Chuyện đời Bùi Giáng 2
10: Nhà thơ nói về... thế kỷ 35!
Tuần tới, vào ngày 4.10, chương trình tưởng niệm thi sĩ Bùi Giáng tại quê hương Quảng Nam của ông sẽ bắt đầu lúc 18 giờ ở Trúc Lâm Viên số 8 Trần Quý Cáp - TP. Đà Nẵng do Chi hội Hội Nhà văn Việt Nam, cùng văn phòng đại diện NXB Văn học ở miền Trung và Tây nguyên tổ chức.
Bùi Giáng - ký họa của Đỗ Trung Quân
Với chủ đề Bùi Giáng - cõi phiêu bồng, chương trình có
các nhà văn nhà thơ: Ngân Vịnh, H’ Man, Lê Anh Dũng, Nhã Tiên, Vô Biên, Thúy Liễu,
Ái Niệm, Văn Nho, Thư Lan, Thu Thủy, nhà thư pháp Hồ Công Khanh, nhạc sĩ Trần
Quế Sơn và ca sĩ Lê Cát Trọng Lý góp mặt.
Đại diện Bùi tộc Vĩnh Trinh tại TP.HCM thông báo như vậy và
nhắc đến nhận định của nhà văn Thu Bồn (Hà Đức Trọng 1935 - 2003) lúc sinh thời: “Riêng
một mình thơ ông (Bùi Giáng) cũng đã có chỗ đứng trong thơ Việt Nam. Trường
phái Bùi Giáng - một trường phái mà không một nhà thơ nào học nổi. Nếu chúng ta
không lưu ý nghiên cứu nhà thơ này thì quả là một mất mát đáng tiếc”. Khi
biên soạn và sưu tập thơ Quảng Nam thế kỷ 20, Thu Bồn đã viết hồi ức về chuyện
gặp Bùi Giáng lần đầu tiên năm 1976 giữa cơn mưa lớn ở TP.HCM. Lúc ấy Bùi Giáng
đang đứng giữa trời chỉ trỏ cho xe cộ lưu thông, “người ông ướt mèm, tay chân
run cầm cập”. Thu Bồn đưa ông về nhà mình để nhen lửa sưởi ấm cho ông, rồi
lấy một bộ quần áo khô ra đưa ông mặc. Bùi Giáng nhìn quanh tìm chỗ kín để
thay, Thu Bồn bảo không cần phải tìm chỗ kín làm gì, cứ hãy cởi truồng ra đi,
Bùi Giáng nói: “Cái đó đâu phải như thơ mà lúc nào cũng bày ra được!”.
“Gương mặt tinh anh và cặp mắt sắc sảo (của Bùi Giáng) làm
tôi kính sợ. “Đó, Bồ tát đó” - người bạn nói để giới thiệu người tôi hâm mộ mà
trước đó chưa từng gặp (...) cũng như Tế Điên, hình như Bùi Giáng đến cõi đời
này để dạo chơi, để đùa giỡn và cũng để giáo hóa cho con người thấy tất cả đều
chỉ là trò ảo giác của sắc thân, của chữ nghĩa, của tư tưởng...”.
Nguyễn Tường Bách
(Mùi hương trầm, NXB Trẻ, TP.HCM 2001)
Với ông, “thơ” như dòng nước cuộn trước mắt, mà thi sĩ sẵn
sàng quăng thân vào đó: “Nửa đời bỏ lại thân anh/ Nửa linh hồn bỏ nước xanh lên
bờ/ Khổ đau về chẳng hẹn giờ...”. Và vượt ra ngoài ngôn ngữ thường tình, để
“nghe” được tiếng động của mầm non mới nở: “Nằm nghe ngọn lúa trổ hoa/ Mây
trời kết trái tên là hột sương”. Để rồi, trong tương lai - thơ sẽ trở
thành ngôn ngữ thường ngày của nhân loại. Khi gặp nhau mọi người sẽ nói bằng
thơ... lục bát. Về điều ẩn mật đó, thêm một lần nữa, phải nhờ đến lời giải mã của
lão thi sĩ Trần Đới (người gần gũi nhiều năm và hiểu sâu về Bùi Giáng): “Có một
hôm giữa chiều đói bụng, ngồi bên góc hè gần Thư quán Vạn Hạnh nhìn sinh viên
ra vào mua sách vở, Bùi Giáng với giọng thuốc rê khò khè: “Bước đi của văn hóa
thật là kỳ ảo đậm đặc hơn mấy lần cái màu khói thuốc gì mà nhạt thếch này...”. Nói
qua lại một lát, Bùi Giáng bảo: “Ngay giờ này tớ thấy mình đã về đến thế kỷ
35, một - ngàn - rưỡi - năm nữa tớ sẽ đầu thai xuống “Sè gòn”, lúc đó người ta
gọi là “Sãi gòn” và trong đô thị mà tên gọi được phát âm theo giọng “mới” ấy
chỉ còn “nửa giọt Mưa nguồn rớt hột trên ngọn Lá Hoa Cồn”. Bùi thi sĩ tiếp: “Lúc
đó Mưa nguồn sẽ chuyển dịch thành kinh điển thi ca” và “tăng ni, các cha cố sẽ
ngâm thơ thay cho đọc kinh, tụng chú, lúc đó bước đi của văn hóa đã nhập thân
cõi nguồn xưa sau một màu thơ và mộng (...) Sau này lời nói thành thơ, toàn thơ
lục bát...”.Ví dụ thay vì hỏi: “Anh đi đâu đó?” - thì theo Bùi Giáng thế
kỷ 35 thiên hạ sẽ hỏi đáp có vần điệu như sau:Hỏi: “Mi đi mô rứa thằng tê?”
Đáp: “Tao về nhà ngủ nằm kề vợ tao!”
Hoặc thay vì nói: “Nhà tôi ở gần nhà thờ Đức Bà” - họ sẽ diễn
bằng thơ: “Nhà tao cạnh góc nhà thờ/ Nhà mi ở tận góc chùa Vĩnh Nghiêm”. Một
thí dụ nữa do Bùi Giáng đưa ra về việc “lang thang school” bằng “ô tô bước”, để
được ngắm phố phường rộn rịp thích hơn: “Đi xe chậm, máy bay nhanh/ Thua tao cuốc
bộ loanh quanh Sài Gòn”.Mấy cái đó còn dễ “nói bằng thơ”, chứ vào sòng bạc nói sao?
