Chuyện đời Bùi Giáng 1
1. Ai đưa Bùi Giáng vào nhà thương
điên?
Bùi Giáng qua ký họa của Chóe - Ảnh: Tư liệu
|
Những tài liệu này ghi nhận qua các buổi gặp gỡ với đại diện của Bùi tộc Vĩnh Trinh tại TP.HCM - ông Bùi Dương Thạch, hoặc những người từng sống gắn bó nhiều năm với Bùi Giáng như ông Nguyễn Thanh Hoài tại số 482/35/5 Lê Quang Định, P.11, Q. Bình Thạnh, TP.HCM. Chính ở địa chỉ đó, hiện vẫn còn lưu giữ các cuốn băng với nhiều chi tiết sống động do Bùi Giáng kể ra, được Thanh Hoài ghi âm:
“Những năm cuối đời của bác Giáng, nhất là từ 1990 trở đi,
hai bác cháu thường ngồi nói những chuyện riêng tư cho đỡ buồn trước hiên nhà,
hoặc dưới tàng cây trong sân vào mỗi đêm khi gia đình đã đi ngủ hết. Bác kể hết
sức chi tiết về chuyện đời của bác, từ thời còn nhỏ cho đến lúc lớn lên, rời miền
Trung vào Sài Gòn sinh sống, làm thơ và giao du với ai, cũng như việc sáng tác,
in ấn như thế nào… Một bữa, tôi lấy máy cassette để ghi âm lại lời nói của bác
thì thấy bác có vẻ băn khoăn hỏi: “Mi thâu làm cái chi?”. Tôi nói với bác thâu
để có gì hay thì cháu nghe lại không thôi nó quên! Bác nói rứa thì được, mi cứ
thâu đi, tao nói cho nghe”. Và Bùi Giáng nói về “sự cố” đã đẩy ông vào nhà
thương Biên Hòa với nội dung như lời Thanh Hoài tóm lược dưới đây.“Vào những năm đầu tiên của thập niên 1960, bác Giáng viết rất
nhiều, gần như không có ngày nào dừng bút, bản thảo dày lên chưa kịp in thì xảy
ra vụ cháy nhà nơi bác đang ở trên đường Phan Thanh Giản, nay là đường Điện
Biên Phủ, khiến bao nhiêu bản thảo cháy rụi. Bác nói với tôi là tao quá tiếc và
đau đớn nhất là công trình biên soạn về truyện Kiều ròng rã suốt 3 năm trời đã
thành tro, làm tao buồn quá bỏ hết để rong chơi khắp lục tỉnh, sông nước kênh rạch
chỗ nào có dịp là tao tới.Khi về, thì Tòa đại sứ Pháp và Tòa đại sứ Đức ở Sài Gòn có mời
tao đến hỏi thăm, họ nói nếu tao cần sách gì họ sẽ mang tặng không đòi một đồng
nào. Nhưng nhà cháy rồi, lấy sách của Pháp của Đức về cũng không có chỗ để, nên
tao cám ơn rồi từ chối, không nhận. Thế nhưng hai tòa đại sứ kia không biết thế
nào vẫn lại tìm cách gửi đến tao mấy thùng sách quý của các tác giả nổi danh ở
nước họ và trên thế giới. Tao đành phải nhận nhưng không biết cất nơi nào nên
tao mới đến gặp ông chủ (tạm giấu tên) của NXB VT để vui vẻ tặng lại cho ông
ta. Nhưng ông ta không nhận, vì ông nói người Pháp người Đức tặng cho anh toàn
sách quý, nếu anh không có chỗ cất vì nhà đã cháy, thì tôi chỉ giữ giùm, khi
nào anh cần đến nói là tôi giao lại cho anh. Tao vui vẻ ra về.Đến không lâu sau tao kẹt quá, không có tiền đủ để ăn cơm
bình dân và uống la-de con cọp chai loại lớn nên tao đến gặp ông chủ NXB kia để
nhận lại số sách đã gửi. Nhưng kỳ cục là khi tao đến lấy, thì ông ta không giữ
lời, nhất định không chịu trả. Tao nhắc lại là tại sao khi tao tặng thì không
nhận, nói giữ giùm, bây chừ đến lấy tại sao lại không đưa? Ông ta cứ một mực tỉnh
bơ, không trả. Tao nổi điên tao chửi một trận, rồi tao về. Bước ra ngoài đường
tao thấy chiếc xe hơi kiểu Nhật sang trọng của ông chủ đó đang đậu trước nhà,
luôn tiện tức quá tao lượm một cục đá xanh thiệt to ném thẳng vào chiếc xe đó
cho hả giận, ai dè nó bể cái kính xe, mà lúc đó chiếc xe trị giá cả bạc triệu.
Ông ta chạy ra thì sự đã rồi, vừa tiếc của, vừa giận tao lắm, mới điện thoại
cho thằng em ruột của tao (không nêu tên) lúc ấy là sĩ quan của quân đội ông
Thiệu đến mắng vốn và để chở tao về. Khi về đến nhà, thằng em ruột của tao ngao
ngán nhìn tao và có lẽ nhớ đến chiếc xe đắt giá bị bể kiếng rồi sợ rằng tao ở
trong nhà nó có thể cũng sẽ gây ra cảnh tương tự như thế. Nói trắng ra là thằng
em tao với đứa con gái út của nó chắc hẳn nghĩ rằng tao điên nên đã cùng nói với
tao là thôi để ngày mai tụi em chở anh về Vũng Tàu vài hôm nghỉ mát cho khỏe
người tĩnh trí anh à. Tao cứ tưởng thật nên sáng hôm sau ngồi lên xe cho chúng
chở đi về Vũng Tàu. Nào ngờ đến Biên Hòa tụi nó đã chở thẳng tao vào nhà thương
điên để gửi, tao có nói gì đi nữa thì bọn “cai ngục” chung quanh cũng chẳng ai
tin, mi thấy có đắng họng không?”. Về sau ông viết mấy câu: “Gặp người tôi tưởng
người điên - gặp tôi tôi tưởng tôi điên như người”… “Bùi Giáng chưa bao giờ điên. Cũng như anh chẳng bao giờ giả điên. Càng chưa bao giờ Bùi Giáng bất mãn trước bất cứ thời thế nào. Bởi lẽ dễ hiểu là Bùi Giáng chẳng sống theo thời thế, mà chỉ biết sống từ cõi văn nghệ lúy túy càn khôn của anh. Thời kỳ của Bùi Giáng bộc phát ra bên ngoài mà chúng ta gọi là điên, ấy là thời kỳ tĩnh tại và hưng phấn cùng độ của người nghệ sĩ. Tất cả lẽ chân thiện mỹ của nghệ thuật thi ca từ nhiều đời nhiều kiếp đều dồn về lúc đó… Bây giờ người thi sĩ này chỉ còn một cách duy nhất để sáng tác nguồn cảm hứng kia là sống. Sống dạt dào - sống nóng hổi tươi mới. Sống và sống là thi ca tràn đầy trong thiên nhiên, trong tình cảm và giữa vạn loài. Ôi thời gian là thực chất mới mẻ đang dâng hiến, dâng hiến bất tuyệt cho người, cho ta, cho cây cỏ, cho nắng mưa, cho rượu chè, cho phở tái, cho tình yêu chan chứa giữa lòng nhau mà đau khổ càng rõ nét, càng vút cao tính khoan hòa thánh thiện… Tính cách này đạo Thiền gọi là phỉ lạc, Bùi Giáng gọi là Niết bàn của thi sĩ…”.
Trần Đới
(Thích Thông Bác)
2: Thiên tài không thể định nghĩa
“Bùi Giáng chưa bao giờ điên. Cũng như anh chẳng bao giờ giả điên. Càng chưa bao giờ Bùi Giáng bất mãn trước bất cứ thời thế nào. Bởi lẽ dễ hiểu là Bùi Giáng chẳng sống theo thời thế, mà chỉ biết sống từ cõi văn nghệ lúy túy càn khôn của anh. Thời kỳ của Bùi Giáng bộc phát ra bên ngoài mà chúng ta gọi là điên, ấy là thời kỳ tĩnh tại và hưng phấn cùng độ của người nghệ sĩ. Tất cả lẽ chân thiện mỹ của nghệ thuật thi ca từ nhiều đời nhiều kiếp đều dồn về lúc đó… Bây giờ người thi sĩ này chỉ còn một cách duy nhất để sáng tác nguồn cảm hứng kia là sống. Sống dạt dào - sống nóng hổi tươi mới. Sống và sống là thi ca tràn đầy trong thiên nhiên, trong tình cảm và giữa vạn loài. Ôi thời gian là thực chất mới mẻ đang dâng hiến, dâng hiến bất tuyệt cho người, cho ta, cho cây cỏ, cho nắng mưa, cho rượu chè, cho phở tái, cho tình yêu chan chứa giữa lòng nhau mà đau khổ càng rõ nét, càng vút cao tính khoan hòa thánh thiện… Tính cách này đạo Thiền gọi là phỉ lạc, Bùi Giáng gọi là Niết bàn của thi sĩ…”.
Trần Đới
(Thích Thông Bác)
Bùi Giáng tại nhà đường
Lê Quang Định - Ảnh: Tư liệu
Thưa ông, vui lòng cho biết một trong những điều 'vẫn còn
truyền thông' sau tọa đàm?Tôi muốn nói đến tiểu sử Bùi Giáng mà trước đây thường do các
tác giả ngoài tộc Bùi viết với một số chi tiết khác nhau làm công chúng băn
khoăn. Nay qua tọa đàm, Bùi tộc Vĩnh Trinh chúng tôi thu thập thêm tài liệu để
chính thức thông báo về các nét chính trong đời ông sau đây. Bùi Giáng sinh
ngày 17.12 năm Bính Dần 1926 tại làng Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, H. Duy Xuyên,
Quảng Nam, là con thứ nam của ông Bùi Thuyên (thuộc đời thứ 16 họ Bùi ở Quảng
Nam) và bà Huỳnh Thị Kiền. Ông lấy vợ năm 1944, lúc 18 tuổi. Vợ ông là hoa khôi
trong vùng: bà Phạm Thị Ninh; khi mang thai bà bị bệnh, phải sinh non và cả hai
mẹ con đều qua đời. Từ đó ông in sâu vào lòng một quá khứ không vui: “Xin ngó lại
bàn chân em bước/ Vì em đi vào lúc gió đương bay”. Rồi ông nói với người đã khuất
trên núi rừng Trung Việt: “Khung cảnh ấy nằm sâu trong đáy mắt/ Có lệ buồn, khóc
với lệ hòa vui/ Để tràn ngập hương mùa lên ngan ngát/ Rồi tan đi trong hố thẳm
chôn vùi”...Về các chi tiết khác, nghe nói đã có một số tài liệu mới về
Bùi Giáng vừa lưu hành trong nội bộ của Bùi tộc Vĩnh Trinh tại TP.HCM?.“Hiếm có tác giả nào mà khi ta đọc đôi câu cũng có thể cảm thụ được cái tinh thể của toàn bộ văn nghiệp đồ sộ, nhìn một hành vi mà thấy được phong độ dị thường của cả bình sinh. Một giọt nước mắt mang cả lượng hải hàm của đại dương - nói như nhà Phật. Các bậc thâm trầm ngày xưa gọi đó là “mở cửa thấy núi, một khí xuyên suốt (khai môn kiến sơn, nhất khí quán hạ). Phương Tây bảo rằng Văn là Người. Quả ở đây, Người trở thành Văn, Văn với Người không hai. Anh Giáng là sao Văn Khúc (...) thuộc vào loại thiên tài không định nghĩa được (génie indéfinissable)”.
Bùi Văn Nam Sơn
(Bùi tộc phổ hệ)
Đó là ấn phẩm dày khoảng 360 trang lần đầu tiên chúng tôi tập
hợp các bài viết về Bùi Giáng được xem là một bộ sưu tập nhỏ dùng làm tặng phẩm
kỷ niệm cho bà con trong Bùi tộc. Chúng tôi cám ơn và ghi nhận nhiều cách nhìn
về Bùi Giáng mà chú Bùi Văn Nam Sơn gọi một cách hình ảnh là “Bùi Giáng trong
chiếc kính vạn hoa”. Chẳng hạn anh Mai Thảo viết về Bùi Giáng rất sống động và
tài tình, riêng chuyện “điên” mà Mai Thảo nhắc đến qua 4 câu: “Và ở Sài Gòn vẫn
còn Bùi Giáng. Tối tối về chùa đêm làm thơ. Ngày ca múa khóc cười giữa chợ. Kẻ
sĩ điên thế kỷ mù rồi” thì anh Huỳnh Hữu Ủy không đồng tình, cho là “Mai Thảo rất
nhầm lẫn khi quy tội điên của Bùi Giáng cho những nguyên nhân thời đại” vì Bùi
Giáng đã: “Thoát ra khỏi mọi phiền trượt của cuộc đời, chẳng còn câu chấp chi cả,
ông sống hoan hỷ như một đứa trẻ với một nguồn thơ tinh khôi, hồn nhiên, đầy
hoan lạc” như mấy câu: “Người con gái lội qua khe/ Bàn chân với nước lạnh đè lên
nhau/Nỗi niềm tưởng lại xưa sau/ Bàn chân với nước cùng nhau lại đè”...Còn những điểm sáng tương đồng tương cảm?
Có lẽ cần nhắc đến kết luận của Thái Tú Hạp rằng: “Dù với bao
nhiêu lời nhận định nào đi nữa ta vẫn thấy một điểm chung của mọi người là đã
dành sự yêu mến cho con người siêu lãng tử lẫn thiên tài độc đáo này”. Một điểm
chung tiếp theo là nhắc đến “một Bùi Giáng lang thang trên vỉa hè Sài Gòn đau
đáu nhớ nhung về mảnh đất hẹp Quảng Nam mà vẫn đem triết học Đông Tây về với ca
dao lục bát, vẫn có thể quàng vào thân thể của Brigitte Bardot hay Monroe những
xiêm y của Xuân Hương” như Nguyễn Hoàng Vân đã viết từ Melbourne (Úc). Các bài
viết trước năm 1975 của Trần Tuấn Kiệt, Cao Thế Dung, Tạ Tỵ, Du Tử Lê, hoặc sau
này của Huy Cận, Trụ Vũ, Phạm Thiên Thư, Vũ Đức Sao Biển, cùng nhiều tác giả
khác đều tựu trung nhắc đến Bùi Giáng là thi sĩ đã đưa thơ “vượt qua những rào
cản của ngôn ngữ”. Nỗi nhớ quê hương của ông cũng thật lạ như: “Người hỏi
tôi: Từ đâu ông đến đây?/ Thưa cô thôn nữ từ đây tôi về/ Ủa phải anh Sáu
Giáng đó không?/ Và cô có phải là cô Bông năm nào?/ Anh còn nhớ rõ ôi chao!/ Vợ chồng
tôi cũng lúc nào nhớ anh/ Anh điên mà dzui-dzẻ thập thành/ Chúng tôi tỉnh táo mà
đành buồn hiu”.Những năm cuối đời, có lần Bùi Giáng về thăm những “cô gái
quê” thuở xưa: “Bảy mươi tuổi quá nặng nề/ Còn em đã sáu tám rồi em ơi”. Ông
cũng viết một bài thơ trước khi mất do Bùi Kiến Quốc chép lại: “Chiêm bao tôi
thấy tôi về Quảng Nam/ Rong chơi Đại Lộc, Điện Bàn/ Duy Xuyên, Tiên Phước, Hòa
Vang, Thăng Bình/ Tìm người bạn cũ không ra/ Còn phong cảnh cũ khác xa những
ngày/ Xóm làng, đồng ruộng lạ thay!/ Chỉ còn dáng núi chạy dài xa xa/ Giữ nguyên
hình ảnh đậm đà/ Còn trong kỷ niệm bao la tuổi nào/ Ngắm nhìn, tim máu xôn
xao/ Tôi rời đất Quảng trở vào miền Nam/Tâm hồn bao xiết hoang mang/ Bài thơ viết
vội, dở dang lạ lùng...”.Riêng ông nhớ nhất những câu gì của Bùi Giáng?
Câu: “Ta đi còn gửi đôi dòng/ Lá rơi có dội ở trong sương mù”,
thơ của ông gửi lời hẹn không chỉ đến người ở cõi này, mà còn đến những ngày “hội”
ở kiếp sau. Đồng thời cũng làm chúng ta liên tưởng đến người vợ xinh đẹp của
ông cùng qua đời với đứa con đầu lòng khi tuổi mới thanh xuân - và chắc chắn biến
cố ấy đã làm ông đau xót hẹn hò: “Mai sau còn dự hội nào/ Ngó nhau từ kỷ niệm đầu
bão giông...”. 3: Cuốn sổ nợ 'đoạn trường'
“Hiếm có tác giả nào mà khi ta đọc đôi câu cũng có thể cảm thụ được cái tinh thể của toàn bộ văn nghiệp đồ sộ, nhìn một hành vi mà thấy được phong độ dị thường của cả bình sinh. Một giọt nước mắt mang cả lượng hải hàm của đại dương - nói như nhà Phật. Các bậc thâm trầm ngày xưa gọi đó là “mở cửa thấy núi, một khí xuyên suốt (khai môn kiến sơn, nhất khí quán hạ). Phương Tây bảo rằng Văn là Người. Quả ở đây, Người trở thành Văn, Văn với Người không hai. Anh Giáng là sao Văn Khúc (...) thuộc vào loại thiên tài không định nghĩa được (génie indéfinissable)”.
Bùi Văn Nam Sơn
(Bùi tộc phổ hệ)
Thủ bút của Bùi Giáng trong sổ nợ
đoạn trường - Ảnh: tư liệu
Ngày Bùi Giáng mất theo âm lịch là 17.8 Mậu Dần, nên hằng năm
lễ giỗ thường được tổ chức ngày 16.8 âm lịch (năm nay rơi vào 20.9.2013 dương lịch).
Vì thế, trưa nay gia đình sẽ cúng ngọ với mâm chay đặt trước mộ và mâm mặn dành
cho các văn nghệ sĩ khắp nơi yêu thơ ông đến viếng để uống chén rượu nhớ ngày
ông ra đi giữa “ngàn thu rớt hột”. Nhà thơ Trần Đới - người gắn bó với Bùi
Giáng suốt 15 năm trên “chiếc đu bay” sẽ có mặt. Và dự kiến Đắc Phúc sẽ hát tại
chỗ một số bài nhạc do anh phổ thơ Bùi Giáng, bên cạnh tay đàn tây ban cầm cổ
điển Lê Quốc Phong và nghệ sĩ nhạc rock Linh Xù (Phan Ngọc Linh), Lư Châu (Phan
Văn Châu). Dịp này, chúng tôi đến ngôi nhà cũ Bùi Giáng ở nhiều năm trước lúc
qua đời và được gia đình cho xem các cuốn sổ nợ do chính ông ghi từ 1993 đến
1998.Trong đó, ông thường ghi nợ ở một quán mở gần nhà (nằm trong
con hẻm đường Lê Quang Định), chủ quán là ông Tốt rất “từ bi”, hễ Bùi Giáng uống
rượu chịu bao nhiêu vẫn cứ để ghi sổ dài dài, nên cuối năm 1997, giáp Tết Mậu Dần
1998 (năm Bùi Giáng mất), đã viết mấy câu vào sổ nợ: “Bài thơ thân tặng Đại
ca/ Kính thưa ông Tốt là cha thằng Bùi khùng”.Nghe nói ông Tốt đã xin Bùi Giáng đừng gọi ông ta bằng “cha”
mà ông ta sẽ bị tổn thọ. Song Bùi Giáng bác bỏ, nói biết đâu kiếp trước, kiếp
xưa, kiếp xa “ngài” đã mấy triệu lần làm cha “Bùi” này rồi. Chiều 30 tết, gia
đình ra trả nợ để lấy cuốn sổ ấy về, thay vào cuốn sổ mới, Bùi Giáng lập tức
ghi mở hàng: “Trả xong món nợ láng giềng/ Lòng vui phơi phới tháng giêng Mậu
Dần”.Nhưng chỉ vài giờ sau giao thừa, Bùi Giáng lại xuất hiện trước
cửa ông Tốt “đạp đất” để khai bút đầu năm vào sổ, thiếu “một ngàn rưỡi ngày
nguyên đán”. Mồng hai, mồng ba cũng vậy, đến: “hôm nay mồng bốn tháng giêng/ hai
ngàn nợ này - say rượu suốt hoài trăm năm” và kéo dài gần hết tháng giêng: “sau
tết 20 ngày nợ hai ngàn rưỡi” và “sau tết 22 ngày/ nợ nơi này hai ngàn rưỡi”… Điều
khác người, là tiền nợ ông ghi bằng chữ chứ không ghi bằng số.Cũng có chỗ nợ chỉ năm ngàn nhưng ông ghi: “nợ nần năm triệu”
với chú thích rõ bên dưới: “tức là năm ngàn Việt Nam”. Có lần ông Tốt méc với
gia đình là bác Giáng ngồi uống rượu ngoài quán la hét rằng làm vua, làm tổng
thống, làm chủ tịch nước không sướng bằng ông Tốt sinh ra để suốt đời bán rượu
cho thằng khùng, đúng như ông đã viết trong sổ nợ: “Muôn thu thiên thượng lâu
đài/ không bằng bán rượu lai rai cho thằng khùng - năm ngàn hôm nay - giờ này số
dzách - 1998 January”. Có những câu khá buồn: “Tháng năm sắp đổi sắp dời/Một
mình ngồi uống biết mời mọc ai/ Chỉ còn cô độc đeo đai...” . Những câu ấy nhắc
chúng tôi nhớ lại tham luận của GS-TS Huỳnh Như Phương mới đây tại Tọa đàm khoa
học về Bùi Giáng có đoạn đại ý nói rằng tọa đàm mở ra ngoài các mục đích nghiên
cứu khoa học, còn được xem là lời xin lỗi với vong linh Bùi Giáng về nhiều năm
đã “bỏ quên” ông…Trong “sổ đoạn trường” ấy Bùi Giáng cũng nói trước về ngày ra
đi của mình: “Nợ nần ông trả từ nay/ Về sau ắt sẽ còn đâu nợ nần”. Thật ra,
chính chúng ta nợ ông rất nhiều. Món nợ lớn nhất (chưa nói đến giá trị văn
chương và tư tưởng độc đáo của ông), là nguồn vui lạ lùng mà cuộc sống lang
thang của ông đã lan tỏa ra ngoài, không hề tính toán và đòi hỏi gì, như Huy Tưởng
đã viết và đọc cách đây đúng 15 năm trong giờ vĩnh biệt: “anh Bùi Giáng đã dấn
mình một cách hiên ngang và khốc liệt vào cõi Thơ ca, TẬN HIẾN hết cả đời mình
cho duy nhất thơ ca (…) tận hiến mà không hề nhận lại một sự bù đắp đối đãi nào
của nhân thế, trút gởi hết thảy xương máu và hồn phách, lưu lại ở đời như vay tạm
một hình cốt mong manh bi thiết và mộng mị. Hình ảnh đắm chìm của tận hiến hung
hiểm đó chính là một tượng đài vĩ đại đến khủng khiếp của thiên tài thơ Bùi
Giáng (…) Xin vĩnh biệt anh Bùi Giáng yêu kính. Cầu cho hồn anh được siêu sinh
tịnh độ, nương theo mây trắng mà về lại với quê nhà, tiếp tục rong ruổi vui
chơi trên cõi trời Đâu suất…”.Thật vậy, ông đã mang “những hạt nắng bảy màu” đến với nhân
sinh cùng tiếng cười vui bất ngờ đâu đó: “Cái vui ấy ông đã ban tặng cho đời
mãi đến ngàn sau, không những bằng ngôn từ mà cả bằng thân xác” (Thích Nhuận
Châu) - và nay ông đã về “cố quận” (như chữ ông thường dùng) để lại mấy câu da
diết: “Đất hoa khóc vĩnh biệt người/ Ngàn cây cố quận đôi lời sương thu”.Lời cố quận là tên một tập khảo luận nổi tiếng của Bùi Giáng
- cùng với tập Lễ hội tháng ba trở thành hai cuốn sách mà bạn đọc có thể tìm hiểu
về tư tưởng được xem là “ẩn mật” của ông - như Bùi Văn Nam Sơn nhận định. Sáng
nay, ông có thể sẽ trở về trong hương khói, với “niềm vui ẩn mật” mà Nguyễn
Quang Thanh từng khẳng định là luôn luôn được “phơi bày ở trong chính mình và ở
quanh mỗi chúng ta”. Phơi bày trong im lặng và im lặng như thơ Bùi Giáng viết:
“Một lời chẳng nghĩa là bao/ Dẫu lời không tiếng lẽ nào không nghe?”. Bùi Giáng đã tạo ra được một cuộc hôn phối kỳ lạ giữa Trời và Đất, Đông và Tây, giữa Heidegger đìu hiu gió tuyết và Nguyễn Du tịch mịch sương chiều. Bùi Giáng không bao giờ là một nhà “giải minh” tư tưởng triết học hiểu theo nghĩa hàn lâm của thuật ngữ này (...) ông không bao giờ sử dụng các “phương pháp phân tích” và diễn giảng của nhà trường để đi sâu vào một tác phẩm hay một tác giả. Với ông, chỉ có sự đồng cảm hay thấu cảm với một tâm hồn đồng điệu nào đó hoặc với suối nguồn uyên nguyên của tư tưởng mới là điều đáng kể, còn ngoài ra tất cả đều là phù phiếm, dù cho sự phù phiếm này có được nâng lên thành một hệ thống quan niệm có tính chất phương pháp luận. 4: Đạt đạo cõi thơ
Bùi Giáng làm thơ trên xe xích lô - Ảnh: Tư liệu |
“Viết về bất cứ danh nhân nào người ta thường phải nhắc đến
nơi chôn nhau cắt rốn cũng như dòng dõi huyết thống của danh nhân đó - ở đây
chúng tôi muốn nói đến Bùi Giáng với Bùi tộc Vĩnh Trinh”.
Ảnh: Gia đình cung cấp |
Đời thứ 17 có Bùi Kiến Tín du học và tốt nghiệp bác sĩ y khoa tại Pháp, về nước ông sáng chế loại dầu chữa bệnh thời khí nổi danh có tên “Dầu khuynh diệp bác sĩ Tín” thông dụng toàn quốc. Công thức bào chế của ông hiện nay vẫn được một số xí nghiệp dược phẩm Việt Nam dùng để tái sản xuất. Bác sĩ Tín là thân phụ của tiến sĩ Bùi Kiến Thành - người Việt đầu tiên được đào tạo tại Mỹ trong lĩnh vực tài chính và có quá trình hơn 40 năm hoạt động trong lĩnh vực này trên trường quốc tế (sau năm 1975, ông Thành trực tiếp hỗ trợ Ban Biên giới chính phủ nghiên cứu cơ sở luật pháp để bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên thềm lục địa, khu vực dầu khí biển Đông). Bác sĩ Tín cũng là thân phụ của kiến trúc sư Bùi Kiến Quốc. Cũng đời thứ 17 đã xuất hiện Bùi Giáng, “sinh tại làng Vĩnh Trinh, nay thuộc thôn Vĩnh Trinh, xã Duy Hòa, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, là con thứ hai của ông Bùi Thuyên và bà Huỳnh Thị Kiền - nhưng nếu tính tất cả các anh em trong nhà thì Bùi Giáng là con thứ năm. Sau này khi ông vào sống ở Sài Gòn được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng”, ông Thạch nói.
Rời quê hương, Bùi Giáng ra đi, đi và đi mãi, và đã gặp những ai trong lễ hội tháng ba, tháng tư tháng năm, tháng chín tháng mười, tất cả mọi tháng nào “còn sơ nguyên mộng”?
Gặp Bồ Tát cười vui như nắc nẻ
Một hôm nào nương tử bước
hai chân
Vén xiêm áo nghe tượng thần
mở hé
Tòa thiên nhiên ngồi xuống cỏ
vô ngần (...)
Người ta chết lúc làm thơ
như thế
Không hề gì vì chết rỡn
cho vui...
BÙI GIÁNG
Thi sĩ Phạm Phú Hải (đã qua đời) - tác giả tập thơ với cái tựa độc đáo và vang bóng: Gánh nước tưới sông - có đăng bài thơ Không đề khá dài trong đặc san Tưởng niệm Bùi Giáng, mà khi đọc chúng ta thấy hồn thơ của Phạm Phú Hải cùng “Bùi Giáng đại huynh” dường như kẻ trước người sau tiếp nối từ một nguồn Hồng Lĩnh. Xin trích đôi dòng:
Ngọn hồng và cỏ ngủ quên
Gót son (và) mặt đất nghiêng bên chân người
Áo bay nghiêng một bầu trời
Tiếng cười nghiêng một chút thời gian xanh
Gió là cánh của âm thanh
Ngày là sóng của biển hành tinh xa
Xuân là nguyên đán giao thoa
Nắng là mật của ngàn hoa không màu...
Bùi Giáng qua ống kính của L.N.D
Ảnh: gia đình cung cấp
“Bùi Giáng - thi nhân thấu thị, đã sống kiệt tận miên bạc bình sinh, đã là một trong số hiếm hoi những linh hồn đã đi đến tận đáy của cái vực sâu không đáy, đã yêu đắm đuối cả cuộc bể dâu thê thảm, để công phu ghi tặng lại, bằng ngòi bút lô hỏa thuần thanh...”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Thanh
Ảnh bìa tác phẩm của Bùi Giáng do An Tiêm xuất bản |
Con đường vào thơ của Bùi Giáng dẫn tới cửa chùa. Nói cụ thể hơn, không có NXB An Tiêm của Thanh Tuệ (một tu sĩ Phật giáo) thì bạn đọc không có cơ hội thấy hết được sự nghiệp thơ đồ sộ của Bùi Giáng. “Cuộc chơi lớn” của Bùi Giáng không dễ tìm được một NXB nào chịu bỏ tiền ra in cho ông, ngoài nhà An Tiêm.
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác
Những nhận định của Đỗ Long Vân về nội lực, về nguyên lý võ học và cơ cấu luận... đều bắt nguồn từ cái nhìn sâu thẳm vào tinh thể tinh yếu của vấn đề, và gợi cho người đọc rất nhiều dư hưởng mênh mông khát vọng từ các kiệt tác kim cổ Đông Tây (...). Còn Bùi Giáng có một cái nhìn rất lạ về tác phẩm Kim Dung nói riêng và sách báo võ hiệp nói chung.
Huỳnh Ngọc Chiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét