Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2022

Chim Perruche thân lục mỏ đỏ vùng Ile-De-France

Chim Perruche thân lục
mỏ đỏ vùng Ile-De-France

Một sáng sớm trời đẹp, không lạnh, không mưa, mặt trời lấp loáng qua khe cứa đánh thức tôi dậy. Thật ra, không phải những tia mặt trời kéo tôi ra khỏi giấc Nam Kha mà là tiếng kêu ồn ào tranh mồi của một bầy chim trên cây sồi tía trước cửa phòng. Tôi mở rộng cửa ngóng xem chim gì vì tiếng kêu en éc giọng cao, không có gì du dương, êm tai.


Tôi ngạc nhiên khám phá một bầy chim thân lục, mỏ đỏ, ngực vàng tựa chim keo bên ta, Thuyên chuyển màu lục là gần nhất màu tự nhiên của chim. Chim lục như vậy hiếm có đã đành, đi kiếm ăn từng bầy lại càng ít thấy, nhất là lần này mấy chục con đổ xuống cây sồi rừng không có trái ăn ngọt quyến dũ. Tôi chụp ngay cái ảnh, gởi hỏi một anh bạn làm ở Jardin des Plantes. Không ngần ngai, anh giải thích: đấy là những con chim vẹt perruche vừa mới lại định cư trong vùng. Thảo nào tôi ít thấy. Chim vẹt bên ta cũng hiếm, thường nhiều màu sắc, được mua bỏ lồng, có khi tập cho nó học nói, học hót. Tìm sách báo đọc thì được biết chim perruche này vừa mới đến ở trong vùng nên ít người biết tuy thường thấy vừa bay vừa kêu trên mái trời Xô. Đi dạo chơi, quan sát trong công viên Sceaux, tôi có thể chỉ định nơi nó chúng gặp nhau, cạnh hồ Octogone, chia sẻ khoảng không gian với mấy chú sóc nhát gan, lông hung, đuôi dài. Gần đây, tôi mới biết buổi tối chúng về ngủ ở Wissous. Có điều là chúng không hót và không học nói, có thể là vì không có ai bỏ công tập cho chúng khi thấy chúng không có khả năng lớn.

Tò mò đi tìm hiểu, tôi biết được những con perruche thường gọi là vẹt xanh nầy thật ra nhuốm màu lục giống con keo, sống từng cặp ở Wissous, Roissy-en-France, trong công viên Montsouris, rừng Vincennes, các vườn Luxembourg, Val-de-Grace, Jardin des Plantes,...và công viên Sceaux. Theo Frédéric Malher, Hội trưởng Hội chim học Ile-de-France CORIf, một dạo lúc ban đầu, chúng định cư ở đồi Buttes-Chaumont và nghĩa địa Père-Lachaise. Theo những nhà chim học, trong những năm 1970, chúng thoát ra từ một lồng chim khá lớn ở phi trường Orly khi nhân viên vận dụng xe chở chim. Có người cho cũng có chuyện tương tự ở phi trường Bordeaux. Còn ở phi trường Roissy-Charles-de-Gaulle thì vì một đằng kiểm soát sơ suất, không có lưới sắt ở phòng giữ chim, đằng kia nhờ tính thông minh, chim đặt mánh khóe để lọt ra khỏi lòng. Cũng có thuyết khó tin là chủ nhân cho thả chim vi chúng quá ồn ào,... Chim tạm ở quanh các đường băng sân bay trước khi kiếm cách lan tràn quanh vùng Ile-de-France: khoảng vài chục con những năm 1980, hơn 1000 năm 2008, quá 4000 năm 2015. Hồi ấy chim chóc đẹp có bộ cánh đủ màu rất được mến chuộng trong các cuộc triển lãm nên có chuyện mua bán. Sinh sôi nẩy nở khá mau chóng vài năm sau chúng đạt khoảng hơn một nửa vạn con trong vùng lân cận Paris. Không chỉ có ở Paris, ở Pháp, Ile-de-France, chúng cũng chiếm đóng những chỗ trống ở Marseille, Roubaix, Villeneuve d’Ascq, Toulouse, ngay cả ở Âu châu như London, Barcelona, Bruxelles. Không cần giải thích với hiện tượng khí hậu nóng lên, chim perruche lục nghe nói có mặt cả ở Ấn Độ, trên hoành sơn dãy Hi Mã Lạp Sơn đến cao độ 1500m. Chúng phát triển đễ dàng và mau chóng vì dễ kiếm ăn, dễ chọn chỗ ngủ, lại không bị thú dữ bắt làm mồi. Nếu con trẻ thích ngắm chúng trên cành cây, có khi cho ăn trong lòng bàn tay, người lớn thường ít ưa vì chúng rất ồn ào, tưởng như ta lạt vào một ngôi chợ bán cá. Tham ăn, chúng ngốn ngấu những đọt cây, chồi, nụ, thải phần lớn xuống đất. Có những loài chim như sittelle torchepo, quen sống trong hang hốc, khi thấy perruche lại dành chỗ thì gây ra những trận ẩu đả, có khi chúng lại thắng cả những chim to con hơn. Bộ lông xanh lục mượt êm dịu mà che phủ cả một tấm lòng hiếu chiến! Tương truyền chúng đánh bắt cả những chú sóc lơ đểnh lại gần nhưng người ta cũng biết chúng là loài chim không ăn thịt thú. Nhưng chúng cũng là loại chim biết đánh cắp trứng trong tổ hay phá lưới bao bọc để ăn những trái cây chín như ở các vườn Vallée-aux-Loups tại Chateny-Malabry!.

Perruche là tên dân gian bộ chim vẹt psittacidé (còn gọi chim keo hay keo khoang cổ) thuộc những lớp Alisterus, Aratinga, Cyanoramphus, Platycercus, Polytelis,... khác nhau ở độ dài cái đuôi: dài ở vẹt perruche, ngắn ở vẹt perroquet, trừ aras) và, nói chung, cả ở màu cánh và ngực: vàng, xanh, lục, xám, trắng, tía. Thường phần trên mỏ chim đực màu xanh, chim cái màu đỏ hay nâu. Nguyên quán châu Úc, vùng sa mạc châu Phi hay vùng bắc các nước Ấn Độ, Pakistan ở châu Á, chúng thường sống từng nhóm, thành đàn. Năm 1840, nhà vạn vật học - chim học người Anh John Gould (1804-1881) đang làm việc ở Zoological Society of London thì được gởi qua Úc khảo cứu chim chóc và lần đầu tiên đem về châu Âu một cặp. Tuy không phải là con vật gia súc, chúng cũng biết quen sống với người và thú vật trong nhà. Theo thói sống thành đàn, chúng rất cần có những bạn đồng loại bên cạnh. Nếu chỉ có một cặp độc nhất thì nhưng nhà chim học ghi nhận những biểu đạt tình cảm như khi chúng cọ xát hai đầu với nhau hay khi chúng cùng giúp nhau bảo dưỡng vặt lông. Trong thời gian thay lông, bộ lông phải được đổi mới hoàn toàn: chim cần có những khoáng chất và sinh tố. Lớp cát rải ở đáy lồng không chỉ là để chim mài sắc lau chùi và săn sóc mỏ mà còn là vấn đề vệ sinh để chim mổ nghiền những hạt cát nhỏ chiết ra từ các chất khoảng, Về thức ăn, chim sống trong thiên nhiên thì ắt phải biết tự tìm ra. Ở châu Úc, điều kiện khí hậu có phần khó thì chim phải bay xa mới tìm ra. Nói chung thì là những hạt cây, chim dùng mỏ bẻ gãy vỏ ngoài để đạt được thức ăn bên trong. Nuôi chim cần phải cho uống nước nhiều. Nó cũng cần được bay để cho máu chảy mau tăng cường củng cố các bắp thịt.

Ở công viên Sceaux, nơi tôi định cư, Daniel Lebrun là người được cử chăm sóc chim chóc đóng tổ. Mỗi năm ông có phận sự thống kê chim chóc công viên. Tuy được cho là lớn, công viên chỉ rộng 180 hecta nên không có chim perruche nào ra vào mà ông không biết. Ông phải ghi chép từng cặp lại cư trú giữa hai tháng hai và sáu trong những hang cây cổ thụ, nơi dễ bảo vê trứng và chim con thường được mấy chú sóc màu hung dòm ngó. Công viên Sceaux cũng có được gần 100 con, mỗi tối đem nhau về ngủ ở Wissous hay Massy. Tại đây, thức ân không thiếu : mùa xuân có đọt non, mùa hè đủ thứ trái cây, cỏ mọng, mùa thu nhiều quả sồi, quả pom. Bảo perruche không bị thú ăn mồi phá phách cũng không hoàn toàn đúng: thỉnh thoảng lông của chúng được tìm ra trong tổ chim cú hù (chouette hulotte) hay chim cắt voi (faucon pèlerin). Nếu những con sóc hay chuột thích nếm mùi trứng perruche, chim biết dùng mỏ bảo vệ con như đã được thấy và kể trong công viên Vitry-sur-Seine. Nhưng chúng không chỉ bảo vệ con mà còn để dành tổ: chúng không xây tổ mà chỉ trùng tu, nới rộng, ngay cả các tổ đang được ở, buộc các chim chủ dọn đi nơi khác. Trong công viên Sceaux đã thấy có hiện tượng hao sụt dân số chim sáo đá (étourneaux sansonnet) chỉ vì mất tổ. Không như người ta thường tưởng, mưa rét không làm sờn lòng chim vẹt: chúng ta không nên quên chúng đã từng cư trú trên hoành sơn cao 1.500m Hy Mã Lạp Sơn mà lại! Vài mảnh tuyết trời Âu đâu có thấm gì. Người ta bảo một nửa thời gian mùa đông chúng không rời những máng ăn đầy đủ thức ăn. Ngay cả những thức treo trên cao cho các loại chim nhỏ, dùng chân và mỏ chúng cũng trèo lên được. Ở Vallée-aux-Loups, chúng còn ăn cả các quả anh đào trên cành. Chim chóc và cả con người cần chăng tránh xa những tấm nhựa bọc téflon, mùa nóng cho bốc hơi tetrafluroroethylen làm chảy máu phổi rất độc.

Ngày nay, ở Pháp, đặc biệt ở Ile-de-France, số lượng chỉm perruche chưa nhiều để đặt thành vấn đề, chỉ có ở Antony và Plessis-Robínson bắt đầu thấy chúng xây tổ trong những tấm nhựa cách nhiệt cách điện nhà cửa. Về mùa màng, ở Ấn độ, nhất là ở Israel 70% thu hoạch hoa hướng dương bị phá hoại, một mối lo hại cho nhưng nhà nông nghiệp trong tương lai. Ở đảo Seychelles trong Ẩn Độ Dương phương pháp trừ tiết chim perruche đã mang lại kết quả rõ ràng. Nhưng có chuyên gia bảo trên một đảo đối nhỏ thì tương đối dễ, cả một lục địa thì rất khó, có thể là đã là quá chậm. Ngăn cản phát triển trong một lồng nhỏ chưa được huống chi là cả một địa lục! Vấn đề đã được nêu ra với ông bộ trưởng Môi trường nhưng kết quả chưa có kết cấu: luật lệ hiện giờ chỉ cho phép bắt giữ một vài con chứ chưa có biện pháp trừ khử cả một giống chim! Bên cạnh các perruche này, còn còn có một loại Melopsittacus undulatus tức là Perruche ondulée được biết nhiều nhất. Nhỏ con nhưng năng động, tò mò, líu lo, bộ mã đẹp, tập tánh dễ chịu, chúng thuộc loại chim giải trí được bán nhiều nhất trên thị trường nhưng cũng thường bị hờ hững, có khi bị bạc đãi. Như các perruche khác chúng cần có thường xuyên một cuộc tiếp xúc, một mức chú ý ân cần, có khi chỉ là một vài câu nói dịu dàng,... Những con cornue veuveMyiopsitta monachus đến từ Argentin và Brazil, rất cơ hội, thích ứng rất chóng với khí hậu và môi trường. Những con perruche à collier Psittacula krameri, đến từ vùng nhiệt đới châu Phi và Ấn Độ, hầu như quên hết những cánh đồng khô cháy quê hương và rất thích thú sống từng bầy tàn phá ở các công viên, vườn cây quả, các đô thị đông dân. Khi bay cũng như khi đậu trên cành, hễ thấy bị dọa là chúng hét lớn, còn không thì cũng chuyện trò ồn ào như những perruche khác. Để đền bù, chúng có bộ lông rất đẹp và một linh hoạt hấp dẫn làm sôi động các vườn công cộng. Giữa người và chim cũng như giữa người và người, lắm khi không cùng ngôn ngữ cũng có thể hiểu nhau và cùng nhau chung sống trong thái bình.

Chú thích:  
(*) Tất cả các ảnh chim perruche trong bài đều chụp ớ vườn Thành Xô.
Thành Xô mùa hè 2017
Võ Quang Yến
Theo http://chimviet.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Trăng liêu trai

Trăng liêu trai 1.  Lần gặp nàng tối qua tại một nơi thơ lẫn trong mộng giăng mắc cây cành trôi nổi trên sóng nước lóng lánh trên mây trời...