Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2022
Cây nhà lá vườn 4
Tập 4: Cây gỗ
Nhưng ai còn nhớ nhà thơ đã sáng tác bài Bóng cây Kơ-nia?
Nguyễn Ngọc Anh tức Ngọc Anh, sinh năm 1934, là người đồng hương tỉnh Quảng Nam
với Phan Huỳnh Điểu. Xuất thân từ Trường trung học Bình dân Quân sự Khu 5, ông
đi làm phóng viên ở mặt trận Tây Nguyên trước khi về làm ở Bộ Tư lệnh Quân khu
5. Thân mình mảnh mai, ông thường được phân công đóng vai con gái trong các vở
kịch và rất được tán thưởng. Năm 1954, cũng như Phan Huỳnh Điểu, ông phải tập
kết ra Bắc, công tác ở Ban Dân tộc Trung ương rồi ở Viện Văn học, chuyên về văn
học miền núi. Khiêm tốn, ít át, Ngọc Anh lặng lẽ viết những bài thơ dần dần trở
thành dân ca và nhất là được người Tây Nguyên thừa nhận nhờ đã biết rung động
với rừng núi: Cheo reo quê mình, Có nhiều rừng núi, Có sông có núi, Có
làng có rẫy,... nêu cao công việc lao động : Trưa về
ngồi kéo sợi, Dưới bóng mát nhà rông, Sợi dài hơn mây núi, Trắng ngỡ thác đầu
buôn,... đau thương mong nhớ làng rẫy: Đất ông bà, Ta nhớ
ta thương, Nhớ rẫy cũ làng xưa, Nhớ mùa gặt mới, Nhớ tiếng trâu ngoài làng,
Tiếng voi đằng xa, Và tiếng chim ăn hoa buổi sáng,... Trong số các
bài thơ nầy, có bài Bóng cây Kơ-nia cũng đượm hồn rừng núi
không kém: Em hỏi cây Kơ-nia, Gió mày thổi về đâu, Về phương trời mọc.
Mẹ hỏi cây Kơ-nia, Rễ mày uống nước đâu, Uống nước nguồn miền Bắc,... Cũng
như Phan Huỳnh Điểu, năm 1964, ông trở lại miền Nam sau khi xây dựng gia đình với
một cô gái đồng hương. Ông ít sống với gia đình và đã vĩnh viễn ra đi năm 1965,
để lại một bà vợ gầy yếu và hai đứa con nhỏ. Trong thời gian cuối đời này tuy
ngắn ngủi, ông luôn cố gắng tiếp tục phục vụ Tây Nguyên, huấn luyện các tiết
mục cho đoàn văn công tỉnh Kon Tum, ghi chép dân ca các sắc tộc, từ chối về khu
an toàn làm báo Văn nghệ quân giải phóng khu 5 để luôn được ở cạnh núi non cây
rừng, cạnh những cây kơnia thân thích tỏa bóng buôn làng (14a).
Châu Âu biết được ginkgo nhờ ông bác sĩ kiêm nhà thảo mộc người
Đức Engelbert Kaempfer (1651-1716). Được Công ty Hòa Lan Ấn Độ Đông phương gửi
đi công cán, ông sống ở Nhật Bản từ 1690 đến 1692. Năm 1691, lần đầu tiên ông
có dịp xem xét cây và tả nó trong cuốn Amoenitatum Exoticarum năm
1712. Ông viết: "Cây đạt kích thước một cây hồ đào: thân dài, thẳng,
dày, nhiều nhánh; vỏ trở nên xám, có nhiều kẽ nứt, lỗ hổng khi về già; gỗ cây
nhẹ, ít dày đặc, ít bền; lõi mềm, xốp... Cuối xuân, đầu mút nhánh mang cụm
hoa đuôi sóc chứa đầy một thứ bột mịn. Trái thịt, dày đặc, qua một cuốn dài
bằng ngón tay cái mắc vào cây ở chỗ lá mọc, từ hình dáng tròn và dài ngoằn qua
kích thước, vỏ ngoài sần sùi một màu vàng lạt, nó giống như một quả mận Damas:
vỏ thịt, giàu, trắng, mùi vị chát, dính chặt vào quả hạch trừ phi tách nó ra,
để ủng thối và khuấy trong nước như thường làm với Areca indica. Quả được gọi
là ginnau, giống như quả đào lạt nhưng lớn gấp đôi, có dáng một
nhân quả mơ với một vỏ gỗ mỏng, trong, mảnh dẻ; nhân trắng chứa một quả hạnh
độc nhất có vị dịu, dễ tách ra, thịt chắc. Ăn điểm tâm, những quả nầy giúp ích
tiêu hóa, giảm hạ bụng trướng do thức ăn gây ra: vì vậy, nó được dọn cho khách
vào phần thứ hai của bửa ăn. Những quả hạnh được dùng nhiều cách trong bếp từ
khi người ta khám phá ra có thể nấu hay nướng chúng...." Ông đem hột về
trồng những cây đầu tiên ở Utrech bên Hòa Lan trong vườn bách thảo. Sau đó cây
mới được đem qua Anh (Gordon 1754), Nga (Kew 1762), Pháp (Montpellier 1778).
Hoa Kỳ chỉ biết nó từ 1784 trong vườn ông William Hamilton và qua 1900 thì cây
được trồng suốt ven đường những đô thị bờ biển miền đông.
Với công thức tương tự, các tác giả Trung Quốc đã chiết xuất
những baimuxinol, dihydro baimuxinol, isobaimuxinol, baimixinal, baimuxinic
acid, baimuxifuranic acid, sinanofuranol từ A. sinensis bên
cạnh những hóa chất tương đối thông thường như benzyl aceton, methoxy benzyl
aceton, anisic, palmitic, octadecenoic, dienoctadecanoic acid trong tổ chức gỗ.
Ba chất sau nầy thay đổi thành phần khi gỗ bị nhiễm nấm Menanotus
flavolines, đồng thời cũng xuất hiện oxoagarospirol. Bước qua sườn guain
thì một loạt bảy sesquiterpen được xác định trong trầm Việt Nam mà quan trọng
nhất là guaiadienal đã góp phần lớn trong mùi hương thanh nhã. Tinh dầu trầm
Việt Nam, theo các nhà khảo cứu Nhật Bản, thì ngoài guaiadienal, còn chứa
selinadienol, selinadienon bên cạnh guaiene, bulnesen, agarofuran, kusunol,
karanon, dihydro karanon, oxoagarospirol cùng các ethyl phenyl chromon đã thấy
ở trên (15), năm eudesman sesquiterpen cùng epoxy norketo
guaien, dehydro jinkoh-eremol và neopetasan (19). Các tác giả
nầy cho jinkoh có thể là A. sinensis, còn kanankoh tức A.
agallocha thì có hai loại: một loại giàu guaien và eudesman đã oxi hóa,
loại kia có oxoagarospirol là thành phần sesquiterpen chính (17).
Trước đó, một nhóm khảo cứu viên Nhật Bản khác đã so sánh tinh dầu hai loại
trầm Việt Nam (loại A: A. agallocha) và Nam Dương (loại B: có thể
là A. malaccensis) thì thấy thành phần và tỷ lệ rất khác nhau (13).
Tinh dầu % loại A : agarofuran (0,6), norketo agarofuran (0,6), agarospirol
(4,7), jinkoh-eremol (4,0), kusunol (2,9), dihydro karanon (2,4),
oxoagarospirol (5,8); loại B: agarofuran (1,3), epieudesmol (6,2),
agarospirol (7,2), jinkohol (5,2), jinkoh-eremol (3,7), kusunol (3,4), jinkohol
II (5,6), oxoagarospirol (3,1).
Người Huế hay tự hào về một chuyện đánh thắng Tây thời Tự Đức. Thấy quân Pháp, trong các cuộc duyệt binh, khi bước không co chân, tưởng họ không có đầu gối, vậy chỉ việc kiếm cách đánh ngã xuống đất thì họ không đứng lên lại được! Cũng như ta đã tưởng nước miếng của họ có hồ vì chỉ liếm vào là dán được tem. Nhà học giả Đông phương Thái Văn Kiểm dựa lên truyền thuyết kể chiến thắng nầy: "Khi quân Pháp đổ bộ lên cửa Thuận An, kéo binh vào thành Huế, quân ta mai phục hai bên đường vào đàn Xã tắc, bèn lấy trái mù u, đổ ra đầy đường. Quân Pháp đi giày da, đạp lên mù u, nhào té đảo điên. Quân ta thừa thế nhảy ra đánh áp la cà làm cho quân Pháp phải chạy tán loạn. Vì vậy mới gọi là trận giặc mù u. Ngày nay, hai bên đường Xã tắc, còn hai hàng mù u cao ngất nghễu thỉnh thoảng rụng trái trên vai người đi đường, như để nhắc nhở một trang sử oanh liệt" (1). Một người quê gốc Huế, anh Võ Hương An, rất am hiểu những sự tích ở chốn Thần kinh, tìm hiểu sâu rộng thì nhận ra chuyện vậy mà không phải vậy (4a). Tối hôm 22 tháng 5 năm Ất Dậu tức là ngày 04.07.1885, hai vị đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết thật muốn tấn công quân Pháp ở Trấn Bình Đài tức Mang Cá, không quên cho rải trước đồn những trái bàng và mù u. Suốt đêm, trước pháo đạn của ta, quân Pháp bình tĩnh thế thủ trong hầm, đợi đến rạng ngày 23 mới phản công. Quân ta ít thuốc đạn, thiếu tổ chức, tán loạn bỏ chạy, đạp lên các trái bàng và mù u, té ngã, chà đạp lên nhau, rất nhiều người chết. Thì ra gậy ông đập lại lưng ông! Và không có chuyện đánh thắng Tây, cũng không phải ở đàn Xã tắc. Theo nhà văn Pierre Loti, tức trung úy hải quân Julien Viaud, thì quân Pháp chỉ đánh chiếm Thuận An rồi thương thuyết để đặt nền bảo hộ lên nước ta nên không có chuyện quân Pháp từ Thuận An lên đánh thành Huế (4b).
7- Ivan Brisco, Industrie pharmaceurique: charité bien
ordonnée, Le Courrier de l’UNESCO 2 (2001) 122.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Đoản khúc concerto cuối cùng
Đoản khúc concerto cuối cùng 1. Tiếng chuông giáo đường chiều nay theo gió bay đi rất xa ngân nga trong không gian thầm lặng lan tỏa ra k...
-
Nguyễn Du Từ một ai đó đến không ai cả Bạn phải là một ai đó trước khi có thể là không ai cả Engler Jack Sau thời đại...
-
Hoàng Thụy Anh và những không gian mơ tưởng “ta chấp nhận mọi trả giá - kể cả cái chết - để hiện sinh - như một bài ...
-
Ánh trăng trong thơ Dương Quân (Trong Ba tập thơ Chập Chờn Cơn Mê, Điểm Hẹn Sau Cùng, Trên Đỉnh Nhớ) Vào một ...

























Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét