa thân hình khiêu gợi với đôi nhũ hoa trắng ngần căng tròn mũm mĩm, dân làng cũng đổ dồn đến xem đông đảo.
Những bóng người trong tay cầm vũ khí, lựu đạn lợi dụng cơ hội lính Tây lơ đểnh đứng xem gái đẹp đánh lộn nhau, len lỏi vào phía sau căn cứ, leo vào trong sân cờ, tung lựu đạn vào phòng của lính Tây đang còn ngủ say.
Tiếng nổ “đùng... đoành, đùng... đoành” xen lẫn với tiếng “tạch... tạch... tạch” của tiểu liên súng trường, súng lục... xóa tan sự yên lặng của buổi bình minh và mặt trời vẫn chưa mọc từ phía biển đông.
Máu nhuộm đỏ sàn nhà, xác lính Tây lăn lóc vắt ngang ghế bố, những thân hình trắng đen ngực đầy lông lá, nằm chết trong tư thế không chuẩn bị cạnh chiếc giá dựng vũ khí gãy đổ tan tành vì lựu đạn.
Đặc công Việt Minh chiếm được lợi thế lúc ban đầu nhờ yếu tố bất ngờ trước khi quân trú phòng với kinh nghiệm và đã được huấn luyện về chiến thuật chiến đấu trong trường hợp bị địch tấn công như thế này, có thì giờ tổ chức đội hình chống trả.
Những tên lính gác và đồng bọn khi nghe tiếng súng nổ trong trại, đang định phản ứng thì đã quá muộn, hai cô gái ngừng vật lộn nhau, lấy khẩu tiểu liên từ chiếc thúng mây, chĩa súng bóp cò “tạch... tạch... tạch” bắn xối xả về phía chúng nó.
Những thân hình cao lớn nhào xuống chết bên chiếc cổng chưa kịp khép lại, hai nữ đặc công chạy vào sân trại, núp sau vách tường tiếp tục nổ súng vào các binh lính Tây đang chạy ra từ căn nhà ra các công sự phòng thủ.
Một toán đặc công khác dùng súng chống chiến xa, bắn trực xạ vào các giang đỉnh đậu tại cầu tàu. Chiến đỉnh trúng đạn nổ tung, ngọn lửa bốc lên cao, khói đen mù mịt tỏa khắp trời.
Trên phá Tam Giang, ba chiếc khinh tốc đỉnh sắp về đến bến nghỉ ngơi sau hai ngày dài tuần tiểu phía bắc Thừa Lưu, khi được các giang đỉnh khác thay thế.
Vị Sĩ quan chỉ huy toán chiến đỉnh nhận được trên máy truyền tin về đồn Thuận An đang bị đặc công tấn công và xâm nhập, các giang đỉnh tại bến đã bị thiệt hại nặng, được chỉ thị tổ chức một toán thủy thủ trang bị vũ khí nhẹ đánh từ phía sau, chận đường rút lui của đặc công.
Số thủy thủ đoàn còn lại xử dụng hải pháo yểm trợ quân phòng thủ phía bên hông thành Thuận An.
Từ trên chiến đỉnh các lính thủy đã nhìn thấy cột khói bay lên từ phía cầu tàu, họ giảm máy xuống chạy thật chậm qua chiếc eo biển nhỏ trên đường vào cầu tàu, mọi người cầm sẵn sàng vũ khí, chuẩn bị nhảy lên bờ.
Chiến đỉnh cập vào chiếc cầu, bến tàu vắng bóng đặc công vì Việt Minh tưởng đã tiêu diệt tất cả giang đỉnh tại bến và quay vào tấn công lực lượng trú phòng.
Xác chết đầy máu của những thủy thủ Tây nằm lăn lóc bên chiếc cầu gỗ bắt từ ngoài sông nối vào con đường dốc lên thành Thuận An.
Tiếng súng nghe ròn rã từ phía trong đồn, toán quân cứu viện chạy nhanh về phía cổng sau, nép vào bức tường thành, tiến lên các tầng cấp bằng đá xông vào cổng, nổ súng xối xả về phía mấy tên đặc công núp sau tường nhà đang dùng tiểu liên bắn vào công sự phòng thủ của lính Tây.
Những thân hình của cảm tử quân trúng đạn văng lên cao, nhào xuống đất, chết không kịp la.
Trong khi đó toán đặc công khác gặp sự chống cự mạnh mẽ của lính Tây từ hầm chiến đấu kiên cố bố trí súng đại liên hai bên bộ chỉ huy hành quân của quân trú phòng, đồng thời với hải pháo thuộc giang đỉnh tại bến bắn yểm trợ từ phía cầu tàu.
Một tên đặc công Cọng sản từ sau giếng nước nằm giữa sân trại dùng súng phóng lựu bắn vào hầm công sự gây thiệt hại cho các lính Tây tại đây, rồi thân hình hắn cũng bị bắn nát bởi một tràng đạn tiểu liên, nhào xuống chiếc giếng nước vang dội tiếng la tắc nghẽn của kẻ xấu số.
Sau giây phút bất ngờ bị tấn công ban đầu, đơn vị Pháp củng cố lại tuyến phòng thủ, lợi dụng những chướng ngại vật quen thuộc của trại, bắn tỉa lần hồi các đặc công cảm tử không đường rút lui.
Hai người nữ cán binh cũng bị trúng đạn bắn từ khẩu đại liên trên nóc nhà, thân hình đầy máu nằm chết cạnh bên thành giếng nước.
Toán đặc công cảm tử còn lại bị vây hãm giữa sân cờ và lần lượt bị tử thương bởi lựu đạn và hỏa lực hùng hậu của quân trú phòng.
Mặt trời đã lên cao, ánh nắng vàng rọi xuống thành Thuận An đang bốc khói. Lính Tây thu dọn chiến trường, dùng vòi nước dập tắt các đám lửa cháy chung quanh sân trại, rải rác trong phòng ốc.
Xác chết của đặc công Việt cọng nằm lăn lóc la liệt khắp nơi, một số chết dưới đáy giếng.
Khi tình hình lắng dịu, lính Tây kiểm điểm quân số và chấp nhận sự thiệt thòi rất lớn vì chiến thuật mỹ nhân kế này của Việt Minh.
Một bài học đắt giá không thể nào xóa mờ trong ký ức những quân nhân của thành Thuận An may mắn thoát chết và sống sót từ cuộc tấn công cảm tử của du kích đặc công thuộc đơn vị Việt Minh tại Huế, hoạt động trong vùng phá Tam Giang.
Ảnh hưởng của trận đột kích này cọng thêm với những thất bại khác của quân đội viễn chinh tại các chiến trường ngoài bắc và cao nguyên trung phần đã gây áp lực mạnh cho chính quyền tại Pháp quốc để đi đến một giải pháp thương thuyết chấm dứt chế độ thuộc địa tại Đông Dương, thay vì tiếp tục đổ máu quân nhân trên một dải đất cằn cỗi, tan nát trong một “trận chiến tranh không trận tuyến - guerre sans fronts -”.
Thành Thuận An với những bóng ma chập chờn khi đêm về vẫn là nơi trú đóng của Hải Quân và Thủy Quân lục chiến Pháp cho đến khi Hiệp định Geneve ký kết.
Những dân làng tại đây thường nghe trong đêm tối, tiếng than khóc của hai cô gái và cô hồn yểu tử văng vẳng trong ngọn gió biển thổi qua nóc thành.
Chiếc giếng nước đã được lính Tây lấp lại làm nắm mồ chôn tập thể xác chiến binh Cọng sản. Những cơn mưa lớn vẫn tiếp tục rửa sạch dần các vết máu khô cằn trên sân gạch đơn vị.
Một chiếc am lớn được dựng lên bên góc bức thành trong trại để thờ cúng vong linh các người chết trong trận đột kích cảm tử này.
Căn nhà tranh trong vườn trồng đầy cây măng cụt và thanh trà của ông sáu Hùng đang say ngủ trong buổi trưa mùa xuân, gió mát thổi nhẹ qua cành lá sum sê của cây cổ thụ bên con đường đất từ chợ Tuần dẫn vào nhà.
Hai chiếc xe Jeep cảnh sát sơn hai màu trắng lục tắt máy đậu cạnh vệ đường, dưới lùm cây cách nhà ông sáu Hùng khoảng 500 thước.
Những người công an thuộc bộ chỉ huy cảnh sát Thừa Thiên, tay cầm vũ khí cá nhân, lom khom núp sau bụi cây, chạy dọc theo con đường về phía khu vườn của trạm tiếp liên kháng chiến.
Một người trong bọn dẫn tên đặc công mà chính quyền đã bắn trọng thương và bắt tại sân vận động trường Huế trước đây, đi theo toán người đang bao vây căn nhà.
Sau khi điều tra tên này, công an Huế đã biết được vị trí của đơn vị hậu cần của ông sáu Hùng tại khu vực chùa Thiên Mụ và quyết định bất ngờ tấn công, phá vỡ tổ chức này.
Sáu Hùng đang ngồi uống nước trà và đọc báo cáo về trận đột kích của toán đặc công thuộc thành bộ của ông tại Thuận An, bỗng nghe tiếng con chó nhà hàng xóm sủa liên tục, ông biết có chuyện bất thường và người lạ đang đi hướng về phía nhà mình.
Với phản ứng nhanh nhẹn của một cán binh đã được huấn luyện thuần thục, ông lăn mình xuống đất về phía chiếc giường tre cạnh góc nhà, vói tay lấy khấu tiểu liên dưới gầm giường và hai gắp đạn dài, lắp một băng vào súng, lên đạn vào nòng, nhét băng đạn kia vào thắt lưng, bò về phía chiếc cửa sổ có song cửa bằng tre, nhón nhén nhìn ra phía khu vườn về hướng có tiếng chó tiếp tục sủa.
Thấp thoáng sau lùm cây sáu Hùng nhìn thấy những người mặc áo quần dân sự, hườm sẵn súng tiểu liên, súng lục núp sau hàng măng cụt, di chuyển từ thân cây này qua thân cây khác, tiến dần về phía căn nhà ông đang ẩn núp.
Nhận thấy số công an quá đông, nếu chống trả chỉ làm con cờ thí, vì thế sáu Hùng quyết định không nổ súng, ông bò ra phía cửa sau nhà bếp, len lỏi dưới gốc những cây môn Tàu cao tận đầu, trườn mình trong đất bùn về rặng sắn trồng kế hàng rào tre sau lưng nhà.
Sáu Hùng lặng lẽ dùng chiếc dao găm đào một lỗ sâu dưới hàng rào và nằm ngửa người cằn qua lỗ nhỏ này, những cành tre nhọn đâm vào cánh tay, rạch đứt da ngực gây nên vết thương rướm máu.
Ông cắn răng chịu đựng cơn đau, tiếp tục chun qua khỏi hàng rào tre, ra phía bên kia khu vườn nhà bên cạnh, rồi quay lại nhìn phía sau lưng. Khi không thấy có người đuổi theo, ông vươn mình chạy thật nhanh về phía bến đò.
Toán công an cẩn thận tiến từ từ vào sân trước nhà và hai bên cửa hông, họ ra hiệu cho nhau bằng cách đưa ngón tay lên, đếm một hai ba, rồi tung chân đạp mạnh vào cánh cửa, hai tay chĩa súng sẵn sàng nhả đạn vào địch thủ.
Họ thất vọng khi không thấy bóng dáng của tên cầm đầu đặc công và phá hoại Việt Minh nằm vùng.
Căn nhà trống vắng dưới tia nắng xuyên qua khung cửa sổ, toán công an lục soát khắp nơi trong căn nhà, tìm thấy đủ thứ tài liệu bỏ lại sau lưng ngoại trừ tên sáu Hùng, giờ đó đội chiếc nón lá rộng vành đang chống chiếc đò rời bến chợ Tuần chèo ngược dòng sông Hương về phía điện Hòn Chén.
Sáu Hùng buồn rầu nhìn bến đò thân yêu mà ông biết còn lâu lắm mới quay trở về đây. Xa xa về hướng chùa Thiên Mụ, từng tiếng chuông chiều nghe văng vẳng vọng lại như đưa tiễn người kháng chiến quân trung kiên đã hy sinh cả một cuộc đời cho lý tưởng đã chọn.
Đôi khi trong một thoáng chạnh lòng, nhớ về bà mẹ già thân yêu trở thành góa phụ kể từ ngày chồng bà bị Tây bắn chết, hiện vẫn còn ở tại một làng nhỏ gần tỉnh Quảng Trị.
Sáu Hùng buồn rầu và cảm thấy có tội làm cho mẹ khổ đau vì ông đã bỏ nhà theo kháng chiến trong hơn mười mấy năm qua.
Sáu Hùng biết tương lai của ông tùy thuộc vào sự quyết định của chính trị viên đảng ủy, ông sẽ bị hạ tầng công tác vì đã không bảo tồn được đơn vị.
Những thất bại liên tiếp trong các công tác phá hoại gần đây tại vận động trường Huế, tại đồn Thuận An vì sự thiếu sót điều nghiên hoạt động tuần tiểu của giang đỉnh Hải Quân, trở về đến bến đúng vào thời điểm tấn công, tiếp viện và phản pháo kịp thời, giải cứu quân trú phòng, đưa đến hậu quả là hơn cả một tiểu đội đặc công cảm tử bị tiêu diệt hoàn toàn.
Rồi hôm nay, tất cả tài liệu bí mật của tổ chức hậu cần đều lọt vào tay công an, cảnh sát thành phố Huế.
Tên tuổi của cán binh nằm vùng đều bị tiết lộ và không sớm thì muộn, cơ quan chính quyền địa phương sẽ bắt nhốt hết tất cả những đồng chí này.
Sáu Hùng hình dung trước mắt, căn trại tù tối tăm nằm trong rừng sâu trên cao nguyên thượng du Bắc Việt, nơi giam giữ những cán bộ đảng viên bị thanh trừng với nhiều lý do khác nhau.
Ông phân vân suy nghĩ rồi đột nhiên một ý nghĩ chợt đến trong đầu, Sáu Hùng vói tay lấy khẩu tiểu liên, tung ra xa chìm xuống dưới mặt nước, rồi dùng hai tay cởi mái tóc giả, lột bộ râu mép, bỏ vào chiếc bao ny long, nhét dưới ván thuyền, cởi chiếc áo dài đen đang mặc, khoác vội vào chiếc áo nâu sồng. Ông sáu Hùng này đã trở thành một vị thầy chùa, tín đồ Phật giáo, đang đi hành hương. Ông thầy chùa nhớ lại buổi họp mặt tại lăng Tự Đức trước đây để hoạch định kế hoạch hoạt động cho các đơn vị đặc công tại Huế, cứ tưởng rằng sẽ gặt hái được nhiều thành quả tốt đẹp, đâu ngờ chỉ vì một vài sơ suất, sai lầm của chi tiết nhỏ mà tất cả cố gắng đã tiêu tan thành mây khói. Tổ chức của ông đã tạo được nhiều chiến công và được thành ủy đang tuyên dương trước đây, nay đã đến hồi phải tính chuyện di chuyển ra khỏi vùng hoạt động tại Thừa Thiên và rút về căn cứ địa an toàn tại A Lưới. Ông thầy chùa lắc đầu nữ cố xua đuổi những ý nghĩ lo âu trong đầu, ông dùng tay chèo, vọc nước mắt rữa chiếc đầu trọc, khuôn mặt chữ điền, rồi khua mạnh mái chèo quay thuyền xuôi dòng Hương trở về hướng cầu Bạch Hổ.
Tổ chức giao liên Việt Minh tại chợ Tuần từ nay sẽ không còn tiếp tục hoạt động và màn lưới công an cảnh sát bao trùm các tổ chức tương tự tại thành phố Huế.
Hồng và Nguyên đạp xe quẹo về phía tay trái sau khi qua khỏi cầu Trường Tiền, đi ngang qua trường huấn luyện Sĩ quan tại Đập Đá về ngả Vĩ Dạ.
Trời đã về chiều, nắng hanh vàng bớt sáng chói trên hàng cau bên cồn Giã Viên. Buổi đi ăn chè hôm nay không vui như những lần đi chơi trước đây vì sau khi chia tay lần này, Hồng sẽ theo cha mẹ rời Huế vào Sài Gòn. Cha của Hồng đã nhận được lệnh thuyên chuyển về phục vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu của Quân đội vừa được cải tổ và bành trướng bởi chính phủ Quốc gia do Thủ Tướng Ngô Đình Diệm cầm đầu.
Lệnh động viên và những phong trào vận động cổ võ thanh niên tình nguyện tòng quân vào các Quân binh chủng Hải Lục Không Quân đã được phổ biến mạnh mẽ trong gần ba tháng nay. Các trại tuyển mộ nhập ngũ đầy rẫy khắp nơi với hành hàng lớp lớp thanh thiếu niên ghi tên gia nhập. Họ tin tưởng vào chế độ mới, tự do dân chủ dưới sự lãnh đạo của một người theo Tây học, đang lèo lái con thuyền Quốc gia Việt Nam ra khỏi nạn cọng sản và thực dân.
Họ đã nghe nhiều về huyền thoại và tiểu sử của vị cựu Thượng Thư Bộ Lại, trước đây đã treo án tù quân để đi khắp thế giới vận động độc lập tự do dân chủ cho nước Việt Nam. Kể từ ngày về nước, ông Ngô Đình Diệm đã chú tâm nhiều về tổ chức và củng cố cơ sở hạ tầng địa phương theo chiều hướng phân quyền, thi hành chỉ thị ban bố và thuộc sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ trung ương.
Quân đội dưới quyền của Đại tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng được cấp tốc bành trướng với các khóa huấn luyện đào tạo Sĩ quan tại Nam Định, Bắc phần và Đập Đá, Trung phần tốt nghiệp về ngành Pháo Binh, Truyền Tin, Công Binh...
Trường đang chuẩn bị dời lên Đà Lạt với khóa 3 Sĩ quan và sẽ mang tên là Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, với phương tiện huấn luyện tân tiến và chương trình đào tạo Sĩ quan hiện dịch cho một quân đội trẻ.
Hồng ngồi lặng yên trước chiếc bàn nhỏ, tay cầm chiếc muỗng lơ đảng khuấy ly chè hột sen. Nguyên cũng đang trầm ngâm không nói. Anh mải mê với những suy tư trong đầu, trong gần ba năm qua, lại một lần nữa Nguyên sắp mất thêm người bạn học. Đầu tiên là Trung rồi Huyền và nay đến phiên Hồng cũng sắp sửa rời thành phố Huế, Nguyên nghĩ trong tương lai có lẽ anh cũng đi khỏi xứ này luôn.
Cách đây gần hai tuần lễ vào buổi sáng, một Sĩ Quan thuộc Hải Quân đã đến trường thuyết trình về đời sống phiêu lưu mạo hiểm của những thủy thủ chọn biển cả làm nhà, để tuyển mộ học sinh cho Quân chủng áo trắng này. Nguyên có lấy mấy tài liệu đem về nhà nằm nghiền ngẫm đọc và kể từ hôm đó, giấc mộng trở thành một giáo sư dạy toán đã bị chi phối bởi tâm tình người hùng sẳn có trong con người của Nguyên.
Những viên nước đá đã tan đi trong ly chè đậu xanh, ngoài trời hoàng hôn bắt đầu phủ chiếc áo màu tím nhạt xuống Cồn Hến và Giã Viên, tia sáng cuối ngày không đủ soi bóng hàng dừa xanh bên dòng sông Vĩ Dạ.
Cơn gió đầu mùa chợt lướt nhẹ qua những liếp tranh trên mái nhà quán bán chè.
Chương 9: 
Y tá Quang cầm chiếc cán bàn chải chắm chú chùi sàn tàu, phía ngoài hành lang phòng của mình.
Biển lặng gió trong buổi sáng sớm đẹp trời, con tàu lắc nhẹ theo đợt sóng lăn tăn cuốn từ ngoài khơi vào vịnh. Sợi dây xích sơn màu đen neo tàu to bằng bắp chân người lớn căng thẳng như cố gắng tranh tài với sức kéo vô hình từ đáy đại dương.
Từ trong Cầu Đá, hai chiếc chiến hạm của Hải Quân Việt Nam đang nối đuôi nhau tách bến. Trên bong, những Sinh viên Sĩ quan thuộc Trung tâm huấn luyện Hải Quân Nha Trang bận rộn phụ với Thủy thủ đoàn kéo dây lên sàn tàu.
Tiếng súp lê thổi vang, rồi lá Quốc kỳ mới của Quốc gia Việt Nam từ từ được kéo lên trên thượng đài. Ngọn cờ vàng ba sọc đỏ hiên ngang phần phật bay trong gió biển, nổi bật trên nền trời màu xanh dương của một buổi sáng cuối mùa xuân.
Quang đưa tay vẫy chào những chàng thủy thủ của một Hải Quân son trẻ chỉ vừa hơn hai tuổi rưởi, mà đã lôi cuốn được nhiều thanh niên nuôi giấc mộng giang hồ, thích cuộc sống phiêu lưu mạo hiểm, đầy thử thách gian truân giữa sóng gió đại dương.
Họ ngoắc tay chào lại khi hai hộ tống hạm chạy ngang qua chiếc Bệnh Viện Hạm, hai hồi còi dài “tù... tù...” vang lên trong sương mù, báo hiệu chiến hạm giữ phía tay mặt và rồi trực chỉ về hướng đông nam, bềnh bồng hải hành ra biển khơi, có lẽ đang theo lộ trình về vịnh Cam Ranh. Những khẩu hải pháo lớn trên bong được buộc chặt xuống pháo tháp để tránh gây thiệt hại khi chiến hạm nhồi sóng.
Quang bâng khuâng nhìn theo hai con tàu đang nhả khói đen và khuất dần cuối chân mây, một cảm giác kỳ lạ dâng lên trong lòng chàng trai nước Việt.
Tâm trạng của một thanh niên trí thức, sinh trưởng trong một gia đình theo Tây học, từ nhỏ đến lớn sống trong vật chất đầy đủ với tất cả tiện nghi của thành phố, trong tình thương ích kỷ của cha mẹ.
Đôi khi đọc báo thuộc địa, biết về cuộc chiến được thông báo một chiều của ký giả địa phương, anh phân vân không hiểu tại sao dân tộc Việt Nam khốn khổ này vẫn còn tồn tại, khi báo chí cho biết hàng ngày cả trăm ngàn dân lành vô tội và lính Việt Minh nằm xuống tại làng mạc, trên các mặt trận với chiến thắng liên miên của quân đội Pháp.
Đã nhiều lần anh xin cha mẹ cho phép anh gia nhập hội Hồng Thập Tự Quốc tế để có dịp làm công việc từ thiện, cứu trợ dân lành, nạn nhân chiến tranh ngoài bắc cũng như tại miền trung, nhưng cha mẹ thương đứa con trai độc nhất của hai ông bà, đã thuyết phục Quang bỏ ý định này, thay vào đó ráng học để trở thành Bác sĩ.
Vì thương cha mẹ, anh vâng lời được một thời gian, sau đó tình nguyện phục vụ tại Bệnh Viện Hạm Pháp để dung hòa ý muốn của mình và hai người thân yêu. Quang hứa với cha mẹ là sẽ tiếp tục theo học Y khoa sau khi đất nước thanh bình.
Tuy nhiên, mỗi lần Quang trông thấy những thanh niên Việt Nam khác đang hy sinh dấn mình vào cuộc đấu tranh giành độc lập dù trên hai chiến tuyến và lý tưởng khác nhau, với lòng nhiệt huyết không đếm xỉa gì đến sự lèo lái của cấp lãnh đạo, Quang vẫn cảm thấy bồi hồi tội lỗi vì nghĩ rằng anh chưa làm tròn nhiệm vụ của một sĩ phu khi đất nước đang cần bàn tay đóng góp của mình.
Với chức vụ Y tá trên Bệnh Viện Hạm, Quang đã chứng kiến hậu quả chiến tranh đã và đang để lại trên thân hình và tâm trí của những chiến sĩ thuộc đoàn quân viễn chinh.
Những thương binh cụt tay, cụt chân trên chiếc xe lăn hay đôi nạng gỗ, những con người ngơ ngẩn mất hồn, chột mắt mất mũi, đầu quấn băng trắng xóa lần theo hành lang Bệnh Viện, thờ thẫn đi về phía phòng ăn.
Cô gái “vô danh”, quên dĩ vãng, không người thân thích, mang một lý lịch hoàn toàn xa lạ cũng là nạn nhân của cuộc chiến này.
Quang ngửa mặt nhìn lên trời, mây trắng bay lờ lững về phía Hòn Lớn.
Bạch Lan, người con gái bất hạnh, vẫn chưa tìm lại được gốc gác của mình, đang cố gắng hòa vào đời sống mới trên tàu, bên cạnh những con người khác giống nhưng nhiều lòng nhân từ.
Nàng bắt đầu học tiếng Pháp dưới sự chỉ vẻ và hướng dẫn của cô Y tá Catherine và của anh Quang, ngoài việc tập nói Pháp ngữ, Bạch Lan còn được hai người này dạy cho nàng về căn bản cứu thương.
Sáng nay, lần đầu tiên Bạch Lan thấy lại chiếc chân trái nhỏ thon của mình. Bác sĩ Maurice khôi hài khi cẩn thận cưa bỏ băng bột đầy chữ ký của những người ái mộ và lấy một mảnh nhỏ đưa cho Bạch Lan cất làm kỷ niệm.
Quang phải dìu nàng đứng dậy, chập chững lui tới như con nít mới tập đi. Anh buồn cười và chạy đến bên cạnh đỡ Lan khi nàng chới với như muốn té.
Họ không thấy ngượng ngùng trước vị Bác sĩ mà hai người kính trọng như một người anh, riêng đối với Bạch Lan, Maurice còn là một ân nhân, thường kín đáo nhìn nàng bằng đôi mắt trìu mến.
Bà Brigitte De Bormand, mẹ của Maurice thỉnh thoảng gửi lời thăm hỏi nàng qua những lá thư bà viết cho Maurice, luôn luôn chúc nàng với câu “avec mes meuilleur voeux - với những chúc mừng tốt đẹp nhất của tôi”.
Bạch Lan thích thú đứng tắm trước chiếc vòi sen sau bức màn bằng plastic, đôi tay thoa nhẹ vào ống chân bên trái cho thỏa lòng thương nhớ, bắp chân có vẻ nhỏ hơn phía bên chân mặt vì thiếu vận động trong thời gian băng bột.
Vừa kỳ cọ thân hình cân đối với miếng mousse nhỏ, nàng vừa lẩm bẩm những chữ Pháp căn bản “les mots élémentaires” mà hình như nàng đã quen thuộc từ trong trí óc dĩ vãng:
Nào là “Comment vous appelez - vous? Anh tên gì?” hay “Je ne sais pas-Em không biết” hoặc “Enchanté de faire votre connaissance - Rất hân hạnh biết ông”, “comme ci, comme ca”...
“Comme ci, comme ca de quoi?”
Bạch Lan nghe tiếng hỏi của cô Y tá Catherine đang mở cửa đi vào. Nàng cười vui vẻ, vén màn vói mặt ra nhìn cô Y tá nheo mắt nghịch ngợm rồi ra hiệu nhờ cô này đưa chiếc khăn tắm cho mình.
Hai người đã trở thành bạn thân thiết trong suốt thời gian vừa qua, Catherine chăm sóc và thương mến Lan như một người em gái.
Đôi khi Bạch Lan thấy nước mắt bà rươm rướm trên đôi mắt sâu đẹp màu xanh, làm ướt hàng mi cong dài, khi nghe Quang thông dịch và đề cập đến tâm tình đau xót của người con gái “vô danh” mất trí nhớ về dĩ vãng.
Bạch Lan choàng chiếc khăn tắm quanh người rồi đi đến soi mình trước chiếc gương lớn trong căn phòng của hai người trên Bệnh Viện Hạm.
Trước mắt nàng là một cô gái dáng dấp thanh cảnh, mái tóc dài đẫm ướt xõa xuống bờ vai thon, khuôn mặt trái xoan với chiếc má lúm đồng tiền. Đôi mắt to tròn, da hơi ngâm đen mặn mà, vành môi nũng nịu thèm khát tình yêu.
Nàng đang nghĩ đến Quang, người con trai Việt Nam độc nhất mà nàng được biết, thế còn trước đó, có người nào nữa không, nàng là ai? cha mẹ nàng là ai?
Bạch Lan nhắm mắt lại, nước mắt chảy dài xuống đôi má, nàng không nhớ gì cả, tại sao?
Cành hoa lan trong khung hình có liên hệ gì với nàng không? Nàng chỉ được Quang cho biết là nàng bị thương tích rất nặng trên con đường làng vì đạn của hai lực lượng Việt Minh và Pháp đang đụng độ nhau.
Bạch Lan ôm vầng trán rộng, hai bên màng tang nhức nhối dữ dội, nàng cảm thấy choáng váng như muốn té xỉu, cô Y tá hoảng hồn vội vàng chạy lại, đỡ nàng ngồi xuống ghế, lấy ly rót nước và bảo nàng uống hai viên Aspirin, miệng nói những câu gì mà Bạch Lan không hiểu, chỉ thấy cô này đưa tay ra hiệu như khuyên đừng suy nghĩ nữa, rồi thoa nắn hai bờ vai nàng an ủi.
Có tiếng chân người đi đến gần rồi Bạch Lan nghe giọng nói của Quang phía sau cửa phòng:
- “Bạch Lan có trong đó không? Anh vào được không?”
Bạch Lan giật mình nhìn xuống thân hình, chiếc khăn tắm rơi nằm trên sàn tàu lót gạch trắng khi nàng chới với ngồi xuống ghế.
Cả cô Catherine và Bạch Lan đều có chung một phản ứng, họ lớn tiếng nói vọng ra về phía cửa với hai ngôn ngữ khác nhau nhưng cùng một ý nghĩa:
- “Đừng vào, đừng vào.., Quang khoan vào đã, Bạch Lan đang bận”.
Thế rồi cô Catherine vói tay lấy chiếc quần lót màu đen và cái áo choàng tung về phía Bạch Lan đang bối rối, không cố ý khoe thân hình với những đường cong tuyệt mỹ, no tròn thon đẹp cân đối.
Nàng vội vàng mặc quần lót vào, choàng chiếc áo cột sợi dây quanh người, lấy lược chải sơ mái tóc, nhìn vào gương như để kiểm soát, cô Y tá nhìn nàng gật đầu như vừa ý rồi nói vọng ra cửa:
- “Anh Quang vào đi, em sẵn sàng rồi”
Y tá Quang đẩy cửa bước vào phòng, chợt đứng khựng lại, bối rối khi thấy cô Catherine đang đứng cạnh Bạch Lan, anh ấp úng nói bằng tiếng Pháp:
- “Tôi xin lỗi, không biết có Catherine ở đây, rất tiếc đã phá rối hai người, tôi sẽ trở lại gặp Bạch Lan sau.”
Vừa nói anh vừa quay về phía cửa, Bạch Lan chạy lại nắm tay Quang kéo vào giữa phòng:
- “Không... không được anh ở lại đây, Catherine chỉ giúp em một tí xíu thôi, chứ không có gì quan trọng hết, anh đừng ngại, mà em cũng cần hỏi anh vài chuyện nữa”.
Cô Catherine đứng mỉm cười nhìn hai người bạn Việt Nam hàn huyên, mặc dù không hiểu gì nhưng cô ta cũng tế nhị xin lỗi, nói là có việc cần làm và phải đi ngay, để hai người tự nhiên tâm sự với nhau.
Bạch Lan nhìn Catherine với đôi mắt cám ơn và chờ cho cô Y tá người Pháp ra khỏi phòng, nàng nghiêng người về phía sau lưng của Quang, nhí nhảnh nũng nịu hỏi :
- “Nào... cho em biết anh đang cầm cái gì trên tay mà có vẻ bí mật dữ vậy? Em biết ngay khi thấy anh cố che dấu sau lưng, không muốn Catherine biết phải không?”
Quang tươi cười đưa cho Bạch Lan một gói quà nhỏ và âu yếm nói:
- “Anh tặng em món quà này, để chúc mừng ngày Bạch Lan hoàn toàn bình phục, anh mong em sẽ thích nó, em mở ra đi.”
- “Lan cám ơn anh Quang luôn luôn thương và lo lắng cho em, không biết khi nào mới trả ơn anh được, em cũng rất vui vì từ đây khỏi phải dùng đôi nạng gỗ nữa, lại có thể đi chơi và dạo phố Nha Trang với anh rồi”.
Nàng nhanh nhẩu xé bao giấy bọc gói quà, mở chiếc nắp hộp nhung đen dài rồi trố mắt ngạc nhiên và thích thú la lên:
- “Trời ơi ngọc trai, chuỗi ngọc trai đẹp quá, anh thật khéo chọn, em thích quá, cám ơn anh thật nhiều.”
Vừa nói, Bạch Lan nhào tới hôn vào má.. rồi nhón chân hôn vào môi Quang một cách say đắm, nụ hôn hàm chứa một tình yêu nhiều hơn là chỉ để tỏ lòng cám ơn về món quà tặng.
Vì bất ngờ trước phản ứng nồng nhiệt của Bạch Lan, Quang khựng lại trong giây phút ngắn ngủi, đôi tay ngập ngừng một lúc, rồi anh ôm thân hình thon nhỏ và kéo Lan sát vào thật chặt.
Hai người âu yếm hôn nhau đắm đuối như để thỏa lòng ham muốn từ bấy lâu nay, họ ước mong giây phút này không bao giờ chấm dứt.
Bạch Lan đặt chiếc hộp xuống chiếc bàn ngủ phía sau lưng, hai tay ôm đôi vai người mình đã yêu, mắt nhìn say đắm, đầu ngửa về sau, đón nhận những nụ hôn đầy tình tứ của người thanh niên vào môi, vào cổ của nàng.
Không biết hai người âu yếm bao lâu cho đến khi nghe tiếng chân người ngoài hành lang, họ vội vàng nới lỏng vòng tay, nhìn nhau cười ngượng nghịu, cố làm ra vẻ tự nhiên, rồi Quang đưa tay lên môi hôn gió về phía Bạch Lan và rời khỏi căn phòng.
Bạch Lan cảm thấy sung sướng, nàng nằm lăn ra giường, nhắm mắt lại một lúc tận hưởng giây phút êm dịu của tâm hồn, rồi vói tay lấy chiếc hộp đựng chuỗi ngọc trai, mở ra ngắm nghía, đứng dậy nhìn vào gương, đeo vào chiếc cổ thon cao, một cách thích thú.
Một chớp nhoáng chợt thoáng qua trong trí nhớ của Bạch Lan, nàng như mơ thấy một người đàn bà trung niên đang được một người đàn ông mặt mày lạ hoắc đeo chuỗi hạt trai vào cổ cho bà.
Tay người đàn bà thoa nhẹ vào đôi bàn tay của ông này như cám ơn.
Cơn mơ chợt tan biến đi, Bạch Lan mở mắt ra, lắc đầu trước chiếc gương lớn như muốn níu kéo hình ảnh lạ lùng vừa bất ngờ đến trong ký ức. Nàng chỉ thấy phản chiếu trong gương, bóng dáng Bạch Lan trong chiếc áo choàng màu hồng nhạt, đang phân vân cố nhớ về dĩ vãng.
Trời đã về chiều, chiếc thuyền đánh cá neo trước bãi biển cạnh Hòn Chồng nhấp nhô theo đợt sóng nhỏ đang cuốn vào bờ.
Từ xa bán đảo Pyramid, hình kim tự tháp, nhô cao trên mặt biển màu xanh lơ. Những đám mây hồng nhạt dưới ánh nắng chiều đang lờ lững bay xuôi về cuối chân trời.
Hai người tình son trẻ dựa vai nhau, thích thú dạo chơi trên bãi cát màu trắng ngà, sỏi vàng khua nhẹ dưới bước đi. Dấu chân để lại sau lưng in dài trên cát, rồi bị xóa tan với cơn sóng vỗ vào và cuốn ra từ bờ.
Vịnh Nha Trang nằm yên bình dưới cơn gió chiều êm dịu thổi từ biển khơi, lá hàng dừa xanh bay phất phơ, che bóng mát cho các cửa hàng bán giải khát nằm rải rác theo bờ biển.
Cầu Bóng nghiêng mình trên con sông nhỏ chảy ra vịnh, ngọn Tháp Bà với di tích của một dân tộc đã mất, là thắng cảnh nhìn xuống khu vực từ Hòn Chồng đến Hòn Lớn.
Những cặp thanh niên nam nữ ngồi châu đầu vào nhau dưới bóng mát của cây dừa, thủ thỉ tâm tình. Vài chàng Sinh viên Sĩ quan, đi nghiêm chỉnh bên cạnh cô bạn gái, rụt rè nắm tay e lệ.
Những bộ quân phục trắng, xanh da trời của Hải Quân, Không Quân xen kẻ giữa các tà áo dài đủ màu bay theo gió biển trong một buổi chiều cuối tuần tại một thành phố chỉ cách chiến trường cao nguyên đang sôi sục không đầy một giờ đường bay.
Thỉnh thoảng tiếng động cơ máy bay khu trục xé bầu trời thiên thanh làm mọi người đứng lại, lơ đãng ngửng đầu nhìn lên hai đốm trắng nhỏ, tia khói đen khuất dần trong mây biến mất về hướng núi xa xa.
Những trực thăng tải thương lượn quanh trên bầu trời. Các khách tắm biển đang vờn trên đợt sóng cuộn bạc đầu, ngưng nhảy qua ngọn sóng, đưa tay vẫy vẫy về phía anh phi công người ngoại quốc điều khiển chiếc trực thăng bay về hướng Cầu Đá, nơi chiếc Bệnh Viện Hạm đang bỏ neo.
Bạch Lan và Quang dừng lại bên nhà hàng cất trên khu đất cạnh bãi cát. Hai người chọn một chiếc bàn nhỏ ngoài hành lang, ngồi gọi thức ăn rồi nhìn ra biển.
Lâu lắm kể từ ngày bị thương, hôm nay Bạch Lan mới thưởng thức những đồ ăn biển ngon miệng như thế này, món cua rang muối tuyệt hảo, lại thêm sò huyết nướng vỉ ăn với muối tiêu chanh thật đặc biệt.
Trời đầu tháng tư vẫn còn sáng khi mặt trăng mọc về hướng đông. Vầng trăng tròn như cái bong bóng ai thả trên nền trời màu xanh bàng bạc.
Vừa ngắm cảnh biển trời mây nước, vừa thả hồn theo ngọn gió nhẹ thổi trên bãi biển Nha Trang trong buổi hoàng hôn, Bạch Lan say sưa trong mối ân tình mới chớm nở, không còn nhớ một tí gì về một bãi biển tương tự nhưng vắng bóng du khách viếng tại phía đông thành phố Huế.
Nơi đây cũng sóng bạc đầu cuồn cuộn vỗ vào bờ cát dưới trăng thanh gió mát, còng còng chạy nhiều hơn trước vì không có người đuổi bắt chúng nó.
Những kỷ niệm xưa, những biến cố trong cuộc đời người con gái Huế nay chỉ là kho tàng đánh mất trong tâm tư của Huyền, một tên gọi đã trở thành xa lạ nhưng vẫn còn được nhắc nhở và nhớ thương mãi bởi hai người bạn học đang sống nơi phương trời xa xôi cách biệt.
Trung vẫn đinh ninh rằng Huyền đã về đến Huế ngày hôm đó và vui sống an hòa cạnh gia đình, còn Nguyên thì đang cố gắng tìm hiểu về kết quả và ý nghĩa lời chỉ dẫn của cuộc cầu “cơ” trong mấy tháng trước đây.
“Hải đăng, hải đăng”, hai chữ thật là khó hiểu nhưng linh tính của Nguyên cho biết và anh hy vọng người bạn gái của mình vẫn còn sống và đang lưu lạc tại phương trời, góc biển nào đó.
Trung nằm trong căn nhà tranh được biến cải thành nhà thương dã chiến của đơn vị.
Vết thương trên cánh tay vẫn chưa lành vì bị nhiễm trùng. Đồng chí Bác sĩ cho biết vì thuốc men thiếu thốn nên một ngày chỉ cho Trung uống hai viên thuốc Aspirin để khỏi đau nhức, chứ thuốc trụ sinh thì không có.
Vết thương làm độc càng ngày càng lở loét khó chịu, một ngày rửa thuốc tím và thay băng một lần vào buổi sáng.
Bệnh viện nằm sâu trong rừng già giữa biên giới Lào và Việt Nam, cạnh con đường mòn chạy dọc theo núi Trường Sơn nối liền cao nguyên và miền bắc.
Chiếc áo mỏng không đủ ấm khi đêm về, Trung phải quấn mình trong manh chiếu để thân mình khỏi tê lạnh.
Hai tuần sau khi anh thất thểu theo đám thương bệnh binh của trung đoàn di tản từ chiến trường về đây, anh đã được gặp lại Huấn.
Anh đến thăm Huấn đang nằm chờ chết tại chiếc giường tre, chỉ vài giờ trước khi người bạn đồng hành ly khai gia đình, theo lời kêu gọi của kháng chiến, cùng vào bưng chiến đấu trên chiếc xe đạp vượt con đường đất tại lăng Minh Mạng, nhắm mắt lìa đời vì vết thương của đạn đại liên bên cạnh sườn.
Trung vuốt mắt người thanh niên vừa hơn hai mươi bốn tuổi, đã hy sinh cuộc đời son trẻ cho một lý tưởng huyền hoặc và rồi bỏ xác nơi rừng thiêng nước độc, không người thân thích bên cạnh trong giây phút cuối của đời mình.
Trung tự hỏi thầm: “để cho ai và được một cái gì”. Anh cảm thấy chán nản và thất vọng nhiều khi chứng kiến hàng hàng lớp lớp thanh niên cùng lứa tuổi của Luân, Huấn và anh đang làm con thiêu thân trước lửa đạn nơi trận tiền.
Máu đổ thịt nát xương tan, làng mạc cháy thiêu hủy vì chiến tranh, dân lành vô tội bị kẹt giữa làn đạn của hai kẻ thù đang cố gắng tranh giành từng tất đất, không phải là của mình.
Thực dân Pháp và Cọng sản, một thứ thực dân mới, đã gián tiếp hay trực tiếp xua đuổi nông dân rời bỏ ruộng vườn, quê cha đất tổ, mồ mả ông bà thân yêu, bồng bế nhau đổ xô về sinh sống lây lất trên vỉa hè, trong những công viên của thành phố hoàn toàn xa lạ, dưới cặp mắt khinh bỉ của dân đô thị.
Ban ngày họ lê chân kiếm ăn dưới cơn nắng cháy da của mặt trời oi bức và khi đêm về, nằm lăn lóc lạnh lẽo bên vỉa hè trống vắng, đầy muỗi mòng thèm thuồng chờ sẵn, hút máu từ những tấm thân gầy còm thiếu cơm.
Trên đường hành quân, Trung đã thấy những người trong ban quan táng, chôn vội bên cánh rừng, dưới lùm cây, xác chết của cán binh vô danh.
Những ngôi mộ không tên mọc rải rác trên lộ trình kháng chiến, là chiến công của “trận giặc không giới tuyến” đang được các đại cường quốc cố gắng tìm chữ để bịp nhau trên bàn hội nghị tại Geneve, hy vọng sẽ đi đến một giải pháp khả dĩ thỏa mãn tất cả các nước thành viên tham dự.
Trung chờ cho ban quan táng lấp đất xong ngôi mộ của Huấn chôn bên đường, dưới tàng cây đa, anh đến cạnh, ngồi xuống đào đất, dựng tấm bia gỗ mà anh đã dùng cây dao cá nhân khắc vội, trước ngôi mộ mới của Huấn, cúi đầu lâm râm khấn cầu cho bạn được sớm siêu thoát, nước mắt anh chảy dài xuống đôi má gầy vì thiếu ngủ.
Trung đứng lặng yên một lúc, nhìn tấm bia có dòng chữ hoa:
“Trần Huấn
1930-1954”
Rồi anh chấp tay lạy hương hồn người bạn ngắn số.
Ngọn gió rừng thổi mạnh làm bụi đường và lá khô bay mù mịt khắp trời.
Chiếc Bệnh Viện Hạm đang trên đường về Vũng Tàu để chuyển những thương binh qua các thương thuyền khác đưa về Pháp. Tin từ chiến trường Điện Biên Phủ gửi về làm mọi người thẫn thờ lo âu.
Biến chuyển quân sự trên các mặt trận khác cũng không thuận lợi cho quân đội viễn chinh và chính phủ của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Việt Minh lợi dụng thành quả này đưa ra yêu sách tại bàn hội nghị.
Quang thông báo cho Bạch Lan biết về việc quân Cọng sản đang vây khốn lực lượng phòng thủ của Pháp và nguy cơ thất bại của quân đội Pháp.
Những cánh quân nhảy dù xuống tăng viện cho quân trú phòng tại Điện Biên Phủ cũng không đem lại kết quả gì khả quan hơn.
Trong khi đó tại Sài gòn, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đang tiếp tục củng cố chính phủ, dưới sự yểm trợ của những người bạn trong quốc hội Mỹ, chuẩn bị chương trình thay thế và đuổi người Pháp ra khỏi miền nam Việt Nam trong trường hợp một hiệp định được ký kết tại Geneve.
Con tàu lướt êm trên biển Nam Hải trực chỉ về hướng nam. Bạch Lan ngồi trên bong tàu nhìn về đỉnh núi phía bên tay mặt, Quang đứng bên cạnh chỉ về một hòn đá có hình thù giống như một người đàn bà bồng đứa bé và nói:
- “Bạch Lan trông có giống như người ta nói không? Hòn Vọng Phu đó. Tượng đá nằm trên đỉnh núi cao giữa Nha Trang và vịnh Cam Ranh. Huyền thoại người mẹ bồng con ngóng chồng về từ biển đông đã được người đời truyền tụng từ lâu, nay nhờ trời trong, không có mây nên hai đứa mình mới có may mắn nhìn thấy tận mắt”.
- “Lạ thật Bạch Lan chưa lần nào được nghe cả nhưng cũng cảm thấy hình như đã biết sự tích này rồi, ừ... hừ chắc là phải có lý do”.
Bạch Lan vừa vuốt sợi tóc bay vướng vào mặt vừa thắc mắc trả lời. Quang gật đầu và giải thích:
- “Có lẽ Bạch Lan đã được ai kể cho nghe trước đây rồi, nay vì mất trí nhớ nên quên hết.”
Anh sợ người yêu buồn khi nghe nhắc đến bệnh tình của nàng, nên anh vội vàng đổi câu chuyện qua đề tài khác:
- “Lần này khi về đến Vũng Tàu anh sẽ xin phép Trung Tá Y Sĩ trưởng đưa Bạch Lan về nhà giới thiệu với cha mẹ anh tại Sài gòn, em có chịu không?”
- “Thật không anh? Nếu được phép như vậy thì thích quá, em cũng muốn được viếng thăm hai bác và sau đó lại có dịp biết xứ Sài gòn hoa lệ nữa.”
- “Ừ nhỉ, anh quên mất là em chưa có khi nào vào Sài gòn hết. Thành phố này lớn hơn Nha Trang nhiều và rộn rịp lắm, nhất là về đêm ánh sáng muôn màu lấp lánh, xe cộ chạy đầy đường như then cửi, vì vậy Tây mới đặt tên cho Sài gòn là “Hòn ngọc Viễn đông” đó Lan à.”
Bạch Lan chăm chú nghe Quang say sưa nói về thành phố mà anh đã sinh ra và lớn lên trong hơn ba mươi năm qua.
Con tàu vẫn lắc nhẹ theo đợt sóng dài của mùa biển tây nam, êm ả trong cơn gió thoảng vào một buổi chiều gần tắt nắng.
Không còn bao lâu nữa, bắt đầu từ tháng chín, mùa biển đông bắc sẽ bắt đầu với những trận bão tố liên miên trên biển Nam Hải, đại dương nổi sóng, cuồng phong dữ dội đe dọa mạng sống của người đi biển.
Sau cuộc hành trình ngắn ngủi như chuyến du ngoạn trên vùng biển đẹp trải dài từ vịnh Cam Ranh qua bờ biển Phan Thiết, ngày hôm sau khi mặt trời vừa khuất sau đồi cát và rặng cây dọc theo Long Hải, ngọn Hải đăng trên núi Vũng Tàu chớp sáng trên vùng biển xanh thẫm, đã được quan sát viên trên đài chỉ huy của Bệnh Viện Hạm báo cáo cho vị Sĩ quan trưởng phiên.
Con tàu giảm máy từ từ khi vào gần bờ và tiến vào vịnh Vũng Tàu một cách cẩn thận.
Hạm Trưởng điều khiển tàu đến vị trí bỏ neo, đối diện Bãi trước, cách ngọn đèn phao nổi đánh dấu chiếc tàu Nhật Bản London Maru bị máy bay Đồng Minh thả bom đánh chìm trong trận Đệ nhị thế chiến vừa qua.
Hải cảng Vũng Tàu đã lên đèn, từng ánh đèn lấp lánh trong các quán ăn cạnh bờ biển. Du khách từ Sài Gòn xuống nghỉ mát đang dạo chơi trên bãi cát nhỏ chạy dọc theo con đường chính dẫn ra Bãi sau, nơi có nhiều sóng lớn hơn biển tại Bãi trước.
Bạch Lan tay đang cầm cuốn sách Pháp ngữ, quà tặng của Bác sĩ Maurice, nghiền ngẫm đọc, nàng cảm thấy hãnh diện với chính mình vì đã tiến bộ rất nhanh vừa cả tiếng Pháp vừa về căn bản cứu thương.
Kể từ ngày mai, nàng bắt đầu được phép phụ tá cô Catherine trong các công việc thường xuyên săn sóc thương bệnh binh trên tàu, vừa thực tập nghề nghiệp vừa thực hành tiếng Pháp.
Có tiếng gõ cửa phòng, Bạch Lan ngừng đọc sách, nói vọng ra bằng tiếng Pháp:
- “Qui est là, entrez s’il vous plait”. (Ai đó xin cứ vào)
Quang đẩy mạnh cánh cửa bước vào, mặt mày anh có vẻ không vui. Bạch Lan đứng dậy ngạc nhiên hỏi:
- “Bạch Lan xin lỗi anh, tưởng là ai chứ, có chuyện gì mà anh buồn vậy, cho em biết được không?”
Quang lấy trong túi áo ra một tờ giấy trông giống như một bức thư đánh máy, vừa đưa cho Bạch Lan xem vừa nói:
- “Đây là bức điện tín vừa được chuyển đến khi tàu đến Vũng Tàu, vị Bác sĩ trưởng phòng đã cho phép Quang sửa soạn rời tàu tức khắc, anh muốn báo tin cho Bạch Lan biết trước khi anh đáp chuyến ghe máy đang sẵn sàng chở anh vào bờ.”
Bạch Lan bần thần đọc dòng chữ đánh máy trên công điện, nước mắt giọt xuống nhiều hơn khi nàng đọc xong đoạn văn mờ dần dưới mắt:
“Mẹ bị tai nạn xe hơi rất nặng - Stop - Đã được đưa vào bệnh viện Đô thành - Stop - Sợ không qua khỏi - Stop - Quang về gấp - Stop - Ký tên - Ba của con.”
Nàng gục đầu vào vai người Y tá, khóc nức nở. Quang ôm chặt thân hình Bạch Lan, cố trấn an:
- “Anh phải về lo cho mẹ, bà rất cần anh bên cạnh trong giờ phút này. Sau khi bà qua khỏi cơn nguy, anh hy vọng như vậy, anh sẽ trở ra tàu ngay tức khắc với Lan. Em phải hứa với anh, giữ gìn sức khỏe, đừng buồn phiền nhiều quá. Bên cạnh em còn có những người bạn tốt, nhất là Bác Sĩ Maurice và cô Catherine, họ rất thương và muốn lo lắng cho em khi anh đi vắng. Nào hãy cho anh xem nụ cười xinh đẹp của người anh yêu một tí nào, cười lên đi cưng.”
Quang ôm đôi vai của Bạch Lan, nhìn thẳng vào đôi mắt đang long lanh ngấn lệ. Nàng cố mỉm cười, không nói gì cả, rồi ôm hôn Quang say đắm.
Sau đó nàng vói tay lấy chiếc khung hình có chiếc hoa lan, trịnh trọng đưa cho Quang:
- “Em muốn Quang đem khung hình này theo để biết rằng em luôn luôn mong nhớ và ở bên cạnh anh, dù cách xa góc biển chân trời nào đi nữa.”
Hai người ngồi cạnh nhau một lúc, sau đó Bạch Lan đi theo Quang về phòng giúp anh sửa soạn đồ hành trang rồi phụ mang hành lý đi ra cầu thang cạnh bong tàu.
Chiếc thuyền “ho bo” của Bệnh Viện Hạm dùng để liên lạc và đưa nhân viên đi bờ đang nổ máy chuẩn bị rời tàu.
Quang cầm tay Bạch Lan, bóp nhẹ như vỗ về, an ủi, hôn thật nhanh trên má nàng.. anh nói vài lời từ giã sau đó tay xách va li, bước lần theo cầu thang, xuống chiếc thuyền máy.
Bạch Lan đứng lặng người, nhìn theo bóng chiếc “ho bo” xa dần, vẫy tay chào, rồi hai tay bụm mặt, khóc tức tưởi chạy về phía phòng ngủ của nàng.
Quang quay nhìn lại chiếc Bệnh Viện Hạm nhỏ dần sau lưng, một thoáng buồn dâng lên trong lòng người con trai Việt Nam nhiều tình cảm, bên hiếu bên tình và anh đã đau lòng làm đúng theo lý trí của một đứa con nhà nho giáo.
Nguyên vừa về đến nhà, hai người em họ con của anh Điền, chạy ra đón Nguyên tại trước cổng và thông báo một tin vui mà anh không thể ngờ được, đó là tin về anh Nghĩa, người anh cùng cha khác mẹ, rời gia đình đi theo kháng chiến hơn mười một năm nay, đã về đầu thú với chính phủ của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Hiện nay anh còn bị công an giam tại lao Thừa Phủ, bên hữu ngạn sông Hương, để điều tra và lập thủ tục trả tự do cho anh Nghĩa.
Anh Điền từ An Cựu lên đưa cha của Nguyên sang gặp một người bà con trong gia đình đang giữ chức vụ lớn tại phủ Thủ Hiến trung phần và nhờ dượng này giúp đỡ, xúc tiến gấp giấy tờ cho anh Nghĩa được sớm đoàn tụ với gia đình.
Nguyên mừng rối rít khi nghe tin vui này vì biết cha Nguyên rất thương anh Nghĩa, đứa con trai trưởng của ông, một đứa con mà ông nghĩ rằng không khi nào gặp lại nữa.
Nguyên nhớ đến cậu Tuấn cũng theo kháng chiến từ năm bốn lăm đến bây giờ vẫn không có tin tức gì cả và Trung, người bạn học đã ly khai gia đình gần bốn năm nay không biết sống chết nơi nao.
Gia đình Trung vẫn hy vọng một ngày nào đó đứa con độc nhất của gia đình sẽ trở về đoàn tụ khi cuộc chiến chấm dứt trong tương lai rất gần đây.
Mùa thi gần đến với học sinh Huế, những cây phượng vĩ bắt đầu nở nụ đỏ trên cành. Hằng đêm dưới ánh đèn đường, dưới cây cột điện, từng nhóm học sinh trai gái học thi, kể cả Nguyên, ngồi bên nhau chăm chú vào cuốn sách dày cộm, thỉnh thoảng ngừng đọc, lắng tai nghe tiếng súng pháo binh rời rạc bắn đi từ trại lính Tây từ Mang Cá, Tòa Khâm vọng về.
Chiến tranh giữa quân đội Cọng sản Việt Nam và thực dân Pháp đã đến giai đoạn cuối cùng với chiến thắng có chiều hướng ngả về phía Việt Minh trên mọi chiến tuyến. Đặc biệt tại mặt trận Điện Biên Phủ, quân đội Pháp đang cố gắng trong tuyệt vọng chống trả áp lực tấn công mạnh mẽ của những Sư đoàn thiện chiến cảm tử Cộng sản.
Trọng pháo đặt trong các hầm đá kiên cố đào sâu trong các ngọn đồi chiến lược chung quanh Điện Biên Phủ nả đạn liên tục ngày đêm không dứt, vào căn cứ của Pháp.
Thời tiết mùa mưa, mây mù của vùng thượng du gần biên giới Ai Lao, cộng thêm yếu tố nói trên gây khó khăn cho Không quân Pháp, trong các phi vụ yểm trợ đơn vị phòng thủ đang ngày càng mệt mõi vì không có thì giờ nghỉ ngơi dưỡng sức.
Với một quân số gần 12000 lính dưới quyền chỉ huy của Đại tướng Navarre, lực lượng trú phòng bị vây khốn bởi một đạo quân Cộng sản khổng lồ nhiều hơn gấp bốn, khoảng chừng 50000 người dưới sự điều động trực tiếp tại chiến trường của Tướng Việt Minh Võ Nguyên Giáp.
Quân đội viễn chinh nổi tiếng ngày nào nay như cá nằm trong lưới, cô lập với thế giới bên ngoài, tiếp vận trên đường bộ gián đoạn vì các huyết lộ dẫn đến Điện Biên Phủ đều bị quân Việt Minh chiếm đóng.
Lương thực vũ khí đạn dược cạn dần, chỉ trông nhờ tiếp tế bằng máy bay thả dù. Sau khi cố gắng lượn tránh màn lưới đạn dày đặc của địch quân bắn lên từ các ổ súng phòng không tối tân chế tạo tại Nga Sô, các phi cơ tiếp viện bay xuống thấp thả dù xuống tiếp tế cho quân Pháp.
Gió mạnh của núi rừng thổi các cánh dù bay ra xa và rơi xuống khu vực Cộng quân kiểm soát với tất cả đồ tiếp liệu cần thiết cho quân trú phòng.
Cuộc tấn công của quân đội Việt Minh vào các tiền đồn của Pháp chung quanh Điện Biên Phủ khởi đầu từ ngày 12 tháng 3 năm 1954, kéo dài cho đến đầu tháng 5, căn cứ chính tại địa danh lịch sử này hoàn toàn thất thủ.
Quân đội viễn chinh Pháp và Đại tướng Navarre treo cờ trắng đầu hàng trong một buổi sáng nhiều sương mù trên vùng đồi núi thượng du Bắc Việt, tạm thời chấm dứt một thế kỷ chiến tranh đô hộ, xâm chiếm thuộc địa tại Việt Nam.
Hiệp định Geneve được ký kết vào ngày 20 tháng 7 năm 1954 giữa các đại cường quốc trực tiếp hay gián tiếp tham dự cuộc chiến tranh này với thành phần đại diện của Việt Nam Cộng sản và Việt Nam Quốc gia.
Giải pháp quốc tế này đã chia cắt đất nước thân yêu Việt Nam tại một con sông nhỏ phía bắc thành phố Quảng Trị tại Vĩ tuyến 17 độ Bắc với chiếc cầu có tên Hiền Lương nối liền một dải sơn hà gấm vóc, một dân tộc, hai chế độ và khởi điểm của giai đoạn mới, một cuộc chiến tranh mới có tên là chiến tranh Ý thức hệ giữa “Cộng sản và Quốc gia”, “đảng trị và dân chủ.”
Dân miền Bắc đã kiên nhẫn chịu đựng, sống còn trong cuộc chiến giữa thực dân Pháp và Việt Minh, lại thêm một lần nữa người dân lành vô tội phải đi đến một quyết định, đi ngược lại với niềm tin và truyền thống muôn thuở của họ. Đó là phải xa lìa quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rún, ruộng vườn thân yêu do cha ông để lại, trên đó những mộ phần tổ tiên an nghỉ ngàn đời.
Tự do và tín ngưởng là động lực chính đã thúc đẩy họ thay đổi môi trường sống.
Kinh nghiệm đau thương của dân tộc trong suốt thời gian qua, khi họ chứng kiến cọng sản tước đoạt quyền căn bản làm người, quyền sở hữu chủ, quyền lựa chọn niềm tin của từng cá nhân...
Những cuộc đấu tố điền chủ, thanh trừng đối lập, thủ tiêu những người có công cho công cuộc kháng chiến chống thực dân, nô lệ... nằm trong chính sách của những cấp lãnh đạo Cọng sản, đã bắt đầu, đang xảy ra từ thôn quê đến thành thị và sẽ được thi hành triệt để bởi cán bộ nòng cốt địa phương.
Sau khi Hiệp định đình chiến chia cắt đất nước được ký kết, dân chúng hai miền Bắc Nam được phép có 300 ngày để quyết định chọn nơi sinh sống mới cho cuối cuộc đời mình.
Với sự khuyến khích giúp đỡ của ông Ngô Đình Diệm, vị Thủ Tướng của chính phủ miền Nam, người đã được sự ủng hộ nhiệt thành của giới chức Hoa Kỳ, tín đồ thuộc các giáo xứ Bùi Chu, Phát Diệm... cùng với những người không muốn sống dưới chế độ độc tài đảng trị tại Bắc kỳ, đã quyết định chuẩn bị di dân vào Nam, lập nghiệp tại vùng ánh sáng tự do, bắt đầu lại một cuộc sống mới hứa hẹn nhiều tương lai tốt đẹp, đời sống ấm no hạnh phúc cho con cháu.
Các chiến hạm thuộc Đệ thất Hạm đội Mỹ tại Thái Bình Dương được lệnh phối hợp tổ chức chương trình di dân từ các hải cảng ngoài bắc di chuyển bằng đường biển vào nam.
Lực lượng đặc nhiệm Hải Quân gồm nhiều Dương Vận hạm (LST), Hải Vận hạm (LSM)... đang trực chỉ hướng về vịnh Hạ Long. Thức ăn thuốc men, mền gối... phương tiện đầy đủ sẵn sàng cho một tổng số di dân khổng lồ, phỏng chừng trên 800 ngàn người kể cả dụng cụ cá nhân.
Về phía quân sự, quân đội Pháp đã chịu đựng một sự chiến bại chưa từng thấy trong lịch sử tìm kiếm thuộc địa, kể từ ngày Đại đế Nã Phá Luân thất trận mùa đông tại vùng băng tuyết thuộc nước Nga Sô.
Hàng ngàn quân lính Pháp bị Việt Minh bắt làm tù binh tại mặt trận Điện Biên Phủ bị chết dần mòn trên con đường núi, di chuyển về đồng bằng, đến các trại giam.
Những thương binh thuộc đoàn quân Lê Dương lê gót dưới cơn gió lạnh buốt da, mặt mày cháy nắng dưới sức nóng mặt trời của miền thượng du xa xôi, rừng thiêng nước độc, rồi ngả gục bên ven rừng, trước những cặp mắt thờ ơ lạnh lùng của các lính cọng sản.
Thân thể gầy còm vất vưởng trên đám hoa dại, cỏ hoang, chết không được chôn và trở thành mồi ngon cho các thú rừng, chim quạ... khi màn đêm buông xuống.
Quân đội Việt Minh hiên ngang, hống hách giương ngọn cờ đỏ sao vàng, hàng hàng lớp lớp nối đuôi nhau diễn hành ra Hà Nội.
Trên các Quốc lộ chính từ miền đồng bằng sông Cửu Long lên đến vùng cao nguyên trung phần, dọc theo duyên hải Phan Rang, Phan Thiết ra tới Quảng Trị, các đơn vị thuộc Sư đoàn Sao vàng, Sư đoàn 101... Trung đoàn 803, 108, 95...nổi tiếng khắp chiến trường Bắc Nam, trong hàng ngũ của đạo quân chiến thắng, rầm rộ vượt đường trở ra phía bắc sông Bến Hải.
Các cấp lãnh đạo của Cộng sản bí mật để lại miền Nam những thành phần cán bộ nằm vùng, tổ chức cơ sở hậu cần, chôn dấu vũ khí đạn dược dùng trong tương lai, với ý đồ chuẩn bị kế hoạch lật đổ chính phủ miền Nam, trong trường hợp gặp trở ngại trong cuộc bầu cử được ấn định vào năm 1956 để thống nhất hai miền đất nước theo Hiệp định đình chiến ký kết tại Geneve.
Tại Sài gòn, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thành lập nội các với những thành phần chống Cọng, với sự cố vấn của Đại Tá Lansdale quốc tịch Mỹ.
Vị Đại Tá này là người đã từng giúp Tổng Thống Magsaysay tiêu diệt cọng quân Hukbalahaps tại Phi Luật Tân và đến Sài gòn vào tháng 4 năm 1954 để giúp Thủ Tướng Ngô Đình Diệm chuẩn bị thành lập chính phủ Cộng hòa theo đường lối tổ chức tại Hoa Kỳ.
Người kháng chiến quân trẻ tuổi đang theo các đồng chí thuộc Trung đoàn 95 rảo bước trên Quốc lộ 1 trong một ngày đầu mùa thu, mặt trời vẫn chưa mọc từ hướng đông.
Sương mù buổi sáng sớm bao phủ hàng dừa xanh bao quanh làng Mỹ Chánh. Ngọn gió lạnh ban mai thổi nhẹ qua vùng ruộng đồng hoang vắng vẫn còn mang dấu vết của cuộc chiến vừa tàn.
Trung chạnh buồn nghĩ đến kỷ niệm trong thời gian chiến đấu tại đây, trấn phòng “Con đường không vui”, một huyết lộ đã đi vào chiến sử.
Anh nhớ buổi chiều cùng sánh bước cạnh cô bạn học duyên dáng dễ thương mang tên Huyền, trên con đường đất làng Vân Trình, bên dòng sông Ô Lâu, cô gái có đôi mắt buồn to tròn, dịu dàng nhìn cám ơn khi nhận đóa hoa lan mà anh hái tặng nàng.
Những chuỗi ngày êm đềm thuở ấu thơ chợt thoáng qua trong trí nhớ của người thanh niên đã lớn lên cả thể xác lẫn tinh thần từ cuộc chiến chống thực dân, giành độc lập.
Kết quả là ngày hôm nay, trong khi tiếng rít rùng rợn của đạn bay không còn nghe, tiếng súng quen thuộc đã ngừng nổ, Trung vẫn cảm thấy phân vân về số phận và tương lai của mình.
Anh thắc mắc với những lời tuyên bố của cấp lãnh đạo Cọng sản Việt Nam về cuộc chiến tranh trường kỳ và trách nhiệm của người cán bộ, về vai trò kháng chiến quân, sau khi đảng đã thành công trong nhiệm vụ đánh đuổi thực dân ra khỏi đất nước.
Trong thâm tâm, Trung hy vọng và tin tưởng mình đã làm xong ước mộng của người trai thời chiến, trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập cho quê hương xứ sở.
Anh mong ngày đoàn tụ với cha mẹ sẽ không còn bao lâu nữa. Trung sẽ trở về Huế, sống lại những giây phút êm đềm bên cạnh bà mẹ hiền, sẽ theo cha đi câu cá tại Cầu Hai. Anh sẽ tiếp tục việc học vấn đã tạm thời bị gián đoạn trong hơn bốn năm qua và dự trù sau đó học thêm về nghề vẽ để trở thành một chuyên gia họa sĩ.
Trung cảm thấy phấn khởi với ý nghĩ đang xâm chiếm tâm hồn. Anh lơ đảng bước theo toán quân trong tiếng ca hát đang vang dội lời của bản nhạc kháng chiến:
- “Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc...”
Từng đàn chim én lượn bay trên cánh đồng cỏ lau dưới ánh nắng của mặt trời vừa lên cao quá ngọn cau bên ven làng.
Cầu Hiền Lương vừa được sơn lại, mùi sơn vẫn còn vương trong ngọn gió từ sông Bến Hải thổi lên.
Hai lá cờ bay phất phới theo cùng chiều gió, màu sắc tương phản của hai mảnh vải nổi bật trên bầu trời thiên thanh nhiều mây trắng.
Phía bắc cây cầu, trên kỳ đài vừa mới dựng lên, lá cờ màu đỏ chói với một sao vàng của Việt Minh công khai phần phật bay.
Về phía nam bên kia sông Bến Hải, ngọn cờ vàng ba sọc đỏ của quốc gia Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính thức, hợp pháp như sóng cuộn trong gió lộng mùa thu.
Buổi lễ trao đổi tù binh giữa hai lực lượng thù nghịch đang diễn ra tại đầu cầu Hiền Lương, dưới sự chứng kiến của thành viên thuộc Ủy hội quốc tế, kiểm soát việc thi hành điều khoản đã được thỏa thuận và ký kết trong Hiệp định Geneve tại Thụy Sĩ vào ngày 20 tháng 7 vừa qua.
Những Sĩ quan thuộc quân đội Pháp trong thân thể gầy còm, ốm yếu thất thểu cúi mặt nhìn xuống đất, tiến lên khi nghe tên mình xướng trên chiếc máy phóng thanh, buồn bã nhẫn nhục bước qua vệt sơn trắng trên cầu, đi về phía nam nơi những đại diện của họ đang âm thầm đứng đón chờ.
Trong số tù binh được trao đổi, hội viên tham dự nhận thấy có một Sĩ quan tù binh Việt Nam, người đã theo đoàn quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ trong những giây phút cuối cùng của căn cứ chiến lược này và được thăng cấp Đại úy tại mặt trận đang sôi sục dưới làn phi pháo của Việt Minh. Đó là Đại úy Trần Văn Giàu thuộc binh chủng nhảy dù Pháp, dáng người nhỏ thó, đang bước theo những quân nhân Legionaires tiến qua chiếc cầu Hiền Lương.
Ngược lại, tiếng reo hò, vỗ tay hoan hô nghe vang dội trong đám người đứng đón những tù binh Cộng sản, khi các cán binh này được gọi tên.
Họ nhảy nhót vui mừng, nghênh ngáo ngước mặt lên, chạy về phía đám người cọng sản hách dịch kiêu căng đang liên hoan trong men chiến thắng.
Cuộc trao đổi tù binh là một trong ba điểm chính trong Hiệp định đình chiến ký kết tại Geneve, nằm trong chương trình rút quân ra khỏi vùng chiếm đóng, theo đó quân đội viễn chinh phải rời Bắc Việt và quân Việt Minh ra khỏi niềm Nam Việt Nam trong một thời gian đã được ấn định.
Điểm thứ hai chấp thuận trong vòng 300 ngày, dân chúng hai miền có quyền di chuyển đến nơi nào họ muốn sống. Sau thời gian này, cổng biên giới sẽ khép lại và không ai được phép vượt biên một cách hợp pháp nữa.
Điểm thứ ba là sau hai năm kể từ ngày ký Hiệp định đình chiến, một cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức trên khắp lãnh thổ hai miền, dưới sự giám sát của Ủy hội Quốc tế để đi đến việc thống nhất đất nước.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, với ba ngàn năm văn hiến, con cháu Lạc Hồng phải sống dưới hai chế độ và chịu ảnh hưởng của hai Ý thức hệ khác nhau.
Một bên tại miền Bắc, dưới sự kềm kẹp của giới lãnh đạo tay sai Cộng sản Quốc tế; tại miền Nam, dưới chính thể ngoại lai con cờ của Tư bản Tây phương.
Người dân vô tội dù ở dưới chế độ nào cũng hoang mang lo sợ cho an ninh và mạng sống bấp bênh của cá nhân cũng như của gia đình, con cái họ.
Trong khi đó cũng tại miền bắc, những cuộc thanh trừng đấu tố các đại điền chủ bắt đầu tức khắc do sự hối thúc sau lưng của cán bộ Cọng sản.
Những nông dân hiền hòa trước đây, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi đã trở thành công tố viên độc ác, nhân chứng nòng cốt bị hăm dọa phải đứng ra, lên án chủ nhân thân mến của họ và kết tội những người này là điền chủ đã bóc lột xương máu, sức lao động nông dân, rồi biểu quyết, cổ võ bản án tử hình.
Những người công giáo thuộc hai giáo xứ Bùi Chu, Phát Diệm được các linh mục tổ chức cẩn thận, chuẩn bị chờ đưa giáo dân vào Nam trên các chiến hạm thuộc Đệ thất Hạm đội, tại cảng Hải Phòng.
Trên đường đất làng Thái Bình, đường phố Hà nội, tấp nập xe cộ rộn rịp, dân di cư gồng gánh gia tài thu xếp vội vã cho kịp chuyến tàu qua vĩ tuyến.
Hình ảnh tan thương ghi nhớ mãi trong ký ức người xa xứ, cảnh đoạn trường chia tay người thân yêu trong giờ phút cuối trên sân ga, bên cạnh người yêu, hôn từ giã chàng trai nơi bến tàu của cô gái theo cha mẹ ra đi.
Biệt ly, xa cách từ đây, nhớ nhung làm gì vì ra đi là vĩnh biệt tất cả, người thân thương và quê hương xứ sở dấu yêu của một cuộc đời nhiều gian truân, thống khổ.
Những người sắp sửa ra đi gạt lệ chia tay người ở lại, trong buổi sáng sương mù dày đặc với hơi nước biển bốc lên.
Họ đứng sắp hàng dài, nối đuôi nhau tay xách chiếc va ly nhỏ đựng một vài kỷ vật cá nhân.
Họ nhắm mắt lại, nước mắt chảy dài không những chỉ vì khóc cho mình, cho người yêu, cho đất nước mà còn vì chất hóa học DDT do các nhân viên thuộc thủy thủ đoàn Hải Dương Hạm xịt ra từ các ống cao su to dài lên khắp mình mẩy dân di cư.
Chất thuốc DDT này dùng để tiêu diệt những con chí rận mà Hải quân Hoa Kỳ sợ dân Bắc kỳ mang lên tàu, gây truyền nhiễm cho thủy thủ đoàn của một dân tộc giàu có và tự hào là “ăn ở sạch nhất thế giới”.
Những thủy thủ khác lơ đảng đứng nhìn đám người dân quê, đầu đội nón lá, tay bồng những đứa con thơ mặt mày mếu máo sợ sệt, đôi mắt ngây thơ lo âu nhìn những thân hình đầy lông lá, cao lớn mắt xanh tóc vàng, đang xí xô vui cười nói chuyện với nhau.
Tương lai của dân di cư mờ mịt, cuộc đời mới không có gì bảo đảm, sự nghiệp gầy dựng cả đời chỉ trong khoảng khắc đã tan thành mây khói, còn chăng là hy vọng được thở làn không khí tự do tại miền nam nắng ấm hiền hòa.
Với sức chịu đựng cố hữu, với ý chí sống còn muôn thuở, cọng thêm lòng ham muốn được sống trong tự do tín ngưỡng, với niềm tin tưởng tuyệt đối vào đấng tạo hóa, dân Bắc kỳ di cư khom mình dưới những tấm bạt vải giăng trên bong chiến hạm, người lắc lư bụng cồn cào theo nhịp sóng, tránh cơn nắng chói chan của mặt trời miền nhiệt đới rọi xuống những con tàu sắt đang vượt biển Thái Bình Dương.
Cuộc hành trình di tản kéo dài hơn năm ngày trên biển Nam Hải nhiều sóng lớn, từ trên Vĩ tuyến thứ hai mươi đi ngang qua Vĩ tuyến thứ mười bảy, chia cắt đất nước xuống tận Vĩ tuyến thứ mười nơi cuối cùng của sông Cửu Long chảy ra biển đông tại Cửa Lớn.
Làng Phước Tỉnh tại vùng duyên hải phía bắc Vũng Tàu là nơi lập nghiệp của dân đánh cá người Bắc di cư, làng chài lưới công giáo đầu tiên tại nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Dân làng được hướng dẫn về tinh thần bởi cha giáo xứ đã di cư từ ngoài bắc vào nam cùng một lần với giáo dân.
Thủ tướng Ngô Đình Diệm được sự ủng hộ tuyệt đối bởi dân Bắc kỳ theo đạo công giáo. Dân di cư tin rằng ông Thủ Tướng công giáo này là người đã giúp đỡ cho gia đình và cá nhân họ lánh nạn Cọng sản đang thẳng tay đàn áp tôn giáo ngoài Bắc.
Đây là lực lượng hậu thuẫn mạnh mẽ nhất và đông nhất mà Thủ Tướng Ngô Đình Diệm rất cần để củng cố địa vị trong giai đoạn tranh tối tranh sáng trên chính trường tại miền Nam.
Lãnh đạo một lãnh thổ đã chịu nhiều ảnh hưởng của Pháp, với sự hoạt động của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và tổ chức thủy khấu Bình Xuyên, trước đây đã được sự yểm trợ của chính quyền thực dân, Thủ Tướng Diệm cần một quân đội mạnh để thi hành chính sách của chính phủ từ thành thị đến thôn quê, kiểm soát hiệu nghiệm dải đất Quốc gia mới chạy dài từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mau.
Vì thế Bộ Quốc Phòng đã ra lệnh tăng cường tuyển mộ thanh niên thiếu nữ cho một quân đội son trẻ gồm các Quân Binh chủng Hải Lục Không quân vừa được thành lập và cải tổ.
Được sự viện trợ dồi dào của chính phủ Hoa kỳ để tổ chức các khu vực dinh điền, giúp đỡ dân di tản định cư tại các vùng kinh tế mới, Thủ Tướng Diệm đã cho thi hành chương trình này và dự trù sau khi hoàn tất sẽ thỏa mãn một tổng số dân di cư lên đến xấp xỉ 860000 người tị nạn.
Một trong số người nhận được giấy kêu gọi nhập ngũ có anh Y tá tên Quang, người con trai nhiều lòng hiếu thảo, đang đứng bên giường bệnh của nhà thương Grall, tại Sài Gòn.
Quang buồn bã nhìn bà mẹ hiền vẫn còn hôn mê chưa hồi tỉnh vì vết thương trên đầu, giống như trường hợp của cô gái “vô danh” trên tàu Bệnh Viện.
Bạch Lan trong bộ đồng phục Y tá màu trắng đang đứng trên bong Bệnh Viện Hạm, thích thú chiêm ngưởng thắng cảnh tuyệt vời của vịnh Hạ Long.
Những hòn đảo đá vôi với cây tùng nhỏ trên đỉnh, rải rác soi hình bóng trên mặt nước xanh thẩm, không gợn sóng đẹp tựa chốn tiên bồng.
Tàu Bệnh Viện nhẹ lướt chầm chậm như không muốn chạy qua khỏi eo vịnh thiên nhiên. Những thuyền buồm nâu như cánh bướm lượn trên biển êm, làm tăng thêm vẻ đẹp đặc biệt của kỳ quan thế giới này.
Bạch Lan ước mong sao cho anh Quang có mặt tại đây để cùng nàng thưởng thức phong cảnh vịnh Hạ Long, trong dịp may hiếm có của cuộc hành trình không định trước của Bệnh Viện Hạm.
Nàng nhớ lại những dòng chữ trong lá thư của Quang gửi cho nàng cách đây gần một tháng, thông báo cho nàng biết bệnh tình của mẹ không khả quan, bà vẫn còn mê man và phải chuyển qua bệnh viện tối tân Grall tại Sài gòn để chữa trị. Vì vậy Quang xin gia hạn nghỉ phép cho đến khi mẹ hồi tỉnh và bình phục xong mới trở về tàu gặp Lan.
Bạch Lan khóc ròng khi đọc xong lá thư, lại một lần nữa người con gái bất hạnh phải chịu đựng cảnh xa lìa người mình thương.
Bác sĩ Maurice rất tế nhị không nhắc đến Quang, chỉ âm thầm cùng cô Y tá Catherine giúp đở nàng về mọi phương diện cũng như thường xuyên thăm viếng an ủi Bạch Lan.
Tuy vậy họ cũng biết là nếu Quang tiếp tục vắng mặt, không trở về tàu trong vài tuần lễ nửa, vị Y sĩ Trưởng không thể làm gì hơn là phải gạch tên Quang khỏi danh sách nhân viên theo đúng quy luật của tàu. Quang chỉ là một thông dịch viên và Y tá không mang quốc tịch Pháp, chỉ phục vụ tạm thời cho Bệnh Viện Hạm khi tàu này hoạt động trong hải phận Việt Nam.
Nay chiến tranh đã chấm dứt, tàu chuẩn bị chờ ngày trở về Pháp, những nhân viên ngoại quốc Việt Nam, Tàu, Ai Lao... không có quốc tịch như bồi bếp, lao công...phải rời trước khi tàu được lệnh khởi hành về cố quốc.
Catherine không muốn Orchid - Bạch Lan - đau khổ thêm nên cô không nói cho nàng biết, cô chờ khi nào thuận tiện sẽ khôn khéo giải thích cho Orchid về việc này.
Tàu chạy ngang qua một chiến hạm thuộc loại chuyên chở treo lá cờ hoa, phất phới bay trên ngọn kỳ đài cao. Trên bong tàu chen chúc dân tị nạn cọng sản, những lều vải cột vào dây cáp, vào cột tàu làm mái nhà tạm thời che nắng mưa cho các thân thể ốm yếu.
Bạch Lan đã được cô Catherine cho biết về cuộc di tản khổng lồ này, nàng đưa tay lên vẫy chào những người đồng hương không may mắn, đang trố mắt nhìn về chiếc tàu to lớn có mang dấu Hồng Thập Tự màu đỏ chạy ngang qua trước mặt họ. Những thủy thủ Mỹ cầm chiếc nón Hải quân ngoắc chào lại.
Chiếc Hải Dương Hạm Hoa Kỳ đổi hướng về phía nam, tăng thêm tốc độ, khuất dần dưới chân trời để lại sau lưng một làn khói đen dài bay lên bầu trời nhiều mây trắng.
Có tiếng động phía sau lưng, Bạch Lan quay lại, nàng thấy cô bạn Y tá Catherine và Bác sĩ Maurice tươi cười bước ra bong tàu, đến bên cạnh nàng:
- “Orchid đây rồi, cảnh đẹp quá phải không? Ngắm mãi mà vẫn không thấy chán.”
- “Thật đúng như vậy”, cô Catherine tiếp lời Bác sĩ Maurice “thật là một kỳ quan hiếm có trên thế giới, mà có đúng là tại nơi đây vào ngàn năm trước, có một con rồng thấy bóng nó phản chiếu trên mặt nước trong như gương, tưởng là gặp bạn nên đáp xuống và bị chết chìm phải không?”
- “Tôi cũng nghe Y tá Quang nói về huyền thoại Việt Nam của vịnh Hạ Long như vậy, không biết Orchid có biết gì thêm không?”
Bác sĩ Maurice nhìn Bạch Lan chờ nàng trả lời.
- “Bạch Lan cũng không biết chi về chuyện này cả, nhưng theo tiếng Việt Nam “vịnh Hạ Long” có nghĩa là “vịnh rồng xuống”, Lan nghĩ rằng phải có lý do gì đó, người Việt Nam tại đây mới đặt tên eo biển này như thế.”
Bạch Lan ấp úng giải thích vì chính cá nhân nàng cũng không tin vào lời truyền tụng về câu chuyện “rồng hạ xuống” này tí nào cả, chỉ biết là những hòn đảo đá vôi lớn nhỏ nằm rải rác trong vịnh, nhô cao lên cao khỏi mặt nước trông giống như vi vảy của con rồng.
- “Vịnh Hạ Long này cũng đã đi vào trang chiến sử Việt Pháp vì cách đây hơn sáu năm trước, Cao Ủy Pháp tại Đông Dương đã ký kết hòa ước công nhận nước Việt Nam với Hoàng Đế Bảo Đại trên một chiến hạm Hải quân Pháp neo tại vịnh này.”
Bác sĩ Maurice chỉ tay về phía tây, nơi mặt trời bắt đầu lặn dần sau rặng núi xa xa:
- “Các cô có thấy ánh sáng chớp nhoáng từ bờ biển đằng kia không? Đó là ánh sáng của ngọn Hải đăng trên đảo Cát Bà, dùng để hướng dẫn tàu bè vào ra hải cảng Hải Phòng, nơi mà Bệnh Viện Hạm sẽ cặp bến để đón nhận những tù binh bị thương Pháp từ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.”
Maurice ngừng lại, móc túi lấy một điếu thuốc ra châm lửa, đưa lên môi hút, ông hít vào một hơi rồi nói tiếp;
- “Theo lời Trung Tá Y sĩ Trưởng, nghe đâu cùng đến gần một hai trăm thương binh, lần này chúng mình sẽ rất bận rộn, nhưng dù thế nào đi nữa tôi cũng xin nghỉ phép vài ngày để đi thăm Hà Nội và tắm biển Đồ Sơn. Hai cô có thích đi theo không, cho tôi biết để thuê xe trước cho nó tiện.”
- “Cathy muốn đi lắm, nghe nói Hà Nội rất nên thơ, người Việt Nam nói Hà Nội có đến ba mươi sáu phố phường lận mà.”
- “Bạch Lan cũng thích được tháp tùng với hai người, đã đến lúc mình phải lên bờ dạo chơi một tí, chứ ở mãi trên tàu, lắc lư muốn ói này thì chắc là chết già mất. Hơn nữa Lan cũng muốn đi thăm hồ Hoàn Kiếm và chùa một Cột rồi đi qua cầu Thê Húc vào đền Văn Thánh xin xăm xem số mạng mình đi về đâu.”
- “Xin xăm là gì vậy Orchid? Có phải là xin cho được may mắn không? Nếu đúng vậy thì có lẽ Maurice cũng xin luôn chứ thấy mình xui xẻo hoài à”.
Bạch Lan tức cười khi nghe anh chàng Bác sĩ muốn cầu may, nàng khoát tay:
- “Không phải đâu, xin xăm là cũng như đi coi bói vậy” nàng ngừng lại vì thấy mình lại dùng chữ làm cho hai người bạn Pháp khó hiểu thêm nên nói đại:
- “Cũng giống như mình cầu đức Chúa trời vậy mà.”
- “À thì ra thế, nhưng tại sao chúng mình không đi nhà thờ để cầu xin chúa Jesus mà phải đến đền thờ vậy?”
Bạch Lan thầm nghĩ “thật là khổ cho tôi chưa, tiếng Tây tiếng Ta ít quá, không giải thích được, nay bị kẹt với ông Bác sỉ khó tính này rồi”, nhưng nàng không nói ra, thật may là Catherine lên tiếng giúp nàng khỏi bị bối rối:
- “Thôi để lúc nào đến đó thì biết, nhưng mà khi nào chúng mình mới đi thăm Hà Nội đây?”
- “Mai mốt gì đó, sau khi nhận thương bệnh binh và sắp xếp ưu tiên cho họ xong là mình sẽ được đi chơi liền, nghe đâu tàu sẽ ở lại đây cũng một hai tuần gì đó”.
Trời tối dần trên bong tàu, chiếc Bệnh Viện Hạm đã chong đèn sáng trưng, từ từ chạy vào hải cảng Hải Phòng, ngừng máy chờ người hoa tiêu lên đưa tàu vào cặp tại bến thương cảng Hải Phòng.
Xa xa ngọn Hải đăng chớp theo chu kỳ quay của cây đèn pha, rọi tia sáng chói chang lên bầu trời sâu thẳm, lóng lánh những vì sao đêm. Gió mát từ biển mặn thổi tung làn tóc mây đen của Bạch Lan, óng ánh dưới ánh đèn trên bong tàu.
Ba người bạn đứng lặng im bên nhau thưởng thức cảnh trời mây nước.
Trung theo đoàn xe đạp của những đồng chí trong nhóm, cong mình nhấn mạnh bàn đạp lên dốc con đường về hướng hồ Hoàn Kiếm.
Chiếc giá vẽ bằng gỗ cột bên cạnh sườn chiếc xe đạp làm vướng víu mỗi lần anh muốn tăng thêm tốc lực để đuổi kịp những người đi trước.
Trên đường lũ lượt xe cộ, người đi bộ gồng gánh hai bên bờ hồ. Thỉnh thoảng vài chiếc xe hơi chở người Pháp chạy chầm chậm giữa những chiếc xe kéo, bóp còi inh ỏi.
Trời chiều thứ bảy trong một ngày cuối mùa thu thật êm ả, từng đàn chim bồ câu bay lượn chung quanh hồ, đáp xuống cạnh du khách để chờ thức ăn thừa. Mặt nước hồ Hoàn Kiếm phẳng lặng không một gợn sóng lăn tăn, mặc dù thỉnh thoảng cơn gió đông bắc cuộn lên bụi mù, từ con đường đất chạy vòng quanh bờ hồ.
Trong khi các đồng chí khác chia tay nhau đi ngoạn cảnh, Trung chọn một chỗ tương đối vắng vẻ gần một chiếc ghế đá, dựng chiếc xe đạp bên cạnh rồi lấy giá vẽ ra, chuẩn bị dụng cụ để ghi nhận thắng cảnh Hà Nội.
Anh thích thú với cảm hứng đang ngùn ngụt dâng lên trong tâm hồn của người nghệ sĩ, không cầm lòng nỗi trước vẻ đẹp thiên nhiên đang hiện ra trước mắt.
Trung say sưa thoăn thoắt đưa cây bút lông trên mảnh vải lụa trắng, hình ảnh cây cảnh đền đài, chim bồ câu, mặt nước hồ thu...dần dần chen chúc hòa đầy màu sắc, hiện ra dưới bàn tay điêu luyện của nhà họa sĩ.
Những du khách qua lại dừng chân đứng ngắm, nhìn nhau gật đầu khen ngợi thán phục tài vẽ của người thanh niên có thân hình nhỏ nhắn, đang chăm chú thả hồn vào sáng tác của mình.
Số người đứng xem càng ngày càng đông, họ trầm trồ thì thầm nho nhỏ như sợ làm phân tâm nhà họa sĩ.
Cánh tay trái Trung đỡ tấm cạt tông đầy sơn vẽ đủ màu, hai ngón tay mặt cầm chiếc bút lông quẹt vào sơn, ngắm nghía nhìn bức tranh, có vẻ như vừa ý, phết nét bút cuối cùng rồi bước lui một bước, chiêm ngưỡng tác phẩm của mình, mỉm cười cúi đầu cám ơn mọi người đang vỗ tay tán thưởng.
Trời đã về chiều. Mặt hồ sáng hẳn lên sau những hàng cây liễu rũ cành lá dài như làn tóc mây của những người con gái Hà Nội đang đi hai bên bờ hồ.
Trung đã vẽ được ba bức họa phẩm, hai bức trên lụa và một bức trên giấy. Anh chuẩn bị thu dọn dụng cụ để đi đến chỗ hẹn với bạn trong nhóm.
Những người bán hàng rong vui vẻ mời anh mua bánh ú, bánh đậu xanh mè rang. Trung cảm thấy đói bụng, anh mua hai cái bánh mè, trả tiền cho bà già, lưng còng dưới đôi thúng mây, chân không guốc dép, đang chậm rãi bước đi, miệng rao quảng cáo món hàng của mình.
Anh ngồi xuống chiếc ghế đá trên công viên, tay bóc lá chuối, lơ đễnh nhìn ra ngoài đường lộ chính. Những chiếc xe tay được kéo bởi các người phu xe đàn ông là phương tiện di chuyển chính của du khách ngoại quốc tại đây.
Chỉ trong một thời gian ngắn ngủi từ ngày chiến tranh được thông báo chấm dứt trên vùng đất ngàn năm văn vật, người dân đã nhận thấy sự thay đổi trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
Kinh tế bắt đầu sút kém rõ rệt vì vắng bóng quân đội viễn chinh Pháp, của ông tây, me tây, bà đầm... nguồn lợi chính cho những khách sạn, nhà hàng ăn, các quán rượu, tiệm tạp hóa bán đồ kỷ niệm...
Thay vào đó là những cán binh trong bộ đồng phục màu xanh, đầu đội nón cối, vai mang bị vải sau lưng, ngơ ngáo rảo bước dạo quanh các danh lam thắng cảnh, lạc lỏng trước sinh hoạt đô thị sầm uất.
Những cán binh cọng sản anh hùng trên khắp mặt trận núi rừng Việt bắc, vừa chiến thắng một cuộc đấu tranh chống thực dân, bây giờ đang lê la suốt ngày bên bờ hồ Hoàn Kiếm, trên cầu Thê Húc, trong đền Văn Thánh...
Khi nào cảm thấy đói bụng, họ lấy từ túi vải ra một nắm xôi muối vừng gói trong lá chuối, ngồi trên ghế đá công viên, ăn thong thả, uống nước lạnh từ chiếc bi đông lính mang nhãn hiệu Trung Cọng hay Nga Sô Viết.
Người dân Hà nội đã quen với đời sống trước đây, khi người Pháp còn trú ngụ tại các biệt thự sang trọng, khách sạn chính của thành phố.
Sau khi Hiệp định Geneve có hiệu lực và được thi hành, quân đội Pháp rút về nước, dân Hà Nội cũng thu xếp của cải hành trang, gia tài cha mẹ để lại, khăn gói lên đường trực chỉ về phía hải cảng Hải Phòng, nơi có chiến hạm thuộc Đệ thất Hạm đội đang chờ đưa họ di cư vào miền Nam.
Đặc biệt là những người trước đây đã từng cọng tác với Pháp, dưới hình thức này hay hình thức khác, vì lý do sinh sống hay lý do theo đuôi tụi Tây, nay vì sợ chính quyền Cộng sản trả thù và kết án Việt gian, vội vàng tìm đủ mọi phương tiện để trốn thoát khỏi vùng kiểm soát của chế độ mới.
Trung đạp chiếc xe dọc theo con đường đi về khách sạn lớn tại Hà Nội, một chiếc xe hơi chạy ngược chiều về phía anh. Trung lách xe vào lề đường để tránh, khi ngẩng đầu lên nhìn, xương sống anh như bị điện giật, một cảm giác tê rần chạy dài theo đường dây thần kinh lên cổ, lên đầu.
Anh dừng xe bên đường, quay về phía chiếc xe hơi đang chạy, đưa tay lên dụi mắt. Trung thấy trên chiếc xe hơi đang tung bụi đường mù mịt, một thanh niên người Pháp đeo kính cận thị đang cười nói với hai người đàn bà, một cô đầm Pháp cở trung niên và người con gái trong chiếc áo sơ mi trắng, đội mũ rộng vành, mặc dù che phủ một phần khuôn mặt nhưng Trung cũng không thể nào lầm lẫn được, cũng đôi mắt to đen tròn đó, đôi môi nũng nịu kia.
Đúng là Huyền rồi. Nhưng tại sao Huyền không nhận ra mình, có lẽ tại vì khuôn mặt mình bị chiếc nón cối che khuất chăng?
Trung quay chiếc xe đạp trở lại, nhảy vội lên nhấn mạnh bàn đạp đuổi theo chiếc xe hơi đang hướng về phía đại lộ đi xuống hải cảng Hải Phòng. Anh cố gắng hết sức đạp xe thật nhanh, miệng không dằn được, anh gọi lớn:
- “Huyền ơi... Huyền chờ Trung với, Huyền ơi...”
Những người phu xe kéo vội vàng tránh qua một bên lề, nhường chỗ cho anh cán bộ đang cong mình trên càng chiếc xe đạp, họ ngạc nhiên khi thấy anh này vừa gọi tên, vừa vẫy tay về phía ba người Pháp ngồi trên chiếc xe hơi.
Khách bộ hành cũng đứng lại trầm trồ chỉ tay theo người thanh niên đang phóng nhanh chiếc xe đạp mà họ tưởng là điên khùng, oán ghét và đuổi theo ông tây bà đầm thực dân để trả thù.
Khi qua ngang một ngã tư, Trung mất thăng bằng, bánh xe trước tông vào lề đường, anh té xuống trên chiếc xe đạp, đầu va mạnh vào cột đèn, dụng cụ và tranh vẽ văng tung tóe trên vỉa hè.
Trước khi Trung bất tỉnh anh còn ráng nhướng mình lên nhìn về chiếc xe hơi đang chạy nhanh, quẹo phải và khuất dần sau dãy phố hàng buồm, miệng anh thều thào trong tuyệt vọng, anh tiếp tục gọi tên “Huyền” cho đến khi bất tỉnh và không biết gì nữa hết.
Bạch Lan nắm chặt nón để khỏi bị gió bay, chiếc xe hơi với trần xe sập xuống về phía sau thật hợp với thời tiết mát mẻ tại Hà Nội. Bác Sỉ Maurice và cô Y tá Catherine đang mãi ngắm nhìn cảnh vật hai bên đường thành phố của đất ngàn năm văn vật.
Sau hai ngày đi thăm viếng thắng cảnh tại đây, nhìn người dân Việt cần cù tranh sống giữa một môi trường, nửa mang tính chất cổ kính, một phần đang chuyển mình hướng về thế giới tân tiến, ba người không biết dân tình sẽ thay đổi như thế nào để phù hợp với chế độ mới. Riêng Lan, nàng có cảm tưởng như họ nhìn nàng bằng cặp mắt thiếu thiện cảm vì nàng mặc áo đầm, đội nón rộng vành che nắng kiểu tây phương, nhất là khi thấy nàng đi cạnh ông tây, bà đầm và nói chuyện với hai người này bằng tiếng Pháp.
Thảo nào mà hồi chiều khi xe vừa qua khỏi khách sạn, Bạch Lan thấy một anh chàng thanh niên, tuổi xấp xỉ bằng mình, dáng điệu ẻo lả, đầu đội chiếc nón cối mà Bạch Lan thường thấy trong hình vẽ mấy anh cán bộ Việt Minh, đăng trên báo chí Pháp. Người này có vẻ tức tối, đạp xe đuổi theo, chỉ chỏ la lối lớn tiếng, cứ gọi mãi tên ai như là Huyền, hay Huyên ơi gì đó.
Anh tài xế là nhân viên làm việc với một người bạn của mẹ Maurice, bà Brigitte De Bormand. Ông này là chủ sự phòng liên lạc Pháp tại Hà nội, biệt phái tài xế cho Bác sĩ Maurice trong thời gian thăm viếng tại đây.
Khi thấy một cán binh đuổi theo sau xe, tay chỉ chỏ, miệng la lối om sòm, anh tài xế không muốn phiền phức, sợ bị sếp lớn la rầy khi biết chuyện, nên anh nhấn mạnh chân ga, lái xe chạy nhanh về hướng khác để tránh tên cọng sản với đầu óc đã trở thành điên khùng vì bom đạn chiến tranh.
Bạch Lan cảm thấy một nỗi buồn dâng lên trong lòng khi chạnh nghĩ đến và thương hại cho người chiến sĩ đồng hương mất lý trí, không quen biết.
Khách sạn vừa lên đèn, ánh sáng của những ngọn đèn trước cổng và chung quanh tường làm nổi bật tòa nhà lớn, giữa màu vàng mù mờ của mấy bóng đèn trên cột điện rải rác dọc theo con đường chính của thành phố.
Catherine và Maurice đang còn ở quầy rượu tại phòng ăn của khách sạn, Bạch Lan lấy cớ hơi nhức đầu nên lên phòng nghỉ sớm.
Nàng thay bộ áo ngủ, chải sơ mái tóc xỏa dài xuống đôi vai, nhìn vào gương, ngắm nghía mỉm cười vừa ý với nét đẹp tự nhiên của mình rồi mở cửa bước ra ngoài lan can, đứng hóng mát.
Ngọn gió từ hướng tây bắc thổi mái tóc nàng bay phất phới; bầu trời đầy sao lấp lánh như kim cương trang điểm nền màu đen của vũ trụ sâu thẳm muôn trùng.
Thành phố Hà Nội đang đắm chìm trong màn đêm, say ngủ im lìm, êm đềm không tiếng động cơ của phi cơ khu trục bay trên đầu. Đường phố vắng vẻ không thấy bóng dáng khách bộ hành, khác hẳn với thời gian trước với những tiếng chân đi của lính Tây tuần tiểu hàng đêm.
Bạch Lan nhắm đôi mắt lại, hít vào lồng ngực căng tròn làn không khí trong lành mát rượi, thả hồn vào cõi mông lung của tiềm thức, cố gắng tìm tòi trong ký ức một cái gì khả dĩ có thể giúp nàng nhớ lại gốc gác của mình.
Tâm tư khắc khoải, trống vắng làm nàng cảm thấy đau khổ nhiều đêm. Có nhiều lúc trong giấc ngủ chập chờn, Bạch Lan nằm mơ thấy mình đang dạo chơi trên một bãi biển nhiều gió, bên cạnh hai người thanh niên Việt Nam lạ hoắc. Rồi nàng thấy một con đường, chạy dọc theo con sông nhỏ, dòng nước chảy lờ lững...bên tai nghe tiếng nhạc ngựa lóc cóc đều đặn đưa nàng chìm sâu vào giấc ngủ triền miên. Khi tỉnh dậy, đầu óc nàng quay cuồn, đau như búa bổ và Bạch Lan vẫn không nhớ thêm được gì nữa cả.
Đêm nay dưới ánh đèn mờ của ngọn đèn chong trên bàn giường ngủ tại một khách sạn xa lạ, Bạch Lan nhớ đến Quang và ước mong có chàng ở bên cạnh để săn sóc an ủi và nhất là giúp nàng đi đến một quyết định có thể sẽ thay đổi tương lai của cả đời nàng.
Nhân viên Việt Nam trên chiếc Bệnh Viện Hạm đã được Hạm Trưởng thông báo sau chuyến hải trình này, tàu sẽ ghé lại Đà Nẵng và Nha Trang trước khi khởi hành về hải cảng Marseilles.
Những người không có quốc tịch Pháp phải rời tàu tại hai bến nói trên, chỉ có Bạch Lan và vài người khác đã được chấp thuận là công dân Pháp mới tiếp tục ở trên tàu. Tuy nhiên vì muốn Bạch Lan khỏi cảm thấy như bị bắt buộc phải theo tàu đi Pháp, vị Hạm Trưởng đã yêu cầu Lan suy nghĩ trước khi tin cho ông biết là nàng có muốn rời tàu và ở lại Việt Nam như những nhân viên khác, hay là theo Bệnh Viện Hạm về Pháp.
Bạch Lan đã viết thư cho Quang nhưng chưa có cơ hội gửi đi. Trong thư nàng báo tin cho Quang biết là nàng định theo tàu về Pháp dưới sự bảo trợ của bà Brigitte. Bạch Lan dự trù ở nhà bà này tại Brest một thời gian để cầu mong với phương tiện y học tối tân tại Pháp, họa may nàng có cơ hội tìm lại được trí nhớ, sau đó sẽ tính chuyện trở lại quê hương.
Bạch Lan đau khổ nhiều khi đi đến quyết định này vì mãi đến nay nàng vẫn không biết mình là ai, không nơi nương tựa, xa lạ lạc lõng tại đất Mẹ và cũng không thể về sống với Quang được, dù trong thâm tâm nàng rất mong được như thế. Họa chăng trong tương lai hai người sẽ gặp lại nhau và xây đắp tổ ấm hoặc tại Việt Nam hay tại Pháp, nếu Quang có thể xuất ngoại du học.
Thư nàng viết rất dài, nước mắt của người con gái ướt lấm chấm trên tờ giấy màu hồng, đang hoang mang vì bị chi phối bởi sự lo âu không chắc chắn của cuộc đời, định mệnh đã đẩy đưa nàng như cánh bèo trôi không định hướng.
Bác sĩ Maurice ngược lại rất vui mừng khi nghe Bạch Lan tâm sự với Catherine về quyết định xuất ngoại của nàng. Ông ta đã cho Bạch Lan biết là không những mẹ ông đã bảo trợ, mời nàng về sống với gia đình mà còn có ý và sẵn sàng làm giấy tờ thủ tục để nhận nàng làm con nuôi nếu Bạch Lan chấp thuận. Catherine cũng vui không kém, nàng lăng xăng hoạch định chương trình cho Bạch Lan khi về đến Pháp, Catherine đã thương mến cô gái “vô danh” và xem nàng như người em gái đã được mình giúp đở, cứu sống.
Với số tiền quyên được từ những nhân viên người Việt và thủy thủ đoàn của Bệnh Viện Hạm, Bạch Lan có thể lấy làm vốn đóng tiền học phí ghi tên theo học trường Đại học tại Pháp nếu nàng được trường thâu nhận.
Nàng ước mong một ngày nào đó khi tìm lại được ký ức, người nữ Bác sĩ tương lai sẽ trở về phục vụ tại một bệnh viện giúp đỡ các cô nhi không gia đình như cá nhân nàng hiện tại.
Chương 10: 
Trời mưa như trút đã hơn hai ngày nay trên thành phố Huế, mùa gió đông bắc thổi mạnh từ biển Nam Hải mang theo không khí ẩm ướt rít rát khó chịu. Lá cây bàng hai bên đường Thành nội bay trong gió lộng theo ngược chiều đồng hồ, trước khi rơi xuống dính sát trên con đường đất sét, nhầy nhụa.
Nguyên suýt té mấy lần vì bánh sau chiếc xe đạp sterling cứ quay tròn trên bùn mỗi lần anh nhấn mạnh chân lên hai bàn đạp.
Chiếc áo mưa bằng ny lông ướt sủng dính sát vào người vướng víu, bực bội, hạt mưa tạt mạnh vào mặt, bật tung chiếc nón áo mưa về phía sau, Nguyên cũng mặc kệ vì nếu thả tay gi đông ra thì bị té liền.
Kể từ ngày anh Nghĩa được trả tự do ra khỏi nhà giam Thừa Phủ, cũng hơn sáu tháng rồi, ngày nào anh cũng kể cho Nguyên nghe những mẫu chuyện kháng chiến, về những chuyến di hành kham khổ và nguy hiểm trên con đường mòn trong núi Trường Sơn.
Anh Nghĩa còn đem về một tin mừng của Trung cho thầy Phương và vợ của ông, ít nhất là cho hai ông bà biết Trung vẫn còn sống sót khi gặp anh Nghĩa tại làng Vân Trình.
Mẹ của Trung khóc ròng khi nghe anh Nghĩa cho biết tin tức con mình, bà hỏi thăm rối rít về tình trạng của Trung, nào là “Trung có ốm lắm không? có đen lắm không? có nhắc nhở gì đến hai ông bà không?”
Anh Nghĩa muốn hai ông bà Phương vui lòng nên anh nói là Trung nhớ nhà lắm và rất khỏe mạnh, Trung còn gửi lời về thăm viếng cha mẹ nữa. Anh Nghĩa biết mình phải nói như vậy, chứ ngày hôm đó khi gặp Trung, anh đâu dám nói cho Trung biết về ý định ra hồi chánh với chính phủ Quốc gia đâu.
Hàng ngày anh Nghĩa ngồi viết lại những bản nhạc mà anh đã sáng tác hay học thuộc lòng từ những nhạc sĩ kháng chiến khi còn ở trong bưng.
Nguyên còn nhớ anh dùng biệt hiệu Quang Lục, không biết đây là tên của một nhạc sĩ Việt Minh hay là của anh, Nguyên cũng không muốn hỏi thêm.
Qua những câu chuyện giữa anh Nghĩa và cha mẹ, Nguyên nghe anh dự trù tình nguyện nhập ngũ, xin vào trường Thủ Đức theo học khóa Sĩ quan Trừ bị, để áp dụng kinh nghiệm chiến đấu của mình giúp quân đội quốc gia.
Cha Nguyên biết tính tình ưa tự lập và thích hoạt động của cậu con trai trưởng nên cũng không ngăn cản ý muốn của anh Nghĩa.
Cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền dân tộc không bao giờ ngừng trong tâm tư người thanh niên đã lớn lên và nuôi nấng bởi chính dòng sữa của Mẹ Việt Nam.
Nguyên vừa mở cửa hông để lấy chiếc xe đạp ra dựng phía trước sân nhà, chuẩn bị đi học, con Berna đã đứng chờ sẵn như thường lệ.
Nó luôn luôn dậy thật sớm và đánh thức mọi người với tiếng sủa thật lớn của loài German Shepherd, khi chú Tứ đẩy chiếc xe bán bánh mì xa xíu đi ngang qua nhà Nguyên với tiếng leng keng quen thuộc.
Con Berna là chó của anh Nghĩa, người anh cùng cha khác mẹ, vừa trở về với chính nghĩa Quốc gia sau hơn mười năm theo kháng chiến chống Pháp.
Anh Nghĩa rất thích nuôi chó, nghe nói anh có một con Berger lúc anh vừa mới 15 tuổi khi mẹ mới sinh ra Nguyên. Con Berna rất cao lớn, có thể gần bằng chiều cao của chiếc xe đạp cuốc sterling của Nguyên.
Kể từ ngày anh Nghĩa chuẩn bị để vào trường Thủ Đức học khóa Sĩ quan Trừ bị, anh giao con Berna cho Nguyên chăm sóc và dẫn đi chơi.
Nguyên rất thích thú và hãnh diện vì đây là lần đầu tiên anh ta có một con chó riêng để chạy chơi với mình như con chó Lassie mà anh đã xem trong phim ảnh.
Nguyên hãnh diện với mấy thằng Hoàng, thằng Nông trong xóm vì chó của tụi nó lùn và nhỏ xíu, đuôi cong vòng, chổng đựng lên trời.
Chúng nó cũng thích con Berna lắm, cứ vuốt lông và ôm cổ nó hoài. Con Berna rất thích chơi với trẻ nít và thật là hiền với người quen biết, ngoài ra nó rất muốn được cưng chìu như con gái vậy mặc dù nó là chó đực.
Thằng Hoàng hay để dành xương xí quách từ tiệm bán cao lầu mì của ông già nó, còn thằng Nông thì hay cho Berna ăn bánh biscuit loại cứng mà lính Pháp thường ăn. Cha của thằng Nông trước làm tiếp liệu cho cơ quan Pháp nên ông vẫn còn thức ăn và rượu Tây sau khi Pháp rút về nước cách đây khoảng sáu tháng.
Kễ từ ngày Nguyên có con Berna, ba đứa trở thành thân thiết hơn, không còn đánh lộn nhau vì những chuyện không đâu. Thí dụ như thằng Hoàng chơi xấu, gạt chân bất hợp pháp trong trận đá banh tại sân Lạc Hồng trong Thành nội, hay là khi thằng Nông chọc quê Nguyên về những bài thơ trữ tình mà Nguyên đọc trong thơ Xuân Diệu hay Hàn Mặc Tử.
Nó nói Nguyên mơ mộng như con gái làm Nguyên phát tức và đánh cho một trận cho nó biết sức trai mạnh khỏe của mình.
Chúng nó cũng bớt đi đá banh vì cuối tuần thường dẫn con Berna về Bao Vinh, qua Bãi Dâu cho chạy thả dàn trên cánh đồng trống.
Nó rất thích chạy đua với ba chàng thanh niên, khi chạy miệng thở hốc, lâu lâu lại sủa “gầu gầu” như thách đố ba đứa con trai đang còng lưng trên những chiếc xe đạp. Con Berna chạy theo sau, có lúc vượt lên trước nhìn lại rồi giảm tốc lực và chạy chậm lại để chờ ba cậu thanh niên đang mệt phờ.
Thân hình nó tuyệt đẹp, lông đen tuyền, ngực nở eo thon, bắp thịt cứng rắn, dáng dấp như một con ngựa đua khi chạy nước rút. Khách bộ hành qua đường đứng lại nhìn chiêm ngưỡng rồi vẫy tay về phía con Berna đang vừa sủa vừa chạy.
Sáng hôm đó, trong một ngày chúa nhật đẹp trời, ánh nắng tỏa dìu dịu và gió nhè nhẹ thổi, tơ trời bay lờ lững như màng nhện bị đứt, giăng đầy trời.
Con Berna sủa ồn ào vì bị Nguyên xích lại trong nhà. Nó muốn chạy ra xem người ta đi bỏ phiếu bầu tín nhiệm vị Thủ Tướng của nền Cọng hòa đầu tiên của nước Việt Nam và truất phế vua Bảo Đại.
Từng chiếc xe lô mười bánh của quân đội và xe đò chở đầy học sinh với biểu ngữ “Xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì” đi cổ động cho cuộc trưng cầu dân ý.
Nguyên đã biết sơ qua về lý do của cuộc bầu cử để chọn Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thay thế Hoàng Đế Bảo Đại đang ở bên Pháp.
Nguyên tham gia vào việc vận động này tại trường và hôm nay sẽ tháp tùng trên những chiếc xe dành cho trường để đi cổ động cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Cha Nguyên không thích việc truất phế vua Bảo Đại, ông là người quen lớn của Đức Từ Cung, mẹ của vua Bảo Đại và thường dẫn Nguyên vào Đại Nội để ông đánh bài với Đức Từ.
Nguyên còn nhớ bà Từ Cung thường cho anh ăn những trái vải khô của Tàu, ngọt lịm với hột vải nhỏ xíu.
Trưa hôm đó, sau khi đứng mỏi nhừ trên xe lô chung với các học sinh khác chạy khắp thành phố Huế, miệng khô đắng và khan cả cổ họng vì hoan hô và đả đảo, Nguyên trở về nhà thả con Berna cho chạy chơi quanh nhà.
Độ nửa tiếng đồng hồ sau khi Nguyên vừa tắm xong và đang chải đầu, bỗng nhiên Nguyên nghe tiếng la cầu cứu của ông bán bánh mì rong “cứu tôi với, chó dữ, chó dữ...”.
Nguyên vội vàng chạy ra trước cửa nhà thì thấy ông này đang đứng sát lưng vào tường, mặt mày tái mét, bao đựng bánh mì nằm lăn lóc trên nền nhà còn con Berna thì người nó đứng thẳng lên, hai chân trước chống vào vách tường, mặt nó nhìn kế sát vào mặt của ông này.
Nguyên nạt lớn “Berna xuống, Berna xuống”, nó mới chịu bỏ hai chân xuống đất, miệng còn gầm gừ như tức giận.
Ông bán bánh mì chửi thề rồi bảo Nguyên từ nay phải xích chó lại kẻo nó hại người khác. Nguyên xin lỗi ông ta và đem con Berna vào nhà.
Sau chuyện đó, Berna không được tự do chạy rông như trước nếu không có Nguyên bên cạnh.
Anh Nghĩa ra trường khoảng hơn chín tháng sau, thuyên chuyển về Đà nẵng. Anh ấy quyết định đem con chó Berna vào Đà Nẵng, suốt ngày hôm đó Nguyên bỏ ăn, đóng cửa phòng lại và không nói chuyện với ai cả.
Nguyên cảm thấy buồn vô cùng như vừa đánh mất cái gì thật quý giá của đời mình.
Trung trở về đến đơn vị khi trời đứng bóng, chiếc áo lạnh không đủ giữ hơi ấm của thân thể. Người ta nói ở ngoài này lạnh buốt da thịt thật không sai. Họ còn nói vào mùa đông tuyết phủ đầy trên đỉnh ngọn núi Hoàng Liên Sơn - Fan Si Pan - cách đây không xa lắm.
Trung tình nguyện theo học chương trình dành cho chính trị viên tương lai trong các chiến đoàn, anh đã tuyên thệ và chính thức trở thành một đảng viên của đảng Cộng sản Việt Nam.
Những giây phút hội ngộ bất ngờ với người bạn gái tại Hà Nội hôm đó xẩy đến quá nhanh làm Trung bất mãn với chính mình, anh thấy oán ghét cuộc đổi đời, hờn giận Huyền, đã thay lòng đổi dạ, theo thực dân Pháp vì ham chuộng xa hoa phù phiếm.
Trung không ngờ chỉ trong một thời gian ngắn chưa đầy một năm, người con gái Huế dịu dàng ngày nào đã trở thành một me Tây, cười nói lả lơi với Tây đầm trước mắt người đồng hương Việt Nam, ngay giữa công chúng trên đại lộ chính của thành Thăng Long.
Trong những ngày kế tiếp, Trung cố thăm dò và đi tìm tin tức của Huyền, anh đứng hàng giờ trước khách sạn với hy vọng là với may mắn nào đó, anh có thể bắt gặp Huyền tại đây để mắng cho nàng một trận cho thỏa cơn tức giận rồi đến đâu thì đến.
Nhưng biết khách sạn nào đây, có đến năm sáu khách sạn dành cho người ngoại quốc ở tại Hà Nội, hơn nữa Trung lại không quen thuộc đường sá nên anh chọn và chờ đợi tại một cái gần chỗ anh gặp Huyền ngồi trên xe hôm trước. Trung dựng chiếc xe đạp ngồi trên chiếc ghế đá trong công viên đối diện với khách sạn này cho đến chiều tối.
Khách ngoại quốc vào ra liên tục, mỗi lần như vậy, anh đứng dậy để nhìn xem có người con gái Việt Nam tóc dài, da ngâm đen, thân hình cân đối, nhỏ nhắn không.
Thời gian trôi qua chầm chậm, Trung cảm thấy thất vọng, bất mãn và cuối cùng khi đèn đường bật lên, công viên bắt đầu vắng bóng người, anh đành bỏ cuộc. Trung dắt chiếc xe đạp cũ, quay người nhìn thêm một lần cuối cùng về hướng chiếc cửa khách sạn, gương đồng bóng loáng, rồi chậm rãi nhấn bàn đạp đi về nơi tạm trú.
Ngày hôm sau, anh đi đến khách sạn lớn ngay trung tâm thành phố, cũng ngồi chờ cả ngày nhưng vẫn không thấy bóng dáng người bạn gái ngày xưa. Anh buồn suốt mấy ngày sau đó, khi ngồi trên chuyến xe lửa xình xịt di chuyển trên con đường sắt đi về hướng tây bắc.
Khóa học chính trị dự trù kéo dài suốt mùa đông, sau đó những học viên người miền nam vĩ tuyến 17 sẽ được thuyên chuyển về các căn cứ hậu cần bí mật tại các địa phương, từ Bến Hải đến vùng đồng bằng sông Cửu Long, trước khi biên giới hai miền Nam Bắc khép lại sau 300 ngày trao đổi quân đội, dân chúng được tự do di chuyển, ký kết trong Hiệp định Genève.
Những chính trị viên có trách nhiệm tổ chức và duy trì hoạt động của các cán bộ nằm vùng do đảng Cọng sản cố ý để lại tại miền nam, hầu tái sử dụng khi cần thiết trong tương lai.
Tia sáng từ ngọn hải đăng trên đỉnh núi Tiên Sa mờ dần khi chiếc Bệnh Viện Hạm đổi hướng chính nam. Trăng thượng tuần đã lên cao trên bầu trời trong, rọi ánh sáng bàng bạc phía bên tả hạm. Biển hơi động làm con tàu lắc nhiều và chạy nhanh hơn với những đợt sóng chếch xuôi từ hướng đông bắc.
Nhóm thứ nhất gồm khoảng năm thủy thủ Việt Nam quê quán tại vùng Quảng Nam, Thừa Thiên...đã rời tàu, họ ngậm ngùi chia tay với những người ở lại. Vị Hạm Trưởng già cảm động khi trao quà lưu niệm cho các cựu thủy thủ đã phục vụ với ông.
Bạch Lan cũng buồn không kém, nàng đứng trên bong tàu, một lần nữa vẫy tay chào từ biệt những người đồng hương và thầm cầu khấn cho họ được may mắn hơn người Y tá yêu mến tên Quang của nàng.
Lá thư cuối của Quang đến tay Bạch Lan quá trễ, mãi đến khi tàu rời Hải Phòng về đến vịnh Đà Nẵng là nơi thư tín được chuyển đến tàu khi ghé bến. Trong thư Quang báo tin buồn cho Bạch Lan và nói về đám táng của mẹ anh.
Bà đã từ trần tại giường bệnh vì vết thương trên đầu quá nặng, bà ngủ luôn không tỉnh dậy từ cơn hôn mê. Do đó bà cũng không biết là đứa con trai độc nhất đã ở bên cạnh giường hàng ngày cho đến giờ phút bà lìa trần.
Đám táng được gia đình tổ chức đơn giản trong một ngày trời nhiều mây. Sau đó Quang nhận được thư thông báo của ông Y sĩ Trưởng về việc nhân viên Việt Nam không mang quốc tịch Pháp. Ông này thay mặt các Bác sĩ và nhân viên trên tàu cám ơn Quang về tất cả mọi việc mà anh đã giúp họ. Vị Y sĩ Trưởng chúc Quang may mắn và đính kèm chi phiếu trả lương cuối cùng cho Quang.
Bạch Lan cũng đã gửi thư chia buồn và mong sẽ gặp lại Quang trong tương lai và yêu cầu Quang tiếp tục viết thư cho nàng.
Chuyến ghé bến cuối cùng tại Nha Trang không kéo dài bao lâu, chỉ đủ thời gian để cho Bệnh Viện Hạm tiếp tế nhiên liệu và dụng cụ cần thiết cho cuộc hành trình dài không nghỉ. Những bồi bếp, lao công Việt Nam có nhiều thì giờ thu xếp từ biệt bạn bè ở lại rồi kế tiếp nhau xuống thuyền máy rời tàu.
Vịnh Cam Ranh, rồi ngọn hải đăng trên đỉnh núi Vũng Tàu lần lượt khuất dần về phía sau lái tàu đang tăng tốc độ trực chỉ về hướng tây.
Trời hôm đó vẫn trong xanh, sóng nước quê Mẹ Việt Nam chỉ còn lưu lại trong tâm tư, kỷ niệm của Bạch Lan, đang đứng thờ thẫn nhìn về phía bờ biển bên hữu hạm chiếc tàu Bệnh Viện.
Trong suốt ba tuần lễ sau đó, những ưu tư thắc mắc ám ảnh trí óc của nàng. Cô Y tá Catherine luôn luôn khuyến khích và giao việc cho Bạch Lan làm để nàng bận rộn với nhiệm vụ lo lắng chăm sóc cho bệnh nhân, hầu có thể quên đi phần nào nổi nhớ nhà.
Sinh hoạt trên tàu chậm hơn khi đang còn biệt phái cho quân đội Pháp tại Việt Nam. Biển bắt đầu động mạnh khi tàu vượt qua eo biển Malacca giữa Singapour và Sumatra, hải hành vào biển Ấn Độ Dương.
Có nhiều ngày Bạch Lan say sóng dữ dội, chỉ ăn được súp và trái cây, nằm bải hoải trên giường, cô Catherine cũng thế, hai người trở thành bệnh nhân được Bác sĩ Maurice chăm sóc lo lắng, tiếp tế bánh biscuit loại cứng và đem báo chí cho hai cô này đọc đỡ buồn.
Maurice có vẻ quyến luyến với Catherine nhưng lại tỏ ra có nhiều cảm tình với Bạch Lan, có lẽ là vì thương hại người thiếu nữ Việt Nam.
Đã nhiều lần Bạch Lan bắt gặp hai người cầm tay nhau, dìu nhau vào phòng ngủ của Bác sĩ Maurice, họ ở trong đó với nhau một thời gian lâu, rồi sau đó Cathy tỏ ra bối rối khi bắt gặp tia nhìn như thăm hỏi của Bạch Lan.
Nàng cười thông cảm và một ý nghĩ không đâu chợt thoáng đến làm Bạch Lan đỏ mặt thẹn thùng.
Thế rồi khi chiếc Bệnh Viện Hạm đi vào kinh đào Suez, không khí bắt đầu thay đổi, gió nóng từ sa mạc thổi qua bong tàu, những bệnh nhân và thủy thủ đoàn lên trên bong thượng để hóng mát và ngắm cảnh hai bên bờ. Lãnh thổ của xứ “một nghìn lẻ một đêm” trong câu chuyện huyền bí Ai Cập được truyền tụng trong nhân gian, trải dài trước mắt những khách trên bong.
Sau đó tàu rời kinh đào Suez tại Port Said, một cửa biển chiến lược nổi tiếng về vẻ đẹp thiên nhiên.
Biển Địa Trung Hải êm và xanh hơn những đại dương khác trên hải trình từ Việt Nam về Marseilles mà Bệnh Viện Hạm đã vượt qua.
Những con cá heo lướt mình trên sóng, lội nhanh trước mũi tàu, khi tung mình lên cao khỏi mặt nước như khoe thân hình thon đẹp, khi vùng vẫy đuổi theo tàu như muốn lội đua.
Tàu dự trù sau khi vượt qua đảo Malta sẽ ghé lại thành phố Naples, một nơi nghỉ mát phía tây nam nước Ý Đại Lợi để tiếp tế nhiên liệu và thực phẩm trước khi tiếp tục đi nốt đoạn đường còn lại tương đối ngắn đến Marseilles.
Bạch Lan đứng nhìn bãi biển cát trắng với khách du lịch đang phơi mình trần dưới ánh nắng ấm của mặt trời chói chan. Họ tung tăng nhảy qua những đợt sóng bạc đầu đang cuộn vào bờ, dưới bầu trời trong vắt không một gợn mây.
Lại một lần nữa, một hình ảnh quen thuộc chợt thoáng qua trong tâm trí của nàng, hình dáng một người con gái trẻ tuổi trong bộ áo quần tắm màu tím nhạt, đang chạy theo hai chàng thanh niên mặt mày lạ hoắc trên một bãi biển cát trắng ngà, cũng nhiều sóng cuốn bạc đầu.
Bạch Lan ôm đầu, choáng váng muốn té, rồi cảm thấy như có hai cánh tay đang đỡ lưng nàng và tiếng Bác sĩ Maurice nghe thoang thoáng bên tai:
- “Orchid có việc gì không? Có lẽ lại mơ thấy cơn mộng cũ phải không? Để Maurice dìu em vào phòng nghe”.
Bạch Lan gật đầu không trả lời, nàng dựa vào người của Maurice, chậm rãi lê bước vào phòng ngủ của mình.
Bác sĩ Maurice đặt Bạch Lan nằm trên giường, đi lại chiếc bàn rót một ly nước đem đến cho Lan, xong anh ấy kéo ghế ngồi xuống bên cạnh, cầm tay Bạch Lan:
- “Orchid có còn nhớ gì không, nói cho Maurice biết, họa may anh có thể định bệnh và giúp em tìm lại ký ức đã bị ảnh hưởng vì sự chấn động tinh thần.”
- “Em sẽ cố gắng, cám ơn Bác sĩ, nhưng mỗi lần em ráng tìm hiểu thêm về giấc mộng, đầu em buốt lại như bị ai lấy kim châm đâm vào giây thần kinh.”
Bạch Lan vừa nhăn nhó trả lời vừa dùng bàn tay xoa hai bên màng tang của mình.
- “Khi nào về đến Pháp, anh sẽ liên lạc với những vị Bác sĩ chuyên môn về tâm lý học để nhờ họ điều trị cho Orchid, riêng bây giờ Maurice muốn em nằm đây nghỉ một lát, Maurice phải đi chăm sóc bệnh nhân. Tàu cũng sắp sửa rời Naples rồi, không bao lâu nữa Orchid sẽ gặp mẹ ra đón chúng mình tại bến tàu Marseilles, anh chắc chắn rằng bà rất nóng lòng gặp Orchid lắm đó.”
Maurice cúi xuống hôn nhẹ lên vầng trán của Bạch Lan, trước khi đóng cửa phòng anh ta đưa ngón tay trỏ lên chỉ về phía Lan như bảo nàng phải nằm yên dưỡng sức.
Bạch Lan mỉm cười gật đầu như hiểu ý, rồi nằm ngửa người nhìn lên trần tàu, suy nghĩ bâng quơ, thở ra buồn bã.
Tiếng còi hụ dài báo hiệu tàu đang rời thành phố Naples của nước Ý Đại Lợi, mọi người hăm hở chuẩn bị giây phút vui mừng gặp lại người thân yêu sẽ đón chờ họ tại quê nhà.
Vài hôm sau vào một buổi sáng Catherine đến thay thế phiên trực cho Bạch Lan, mặt mày cô Y tá tươi rói như vừa có tin gì vui lắm. Quả thật như dự đoán của Bạch Lan, Catherine kéo tay nàng vào trong phòng tắm rồi ôm chầm lấy Lan, sung sướng loan tin:
- “Orchid ơi, em là người đầu tiên Catherine báo cho biết là tối qua Bác sĩ Maurice đã ngỏ lời cầu hôn với chị, thật là hạnh phúc quá phải không em, Cathy đã yêu Maurice lâu lắm rồi kể từ ngày anh bị thương tại Pleiku được chở về tàu và Cathy săn sóc cho anh ấy cho đến khi Maurice bình phục như Orchid đã biết. Cathy chỉ mong chờ ngày hôm nay và đã chấp nhận lời làm vợ Maurice. Orchid có mừng cho Maurice và Catherine không?”
Bạch Lan không kịp phản ứng trước tin mừng đột ngột này, nàng chỉ ấp úng trả lời:
- “Có chứ, em rất mừng cho Bác sĩ Maurice và Catherine lắm chứ, nhưng mà khi nào hai người mới định làm lễ kết hôn?”
- “Anh ấy bảo là phải chờ về thưa với mẹ anh rồi sẽ chọn ngày ra nhà thờ làm lễ cưới. Orchid nhớ phải làm phụ đâu cho chị nghe.”
- “Thưa chị vâng, Bạch Lan thích lắm, như vậy là có chị bên cạnh thường trực rồi, em thích và cảm thấy yên bụng rồi.”
Hai người ôm nhau cười vui vẻ quên không để ý đến tiếng còi tàu vang lên “tù... tù... tù” báo hiệu cho mọi người trên tàu biết Bệnh Viện Hạm đã vào đến hải phận Pháp quốc.
Bạch Lan rời phòng Y tá trực, nàng quyết định không đi về phòng để nghỉ mệt sau một phiên trực đêm bận rộn. Bạch Lan lần theo thang lầu, người nghiêng theo nhịp lắc ngang quen thuộc của chiếc tàu, đi lên sân thượng để xem những gì xảy ra trên đó.
Cơn nắng chói chan làm nàng nhíu mắt lại, móc túi lấy chiếc gương mát đeo lên che nắng.
Một đoàn hải điểu bay lượn theo Bệnh Viện Hạm chờ thức ăn dư thừa được các đầu bếp thủy thủ đổ xuống biển. Từ phía xa chếch về bên hữu hạm, những dãy núi mập mờ hiện ra trong sương mù bốc lên cùng hơi nước biển.
Những người bệnh nhân đứng trên bong ngừng nói chuyện với vài thủy thủ Pháp, họ gật đầu chào Bạch Lan khi thấy nàng đi ngang qua, thậm chí có người gọi cả tên nàng làm Bạch Lan quá ngạc nhiên.
Cuộc sống trên tàu lâu ngày làm cho mọi người quen biết nhau, đôi khi thủy thủ đoàn đối xử với Bạch Lan như là người cùng chung chủng tộc với họ chứ không kỳ thị vì nàng là người Việt Nam. Tất cả người bạn Pháp đều gọi Bạch Lan là Vietnamienne thay vì Annamite như những tên thực dân Pháp đã gọi người An nam trước đây.
Gió thổi mạnh suýt nữa làm bay chiếc nón màu trắng của cô Y tá trẻ đẹp, đang nhắm mắt hít vào mùi biển mặn mà định mệnh đã làm nàng yêu mến. Một cảm giác thích thú kỳ lạ của những người yêu biển cả làm nàng hít mạnh thêm. Hèn gì những người đã chọn đại dương làm nhà thường ví biển như là một người tình, nhớ biển như nhớ người con gái mình thương.
Riêng đối với Bạch Lan, khoảng thời gian trên con tàu này với Quang là một kỷ niệm êm đềm nhớ mãi trong ký ức của nàng. Bạch Lan biết rằng mình sẽ phải rời chiếc Bệnh Viện Hạm khi tàu ghé bến Marseilles và nàng bắt đầu cảm thấy buồn vì không còn có dịp đứng dựa lan can tàu vào những buổi bình minh, say sưa lặng ngắm mặt trời màu đỏ tươi trên đại dương, từ từ mọc lên từ chân trời trong những buổi sáng mờ sương.
Bạch Lan trở về phòng, vào phòng tắm vặn vòi nước, hòa cho đủ ấm rồi cổi dây thắt lưng của cái áo choàng, để chiếc áo rơi trên sàn phòng tắm, bước vào đứng trước vòi sen, ngửa mặt dưới tia nước ấm, cảm thấy người mình tỉnh táo hẳn lên.
Khi hai tay nàng thoa tấm thân hình nẩy nở, Bạch Lan nhớ mường tượng trong đầu một hình ảnh không rõ rệt lắm, từ thuở nào xa xưa, thoáng đến rồi tan biến mất trong ký ức.
Sau khi tắm thỏa thích một hồi lâu, nàng mặc bộ đồ ngủ vào và leo lên giường cố dỗ mình vào giấc ngủ triền miên với giấc mộng đẹp.
Chiếc xe hơi chuyên chở gỗ ván quẹo vào con đường hẹp phía sau sông Hàng Bè. Anh tài xế liếc nhìn vào gương chiếu hậu để chắc chắn rằng xe có thể qua được khúc cua gần chín mươi độ.
Vì chiều cao của chiếc xe không thể chạy ngang dưới cầu Đông Ba quá thấp, anh phải vào con lộ này để chạy lên đường Gia Long, thường được người Huế gọi là đường “ngả giữa”.
Anh tài xế thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy bánh xe bên trái phía sau, chỉ phải leo lên lề đường một tí thôi. Anh nhấn chân ga để tăng tốc độ rồi quay nhìn về phía trước xe.
Bỗng nhiên anh hoảng hốt đạp thắng xe thật gấp, lấy tay lái về tay mặt để tránh con chó màu đen đang từ trước sân căn nhà bên trái, phóng chạy ngang qua đường đuổi theo một con mèo tam thể. Nhưng đã quá muộn, vì khoảng cách quá gần, chiếc xe chỉ tránh được con chó khỏi hai bánh xe trước, con chó Berger kêu ăng ẳng vài tiếng rồi tiếng kêu nhỏ dần và tắt ngúm. Thân hình nó bị hai bánh xe sau cán bẹp nhúm, máu từ miệng nó chảy ra trên con đường nhựa giữa một buổi chiều ngày thứ bảy.
Nguyên đang ngồi học luyện thi để chuẩn bị đại diện trường Quốc học trong giải trung học toàn quốc về môn anh văn. Nghe tiếng ồn ào trước cửa nhà, anh ngừng học, đi ra xem thử có chuyện gì đang xảy ra.
Trống ngực Nguyên chợt đập mạnh, áp huyết tăng lên cao, khi Nguyên thấy Đô, con chó lai Berger của Nguyên đang nằm trên vũng máu đào, hai mắt mở trừng như đang nhìn Nguyên cầu cứu. Bên cạnh là chú tài xế xe tải, mặt mày tái mét, bối rối trước đám đông người đang đứng lại xem tai nạn.
Nguyên chạy tới, quỳ xuống và ôm con Đô vào lòng bất kể máu me dính đầy vào cánh tay áo sơ mi trắng. Nguyên khóc ròng rã, rồi đột nhiên một cơn giận dữ chợt đến với Nguyên, anh không dằn lòng được nữa. Nguyên đặt con Đô nằm xuống đất rồi xông về phía chú tài xế, nắm lấy cổ áo và dang tay định đánh vào mặt chú này.
Mọi người vội nhảy vào can ngăn và nắm lấy tay Nguyên, thế rồi Nguyên chợt nghe tiếng khóc và tiếng khuyên can của Ngọc, cô láng giềng xinh đẹp vừa mới nghe tin dữ chạy đến.
Cơn giận của Nguyên giảm dần khi nghe chú tài xế giải thích và trình bày lý do tại sao. Chú ấy xin lỗi và rất hối tiếc là không tránh kịp vì con chó bất ngờ chạy ngang trước xe hơi, khoảng cách quá gần không cho chú có đủ thì giờ tránh kịp.
Nguyên thẫn thờ mang con Đô vào nhà, Ngọc buồn bã đi theo sau an ủi người bạn trai mà nàng vừa quen biết vào khoảng hơn sáu tháng nay khi cha mẹ mua căn nhà bên cạnh và dọn đến ở vào khoảng mười tháng trước đây.
Nguyên nhất định không cho mang con Đô đi chôn, anh đặt nó nằm trên chiếc mền cũ của anh, rồi cứ buồn rầu ngồi nhìn nó, nước mắt chảy dài xuống má. Đô là con chó riêng mà cha mẹ đã mua cho Nguyên sau khi anh Nghĩa, người anh cùng cha khác mẹ, đem con chó Berna vào Đà Nẵng với anh ấy.
Tội nghiệp cho Ngọc, ngồi bên cạnh người yêu suốt cả buổi chiều, khuyên răn Nguyên mãi, đến khi mẹ Nguyên từ chợ trở về, giải thích hơn thiệt, Nguyên mới chịu nghe lời. Mẹ Nguyên nhờ Nông và Hoàng cuốn xác con Đô vào chiếc mền, đem ra khu đất trống sau hồ sen đào lỗ chôn nó.
Sau khi hai người bạn trai mang xác con chó đi chôn, Nguyên xin phép mẹ và yêu cầu Ngọc ở lại chơi một lát rồi hãy về.
Nguyên đỡ lưng Ngọc leo chiếc cầu thang lên sân thượng mà cha đã thuê xây cất để gia đình lên ngủ vào những đêm mùa hè nóng nực.
Hai người ngồi xuống bên nhau trên chiếc ghế dài cạnh lan can lầu.
Hoàng hôn bắt đầu bao phủ màn trời màu xám với những tinh tú óng ánh trên không trung.
Nguyên định vói tay bật ngọn đèn điện nhưng Ngọc kéo tay lại không cho, nàng thích ngồi nhìn vũ trụ và ngắm cảnh trời mây trong bóng tối.
Nguyên nghiêng người qua rồi đánh bạo hôn nhẹ vào chiếc má dễ thương của người yêu. Ngọc không tránh né, có lẽ vì muốn chìu Nguyên khi anh đang buồn vì chuyện con chó thân yêu vừa chết.
Đây là lần đầu tiên Nguyên đường đột và đi xa hơn trong sự liên hệ tình cảm của hai người. Trước đây Nguyên chỉ nói anh yêu em và hỏi Ngọc có yêu Nguyên không? hay chỉ cầm tay nhau mà thôi, chứ chưa khi nào hôn người yêu lần nào cả.
Ngọc và Nguyên bắt đầu yêu nhau cũng hơn sáu tháng rồi. Ngọc là cô láng giềng xinh đẹp, dáng người thanh cảnh nhỏ nhắn với mái tóc dài óng mượt xõa ngang bờ vai. Nàng có đôi mắt huyền dịu hiền nhí nhảnh, đôi môi hồng nũng nịu ướt át, miệng cười rất tươi, khi nàng cười đưa chiếc răng khểnh ngây thơ duyên dáng.
Nguyên không nhớ rõ tiếng sét ái tình đã xảy đến với Nguyên hồi nào, chỉ biết lòng mình cảm thấy khát khao với một thứ tình cảm ấm cúng êm ái lạ lùng dâng lên, mỗi khi Nguyên đạp chiếc xe cuốc đi ngang qua nhà Ngọc và thấy nàng đang đứng trước cửa, hai tay khoanh trước ngực căng phồng dễ thương, dưới lớp áo cánh mỏng màu trắng và mỉm miệng cười chào Nguyên với đôi mắt thật tình tứ.
Sau nhiều tuần lễ mơ mộng và nhớ mong nhiều, một hôm Nguyên đánh bạo viết thư tỏ tình và trên đường đi học, dừng xe lại trao vội lá thư cho Ngọc rồi nhảy lên cái yên xe đạp, nhấn mạnh bàn xe, suýt chút nữa Nguyên tông nhào chú Sáu thợ mộc đang từ trong nhà chú bước ra.
Những ngày sau đó, Nguyên trằn trọc không ngủ được, chờ đợi mãi vẫn không thấy Ngọc trả lời. Nguyên thắc mắc rồi tự trách mình không biết dùng lời văn ướt át và thành thật hơn để nàng hiểu được tấm lòng yêu thương của mình đối với Ngọc.
Thế rồi một phép huyền diệu đến với Nguyên vào một buổi trưa hè ngày chúa nhật, khi Nguyên đang nằm thiu thiu thả hồn theo tiếng nhạc ngoại quốc yêu cầu từ chiếc radio nhỏ trên đầu giường, người em họ mang vào cho Nguyên một chiếc bì thư màu xanh với dòng chữ viết tay trên phong bì:
“T.g Anh Nguyên ” không có tên người gửi, nhưng Nguyên cũng đã đoán biết là của Ngọc. “T.g có nghĩa là thương gửi hay thân gửi nhỉ?”, nhưng mà gì đi nữa lá thư này đã làm Nguyên cảm thấy đời là một màu hồng vì tình yêu đã đến với Nguyên kể từ hôm đó.
Thế rồi những cánh thư với lời lẽ càng ngày càng thân mật và âu yếm hơn được xen kẽ bằng những lần hẹn hò gặp nhau lén lút và thẹn thùng. Tình yêu giữa Nguyên và Ngọc mỗi ngày thêm đậm đà, khắn khít và lãng mạn.
Vầng trăng tròn mười bốn lên cao dần từ hướng đông, về phía Thuận An, đôi tình nhân trẻ ngồi âu yếm cầm tay nhau không muốn rời. Trên không những con chim vạc đi ăn đêm buông tiếng kêu rời rạc và nhỏ dần khi bay xa.
“Mưa rừng ơi mưa rừng, hạt mưa...”, giọng ca khàn khàn của anh đồng chí cán bộ hát theo tiếng đàn ngắt quảng từng nốt nhạc từ cây mandolin nghe không được tí nào cả. Nhưng nó cũng diễn tả được phần nào nỗi buồn khi nghe những giọt mưa đang rơi xào xạc trên cành lá trong khu vườn của căn nhà ngói lớn, được dùng làm trại tiếp liên tại phía nam thành phố Đồng Hới.
Mưa đã rơi xuống vùng duyên hải miền trung này hơn ba ngày rồi, làm gián đoạn cuộc hành trình xuôi về nam của nhóm cán bộ 54, gồm những thành viên đảng vừa tốt nghiệp khóa huấn luyện chính trị tại trung tâm huấn luyện ở ngoài bắc.
Với những bí danh mới, những chính trị viên tương lai từ cấp Tiểu đoàn đến cấp Sư đoàn các đơn vị Việt Cộng không dùng tên thật để gọi nhau nữa.
Như thường lệ, người thanh niên họa sĩ chăm chú tập trung tư tưởng vào bức tranh đang vẽ dở dang, chiếc bút lông thành thạo dưới bàn tay điêu luyện của Trung đang họa những nét sơn màu trên tấm vải trắng.
Hình ảnh đoàn người đi giữa con đường khúc khuỷu của núi đồi dưới cơn mưa rào dần dần hiện lên như một phép lạ nhiệm mầu của cây bút lông.
Có tiếng chân bước đến gần, Trung vẫn không để ý và tiếp tục vẽ. Một mùi thơm trinh nguyên của người con gái, mùi hoa khế hay hoa bưởi chợt thoang thoảng bay vào khứu giác của người họa sĩ, Trung dừng tay vẽ, ngước nhìn về phía sau lưng.
- “Chào đồng chí, xin lỗi đã làm gián đoạn nguồn cảm hứng của đồng chí, nhưng tôi không thể dằn lòng đến đây chiêm ngưởng tài vẽ tranh của đồng chí. Thú thật chưa khi nào tôi rung cảm nhiều trước một tấm tranh vẽ như khi nhìn bức họa này.”
Trung bàng hoàng trước một khuôn mặt trái soan, làn tóc mây óng ả cắt ngắn như con trai, đôi mắt hơi xếch cao trên gò má ửng hồng. Bên tai anh còn nghe văng vẳng giọng nói bắc kỳ trong vút dễ yêu, mùi thơm của chiếc hoa bưởi từ tay người nữ đồng chí làm không khí giữa hai người dịu hẳn đi.
- “Tôi tên là Thu, xin lỗi có phải anh là Trung không?”
Trung vẫn còn xúc động vì bất ngờ trước người con gái dáng người cứng cỏi, anh không biết phản ứng như thế nào, chỉ rất ngạc nhiên về câu hỏi thẳng thừng và gọi anh bằng tên thật thay vì bí danh.
Người nữ cán bộ trông thấy Trung có vẻ bối rối, cô không chờ câu trả lời mà lại hỏi tiếp nữa:
- “Anh Trung thuộc đơn vị nào nhỉ, có cho tôi biết được không?”
Trung thầm nghĩ:
- “Cô gái này thật không biết điều, trước mặt các đồng chí khác mà cứ hỏi những câu này sao được, không ai có quyền tiết lộ đơn vị sắp tân đáo của mình mà, sao cô ta không biết luật lệ gì hết trơn.”
Nhưng rồi anh không chỉ trích và nói ra điều này sợ người đẹp hiểu lầm, vì thế anh chỉ “ừ... ừ” như đang suy nghĩ tìm câu trả lời.
Thu tấn công tiếp, vẫn với cái giọng nói đi ngay vào vấn đề:
- “Ô kìa, anh này hay nhỉ, sao không trả lời gì cả, bộ anh không muốn nói chuyện với tôi hay sao?”
Vừa nói nàng ta vừa nguýt một cái thật dài, nguây nguẩy bỏ đi vào căn nhà trong.
Trung vội vàng cố lấy lại bình tĩnh, anh nói theo:
- “Dạ phải, tôi là Trung và thuộc đơn vị Đồng Bò Nông Sơn, cô Thu đứng lại đi”.
Đang nhún nhẩy bước đi, Thu bỗng đứng khựng lại, chạy tới thản nhiên cầm cánh tay của Trung lay nhẹ và hỏi tới tấp:
- “Anh Trung nói thật hay đùa đấy, trời ơi nếu thật đúng như vậy thì thật là hay quá sá, Thu thuộc về quân ủy Cẩm Thanh Hội An đây này, cùng một chỗ với anh Trung rồi.”
Nàng không cầm lòng được mừng rỡ tíu tít như con bé vừa được quà, tự nhiên Trưng cũng cảm thấy vui lây không hiểu có phải vì lý do cùng làm chung trong tỉnh Quảng Nam với cô gái này hay không.
Trung liếc nhìn khuôn mặt đàn bà trẻ con của cô đồng chí cán bộ. Tuổi Thu khoảng chừng mười chín, hai mươi gì đó, bằng tuổi của Trung nhưng trông lớn hơn trước tuổi mặc dù tính tình có vẻ chưa chững chạc lắm, giống như con gái một nhà giàu vậy, muốn gì được nấy.
Thu thấy chàng trai có thân hình ẻo lả nhưng có thiên tài đặc biệt cứ liếc nhìn lén mình hoài, nàng tấn công để cố chọc quê cho bỏ ghét:
- “Làm gì mà cứ nhìn lén Thu dữ vậy, bộ chưa thấy nữ cán bộ lần nào hết hay sao, này Thu nói cho Trung biết nghe, Thu thấy anh dễ thương và vẽ đẹp nên Thu thích làm quen, chứ nhiều đồng chí khác la cà đến xin điểm hoài mà Thu vẫn tỉnh bơ à”.
Trung lúng túng đỏ mặt trước cách thay đổi xưng hô quá nhanh của Thu, tuy thế anh lại thích như vậy và đã cảm thấy có cảm tình với cô gái trực tính và duyên dáng này.
Rồi Trung nhìn quanh xem có ai để ý đến cuộc đối thoại này không. Anh yên lòng vì căn phòng bên trái hoàn toàn trống vắng, chỉ có Thu, giá vẽ và anh ta, những đồng chí khác có lẽ đang ra xem thời tiết và dạo chơi vì ngoài trời mưa đã ngừng rơi.
Trung kéo chiếc ghế mời Thu ngồi, anh để tấm cạt tông và chiếc bút vẽ xuống cái bàn bên cạnh, lau hai tay dính chút sơn màu vào mảnh vải thô, rồi đưa tay ra bắt bàn tay mềm nhỏ của cô nữ cán bộ:
- “Hân hạnh được biết Thu và rất vui vì trong tương lai Trung được làm cùng một đơn vị, mặc dù không gần nhau lắm nhưng cũng ở trong vùng hoạt động.”
Thu ngồi xuống chiếc ghế gỗ, mỉm cười, lần này nàng không nói nhanh như trước mà rất từ tốn, chậm rãi:
- “Chào anh Trung, Thu cũng thế, rất vui khi thấy anh có cùng một sở thích về hội họa. Anh Trung biết không cha Thu lúc còn sinh tiền, ông hay sưu tầm những bức tranh quý giá, ông thích nhất là tranh lập thể của Picasso và Van Gogh, cha thường chỉ cho Thu xem trong các tạp chí chụp lại những bức tranh của hai thiên tài hội họa này.”
- “Thì ra vì vậy vừa mới gặp mà Thu làm như mình quen biết nhau lâu lắm rồi, làm tôi lúng túng và ngạc nhiên quá.”
- “Thu xin lỗi đã có những lời nói và hành động sàm sỡ, tại vì tính tình của Thu như vậy từ hồi nhỏ, cứ bị mẹ mắng là như con trai, không giữ gìn ý tứ gì hết trơn. Nhưng cũng tại trời sinh anh à, khi nào Thu thích cái gì là không kiềm chế được lòng mình, cứ như là con nít đòi quà và ham búp bê vậy đó.”
Trung ngồi yên chăm chú nghe người con gái vừa mới gặp đang tâm sự với mình như là với một người bạn cố tri, có thể so sánh được với tình bạn giữa Trung và Huyền nữa. Vì thật ra có bao giờ Trung nói chuyện lâu với Huyền đâu, luôn luôn khi nào cũng có hình bóng của Nguyên đứng giữa hai người.
Huyền không chú ý đến Trung nhiều, ngoại trừ lần cuối cùng khi hai đứa dạo chơi trên con đường làng Vân Trình, bên cạnh dòng sông Ô Lâu với cành hoa lan Trung hái tặng Huyền.
Kỷ niệm đẹp này ghi nhớ mãi trong lòng người con trai thiếu thốn tình thương và rồi bất mãn trong chuyến viếng thăm Hà Nội khi Trung bắt gặp Huyền cười đùa nham nhở trên chiếc xe hơi cùng với tây đầm thực dân.
Những đêm dài nằm suy tư buồn cho cuộc đổi đời và người con gái thay lòng đổi dạ để rồi đi đến quyết định tiếp tục dấn thân trên con đường cách mạng, một cuộc chiến mà chỉ trong khoảng khắc anh sắp muốn từ bỏ hết để trở về với gia đình, bên cạnh hai người bạn học cũ Nguyên và Huyền của thuở thiếu thời đã đánh mất.
- “Anh Trung làm gì mà đăm chiêu dữ thế? À mà khi nào thì anh lên đường? Thu thì phải ở lại thêm vài ngày nữa vì có nhiều công tác phải làm, rồi mới đáp chuyến xe lửa vào đến Bến Hải, sau đó Thu theo phương tiện riêng của nhân viên tiếp liên vào Hội An bằng đường thủy cho nó kín đáo hơn.”
Thu vừa nói cho Trung về một chuyến đi đã được sắp đặt cho mỗi cán bộ chính trị viên khi tái nhập vào miền nam do quốc gia kiểm soát.
- “Tôi sẽ khởi hành khi thời tiết trở nên tốt hơn vì phải di hành bằng đường bộ, cứ như thế này thì tôi có thể đi vào ngày mai. Ngoài kia mưa cũng đã tạnh rồi, có lẽ tối nay tôi phải thu xếp hành trang đó cô Thu à.”
Trung xin lỗi cô bạn gái rồi dọn dẹp giá vẽ. “Hành trang” mà Trung vừa nhắc đến là vài chiếc áo quần đã cũ rích, một chiếc mền len và một cái áo ấm. Riêng những bức tranh vẽ là một gia tài kỷ vật mà anh đóng thành hai tập, một dành cho tranh lụa, một để cho tranh vẽ trên giấy, rồi cất trong chiếc va li bằng da bò mà anh đã để dành tiền mua tại một phố buôn bán tại Hà Nội trong chuyến nghỉ phép thăm viếng vừa qua.
Thu cũng phụ giúp cho bạn một tay, vừa ôm hai bức tranh vẽ vừa liếc nhìn Trung như thán phục:
- “Nếu anh Trung cứ tiếp tục vẽ như thế này thì một ngày nào đó em sẽ đứng ra tổ chức một cuộc triển lãm tại Hà Nội để trưng bày các họa phẩm tuyệt tác của anh cho công chúng thưởng ngoạn.”
Trung khiêm nhượng trả lời:
- “Chắc không đâu cô Thu ơi, ước mộng của tôi là chỉ ghi lại trên giấy, trên lụa nét đặc thù của quê hương, những cảnh đẹp của thiên nhiên trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta. Tôi không có cao vọng và cũng không muốn phô trương tác phẩm của mình. Chỉ mong rằng một ngày nào đó khi cơ hội cho phép, tôi sẽ tặng những bức tranh này cho viện Bảo tàng nghệ thuật để cho du khách xem và rồi lưu lại cho hậu thế.”
Thu đứng im, tay ôm hai bức tranh vẽ của Trung trước ngực, cảm động lắng tai nghe lời tâm huyết của một chàng thanh niên Việt Nam yêu quê hương đất nước từ cả thể xác lẫn tâm hồn, nước mắt nàng rưng rưng như muốn chảy dài xuống đôi gò má đang ửng hồng.
Thu bỗng thấy một thứ tình cảm êm dịu dâng lên trong lòng người con gái mới lớn, hay tự phụ và nhiều ham muốn, mà đã muốn là phải chiếm cho bằng được. Nhưng lần này cô gái ấy lại cảm thấy yếu đuối và thua kém trước một nam đồng chí đã làm trái tim nàng rung động.
Tiếng sét ái tình thay vì xảy đến cho người con trai, thì ngược lại Thu là người đã nhận thức trước và bị xâm chiếm với tất cả lòng mình.
Cuộc chiến đấu gian truân đã un đúc ý chí cương quyết vững mạnh từ hơn ba năm nay, khi Thu ly khai gia đình đi theo tiếng gọi của núi sông, như hàng hàng lớp lớp thanh niên thiếu nữ cùng lứa tuổi, với lý tưởng diệt thù cứu nước đánh đuổi thực dân, giành lại độc lập cho quê hương Việt Nam dấu yêu.
Tình cảm trai gái cá nhân bị đảng cấm đoán vì cho rằng đây là thứ tình cảm ủy mị làm suy yếu tinh thần chiến đấu của cán bộ.
Nhưng họ quên mất một điều mà không ai chối cải được vì tình yêu và hôn nhân không những chỉ là sự liên hệ và kết hợp giữa hai người trai gái yêu nhau mà còn là khởi đầu của sự nối tiếp của một gia đình, một dòng họ, một xã hội, một dân tộc...
Hai người tuổi trẻ này đã tìm đến bên nhau với một mối tình trai gái vừa chớm nở cho đôi tâm hồn cô đơn trong cuộc chiến mà họ đã dấn thân vì tin tưởng vào một huyền thoại mơ hồ.
Ngoài kia nắng vàng đã le lói xuyên qua rừng cây, chim chóc bắt đầu ríu rít rỉa cánh trên cành.
Tiếng nhạc trổi lên rộn ràng từ dàn Organ của thánh đường công giáo tại thành phố Brest khi cha cô dâu Catherine đưa con gái từ cổng chánh đi dọc theo hành lang, giữa hai hàng ghế đông quan khách đến tham dự lễ cưới, đang đứng im lặng hân hoan nhìn hai cha con cô dâu mới đi ngang qua.
Cô dâu Catherine rất xinh đẹp trong chiếc áo cưới màu trắng trải dài kéo lê lướt thước theo bước chân đi chầm chậm theo nhịp đàn, khuôn mặt của Catherine thấp thoáng sau tấm khăn voan cũng màu trắng.
Bác sĩ Maurice hiên ngang trong bộ quân phục Đại lễ của Lục Quân Pháp, mang găng tay trắng, thanh kiếm dài buông thả bên hông trái, đứng chờ cô dâu cạnh cha xứ và hướng mặt về phía hai cha con cô dâu Catherine đang tiến lên nơi hành lễ trước bàn thờ Chúa Jesus.
Bạch Lan đứng trong hàng ghế dành cho những người bạn của Maurice và Catherine, tươi tắn lộng lẫy trong chiếc áo đầm màu xanh đậm.
Khuôn mặt nàng xinh xắn mặn mà nổi bật giữa những người thanh niên da trắng trong bộ quân phục Sinh viên Hải Quân, thỉnh thoảng liếc nhìn cúi đầu kín đáo chào cô gái Việt Nam. Trong số những người này, Bạch Lan để ý thấy có một người tóc đen da vàng, có vẻ là người Á đông.
Anh Sinh viên lính thủy này cứ liếc Bạch Lan rồi nhìn đi nơi khác mỗi khi ánh mắt nàng vô tình nhìn về hướng anh ta, làm nàng cảm thấy không tự nhiên và thầm nghĩ :
- “Anh chàng này thật là vô duyên, không biết những người chung quanh đang chú ý, cứ nhìn người ta hoài, không tế nhị tí nào cả.”
Tiếng nhạc chợt ngưng lại, Bạch Lan thấy thân phụ của Catherine bước lui về chỗ ngồi. Một giây phút im lặng trôi qua, mọi người được mời an tọa rồi tiếng nói cha xứ vang dội, bắt đầu cầu nguyện Chúa.
Buổi lễ cưới theo truyền thống và luật lệ công giáo được cử hành trong không khí trang nghiêm, dưới sự chứng kiến của thân nhân và bạn bè hai họ.
Giọt lệ rưng rưng trên khóe mắt của Bạch Lan, cảm động và vui mừng khi thấy hai người bạn thân đang trao nhau nụ hôn đầu và chính thức trở thành vợ chồng.
Sau đó mọi người đứng chờ tân lang và tân giai nhân trước cổng chính nhà thờ.
Một đội hình gồm mười hai Sĩ quan và Quân Y sĩ, trong quân phục Đại lễ, tay cầm những thanh kiếm tuốt trần, đưa lên cao, mũi kiếm châu lại với nhau làm thành một mái nhà che cho cô dâu và chú rễ, miệng tươi cười đang dìu nhau khom mình đi ngang dưới rừng gươm.
Quan khách tung những nắm gạo về phía hai vợ chồng mới cưới rồi vỗ tay chúc tụng náo nhiệt.
Bạch Lan tiếng đến hai người bạn trẻ, âu yếm hôn Maurice và Catherine, nói vài câu chúc mừng trước khi đôi tân hôn leo lên chiếc xe hơi đang chờ sẵn, lái về khách sạn nơi buổi lễ tiếp tân sẽ được tiến hành trong chốc lát.
Bạch Lan tần ngần nhìn theo chiếc xe mang hàng chữ “Vừa mới cưới”, với những chiếc lon cột theo sau lái, kêu leng keng khi xe chạy.
Bà Brigitte De Bormand đến bên cạnh hồi nào mà Lan cũng không hay, bà âu yếm cầm cánh tay nàng, sung sướng nhìn theo chiếc xe hơi chở đôi vợ chồng dâu con mình, khuất sau khúc quẹo cuối đường:
- “Orchid thấy hai vợ chồng Maurice có xứng đôi không? Tôi rất mừng cho hai vợ chồng nó. Cuối cùng Maurice đã tìm được một người vợ hiền hậu và xinh đẹp, ước gì cha của Maurice còn sống để chứng kiến giây phút hạnh phúc này.”
Bạch Lan quay nhìn bà Brigitte, vuốt nhẹ lưng bàn tay bà như muốn an ủi vỗ về:
- “Cháu thấy Maurice và Catherine rất xứng đôi và cháu cũng rất mừng cho hai người, cháu chắc chắn họ sẽ hạnh phúc bên nhau mãi mãi. À thưa bà hình như cũng đến lúc mình phải đến khách sạn rồi phải không ạ?”
- “Suýt tí nữa thì lại quên mất, thật là tuổi già lẩm cẩm, cháu cùng đi xe với bác luôn thể.”
Người tài xế trong bộ đồng phục đen, lễ phép mở cửa xe cho hai người lên ngồi vào ghế sau, rồi theo đoàn xe quan khách từ từ lái về phía khách sạn.
Bạch Lan ngoái đầu lại về phía sân trước nhà thờ, tò mò tìm xem người thanh niên Á đông ở đâu.
Nàng thẹn thùng quay đi khi chạm phải ánh mắt của anh chàng Sinh viên Sĩ quan này, cũng đang nhìn về phía nàng, tay đưa lên chiếc vành nón gật nhẹ đầu như chào hỏi, miệng mỉm cười.
Bạch Lan bối rối liếc nhìn bà Brigitte xem bà có để ý gì không, nàng yên lòng khi thấy bà đang chăm chú nhìn về phía trước.
Lan đã đến đây được hơn ba tháng nay kể từ ngày Bệnh Viện Hạm được những chiếc tàu dòng phun nước chào đón và hộ tống vào hải cảng Marseilles.
Ngày hôm ấy, một ngày mà dân Marseillaises ghi nhớ mãi trong lòng, khi ra đứng đón những đứa con thân yêu trở về từ cuộc chiến Việt Nam.
Có người vui mừng ôm chầm những người thanh niên thân thể còn trọn vẹn, trong khi cặp vợ chồng già khác gạt lệ ôm vai đứa con trai cụt chân lê bước trên đôi nạng gỗ, trong khi ban nhạc đang trổi điệu quân hành.
Bà Brigitte De Bormand từ trong chiếc xe hơi bóng loáng bước ra đứng tại cầu tàu giữa đám người đang náo nức chờ con cái.
Khi thấy Maurice từ cầu thang đi xuống, bà vẫy tay gọi tên rối rít rồi chen người đi đến gần hơn. Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau sung sướng, bà hôn đứa con trai tới tấp lên trán, lên má.
Sau khi giây phút vui mừng tương phùng hội ngộ đã qua, Maurice thân ái giới thiệu hai người bạn gái đang tần ngần đứng nhìn bên cạnh.
Bà Brigitte lại thêm một lần nữa, ôm hai cô gái hôn lấy hôn để làm họ cảm thấy yên lòng rất cảm kích về sự đón tiếp hai cô đến với gia đình của bà.
Nhà bà Brigitte tọa lạc trên một ngọn đồi nhìn xuống một vịnh nhỏ bên cạnh thành phố Brest.
Hằng đêm ngọn đèn trên chiếc phao nổi đánh dấu chớp sáng, lắc lư theo gợn sóng nhẹ và tiếng leng keng ngắt quãng của chiếc phao nghe thật rõ trong đêm trường vắng lặng.
Buổi lễ tiếp tân rất vui nhộn và sang trọng được tổ chức chu đáo bởi ban quản trị khách sạn nổi tiếng tại Brest.
Dàn nhạc nhẹ giúp vui trong khi thực khách đang thưởng thức món ăn ngon tuyệt trần được nấu nướng bởi các đầu bếp trứ danh
Bạch Lan đứng bên cô Catherine để phụ giúp nàng với vai trò phụ dâu, nàng bận rộn chào hỏi những người quen biết cũ tại tàu Bệnh Viện.
Bỗng nhiên Bạch Lan ngạc nhiên nghe tiếng mẹ đẻ nói nhỏ bên tai:
- “Xin chào cô Orchid.”
Bạch Lan quay người lại, anh chàng Sinh viên Sĩ quan trong bộ quân phục Hải Quân màu trắng, với mái tóc đen cắt ngắn theo kiểu nhà binh đang đứng bên cạnh nàng lúc nào không hay. Nàng ấp úng chào lại:
- “Dạ Bạch Lan xin chào ông.”
Rồi nàng ngừng lại không nói tiếp, thì ra mình đã vô tình tự giới thiệu tên Việt Nam cho anh chàng khá bảnh trai này biết rồi.
- “Rất hân hạnh được biết cô Bạch Lan, xin lỗi đã đường đột làm quen, nhưng khi nhìn thấy cô và nhất là sau khi biết cô là người đồng hương, tôi không thể nào cầm lòng và không làm liều để được dịp nói chuyện với cô.”
Bạch Lan nhủ thầm:
“ Trời ơi ông này miệng mồm lắm đó, cái giọng Bắc kỳ tán nghe ngọt xớt, mình phải đề phòng mới được.”
- “Dạ Bạch Lan xin cám ơn ông, được gặp người đồng hương trên đất Pháp là một điều đáng vui, phải không thưa ông... à... ông...?”
Bạch Lan nhìn chàng trai như chờ câu trả lời.
- “Tôi là Bằng, Trần Minh Bằng, người quê ở tỉnh Nam Định ngoài Bắc, dạ có lẽ cô là người Trung phải không ạ, mà ở Huế cô ở vùng nào thế?”
Bạch Lan bối rối, đầu óc như muốn quay cuồng vì không tìm ra được câu trả lời, ký ức không giúp nàng nhớ gì cả. Bạch Lan hai tay ôm đầu, anh chàng tên Bằng ngạc nhiên nửa muốn lấy tay đỡ người cô gái, nửa ngập ngừng lo âu.
May là Catherine đứng bên cạnh đã biết Bạch Lan đang có triệu chứng của phản ứng thần kinh khi trí óc cố gắng tìm về dĩ vãng, cô ta ôm Bạch Lan, dìu nàng ngồi xuống chiếc ghế gần đó, rối âu yếm nói nhỏ đưa tâm tư nàng trở lại trạng thái bình thường.
Maurice bước đến bên cạnh, thân mật hỏi Bạch Lan:
- “Orchid khỏe lại chưa, ngồi nghỉ một lát rồi anh sẽ giới thiệu em với mấy người bạn học cũ, họ muốn biết thêm về chuyện của Orchid lắm.”
- “Thôi anh Maurice ạ, em chỉ muốn ngồi đây với bà cụ thôi, ngắm hai ông bà hạnh phúc là em vui rồi.”
Maurice mỉm cười rồi cầm tay vợ đi đến chào hỏi khách dự tiệc. Bạch Lan lấy khăn tay ra lau mồ hôi lấm tấm trên vầng trán.
Tiếng nhạc bỗng chuyển sang điệu luân vũ, mọi người nhường sàn nhảy cho đôi tân lang và tân giai nhân ra dìu nhau trong bản nhạc đầu tiên của đời sống vợ chồng.
Bạch Lan thờ thẫn cầm lá thư của Quang gửi từ trường Quân Y Sài gòn. Nàng đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần, nhìn dòng chữ quen thuộc của người yêu xa cách ngàn trùng, Bạch Lan buồn vô hạn.
Trong thư Quang cho biết sau khi chôn mẹ xong, anh nhận được lá thư đến muộn của Lan gửi trước khi rời trên chuyến hải hành vượt đại dương.
Anh buồn vì Bạch Lan không ở lại Việt Nam, anh thương vì biết Bạch Lan sẽ cô đơn trên đất khách quê người và anh hãnh diện vì Bạch Lan biết lợi dụng cơ hội tại Pháp và cương quyết tạo dựng cho nàng một tương lai để về nước giúp các trẻ em cô nhi sau khi học thành tài.
Quang chấm dứt lá thư tâm sự với lời hứa sẽ yêu thương và chờ ngày Bạch Lan trở về quê Mẹ.
Quang còn cho Lan hay là anh đã được thâu nhận theo học ngành Quân Y theo ý muốn của mẹ anh lúc còn sinh tiền.
Mùa đông tại thành phố nhỏ bé tại ven biển thật buồn như lòng người con gái đang sống kiếp tha hương. Kỷ niệm dĩ vãng vẫn chưa trở lại trong tâm trí của một trong ba người bạn, mà định mệnh và một cuộc chiến sinh tồn trên dải đất khô cằn, đã đưa cô bạn gái về nơi phương trời xa lạ.
Huyền nay chỉ là tên của người bạn gái được Nguyên nhắc đến như là một nuối tiếc và hy vọng đang còn sống tại một vùng trời nào đó, soi sáng bởi ngọn hải đăng trên đỉnh núi cao hay trên bán đảo ngoài khơi.
Riêng đối với Trung, người bạn gái tên Huyền chỉ để lại trong anh một oán hận không giải thích được, vừa hờn dỗi vừa chê trách... vừa thương nhiều.
Ba người bạn sinh ra, quen biết nhau và cùng lớn lên theo với một cuộc chiến được các nhà lãnh đạo Quân sự gọi là chiến đấu đánh đuổi thực dân, cứu nước, giành lại độc lập, ấm no tự do cho dân tộc.
Định mệnh của mỗi người đã đẩy đưa họ đi theo ba cuộc sống và ba môi trường khác nhau nhưng cũng là kết quả của một lý do.
Ba người bạn Huyền, Trung và Nguyên đều là nạn nhân một cuộc kháng chiến của những thanh niên nhiều lý tưởng, đầy nhiệt huyết, đã bị tuyên truyền lợi dụng bởi các cấp lãnh tụ Việt Minh, với chiêu bài đánh đuổi thực dân, nhưng đằng sau lưng lại làm đầy tớ cho đảng Cộng sản quốc tế.
Trung vẫn chưa tỉnh cơn mộng đang theo đuổi, vẫn tin rằng đất nước cần những bàn tay đóng góp của những cán bộ đảng như anh ta.
Với lòng hăng say của tuổi trẻ, với lời hứa hẹn về một thiên đường tốt đẹp ở cỏi hư vô, những người Cọng sản đã thuyết phục được người con trai xứ Huế tiếp tục làm con cờ thí cho ván bài nhuộm đỏ hoàn cầu của đảng.
Bên cạnh Trung trong tương lai còn có người nữ cán bộ với mái tóc cao, đôi má ửng hồng, tính tình thẳng thắn.
Thu sẽ là người đồng chí sát cánh người yêu, trong một cuộc chiến tranh mới, chiến tranh ý thức hệ giữa người Việt Nam cùng chung dòng máu Lạc Hồng.
Riêng về phần Nguyên, cuộc đời đã thay đổi kể từ ngày anh tìm được một người tình muôn thuở. Kinh nghiệm bản thân và vừa là nhân chứng của cuộc chiến từ ngày còn bé, đã thấy tận mắt hình ảnh đau thương gây ra bởi những con người lợi dụng tinh thần yêu nước của những thanh thiếu nữ cùng lứa tuổi với Nguyên.
Nguyên đã chuẩn bị sẵn cho mình một lối đi sau khi tốt nghiệp bằng tú tài. Tự do thật sự và quyền căn bản con người là lý do mà anh phải hy sinh tranh đấu, bảo tồn cho cá nhân, gia đình và cho dân tộc Việt Nam.
Ngày nào đất nước thân yêu còn bóng dáng những thành phần độc tài đảng trị, quên gốc truyền bá chiêu bài của ngoại bang; vong bản nối đuôi Nga Tàu Cộng, ngày ấy đất nước vẫn còn cảnh máu đổ xương tan.
Chính trị gia thường lèo lái con thuyền quốc gia theo quyền lợi cá nhân và của đảng phái.
Những thanh niên như Nguyên chỉ biết tin tưởng vào lý tưởng tự do, công bằng, bác ái, hạnh phúc cho giống nòi.
Tại ngoài Bắc cuộc đấu tố hậu chiến thanh trừng các điền chủ đang diễn ra để cân bằng đời sống và làm cho người dân trở thành nghèo bằng nhau, đồng thời lén lút chôn dấu vũ khí, xâm nhập cán bộ trở vào Nam.
Ở Sài Gòn, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã thành công trong việc đóng cửa hai sòng bạc Kim Chung, Đại Thế giới và đã đánh đuổi Lực lượng Bình Xuyên ra khỏi Đô thành.
Tư tưởng tự do dân chủ được phổ biến rộng rãi như là một lá bài chiêu dụ dân chúng miền Nam.
Sau cuộc Trưng cầu dân ý, đại đa số cử tri bỏ phiếu tín nhiệm Thủ Tướng họ Ngô và đồng ý truất phế Hoàng Đế Bảo Đại.
Kể từ nay ông phải sống kiếp lưu vong tại Pháp, không bao giờ được phép trở về quê cha đất tổ.
Nguyên dự trù sẽ tình nguyện nhập ngũ và thi vào trường Hải Quân Nha Trang để thỏa mộng giang hồ và dấn thân giúp nước Cọng hòa Việt Nam.
Nguyên dặn lòng sẽ không làm chính trị, chỉ mong muốn được trở thành một Sĩ quan thuần túy, một thủy thủ chọn đại dương làm nhà, một chiến sĩ can trường lấy Tổ quốc, Danh dự và Hải nghiệp làm lý tưởng và châm ngôn cho cuộc sống.
Ngọc đã trở thành một bạn đời chung thủy của Nguyên, nàng đã yêu Nguyên với tất cả tấm lòng của người con gái mới yêu lần đầu và cũng là lần cuối.
“Nắng núi rừng chói chan như lửa sáng, mưa cao nguyên tựa thác lũ tuôn trào”.
Trung lắng nghe tiếng ngâm nga của người yêu đang giặt chiếc áo cánh màu đen của anh bên bờ một con suối, tại một khu rừng già không tên thuộc tỉnh Quảng Nam. Thu có tài xuất khẩu thành thơ và theo nhận xét của một họa sĩ như Trung, lời lẽ có âm hưởng về vừa thi vừa họa.
Khi nàng làm thơ không những với thi hứng của thi sĩ mà cả với lòng yêu thích hội họa. Do đó khi Trung nhắm mắt nghe câu thơ, anh đã hình dung trong trí óc một bức tranh mà anh từng vẽ trên lụa.
Trung và Thu không những đã tìm đến và yêu nhau vì tình cảm mà còn vì yêu tài nghệ và có cùng chung lý tưởng, một sở thích về những gì đẹp của đất nước Việt Nam.
Trung ngước nhìn đám mây bay lờ lững trên bầu trời xanh, nhớ về vùng nắng ấm trên bãi biển cát trắng ngà bên hai người bạn cũ, một trai, một gái mến thương, rồi anh chợt cảm thấy nuối tiếc trong khoảng khắc.
Bạch Lan đã nạp đơn xin vào trường Đại học tại Paris. Bà Brigitte rất vừa lòng và khuyến khích đứa con gái nuôi chính thức của bà.
Catherine theo chồng qua Tunisie và tiếp tục phục vụ tại đơn vị Quân Y tại thủ đô nước này cùng với Đại Úy Bác sĩ Maurice.
Chiều nay trời tuyết xuống đầy trên con đường đồi chạy dọc theo con sông nhỏ đang đông đá. Mùa đông buốt giá ngoài trời cũng như trong lòng người con gái Việt Nam đang nhớ về người yêu tại quê nhà.
Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời... ạ ời... Tiếng nước tôi...
Ạ ơi... Ru con cho thét cho muồi.
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu.
Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh...
Nguyên ngồi lặng yên trước chiếc máy radio, nghe hồn thổn thức với bài ru con, nhớ đến kỷ niệm thời ấu thơ, bên cạnh Huyền và Trung, lần đầu gặp gỡ tại chợ An Hòa, bên lồng chim bồ câu, với chiếc kẹo dừa chia làm ba...
Nguyên nhớ câu hò tiếng hát, nhớ bức tranh trên giấy, anh nhớ hết...
Ngoài hiên giọt mưa đông thánh thót rơi trên thềm nhà, trời Huế đã bắt đầu lạnh...
Lê Bá Thông
Theo http://dev.kilopad.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lời tạ lỗi muộn màng

Lời tạ lỗi muộn màng Viết cho H., HQ Tr.Uý tại BTL/HQ bến Bạch Đằng ngày xưa. Nếu anh tình cờ đọc được thì xem như đây là một lời tạ lỗi m...