Bùi Giáng đáp - nói thế này: “Tao xin tất cả ăn thua/Đứa nào tiền lẻ thì
đưa bố xài”. Nhưng đấy là cách người ta nói với nhau bằng thơ vào thế kỷ... 35!
Chứ thế kỷ 20 và 21 này loài người phải đang tiếp tục nói bằng thứ ngôn ngữ “khôn
ngoan” một cách “dại khờ”, vì kết quả của thứ tiếng nói “lịch sự, lịch lãm”
ấy thường đem lại trăn trở, khổ đau, lường gạt, dối trá nhiều hơn là chân thành
và hạnh phúc! Nên Bùi Giáng thường thích sống trong cõi miền “Sơ nguyên lặng
lẽ” và chìm vào “im vắng thanh lương”. Tuy vậy, ở nơi đó - từ “tâm
không” sâu thẳm của ông - lắm lúc đã thình lình vọt lên những lời thơ thiết tha
và lãng mạn: “Anh quỳ xuống giơ hai tay bệ vệ/ Chỉ xin nâng một giọt lệ êm
đềm”...
11: Bùi Giáng nổi giận trong sân
chùa
Bùi Giáng với sư Viên Minh (chùa Kỳ Viên) - Ảnh: gia đình cung cấpTrong chồng bản thảo dày cộm chưa in của ông, gia đình đọc thấy
bài “kính gởi Hạnh Thanh ni cô thượng thừa”, với câu: “Người qua tôi cũng đi
qua/Người dừng tôi cũng qua loa tạm dừng” - và một số khác nữa gửi những gốc Bồ
đề và các “nhà sư vướng lụy”.Nhắc đến duyên nợ thắm thiết giữa nhà thơ với nhà chùa, nhà
văn Nguyễn Mộng Giác cho là tinh thần vô chấp của đạo Phật “rất thích hợp với
khát vọng suy nghĩ và sáng tạo tự do của văn nghệ sĩ. Nhà thơ vào chùa thoải
mái, không bị ngăn chặn cửa thu thẻ căn cước, khỏi phải rón rén bước đi vì kinh
sợ đấng thần linh (...) đúng là chỗ an trú lý tưởng của các nhà thơ, khi họ cần
một chỗ trú. Vì thế, Phạm Công Thiện là khách quý của khắp các chùa lớn, chùa
nhỏ ở Việt Nam và ở hải ngoại. Nguyễn Tất Nhiên lái xe đến chùa trước khi quyết
định từ giã cõi đời. Và Bùi Giáng trong suốt cuộc chơi lớn với đời vẫn xem chùa
chiền là nơi dừng nghỉ thoải mái”.Đúng, quanh năm, Bùi Giáng đã đến rất nhiều ngôi chùa trên đường
lang thang của mình, như Huệ Nghiêm ở Bình Chánh, Huỳnh Kim ở Gò Vấp, Quán Thế
m ở Phú Nhuận, đi bộ tới những chùa xa so với chỗ ở của ông như chùa Trúc Lâm ở
chợ Cây Quéo, gần hơn như Pháp Hoa, Pháp Vân, Pháp Trí, Pháp Võ, lang thang khi
ở Giác Lâm, Giác Viên, lúc nằm tại thiền viện Quảng Đức, hoặc ngồi nghỉ dưới gốc
mai già 100 năm ở chùa Gò (Phụng Sơn). Sau này, khoảng hơn 15 năm cuối đời, ông
thường lui tới các chùa gần hẻm nhà ông đang ở lúc ấy trên đường Lê Quang Định,
như chùa Già Lam - nơi có phòng bán kinh sách - để “mua chịu” những tác phẩm do
chính ông viết được tái bản, có giấy nợ ghi: “Nợ O Thêm chùa Già Lam 4 cuốn:
Mưa nguồn, Cõi người ta, Ngộ nhận (và Hán Tự Bài Cú). Tất cả tổng cộng là 45
ngàn”. Chính ở đây, ông đã một lần nổi giận la hét. Nguyên sân chùa Già Lam có
trồng một cây y sa trổ bông màu vàng nghệ như màu áo cà sa của các vị sư. Thấy
hoa đẹp, Bùi Giáng lượm một vài bông rụng quanh gốcđưa lên miệng, vừa hôn hoa, vừa hớn hở cười lớn, mừng rỡ như
gặp “người thân” xa xưa. Một phật tử nói: “Bác không được ồn ào như thế”. Ông hỏi
lại: “Tại sao?”. Người kia đáp: “Vì Phật dạy không nên”. Ông bừng bừng nổi giận:
“Phật dạy lúc nào? Ở đâu? Với ai?”.Rồi ông mắng một tràng rằng, không nên lặp lại lời của Phật
như con vẹt, là vì Phật thuyết không chỉ tám vạn bốn ngàn pháp môn, mà cả triệu
triệu tỉ tỉ và vô lượng pháp môn, mỗi môn tùy người nói, chứ không phải bất cứ
ai Phật cũng nói như nhau. Cảnh này, chỗ Già Lam này, lúc này, không nên “trụ”
vào lời Phật cách đây đã hơn 2.000 năm trước để nói năng hoạnh họe như rứa. Hãy
về nhà bán hết gia tài để mua cuốn Tư tưởng hiện đại của “thằng Giáng
tên Bùi về đọc thì sẽ hiểu được điều đó chút ít!”. Cuốn Tư tưởng hiện đại của
Bùi Giáng giảng giải về tư tưởng Kierkegaard - Malraux - Jaspers - Heidegger -
với phần phụ lục khá quan trọng: “muốn đi vào cõi thơ Bùi Giáng và hiểu những
nét thâm hậu nhưng bay bướm của ông thì không thể không đọc phần phụ lục ấy” -
sa môn Huệ Thiện nhận xét như thế. Vì lẽ trên, chúng tôi trân trọng trích ra
đây đoạn văn của Bùi Giáng viết với ngôi xưng “tao” để trách mắng “chúng” nào
đó, như kiểu ông nổi giận trên sân chùa Già Lam hôm nào:“Krishnamurti không phải là không biết chịu chơi, nhưng lúc
chúng nó dòm qua phía Tây Phương và xô bồ công kích, chúng nó không phân biệt chân
và giả, chúng nó tư tưởng một chiều, chúng nó không nhận ra sự hóa thân thiên
hình vạn trạng của chư vị Bồ Tát cùng những vô lượng phương tiện lực trong xảo
mật ngữ. Chỗ ngu si cốt yếu của chúng là: chúng quên mất rằng cái đường cày,
cái lối cuốc, cái hột giống gieo ra, phải thuận theo mảnh đất. Cày cuốc trên đất
núi không như cày cuốc trên đất phù sa, cấy lúa trên đất phù sa không như cấy
lúa giữa thành phố, chăn bò ở giữa núi không giống phép chăn bò ở giữa đồng bằng
với những ruộng lúa ruộng ngô nằm mấp mé bên đồng cỏ (và bất cứ lúc nào tứ chi
con bò cũng có thể nhảy vọt từ đồng cỏ xuống ruộng đồng). Không một thằng tư tưởng
Đông Phương nào ngày nay còn có thể nhìn ra Shakespeare trụ tại chỗ nào trong
Bát Nhã Hoa Nghiêm để lập thuyết (mà riêng cái lối dịch L’Immoraliste của Đười
Ươi đã mật nhiên khẩn thiết đáp vào). Trong đời tao quả thật tao chưa gặp một
thằng học giả nào có được chút trí tuệ tối thiểu của kẻ chăn bò và người cày ruộng.
Chúng nó ru rú rút vào căn phòng ngăn nắp tôn sùng Bồ Đề Đạt Ma, Long Thọ Bồ
Tát, nhưng nếu cũng ông Bồ Tát ấy, cũng ông Đạt Ma ấy, khoác bộ áo khác, đi lững
đững ở một phương trời khác, mà gặp chúng nó, thì lập thời chúng nó phỉ báng
ngay. Hỏi làm sao thế. Chúng đáp: bởi vì mày không giống ông Đạt Ma Long Thọ của
tao tôn thờ. Cõi tư tưởng vẫn còn rối loạn mãi, chung quy chỉ tại bọn học giả
không biết học tập chăn bò, cày ruộng, trước khi mở mồm mở miệng bi bô”.Buổi chiều cuối cùng
“Thật là quá xúc động. Xúc động đến sững sờ khi thấy ông nằm bọc trong lớp drap trắng xóa, đôi mắt trắng đục nhìn sững chúng tôi. Nét tinh anh ngày nào không còn nữa, chỉ còn đủ để phản chiếu lại hình ảnh lờ mờ của chúng tôi trong ấy. Còn tất cả đều lặng lờ trong tịch mịch (như thơ ông): “Vì con mắt một lần kia đã ngó/Giữa nhân gian bủa dựng một bầu trời/Đài vũ trụ hồn nhiên bao rạng tỏ/Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi”.
Hôm sau 7.10.1998, cũng đôi mắt ấy, đã không bao giờ còn mở ra lần nữa.
Thích Nhuận Châu
12: Giữa cõi đời hư thực
Bùi Giáng đang mua chim phóng sinh trước Lăng ông Lê Văn Duyệt - Ảnh: Gia
đình cung cấpCó tờ lấm tấm những vết loang nhỏ, có lẽ do ông ngồi viết say
sưa lặng lẽ ngoài trời, dưới bóng cây mít, hoặc tàng vú sữa trên sân nhà còn đọng
nước mưa giọt xuống. Đọc di cảo ấy, thấy Bùi Giáng đã viết không ít về thế giới
“thực” và “hư” này, với những chữ “mộng” triền miên xuất hiện ở những dòng thơ
cuối…Như chút tình ông muốn trao cho ai ông cũng thấy nó là lạ mỏng
manh ảo ảnh thế nào: “Anh trao em từ mật niệm thiên thai/ Một tặng vật lạ lùng
hư hay thiệt?”. Cả tên của ông nữa, ông cũng muốn kẻ khác hãy “quên đi” lời đã gọi
lâu nay: “Thấy anh em chợt nhớ rằng/ Anh từ tộc Giáng đổi tên họ Bùi”. Một bài với
tựa nghe khá vui: “La hét!”, lại có một dòng buồn len xuống: “tình người có lẽ
như tình chiêm bao”. Một số trong bản thảo trên đã xuất bản sau ngày ông qua đời,
số khác vẫn chưa có dịp in. Chúng tôi hỏi anh Thanh Hoài là, anh đã đọc tất cả,
vậy anh nhớ nhất những bài nào, câu nào?.Bùi Giáng là một trong những nhà thơ thuộc loại hiếm của gia tài thi ca dân tộc, đã chạm được một tay vào chính cái chỗ ta vẫn thường nói khi thảo luận về tôn giáo, đó là quyền năng. Nhưng ông không là một giáo chủ… mà là một nhà thơ đã nắm được quyền lực: quyền lực thi ca. Trong thế giới tâm linh - trực giác thiên khải đó và cuộc đời “vật dục - trần gian” u mê này, ông đã đi về như một “tự do cá nhân”, không một vết xước nhân quyền.
Đặng Ngọc Như
- Nhiều, nhưng tôi nhớ và thường nhắc đến hai câu thơ của bác
Giáng viết về tiếng hót của loài chim mà tôi hay đọc cho bạn bè nghe mỗi lần thấy
họ cãi vã, to tiếng nhau.- Câu gì vậy?- Con chim ca hót thơ ngây/ Con người nói ít mà gây gổ
nhiều. Thường khi đọc câu ấy xong các bạn của tôi im lặng, cười, giảm bớt
nóng giận đi.Thơ đã xuất bản khi ông còn sống, so với thơ trong bản thảo
chưa in, thường cùng nhắc về một “nơi chốn” ở kiếp nào đó ông đã sinh ra: “Đi về
một bữa hôm nay/Nhớ ngàn xưa đã về đây một lần”. Cả thiên nhiên, suối ngàn, cây
cỏ, mưa gió trong thơ ông cũng “đầu thai” nhiều bận như ông: “Ra đi gió định trở
về/ Ngày sau mây hẹn trả khe đầu ngàn”. Ông không cho cái chết là chấm hết: “Mai
sau hẹn với ban đầu/ Chờ nhau ngỏ khác ngó màu nguyên xuân”. Mang theo nỗi lòng
“trường mộng” trong những chuyến “luân hồi” ấy, ông bước ra đường phố, say sưa
cười nói, múa may, khó có ai hiểu ông muốn gì. Lúc ông chửi bới này kia khiến
có người ngỡ lầm là ông chửi họ, nên nổi sân si, xúc phạm, đánh ông bị thương
phải vào bệnh viện như một tay bán hủ tiếu nọ. Người ta giục ông viết đơn kiện,
nhưng ông lắc đầu nói hãy tha cho nó, vì “nếu mà kiện không chừng công an sẽ bắt
nó lấy ai nuôi con nó, rồi lỡ nó ngồi tù nữa thì lấy ai bán hủ tiếu cho bà con
ăn”.Tận mắt chứng kiến một cảnh tương tự giữa phố, nhà nghiên cứu
Nguyễn Quang Thanh ghi lại: “Khoảng mươi người hiếu kỳ, và vài ba người trai
tráng bặm trợn, đang hung hăng la hét ồn ào, chỉ chỏ sừng sộ vào một ông già lạ
lùng đang đứng ở giữa. Ông già mang một cặp kính trắng dày cộm, mái tóc bạc bù
xù, vài lọn tóc dài nghiêng xuống vầng trán rộng. Có vẻ như ông già vừa bị hành
hung (…) đám đông thì đích thị chửi mắng thô lỗ ông già bằng tiếng Việt, còn
ông già thì vi vu mắng chửi bằng tiếng Pháp, mà đối tượng ông gửi gắm không nhất
thiết nhắm vào đám đông cụ thể mà ông đang đối diện. Tôi tiến tới gần, ép chiếc
xe đạp của mình sát vào đám đông. Nhìn thấy một vết bầm tím đỏ bất thường trên trán
ông, tôi hốt hoảng y như nhìn thấy người huynh đệ quyến thuộc của mình bị nạn,
tôi thảng thốt kêu lên: Anh Bùi Giáng!” (Bùi Giáng - Lời không tiếng).Không chỉ “kể”, Nguyễn Quang Thanh còn có lời bình được nhiều
người tâm đắc: “Nói cãi vã, nhưng thật ra, chắc là, ông chẳng định ý tranh biện
cãi vã với ai. Vì có lẽ, đối với ông, còn có gì đâu để cãi vã, khi mà mọi lẽ đời
xuôi ngược ỡm ờ đã được ông tự đặt mình vào những tình huống đối nghịch tương ứng
khác nhau, và rồi, ông đã mổ xẻ quá đầy đủ qua những tác phẩm kiệt xuất của
ông. Ông đã tự đối thoại, tự tranh biện, tự đặt tâm hồn và thân xác mình vào những
vị trí và vai trò khác nhau của cõi đời hư thực, trụ vào những vị trí khác
nhau, trụ vào những vị trí không vị trí, trụ vô sở trụ, để cười, để khóc, để
suy tư, để chiêm nghiệm, để sáng tạo, một cõi sáng tạo vừa xa vừa gần với cõi xứ
mà những thiên tài kim cổ thường hội ngộ”. 13: Bùi Giáng với làng báo Sài Gòn
Buổi chiều cuối cùng
“Thật là quá xúc động. Xúc động đến sững sờ khi thấy ông nằm bọc trong lớp drap trắng xóa, đôi mắt trắng đục nhìn sững chúng tôi. Nét tinh anh ngày nào không còn nữa, chỉ còn đủ để phản chiếu lại hình ảnh lờ mờ của chúng tôi trong ấy. Còn tất cả đều lặng lờ trong tịch mịch (như thơ ông): “Vì con mắt một lần kia đã ngó/Giữa nhân gian bủa dựng một bầu trời/Đài vũ trụ hồn nhiên bao rạng tỏ/Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi”.
Hôm sau 7.10.1998, cũng đôi mắt ấy, đã không bao giờ còn mở ra lần nữa.
Thích Nhuận Châu
Bùi Giáng là một trong những nhà thơ thuộc loại hiếm của gia tài thi ca dân tộc, đã chạm được một tay vào chính cái chỗ ta vẫn thường nói khi thảo luận về tôn giáo, đó là quyền năng. Nhưng ông không là một giáo chủ… mà là một nhà thơ đã nắm được quyền lực: quyền lực thi ca. Trong thế giới tâm linh - trực giác thiên khải đó và cuộc đời “vật dục - trần gian” u mê này, ông đã đi về như một “tự do cá nhân”, không một vết xước nhân quyền.
Đặng Ngọc Như
Bùi Giáng đọc số Báo Thanh Niên có đăng thơ ông - Ảnh: Gia
đình cung cấp |
Ông cũng thăm nhiều tòa soạn khác. Đọng lại nhất trong chúng tôi là hôm ông “ghé” Báo Khoa học phổ thông năm 1983 - cách đây đã tròn 30 năm. Nguyên hôm ấy, ông lang thang từ chùa Xá Lợi về hội quán Văn nghệ số 81 Trần Quốc Thảo, Q.3, TP.HCM. Thời đó, quán 81 bán bia hơi có “kèm mồi”, anh em mời ông ngồi uống, ông nốc cạn một ly rồi đi ngay ra cửa. Chúng tôi theo để gọi xích lô cho ông. Đến ngã tư Trần Quốc Thảo - Võ Thị Sáu một đoạn, ông đứng khựng lại chỉ vào tấm bảng có ghi: Tòa soạn Báo Khoa học phổ thông. Ông sừng sộ, hai tay xỉa xói từng chập lên cái bảng hiệu Khoa học phổ thông ấy. Nghe ông la mấy tiếng “đồ khoa học điên đảo!”, “khoa học đáng nguyền rủa!” - người trong tòa soạn ngỡ ông đang kiếm chuyện “gây” báo mình. Nhưng không. Vì thực ra ông không có gì để đụng đến tòa soạn uy tín này. Mà chỉ nhân hai chữ “khoa học” đọc thấy tình cờ trên tấm bảng, đã gợi lên niềm uất giận trong ông. Uất thế nào? Chúng tôi tự đi tìm lời giải đáp qua những dòng ông viết:“Khoa học giết người, triết học giết người. Khoa học giết người,
ta nhìn thấy rõ. Triết học giết người, ta nhìn không thấy rõ. Và ít ai hiểu rằng
sở dĩ khoa học giết được nhiều con người đến thế là chính bởi triết học khốn nạn
đã dọn đường, chính triết học hư tà đã phạm tội trước tiên. Khoa học thơ ngây
được phép không ngờ. Khoa học đã hồn nhiên gieo bóng tối. Nhưng cái ghê tởm nhất
là cái bóng tối từ ở giữa lòng triết học tỏa ra. Nietzsche đã chịu một mình
mang tủi nhục để gào to. Nietzsche - cái kẻ dịu dàng như hươu non đành chịu bóp
chết lòng mình để rống to như thú dữ. Nhưng lập tức lời nguyền rủa từ bốn phía
vang lên. Và Nietzsche đã điên. Trước Nietzsche mấy chục năm, Hoelderlin cũng
đã điên. Cùng với bao kẻ khác đã điên. Để ngày nay… để ngày nay chúng ta tụ hội
về đây, xôn xao nêu câu hỏi: cớ sao mà điên? Nêu một cách rất ngây thơ, tròn
trĩnh. (…) Suốt hai mươi mấy thế kỷ, các nhà triết gia học giả u Tây đã gây
điên đảo cho triết học như thế nào? Và từ một vài thế kỷ nay, tại sao khoa học
lại gieo rắc đau thương nhiều đến thế? Phải nêu câu hỏi đó lên, ta mới rõ vì
sao Einstein một mực đòi đi bán bánh mì, Heidegger cùng với Nietzsche một mực
đòi chôn vùi hay đập vỡ nền triết học từ Aristote về sau. Từ đó mà đi các bạn
không còn chỉ trích chúng tôi sao lại cố tâm cố ý đưa những hình ảnh thiên
nhiên - và gọi chúng là những tượng số - về ở giữa triết học hoạt tồn, triết học
tồn lưu tồn thể… Đã là người Việt Nam, thì chẳng lẽ lại viết triết học bằng chữ.
Phải viết bằng lời. Mà lời của biển dâu không thể là lời của văn xuôi. Phải là
lời thơ “tái tân thanh” tái tạo. Văn xuôi cũng phải buộc là thơ. Và mở cửa cho
thơ rúc vào nằm trong một vòm tròn trịa méo mó ôm nhau…” (Tư tưởng hiện đại,
NXB Tân An, Sài Gòn 1974 và NXB Văn hóa Sài Gòn - Quỳnh Na 2008).Đọc đoạn trên để hiểu phần nào về nguyên do khiến Bùi Giáng
có những cơn giận bất ngờ trên đường phố, quay quắt bỏ đi, đi hoài tới trước.
Và chắc là những lúc đó thơ ông cứ như thác đổ, ào ào tuôn dội từ những cơn
“mưa nguồn” đổ xuống sau lưng!.14: Bùi Giáng yêu sách và hoaThi sĩ Bùi Giáng “ngồi xuống bên đời”… Ảnh: Gia đình cung cấpTrong vòm trời khô khan của triết học, người ta nghiêm nghị
và đăm chiêu quá, nhất là các triết gia Đức, họ ít biết cười. Ông nắm tay dẫn họ
vào cuộc hôn phối. “Cuộc hôn phối nào? Là Càn lấy Khôn. Trời cưới Đất, Gió Mộng
gả Sóng Biển cho Rừng” (…). Ông đưa “gió mộng”, “khói hương” vào triết học, và
như thường lệ, dắt cả chị Kiều, em Thúy vào chơi để nhờ chị em góp tiếng cười
giải thoát trước những “công án” vỡ đầu. Công ông chỗ đó.
Bùi Văn Nam Sơn
Chỉ riêng nhan đề cuốn sách trên đã gợi chúng tôi nghĩ đến một
Bùi Giáng bước vào cuộc đời này như bước vào một “lễ hội” chưa tàn. Đọc những
cuốn khác, thấy Bùi Giáng giới thiệu nhiều triết gia, như Soeren Kierkegaard được
xem là “vị thủy tổ sáng lập chủ nghĩa hiện sinh. Ông là người Đan Mạch, sinh ở
Copenhagen tiền bán thế kỷ 19, (…) muốn hòa mình với tâm tình bơ vơ của thời đại,
ước mong đem triết học hòa vào nguồn thơ và nhạc của thăm thẳm núi rừng. (…)
Kierkegaard la to lên: “Lý luận tư tưởng, không bao giờ đạt tới cái ân tình say
đắm của tồn sinh. Có một cõi bờ bí huyền bát ngát của đời sống không thể nào lý
luận lịch kịch đủ sức đưa ta vào. (…). Hiện sinh, là bước ra khỏi phòng tối, là
không chấp thuận cái kín cổng cao tường, là chối từ cái im lìm, cái bất động của
cái gì đã đạt, đã xong, đã rồi, đã đủ… Không. Sống là còn đòi hỏi thêm… thêm…
Thế còn chưa đủ. Thế vẫn chưa vừa. Hôm nay phải khác hôm qua. Ngày sau không thể
nào lập y như bữa trước” (Soeren Kierkegaard và cơ sở chủ nghĩa hiện sinh).Bạn đọc trách thi sĩ Bùi Giáng tại sao bàn chuyện triết học lại
cứ xen lẫn thi ca vào? Ông trả lời: “Xin thưa: đó không phải là một điều đáng
trách. Theo quan niệm nhiều triết gia thời nay và thời xưa, thì “La philosophie
a cessé d’être un drame, d’être une pensée, pour devenir un chant”. Triết học
sau bao lần dọ dẫm tơi bời ở mọi đường quanh nẻo quẹo, cuối cùng đã không còn
là một bi kịch rứt ray, một suy tư nghiêm ngặt, để trở thành một lời ca vi vu”.Ông nhắc đến Karl Jaspers là người “muốn xiển minh cái quyền
lực hiện hữu của con người bằng cái khả năng của tự do phát minh, tự do sáng tạo
bằng quyền lực chọn lựa lối đi ở từng cảnh huống (…). Phải nói rằng: “tôi” trước
hết, là hữu thể tự tạo mình bằng khả năng chọn lựa, bằng ý lực tung hoành vùng
vẫy”. Rồi tiếp: “Kỷ niệm như đem về sương tuyết để pha in. Em chấp nhận không?
Hãy cùng nhau dấn thân vào giông tố. Yêu là chết. Ngay từ đầu hãy lên đường ly
biệt nhé, em. Triết lý của Jaspers là cả một con đường vũ bão. Hãy can đảm rời
mái gia đình, vào trong siêu hình sa mạc se sắt để đón lấy gió võ vàng thổi lại
ý phong lan. Những tờ cảo thơm mang nhiều biểu tượng; hãy nắm, hãy cầm, và đọc
nhé, những ẩn ngữ nào kỳ bí sẽ minh giải cái nghĩa đời cho nhau đó, thưa em” (Thân
phận con người trong triết học Karl Jaspers).Về André Malraux, Bùi Giáng nhận định: “Qua tác phẩm ông
(Malraux), ta bị đập mạnh bởi giọng nói quả quyết, hiên ngang, sống động của
kinh nghiệm và qua những gì ta biết về đời ông, là một sự sáng suốt kiếm tìm một
hình ảnh của con người. Bởi vì con người đã mất hình, mất bóng. Con người đã
không còn níu giữ được thượng đế trong hai tay. Thì sau lúc thờ thẫn khóc than,
phải tự tạo cho mình những giá trị nào để mình bám vào mà sống, mà đứng lại với
đời, ở lại với lá cây, cợt cười cùng cồn cát”.Để kết thúc bài viết này, chúng tôi kể ra đây câu chuyện
(chuyện thực, không phải giai thoại) để minh họa thêm chân dung Bùi Giáng - một
thi sĩ đã sống không phải bằng “khuôn định của triết học và luận lý”, mà luôn sống
động, rực nóng như những hồn thơ cháy đỏ, lăn lóc trong gió lộng và trên đường
phố cuối chiều 30 tết. Nguyên khoảng từ rằm tháng chạp trở đi, vào những năm đầu
của thập niên 1990, các vị sư ở chùa Phật Đà - một ngôi chùa nhỏ nằm trong con
hẻm trên đường Nguyễn Đình Chiểu, Q.3, TP.HCM - thường mang hoa ra bán cạnh lễ
đài Bồ tát Thích Quảng Đức để kiếm chút ít tiền hương đèn giao thừa. Một năm nọ,
Bùi Giáng xuất hiện đi lui đi tới, đi qua đi lại, không mua chậu hoa nào, mà cứ
chen lấn với khách, đẩy người này xô kẻ nọ để dòm quanh dưới đất. Thầy Bổn của
chùa Phật Đà hỏi: “Cụ tìm gì?”. Bùi Giáng đáp: “Tìm hoa rơi”. Một lát sau, có
vài bông hoa rơi xuống thật. Bùi Giáng hớn hở chạy tới lượm từng chiếc lên, ngắm
nghía nâng niu. Thầy Bổn bảo: “Cụ lượm làm gì?”. Đáp: “Lượm đem về cho nó ăn tết”.
Lại hỏi: “Hoa mà biết ăn tết à?”. Bùi Giáng “khai thị” rằng: “Hoa cũng như người.
Người ăn cơm thì nó uống nước. Ban đêm người ngủ nó vẫn thức. Nghe thơ đây:
Trong linh hồn một bông hoa/ Dường như có cõi người ta đường hoàng”. Rồi ông lẳng
lặng đi, mang theo những đóa hoa cuối năm vừa mới rời cành…15: 'Ông trời tròn' trò chuyện với…
Kiều!rước khi mất, vào đầu năm 1998, Bùi Giáng nhận được một tham
luận ký tên Kiều Nguyên Tá từ Mỹ gửi về mà khi đọc, theo người nhà - ông đã vui
vẻ cười nói nhiều hơn bên “khung cửa hẹp”…Bùi Giáng những ngày cuối đời
Tham luận trên do người em ruột của Bùi Giáng là ông Bùi Văn
Vịnh (nay đã mất) gửi về cho người cháu rể là anh Nguyễn Thanh Hoài nhận qua
bưu điện và trao tận tay ông. Ông nằm trên chiếc võng móc ở giữa hai cây vú sữa
và cây mận trước sân, gật đầu mỉm cười khi đọc tới đoạn Kiều Nguyên Tá nhắc đến
mấy câu thơ của ông: “Hãy về gấp cho Trẫm quỳ dưới gối/ Bày tỏ niềm ân hận suốt
trăm năm/ Rồi từ đó ra sông dài tắm gội/ Anh nhìn em như ngó nguyệt đêm rằm” và
“Nhìn anh em có thấy không/ Anh là rất mực một ông trời tròn”.Kiều Nguyên Tá luận: “Qua thân thể hình tướng Bùi Giáng, ai
hiểu được tuổi Đời, tuổi Đạo của Bùi Quân, có chăng người ta nhìn bề ngoài,
nhìn cái giả, chứ mấy ai nhìn được cái thực của Bùi Giáng… Bùi Giáng cứ lộn lên
lộn xuống mãi hàng tỷ, tỷ kiếp để đến ngày hôm nay ông nghiễm nhiên trở thành
"TRÒN VO", không còn luẩn quẩn trong cái tròn (dương), trong cái vuông (âm) thường
tình nữa”. Đọc xong, Bùi Giáng đung đưa võng rất lâu, chẳng biết ông nghĩ gì suốt
buổi hoàng hôn ấy. Sáng hôm sau, theo lời người nhà, Bùi Giáng dậy rất sớm trước
lúc mặt trời mọc, đi ra quán ông Tốt ghi nợ mấy ly rượu trắng uống lúc chưa ăn
gì, rồi trở về nhà bảo:- Bây giờ “ông trời tròn” sẽ nói chuyện lai rai với nàng Kiều
đây…Thực ra chỉ có một mình ông nói với một nàng Kiều nào đó vô
hình vô ảnh, say sưa như thể có cụ Nguyễn Du đang đứng một bên làm chứng, rằng:
nàng Kiều đã chết từng giờ từng phút từ khi nàng mới sinh ra! Chẳng ai hiểu gì.
Người nhà hỏi: nàng Kiều chết như thế nào, ông bảo hãy giở cuốn Mùa xuân
trong thi ca tìm câu trả lời.Cuốn đó, đúng là ông có viết về “cái chết” của Kiều. Song cái
chết ấy không chỉ riêng Kiều, mà chung cho tất cả những ai mới lọt lòng: “Con
người ta là một sinh thể cho tử - vong - tử - diệt. Vừa mới sinh ra đời là
đã như đang chết. Sinh và tử, tử và sinh đi gắn liền nhau trên mặt biển dâu.
Sinh, lão, bệnh, tử, ly, biệt, nói ra là năm tiếng, đáo cùng vẫn chỉ là một tiếng: Parting is
all we know of heaven, and all we need of hell” (Emily Dickinson): ly biệt là
tất cả những gì ta biết về thiên đường, và tất cả những gì ta cần ở nơi địa ngục. Vĩnh
ly là chất của trời. Vĩnh ly là thói của đời nhà ma”.Có nghĩa là, “Kiều” dưới ngòi bút Bùi Giáng thành tên gọi
chung của niềm “ly biệt”. “Ly biệt ngày chia tay đã đành: Người lên ngựa kẻ
chia bào/Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san - Nhưng ly biệt ở ngay trong
giờ sơ ngộ: Bây giờ rõ mặt đôi ta/ Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm
bao - Nhưng ly biệt cũng ở ngay trong giờ tái ngộ: Sự đời đã tắt lửa
lòng/ còn chen vào chốn bụi hồng làm chi?”.Ngay giữa mùa xuân, giữa ngày sinh cũng chớm mầm tảo mộ: “Rằng
sao trong tiết thanh minh/ Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?”. Bùi Giáng viết:
“Không phải đợi tới bây giờ đối diện với cái nấm mộ sè sè nọ, Thúy Kiều mới nhận
ra cái tính chất vắng tanh của phong cảnh giữa tiết thanh minh. Nàng là cái tại
thể tài hoa đã vốn để nảy ra tồn lưu “một cung bạc mệnh”. Và “Cái Dasein Thúy
Kiều tự bao giờ đã liễu giải viên mãn cái nghĩa tử sinh gay cấn”. Từ đó ông nhắc
tới những nỗi “sầu đời”: “Người ta bảo mùa thu sầu? Nhưng tại sao mùa xuân lại
càng sầu hơn nữa? Nhân ngôn thu bi/ xuân cánh bi. Đôi lúc lời thơ lại ỡm ờ hàm hỗn
hơn: Nhân hành do khả phục/ Tuế hành nan khả truy! (Tô Đông Pha): Người đi, còn
có thể trở lại. Năm tháng đi, biết làm sao có thể dõi theo níu trở về?”. Rồi
ông nêu hai câu thơ của Hoài Khanh: “Lang thang trong vạn hồn chiều/ Nghe mùa
gãy đổ dưới nhiều bến sông” và bình: “Đợi chờ gì dưới nhiều bến sông gió quạnh?
Dòng nước vẫn trôi, em hãy xuôi đò, xin cùng anh vĩnh biệt”. Trước giờ “qua bên
kia bến”, ông nhắn: “Mỗi người hãy tự mình tìm trở lại chân lý cho đời mình, gột
rửa những mớ hệ thống lý luận đã có sẵn, để nhận chân thực tại của đời sống và
nội tâm. Đừng quá ham biện luận mà trở thành mù quáng”. Câu nói đó được nhắc lại
trong bữa giỗ đầu tiên nơi căn nhà ông ở trước lúc qua đời 15 năm trước…Hiểu biết vạn vật đất trời, trước sau vẫn là tự hiểu biết mình (…) cái miền thân thể, cái bình thịt xương với tứ chi lếu láo, ta đừng để chúng lung lạc, thao túng con người xác thực của ta. thân thể, ta phải canh chừng nó. cũng như ta phải đề phòng cái tinh khí của ta. vâng, thân thể và khí chất phải được vượt qua!.16: Một bài thơ bí hiểmTrong khối lượng thơ đồ sộ của thi sĩ Bùi Giáng có một bài
thơ khá bí hiểm vì suốt bài quanh đi quẩn lại hai chữ “như thị! như thị!”.Đọc hai câu thơ: “Bà Trời trắng nõn than ôi - Lúc lâm bồn ắt bà ngồi quặn đau” xong, Bùi Giáng đã trầm tư Ảnh: Gia đình cung cấpTrước khi đọc bài đó, chúng tôi muốn cùng bạn đọc nhắc đến
câu nói “bí hiểm” của Bùi Giáng qua câu chuyện do anh Phạm Chu Sa - nhà thơ,
nguyên là biên tập viên của Báo Thanh Niên - đã kể lúc rảnh rỗi quanh
bàn trà tòa soạn. Mới đây, chúng tôi tìm gặp anh Phạm Chu Sa để hỏi lại lần nữa
cho chính xác, thì được anh giới thiệu bản thảo chưa xuất bản của cuốn Một
vài hồi ức về những văn nghệ sĩ quen biết do anh viết, với đoạn về Bùi
Giáng dẫn dưới đây (nguyên văn):“Hằng ngày Bùi Giáng mang lỉnh kỉnh trên người đủ thứ đồ phế
thải mà người ta vất ra đường, từ cái chuồng chim, thùng các tông, tấm áo mưa
rách đến cả áo lót phụ nữ ông cũng choàng lên vai, ra đứng giữa đường chỉ trỏ
như hướng dẫn xe cộ, có khi ông bị mấy cậu thanh niên đeo băng đỏ túm kéo về
phường. Lần đó, đâu khoảng giữa năm 1976, gặp ông mang đủ thứ trên người, đứng
giữa đường trước chợ Trương Minh Giảng (sau đổi là chợ Nguyễn Văn Trỗi) múa
chân múa tay, tôi chạy đến năn nỉ ông đi với tôi, mãi ông mới chịu đi. Tôi bảo
ông vất bớt ba thứ linh tinh đi, nhưng ông nổi giận. Tôi đành chở ông mang theo
đồ lỉnh kỉnh ra “văn phòng giao dịch” của tôi ở chợ trời là quán cà phê ở 75 Lý
Tự Trọng. Tôi mời ông uống cà phê, ông hỏi tôi “cà phê sữa bao nhiêu?”, tôi bảo
hai đồng. Ông nói “Tao không uống cà phê. Tao uống nước trà, mi cho tao
hai đồng rứa, hỷ?”. Tôi đưa ông mấy đồng, ông cười hề hề bảo, uống cà phê mà lại
có tiền thì tao tới tìm chú mi hoài. Té ra ông già tỉnh như sáo chứ có điên gì
đâu! Rồi ông ngồi im lặng ngó ra đường. Chợt thấy tôi cầm cuốn Nam Hoa kinh, bản
dịch của Nhượng Tống, mà tôi vừa mua được ở vỉa hè đường Lê Lợi, mắt Bùi Giáng
sáng lên. Ông hỏi: Mi đọc Nam Hoa mà mi có biết tại sao “thằng” Trang Tử
chửi “thằng” Khổng Tử không? Tôi khá bất ngờ và tính thưa thiệt là không biết,
nhưng không chờ tôi nói, ông đã tự trả lời: Bởi “thằng” Trang Tử “nó” quá
mê và nể sợ Khổng Tử nên phải chửi thôi! Chửi theo ngôn ngữ của Trang. Ông đã
khai sáng cho tôi một điều phải nói là kinh khủng mà tôi nhớ hoài!”. Trong lúc
nói về Trang Tử và Khổng Tử với những giải thích “hình nhi thượng”, đôi lúc Bùi
Giáng đã giúp người chung quanh đang ngồi nghe bớt phải “nặng đầu” bằng những
câu thơ vui vẻ của mình, như bài Tặng bà Khổng Tử: Lòng không lửa tuyết
phun hoa/ Tàn canh nuôi dưỡng mưa sa nửa dòng (...)/ Lòng đi trong cõi người
ta/ Lòng đi đi mất đi là đi đi. Nối theo bài Con chim: “Con chim người ở giữa
trời/ Tháng đi theo tháng tìm mồi hắt hiu/ Con chim người xuống ban chiều/ Cấp ban
hôm sớm một triều sóng hoa/ Linh hồn mộng mị bay xa/ Con chim người đã té ra về
trời...”.Bí quyết sáng tạo?
“Mỗi lần nói tới cái gì, nghe ra cái gì, ngó lại cái gì, là y như đó là LẦN ĐẦU TIÊN ngó, nghe, nói. Ai đọc Nguyễn Du mà không cảm thấy điều đó? Câu chuyện cũ, tiết điệu cũ (có cái gì là không “cũ” đâu?) - thế tại sao mỗi lần “lần giở” vẫn nghe như cái cõi đời trong ta lại tân kỳ như bất ngờ ngẫu nhĩ...”.
Bùi Giáng
Đọc đoạn trên, chúng tôi về nhà, giở phần phụ lục cuốn Tư tưởng
hiện đại của Bùi Giáng xem lại, thấy ông khen Nhượng Tống đã dịch hai cuốn Nam
Hoa kinh (Trang Tử) với lời bàn giải của Lâm Tây Trọng và Tây Sương ký (Vương
Thực Phủ) với lời phê bình của Kim Thánh Thán, rằng: “Đặt vào trong toàn thể tư
tưởng Đông Phương, hai cuốn sách (dịch) của ông (Nhượng Tống) và cuốn Nho giáo
của Trần Trọng Kim đã thừa sức tẩy trừ bao nhiêu những sách vở nhảm nhí của bọn
học giả hiện đại từ Việt Nam đến Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản. Đó là điều mà bọn
trí thức rởm sẽ không sao hình dung được”. Tiếp đó Bùi Giáng nhận định đoạn
Mở Níp (khư khiệp) trong Nam Hoa kinh đã “mang một ẩn ngữ đồ sộ ở phía sau
những điều Trang Tử trực tiếp nói ra (…). Suốt bài, Trang Tử đẩy Đạo Chích ra giảng
giải về “Đạo ăn trộm”. Đạo Chích giảng giải một cách rắn rỏi nghiêm mật dị thường.
Không cách gì bắt bẻ được. Nhưng tại sao càng không bắt bẻ được, thì cái chân
lý hiện ra ở phía sau ngôn ngữ Đạo Chích lại toàn thị hiện là một chân lý ngược
lại hẳn cái chân lý mà Đạo Chích nói ra”. Căn cứ đó, anh Phạm Chu Sa và
chúng tôi “hiểu” câu nói “bí hiểm” của Bùi Giáng về việc Trang Tử “chửi” Khổng
Tử chính là để “khen” vậy - nhưng đó là cách khen không giống với thường nhân.
Cũng từ đó, chúng tôi liên tưởng đến bài thơ “bí hiểm” khác của Bùi Giáng, đọc
thấy trong cuốn Lời cố quận và lễ hội tháng ba (NXB An Tiêm, Sài Gòn 1972,
tr.192), như sau: “Như thị, thị như, như thị thị/ Thị như, như thị, thị như
như/ Thị như, như thị, như như thị/ Như thị, thị như, thị thị như/ Hiển thể thị
như như hiện thể/ Sơ đầu thị hiện thị nhiên như”.Còn hai câu nữa: “Xưng danh nhứt xuất do thi sĩ/ Sạ hiện
tức hình hiện thể như”, nhưng sa môn Huệ Thiện bảo ngang bốn câu “như thị” đó
là đã đầy đủ lắm rồi. Giải mã bài thơ ấy ra sao, xin hẹn một kỳ sau. 17: Một ngày ngao du
Chắc hẳn nhiều bạn đọc - cũng như chúng tôi - đều muốn biết
thi sĩ Bùi Giáng đã sống ra sao hằng ngày, đi đâu, về đâu và làm chi từ sáng đến
chiều...
Trong vòm trời khô khan của triết học, người ta nghiêm nghị
và đăm chiêu quá, nhất là các triết gia Đức, họ ít biết cười. Ông nắm tay dẫn họ
vào cuộc hôn phối. “Cuộc hôn phối nào? Là Càn lấy Khôn. Trời cưới Đất, Gió Mộng
gả Sóng Biển cho Rừng” (…). Ông đưa “gió mộng”, “khói hương” vào triết học, và
như thường lệ, dắt cả chị Kiều, em Thúy vào chơi để nhờ chị em góp tiếng cười
giải thoát trước những “công án” vỡ đầu. Công ông chỗ đó.
Bùi Văn Nam Sơn
Bùi Giáng những ngày cuối đời
Bí quyết sáng tạo?
“Mỗi lần nói tới cái gì, nghe ra cái gì, ngó lại cái gì, là y như đó là LẦN ĐẦU TIÊN ngó, nghe, nói. Ai đọc Nguyễn Du mà không cảm thấy điều đó? Câu chuyện cũ, tiết điệu cũ (có cái gì là không “cũ” đâu?) - thế tại sao mỗi lần “lần giở” vẫn nghe như cái cõi đời trong ta lại tân kỳ như bất ngờ ngẫu nhĩ...”.
Bùi Giáng
Bùi Giáng với bé Quỳnh (con gái Thanh Hoài) trong ngày sinh nhật 27.8: “Bài thơ sinh nhật Bé Quỳnh/ Cầm cây bút viết thình lình tay run (...) Lời chúc tụng Nàng Thơ về ẻo lả/ Tự đầu tiên Quỳnh Bé đã vô ngần - Ảnh: Gia
đình cung cấp
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét