Thứ Tư, 7 tháng 4, 2021

Tây Nguyên, nỗi nhớ làng rừng

Tây Nguyên, nỗi nhớ làng rừng

Nhà văn Trung Trung Đỉnh sinh năm 1949 tại Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông đi bộ đội, đóng quân tại Tây Nguyên từ 1968 - 1975, hằng năm đều trở lại nơi này ít nhất một lần. Tây Nguyên đã thành máu thịt, một phần tâm hồn của ông. Không chỉ thông thạo tiếng Jơ Rai (J'rai), nhà văn Trung Trung Đỉnh còn am tường văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào Tây Nguyên. Những tác phẩm quan trọng của ông đều có ký ức và vốn sống của vùng đất này, nổi bật là tiểu thuyết “Lạc rừng”. Ông nguyên là biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Giám đốc Nhà xuất bản Hội Nhà văn. "Vì mang tuổi Kỷ Sửu, nên tôi đặc biệt quan tâm đến trâu, kể cả trâu Tây Nguyên" - nhà văn chia sẻ. (Vi Thùy Linh ghi).
Đã hơn 45 năm sau năm 1975, năm nào cũng vậy, để thoả mãn nỗi nhớ của mình, dù khó khăn đến mấy tôi cũng cố tự tìm cho mình một vài cơ hội để về lại được với buôn làng. Ở nơi ấy, tôi có bạn bè, bà con anh em và có toàn bộ tuổi trẻ.
Tôi tự nhận đó là quê hương thứ hai của mình.
Không ai muốn quê hương mình chậm phát triển. Nhưng mấy năm gần đây, mỗi lần về với núi, với rừng, tôi lại gặp cái cảm giác buồn vui lẫn lộn. Cơ chế thị trường ập tới, từng góc phố, từng ngôi làng xa xôi, mọi sự đều đã đổi thay. Và đúng là không thể không đổi thay.
Nhưng rồi sẽ thế nào đây?
Bạn bè tôi bao người nằm lại với mảnh đất này. Những thằng Châu, Chung, Loi, Tự... Chúng nó đã tan ra thành đất, thành nước, thành không khí. Hằng đêm, tôi thường mơ thấy bạn, mơ thấy ngôi làng Đê Chơ Rang bé nhỏ và heo hút của bà con Bahnar. Bao nhiêu năm trường, bà con chịu đựng chiến tranh, chịu đựng đói khổ, sống chết với nhóm lính huyện đội khu 8 chúng tôi.
Bà con coi chúng tôi như con cháu trong nhà.
Cháu ngoại tôi năm nay mười chín tuổi. Thỉnh thoảng cháu lại hỏi: Sao con thấy ông lúc nào cũng khắc khoải với quá khứ? Tôi bảo cháu, quá khứ của ông, tuổi trẻ của ông toàn bom đạn tang thương khốc liệt lắm. Ông sống được cũng bởi tấm lòng thương yêu và sự chở che của bà con buôn làng. Tôi nhớ, hồi ấy anh em chúng tôi cùng trang lứa với cháu gái tôi bây giờ. Có những chú lính nhỏ hơn, mới độ chừng 14 tuổi, được cơ sở đưa lên rừng theo cách mạng, như anh em Phụng và Ti. Chúng lên được rừng rồi mà cứ khóc mãi, chỉ vì phải bỏ lại một con bò. Chiến tranh không cho cánh lính chúng tôi nhiều thời gian để tính toán. Cây súng ga-răng thời cha anh chống Pháp còn lại lúc ấy vẫn còn tác dụng, nó còn cao hơn đầu chú bé mười ba, nhưng công việc của chú là phải ôm cây súng ấy cùng các chú, các bác, các anh vào trận, và nẹt rồi - theo cách nói của cánh bộ đội địa phương miền Trung Trung Bộ chúng tôi - đâu cũng vô đó hết. Không chỉ có thế, cánh lính Bắc chúng tôi vào tới huyện đội, về các đội công tác, chỉ trong một đêm cơ cấu đã chuyển ra thành dân sự, thành du kích địa phương. Đó là nhiệm vụ, là yêu cầu chung của cách mạng. Chỉ cần giải thích như thế là tất cả đều thông. Vậy mà sau này, Đoàn Minh Phụng trở thành Bí thư Huyện ủy, rồi Tổng biên tập của báo tỉnh nhà, nay đã về hưu. Thời gian của hoà bình lại cho phép chúng tôi, những chú lính gộc, thạo súng ống, còn ngô nghê với trang sách, với cây viết vừa ra khỏi rừng là phải ngồi vào bàn học. Chậm và ỳ, nhưng phải học thôi! Biết làm sao được? Không học thì làm sao làm việc. Mà học cũng gian nan có kém gì lội suối băng rừng. Rừng kiến thức vừa rậm vừa dày, vừa sâu vừa xa, lao vào đó rồi lại phải lần mò mà tìm ra được cho mình một con đường để hành quân cùng sự phát triển, chao ôi là những kỷ niệm vui buồn.
Khoe sắc. Ảnh: Bảo Hưng
Thói quen vui buồn của chúng tôi là lại nhớ về ngôi Làng Rừng thuở trai trẻ ấy. Nhớ phong tục, trước mùa thu hoạch bà con phải làm lễ “Rước Mẹ Lúa” từ rẫy về kho. Nhớ những cối cốm, mẹt cốm thơm cả cánh rừng. Nhớ đôi mắt treo lúc nào cũng lúng liếng của cô BYắt. Nhớ cái eo lưng vừa mềm vừa dẻo vừa cong của cô H’Ngươl. Nay thỉnh thoảng được về lại làng xưa, kể chuyện ở rừng hồi ấy, chúng tôi bẫy một lúc được hàng trăm con cu xanh bằng cách lấy nhựa cây dính vào lá đa, đàn chim sà xuống, cánh dính nhựa, rụng bồm bộp, vồ chim, bắt chim vang động cả một cánh rừng. Thời ấy, một đêm đội đèn đi bắn, không được nai cũng được mang, không có mang thì mèng lắm cũng “đoàng” được con cheo, con thỏ rừng. Chuyện bốn năm chục năm trước nhắc lại với nhau như mới hôm qua, vậy mà với cánh thanh niên bây giờ nghe cứ như chúng tôi đang kể chuyện cổ tích! Vâng. Mẹ Lúa bây giờ được xuống đất bằng, có mương nước, có ruộng nước tươi tốt hơn xưa và Mẹ Lúa về kho cũng đơn giản gọn nhẹ, dễ dàng hơn thời chúng tôi nhiều. Thung lũng YaĐrăng hôm nay tôi về, đi đến đâu cũng thấy rầm rập xe công nông, xe bò chở sắn khô ra, chở các vật dụng sinh hoạt vào. Để có được những khoảnh ruộng vàng rộm dâng hương lúa mới dưới triền thung kia, để có được hạt thóc như hạt thóc nhà ông Siu Ho, nhà anh Kpa Miết bạn tôi ở làng mới định cư đây, đâu phải chuyện bình thường. Bao nhiêu công trình lớn nhỏ đã và đang hoàn thành. Bao nhiêu của cải của dân của nước phải trải qua không biết bao nhiêu chuyện mới cũ, đúng sai. Ở trên kia là rừng già, là làng buôn cũ với ngàn đời phong tục. Ở dưới này là hồ là ruộng, là điện-đường-trường-trạm. Vậy mà đối với ông RơLan Liêng và các già làng thì ngược lại, bởi trong lòng ai cũng mang nặng nỗi nhớ rừng già, nhớ làng cũ khôn nguôi. “Người già nhớ chuyện cũ”, đó là câu thành ngữ của người JơRai. “Thanh niên thích leo núi” (De T’tămh văh haoh kôông!) - đó là câu thành ngữ của người Bahnar. Nhiều lúc nhớ lại cứ khiến tôi chạnh nghĩ, đối với bà con các dân tộc Tây Nguyên, rừng là tất cả. Cuộc sống của con người ở nơi đây nương tựa vào rừng. Không ai yêu rừng, tôn trọng rừng và giữ rừng hơn họ, bởi chính họ là những đứa con thiêng của rừng. Con người của cộng đồng làng là con người của mối liên hệ mật thiết giữa làng với rừng.
Nói đến làng rừng Tây Nguyên là nói đến những luật tục có liên quan đến sự sống còn của con người, đúng hơn là cộng đồng làng rừng và sự tồn tại của rừng. Mỗi thành viên của cộng đồng làng gắn bó với nhau tạo nên sức mạnh để tồn tại và hòa nhập với rừng, với thiên nhiên. Tôi trở lại làng PLeiO, gặp những người thân xưa cũ. Già Triêm, Già Rim, Già Díp, anh Yaih... Làng mới định cư xuống núi mấy chục năm rồi, vậy mà nếp sinh hoạt xưa cũ quần tụ với nhau quanh bến nước, quanh nhà rông vẫn là niềm vui của mọi người. Bấy nhiêu năm sau giải phóng rồi. Làng xuống núi có nhà ngói định cư rồi! Vì sao vẫn đói? Vì sao còn nghèo? Vì sao tập quán phát, đốt, choọc, trỉa, tuốt lúa bằng tay trên nương cũ đưa Mẹ Lúa về kho xa tít trên rừng già vẫn là niềm vui, niềm hân hoan của bà con? Có nhiều người biết, có nhiều người hiểu. Cũng không ít người vì không hiểu mà chỉ đổ cho phong tục lạc hậu, đổ tội cho bà con dốt nát“. Mình không dốt nát lạc hậu đâu. Dân tộc mình ưng sống thế mà”. Một câu nói ấy của già làng khiến tôi không cầm lòng được, tự thấy mình có lỗi. Tại sao đơn giản vậy mà mãi ta không hiểu ra nhỉ?
Đã là tập tục nghĩa là “thói quen” nghìn đời, bên trong những “thói quen” ấy là cả một bề dày văn hóa. Văn hóa nương rẫy. “Mình ưng theo thói quen ông bà mà”. Thói quen văn hóa đấy! Mà đã là nếp sống văn hóa, không phải dễ thay đổi một lúc đâu! Sức nặng của tập tục lại trở thành vật cản trước cái mới. Cái mới ơi, cái mới đừng quên khi rừng già không còn, tức là nơi nương tựa của cộng đồng bị mất thì cái mới chẳng làm nên chuyện gì đâu. Khi việc cúng Thần, cúng Giàng vẫn còn theo già làng mà chưa có cái mới hay hơn thay thế thì cái mới ơi, cái mới cũng không đủ sức đem lại được niềm mong đợi ấm no đâu.
Làng đồng bằng Bắc Bộ là làng văn minh lúa nước, con trâu là đầu cơ nghiệp. Làng của người Tây Nguyên được hình thành từ nền văn minh trồng cây lúa khô nương rẫy, nên xưa họ dùng cuốc, sau này dùng máy cày để xới đất. Đó là một tổ chức xã hội gần như duy nhất và cũng là cội nguồn của nền văn hóa bản địa, có trâu hiện diện gắn kết văn hóa. Trong sinh hoạt cộng đồng, mỗi khi nhà nào có việc, liền được sự đóng góp chung của mọi người. Ghè rượu quý nhất của mỗi gia đình được đem đến cùng chia sẻ. Niềm vui nỗi buồn của mỗi người cũng là niềm vui nỗi buồn chung của cả buôn làng. Cái sợ lớn nhất của con người ở đây là một khi bị buộc phải tách ra khỏi cộng đồng. Điều ấy còn sợ hơn cả cái chết. Bởi vậy, tôi nghĩ, Tây Nguyên, từ cội nguồn của văn hóa làng - rừng tạo nên sắc thái riêng biệt, độc đáo mà chỉ nơi đây - miền rừng nối tiếp miền rừng mới có. Những quần thể tượng nhà mồ hồn nhiên sinh động hòa nhập vào tự nhiên như vẻ đẹp nguyên sơ của tâm hồn người bản địa. Mái ấm nhà rông chính là nơi quần tụ cộng đồng để các già làng lo việc chung, phân xử đúng sai và cũng là nơi trai tráng tụ tập phòng khi bất trắc. Văn hóa dân tộc nói chung vốn gắn liền với đời sống của cộng đồng. Một khi điều kiện sống thay đổi cũng sinh ra lắm chuyện. Làm sao giữ được nhà rông? Chúng ta không thể làm thay bà con, nhưng sự hỗ trợ (đúng) là rất cần thiết. Vì sao tôi lại ngoặc đơn cái chữ “đúng” này, bởi nhiều năm nay ta đầu tư cho nhà rông không ít, mà hiệu quả đem lại lại không nhiều, nếu nói không sợ sai, như cách nói của họa sĩ Xu Man (1925 - 2007), người bạn già của tôi đã mất. Khi về hưu, ông sống cùng bà con ở làng PLeiBung, nay ông cũng đã về với ông bà tiên tổ. Ông nói đầu tư vậy là đầu tư với hỗ trợ trật lấc. Vì sao sai? Vì các nhà quản lý và các nhà đầu tư không hiểu vẻ đẹp văn hóa lâu đời của nếp sinh hoạt nhà rông, mà chỉ muốn “cải tạo” nó thành ra hội trường! Nhà rông là nét đẹp văn hóa riêng của buôn làng rừng Tây Nguyên. Giữ được nó tức là giữ được cái hồn cốt của nét đẹp sinh hoạt cộng đồng. Văn hóa Tây Nguyên cũng vậy. Nó thể hiện mối quan hệ đặc biệt giữa con người với tự nhiên. Ở đây một người chết làm cả làng buồn. Buồn và khóc thương vì không còn được sống với người ấy nữa. Nhưng theo quan niệm của bà con: Chết không có nghĩa là hết. Người ta chết chỉ là chết cái phần xác thôi, chứ còn phần hồn đã biến thành con ma rồi. Con ma vẫn sống quanh ta. Vì vậy, người chết vẫn cần cơm, cần rượu và mọi thứ vật dụng. Người sống phải chăm sóc cho người chết chu đáo. Rồi một ngày kia, để tiễn con ma về thế giới khác nơi cuối rừng, nơi mặt trời lặn, người ta làm lễ bỏ mả, tức là lễ hội Pơ - thi. Đó là lễ hội lớn nhất, sinh động nhất và vui vẻ nhất, vì sau lễ hội tiễn biệt này, người sống và người chết không còn ràng buộc với nhau. Đời sống tâm linh của người Tây Nguyên vô cùng phong phú. Bà con cho rằng bên trong mỗi cái cây, ché rượu, hòn đá, bầu nước, mọi vật quanh ta đều có linh hồn. Điều đó thể hiện sự tôn trọng sâu xa đối với tự nhiên. Tôi chợt thấy lo khi môi trường thay đổi, khi cái tín ngưỡng đa thần giáo ấy không còn giữ được, điều gì sẽ diễn ra? Cái gì sẽ thay thế?
Đổi mới mang lại cuộc sống hiện đại nhiều cái mới, tất có nhiều niềm vui. Nhưng phía sau niềm vui hiện đại là cả một sự vật vã chuyển mình của bà con. Ở Tây Nguyên ngày nay, rừng và làng đâu có còn quần tụ như xưa? Làng mới chuyển ra hai bên mặt đường thành ra nửa phố, nửa làng. Cuộc sống mới kéo theo biết bao đổi thay về phong tục tập quán. Đi tới đâu tôi cũng gặp cái hân hoan phấn khởi của lớp trẻ, và bên cạnh đó là nỗi khắc khoải nhớ rừng của người già. Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa là tất yếu. Nhưng đằng sau nó là cả một vấn đề lớn về xã hội và con người.
Để Tây Nguyên thắng được cái đói, cái nghèo, rất cần sự quan tâm của toàn xã hội. Hơn nữa, cần sự hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán, điều kiện tự nhiên của các nhà hoạch định chính sách. Chính sách tạo cho bà con đường hướng phát triển lâu dài. Cần phải nhớ rằng, chính sách sai sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường.
Để biến những ý tưởng và khao khát của chúng ta: Làm sao để có được một Tây Nguyên giàu đẹp, giữ được bản sắc văn hoá riêng thành hiện thực. Tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại, chuyện này không thể nôn nóng, đâu phải chuyện một sớm một chiều.
Tây Nguyên, mái nhà chung của chúng ta. Đến với xứ sở này không phải chỉ là đến với vùng đất đầy tiềm năng để khai thác, mà trước hết, cần đến từ những tấm lòng.
Cách đây hơn chục năm, tôi có tới một làng sâu hun hút trên đỉnh KonPơLông, tình cờ gặp cô giáo Thanh. Thanh còn rất trẻ, mới 18 tuổi, quê cô ở mãi Ninh Bình, thế có nghĩa là, cô cũng chỉ bằng tuổi cánh tôi hồi mới vào Nam thời đánh Mỹ. Cái ngày gặp Thanh ấy, chúng tôi thường gọi đùa với nhau là thuở đường đất chân trần. Bây giờ về lại, tôi đi tìm Thanh, mới biết cô đã mất trong một tai nạn mưa rừng núi lở. Không hiểu Thanh có biết trường của cô, của các em vẫn ở trên đỉnh núi cao nhất nhì Tây Nguyên ấy, nhưng không còn phải “du dạy - du học” như hồi ấy cô nói đùa với tôi. Nay các thầy, các trò đã có trường có lớp khang trang. Thanh cũng như các thầy các cô đã đem tuổi trẻ của mình lên đây để mong cái nội lực phi thường của tri thức dậy cùng nhịp sống mới.
Tây Nguyên huyền bí. Điều ấy chỉ đúng khi còn rừng già còn. Rừng và làng là hai yếu tố cấu thành nền văn hóa cộng đồng độc đáo, lâu đời. Văn hóa Làng rừng ở Tây Nguyên chính là nguồn lực, là tiềm năng của sự phát triển. Khôi phục làng rừng ở Tây Nguyên cũng là khôi phục nguồn gốc của văn hóa. Văn hóa Tây Nguyên dường như đã trao cho các nghệ nhân của mình bản năng sinh tồn mà nếu ta biết trân trọng một cách chân thành thì đó chính là nguồn sống vô tận. Cũng giống như câu chuyện ở dưới chân núi Kong Chơ Ro xa xôi có một cặp vợ chồng nghệ sĩ. Họ đã từng là những người rất nổi tiếng, đi khắp đó đây, về sống trong một căn nhà sàn nhỏ bé sát mé rừng do bà con buôn làng dựng cho. Đó là nghệ sĩ hát và múa lừng danh một thời, một nhà giáo khiêm nhường đã nghỉ hưu, tên chị là H’Ben, người Bahnar và anh Thịnh, nghệ sĩ đàn violon thuở nào, chồng chị. Anh, một chàng trai Hà Nội đắm đuối suốt đời cùng Tây Nguyên. Từ khi hai anh chị nghỉ hưu, ngày ngày hai vợ chồng rủ nhau vào làng để nghe đồng bào hát và họ lặng lẽ ghi lại dân ca, dân vũ, những bài h’mon (bài hát kể mà chúng ta vẫn gọi là trường ca) dài bất tận như lịch sử thăng trầm của con người ở xứ sở này. Đó là nhu cầu tự thân của anh chị, như là cơm ăn, nước uống, như là khí trời để thở vậy. Không ai tài trợ, chỉ có đồng bào tài trợ tình cảm cho mình thôi, chị trả lời nhà báo khi nhà báo hỏi câu “tài trợ”. Tôi có biết, Nhà nước đã đầu tư cho việc khai thác trường ca ở đất này lên đến nhiều tỷ đồng! Kể con số nhiều tỉ cũng gây ấn tượng và hấp dẫn lắm lắm. Nhưng thôi, đó là chuyện khác. Chuyện của tôi, mỗi lần trở lại Tây Nguyên, bao giờ tôi cũng “đi tranh thủ” về căn nhà sàn bé nhỏ của anh chị, bên ghè rượu cần, anh chị hát dân ca Bahnar cổ mới khai thác được, kể những câu chuyện cổ thuở xa xưa nơi đây là rừng thiêng mới tìm ra qua miệng của người già cho tôi nghe. Và anh chị em chúng tôi lấy đó là niềm vui, là hạnh phúc.
Nay anh chị cũng đều đã về sau núi theo quy luật của tạo hóa, bình dị và nhẹ nhàng. Nhưng sự ra đi ấy, với tôi và anh chị em văn nghệ sĩ tỉnh Gia Lai là rất nặng lòng...
12/2/2021
Trung Trung Đỉnh
Theo https://laodong.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  ​ Những Chuyến Xe Lửa Trong kho tàng văn học hay âm nhạc, đa số các kiệt tác để đời thường thiên về bi kịch, thảm sầu, mất mát… có thế...