Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2022

Cây nhà lá vườn 4

Cây nhà lá vườn 4

Tập 4: Cây gỗ
36- Bát giác hồi hương
Cây chi thơm lạ thơm lùng,
Thân cây tới lá, người trồng cũng thơm.
Ca dao
Cách đây hơn 20 năm, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài Cây hồi (tập văn Ai đã đặt tên cho dòng sông) đã kể chuyện mánh khóe ác nghiệt của người Tàu lặp lại biện pháp Trương Phụ thời nhà Minh ra tay tiêu diệt cây hồ tiêu, lần này qua trả giá đắt mua vỏ cây hồi, hòng làm tiệt giống ở nước ta. Cạnh tranh kinh tế về sản xuất cây hồi nầy giữa hai vùng biên giới Việt-Hoa mãnh liệt đến nỗi mọi phương sách đều tốt, bất chấp tình nghĩa, đạo lý. Cũng may mà người dân ta chỉ suýt bị lừa thôi...
Cây hồi là một loại hương liệu quý giá trong thức ăn, nước uống cũng như trong Đông dược, Tây y. Nếu ở bên nước ta, trái hồi hương là hương vị tô phở hay món xào ca ri, ở Nam Âu tinh dầu hồi là nền tảng một loạt rượu khai vị vùng Địa Trung Hải, từ ouzo bên các nước Hy Lạp, Nam Tư, Thổ Nhĩ Kỳ phía đông bắc, qua raki, pastis, sambucca ở Ý, anisette ở Pháp miền tây nam. Hỗn hợp với tinh dầu những cây khác, nó là thành phần của những rượu absinthe, grappa, ratefia, chartreuse,... Gần đây, Bắc Âu cũng dùng hồi làm rượu brandy. Không phải tình cờ mà trước chiến tranh, từ những năm 30, người Pháp đã ra sức phát triển cuộc trồng hồi ở miền Bắc nước ta và hãng Schimmel lo chuyên chở về mẫu quốc. Mức tối cao đạt được vào những năm thập niên 40, diện tích đồn điền trồng hồi lên đến 100 ha. Người Pháp đầu tư vào cuộc trồng hồi nầy vì biết vùng đất biên giới Việt-Hoa có đất tốt nhất để trồng hồi: Vân Quang, Cao Lộc, Lộc Bình, Văn Lãng, Tràng Định,... quanh Lạng Sơn, đối diện với Hải Nam, Long Châu bên Quảng Tây, chiếm một diện tích tổng quát trên dưới một ngàn hecta.
Tên cây hồi có phần rắc rối vì ở suốt miền Đông Á có nhiều cây cống hiến tinh dầu tương tự. Giữa thế kỷ XVIII, nhà thảo mộc kiêm bác sĩ người Thụy Điển Carl von Linné đặt tên cây hồi là Badanifera anisata từ các danh từ badiane, badiania, sau đó ít lâu ông cho đổi ra Illicium anisatum L. Qua năm 1825, von Siebold đặt tên những cây hồi mọc trong các sân chùa Nhật Bản là Illicium japonicum Sieb., năm 1837 đổi thành Illicium religiosum Sieb. et Zuss., thật ra chỉ là cây Illicium anisatum nói trên. Người bản xứ gọi cây hồi Nhật nầy (Japanese star anise) là shikimi, tên Tàu là mangtsao, có trái chứa chất độc, tinh dầu lại có mùi hôi, đã từng được sắp vào họ Mộc Lan Magnoliaceae. Năm 1886, nhà thảo mộc trẻ tuổi người Anh Joseph Dalton Hooker xác định cây hồi cánh sao, đặt tên Illicium verum Hook.f. (f. viết tắt chữ fils nghĩa là con, để khỏi lầm lẫn với ông cha, sir William Jackson Hooker, cũng là một nhà thảo mộc) tức là đại hồi, hay đại hồi hương, thường được gọi là hồi Tàu hay hồi sao (Chinese star anise hay rút gọn star anise). Người Pháp có tên essence de badiane.
Ở miền núi nước ta (Lạng Sơn, Sa Pa, Đà Bắc, Tây Bắc, Trường Sơn) có một loại cây có mùi hôi, cũng chứa chất độc mà ta gọi hồi núi hay đại hồi núi là Illicium griffithii Hook.f. et Thoms, chưa được dùng, ở Ấn Độ thường được biết qua tên hồi giả Bombay. Gần đây, cây Illicium floridanum Ellis mang tên hồi Mỹ, hồi bụi (American star anise, star bush) còn cây Illicium parviflorum ở Florida thì được gọi hồi vàng, hồi đầm (yellow star anise, swamp star anise). Ngoài ra còn có một loạt các Illicium khác : I. augustisepalum, I. brevistylum, I. difengi, I. dunnianum, I. flabellifolia, I. floridanum, I. majus, I. microanthum, I. parviflorum, I. tashiroi, I. tsangii. Bên cạnh các Illicium nầy thuộc họ Hồi Illiciaceae, còn có hai cây hồi Pimpinella anisum L. (lúc trước có tên Anisum vulgare Gartner) tức là dương hồi hay dương hồi hương và Foeniculum vulgare Mill. tức là tiểu hồi (fennel, fenouil), cả hai thuộc họ Hoa tán Umbelliferae. Theo lời giải thích của Gs Đỗ Tất Lợi, hồi là về, hương là thơm; thịt thiu hay tương thối cho ít đại hồi vào thì mùi thơm lại trở về ngay, do đó có tên thơ mộng "bát giác hồi hương". Trái chín phơi khô của cây hồi mang tên Fructus Anisi Stellati hay Anisatum stellatum. Vì nhiều tên lẫn lộn như vậy, xác định cây không dễ và lắm khi các nhà khảo cứu gọi lầm tên. Trong một phần lớn các bản báo cáo, danh từ anise đã được dùng mà các tác giả thận trọng không chỉ rõ loại hồi nào tuy ngày nay người ta thường cho anise là Pimpinella anisum tức là dương hồi.
Đại hồi, dương hồi
Chất chính có nhiều trong đại hồi Illicium verum là chất trừ sâu anethol. Anethol cũng là chất chính trong tinh dầu chưng cất và kết tinh từ hoa hồi ở Lạng Sơn mà một phản ứng biến hóa thành obepin, tiếp tục tác dụng với các keton, aldehyd để cống hiến những chất thơm (18). Tinh dầu đại hồi (75-90% anethol) cũng là nguyên liệu sản xuất anisaldehyd (19). Trái đại hồi còn chứa feniculin, khác với dương hồi : chất nầy đã được dùng để phân biệt hai loại tinh dầu kia. Khi đốt nóng, feniculin biến thành anisoxid, không có trong tinh dầu dương hồi. Anethol cùng với estragol là hai phenyl propanoid cống hiến vị ngọt dịu. Những veranisatin có tính chất giảm nhiệt ở liều lượng nhỏ (1 mg/kg), nhưng qua 3 mg/kg chúng gây co giật dó thể dẫn đến chết (10). Đại hồi còn chứa methoxy cinnamaldehyd, những glycolipid, phospholipid gồm có phosphatidyl inositol, phosphatidyl serin,... cùng những sterol như sitosterol, campesterol, những kaemferol, quercetin tự do hay ở thể rhamnosid, xylosid. Lá đại hồi chứa nigranoic acid methyester có sườn cốt cycloartan mà một chất đồng phân đã tìm ra được trong Illicium dunnianum. Tinh dầu đại hồi và dương hồi đã được dùng làm thuốc kìm khuẩn trong đồ ăn chống những trùng như Escherichia coli, Bacillus subtilis, Samonella enteridis (9)... GÀn đây, nhiều văn bằng sáng chế xứ Luthuani cho trộn đại hồi trong một loại brandy làm thuốc bổ, chống co thắt, kích thích tim, tiết dịch tiêu hóa (17). Theo tài liệu cổ, đại hồi có tác dụng đuổi hàn, kiện tỳ, khai vị, dùng chữa nôn mửa, đau bụng, bụng đầy chướng, giải độc của thịt, cá. Thường dùng hiện nay làm thuốc giúp sự tiêu hóa, ăn uống không tiêu, nôn mửa, đau nhức tê thấp (ĐTL).
Cũng như ở đại hồi, hóa chất chính trong dương hồi Pimpinella anisum là trans-anethol 57,4% từ toàn cây, 75,2% từ dầu trái với một liều gây chết LD50 trên ruồi là 75 µg/một con. Trong tinh dầu hồi Việt Nam, số lượng trans-anethol là 80-95% trong trái, 55-57% trong lá, còn anethol thì chỉ 0,04 và 0,07% (3). Bên cạnh anethol, đã được tìm ra carvon, estragol, limonen, carophyllen, pinen, camphen, phellandren, anisketon. Trái hồi còn chứa acid mỡ, coumarin, flavonoid, stigmasterol tự do hay ở thể palmitat, stearat. Rễ cây hồi chứa geijeren, zingireben, bisabolen. Còn trong tinh dầu hồi thì đã được tìm ra nhiều sterol mà nhiều nhất là sitosterol. Đem thử trong âm đạo và tử cung chuột, thỏ, tinh dầu hồi nhờ trans-anethol có hoạt động estrogen, nghẽn chặn hiệu ứng của testosteron vào túi tinh dịch, của progesteron lên âm đạo (1), được dùng để làm dịu những triệu chứng tuyệt kinh, phòng ngừa những bệnh loãng xương, đau tim, ung thư (28). Có tính chất co thắt (21), chống oxi hóa (22), nó được dùng làm thuốc che chở da, kích thích tóc mọc, chống phình tĩnh mạch, bảo vệ phòng ngữa phóng xạ, điều biến chất kích thích trong cà phê. Bột hồi dùng trong thuốc viên chống u khối tá tràng (15). Cây hồi trộn với khoai, trứng, đường,... làm thức ăn cho ong mật. Trái hồi được dùng trong nước tương, dung dịch nhũ tương, giấm bổ sức khỏe. Rễ hồi trộn với la khoai, lá trà, hoa hồng,... làm thuốc hút. Hương hồi được sự dụng làm thơm thức ăn hải sản, thuốc đánh răng, khử hơi miệng. Nhờ anisaldehyd, tinh dầu hồi có tính chất chống nhạy, những loại Dermatophagoides farinae, D. pteronyssinus (27) như trong tinh dầu tiểu hồi Foeniculum vulgare nhưng trong tinh dầu nầy hoạt chất fenchon, nhiều gấp 20,3 lần anisaldehyd, đóng vai trò quan trọng hơn (25).
Tiểu hồi, hồi Nhật
Cũng như đại hồi và dương hồi, tiểu hồi Foeniculum vulgare chứa đựng nhiều trans-anethol, 22 mg mỗi trái bên cạnh fenchon có thể đạt đến 10 mg mỗi 100 trái. Có loại tiểu hồi chứa đựng nhiều fenchon (70 mg/100ml tinh dầu) hơn anethol (6 mg). Trong tinh dầu tiểu hồi còn có estragol, tocopherol, coumarin, những glycosid, arabinosid đủ loại, những flavon, flavonol, limonen, rotundifolon. Hương vị trái tiểu hồi phát xuất từ những chất dễ bốc hơi, trong số ấy đã được thức biệt thujen, pinen, phellandren, ocimen, cymen, caren, camphon, farnesen, cadinen, những anisol,... Lá tiểu hồi chứa đựng fenicularin, nelumbosid, isohamnetin. Trong rễ tiểu hồi đã được tìm ra những coumarin như umbelliferon, bergapten, terpinen, terpinolen, pinen, myrcen, phellandren, cymen, limonen, myristicin, petersilienapiol. Đặc biệt tiểu hồi cống hiến một số sinh tố: những vitamin A, B1, B2, C, E, PP, nhưng cũng chứa đựng những mycotoxin như aflatoxin B1, B2, G1, G2, rubratoxin, citrinin, zearalenon, sterigmatocystin. Nhờ có mùi thơm, trái tiểu hồi được dùng để ướp hương dầu mè, thuốc làm tóc mọc, chữa da, gội đầu, đánh răng, khử hơi miệng, mùi chân tay. Tiểu hồi có tính chất kháng sinh, nhuận tràng, lợi tiểu, được dùng để chữa hen suyển (2), tiêu chảy, đầy hơi, chống đau, giảm nhiệt (14), chống co thắt, kích thích ăn ngon, giảm hạ đường trong máu (12), giảm hạ cholesterol nhờ petroselinic acid (11). Trái tiểu hồi nhờ những tính chất của anethol đã được dùng để khử trùng, trị giun sán (6) chống bệnh bạch cầu(4,8), giảm hạ các hiệu ứng phụ các thuốc chữa ung thư như adriamycin, cyclophosphamid, đồng thời tăng gia sự miễn dịch của cơ thể (7). Nó còn có tính chất chống nấm(24), chống oxi hóa nhờ oleanolic acid, glucosylsinapyl alcool và glycosyl oxybenzoic acid (13), những miyabenol và những feniculosid (16). Về mặt diệt trùng, tinh dầu hồi (85,63% anethol) chống rất hữu hiệu Escherichia coli, Listeria monocytogenes, Salmonella typhimurium, Staphylococcus aureus (26).
Cây hồi Nhật Illicium anisatum, còn có tên I. religiosum ít dùng, lúc đầu được gọi shikimi no ki hay ashikimi, nay rút gọn lại shikimi. Từ nhiều thế kỷ, người ta đã biết trái cây nầy có tính chất gây co giật. Năm 1881, nhà hóa học J.F. Eykman chiết xuất một vài miligam một chất độc kết tinh còn uế tạp đặt tên shikimin. Sau đó nhiều công tác khác cũng đề cập đến shikimin nhưng không cho rõ những tính chất của nó. Phải đợi đến năm 1952 mới thấy J.F. Lane và các cộng tác viên thành công làm ròng và đặt tên anisatin. Cấu tạo dần dần được xác định bên cạnh những chất đọc tương tự khác, neoanisatin, noranisatin, nordeoxy anisatin, pseudo anisatin mà thể dáng thấy rõ qua quang tuyến X. Sau nầy, nhiều sesquiterpen khác cũng được tìm ra: deoxy pseudo anisatin, deoxy majucin, những anisalavcton, sesquiterpen lacton, những phenyl propanoid glycosid trong trái hay vỏ trái. Trái và lá hồi Nhật còn chứa catechin, epicatechin, proanthocyanidin, flavano, procyanidin. Tính chất co giật của anisatin đã được thực nghiệm: tiêm vào chuột, nó làm tê liệt cơ quan hô hấp và gây chết ở liều lượng 0,7 mg/kg. Những phần chiết từ lá, rễ, vỏ cây cũng có tác dụng tương tự. Tiêm vào tĩnh mạch mèo liều lượng 0,02-0,04 mg/kg, nó tăng gia tạm thời động mạch cảnh, động mạch vành và lưu lượng máu xương chậu động mạch. Những bản báo cáo về cây shikimi dưới tênI. religiosum gọi chất độc là hananomin bên cạnh chút ít estragol (tức là methy chavicol) và eugenol, acid mỡ, những sterol mà nhiều nhất là sitosterol. Tinh dầu trái ở liều lượng nhỏ gây cơn giật ở chuột trước khi giết chết; với liều lượng lớn hơn, tinh dầu ấy có thể giết chết cả chó. Shikimi có tính chất chống ấu trùng muổi Culex quinquefasciatus (20), cống hiến shikimic acid dùng làm thuốc hủy hoại động vật gặm nhắm, đặc biệt chuột thui (5), hay trong thuốc làm mọc tóc (23).
Những loại hồi khác
Những loại hồi khác cũng bắt đầu được nghiên cứu. Vỏ trái câyI. majus Hoopk.f. et Thoms chứa anisatin, majucin, neomajucin, những chất độc neosatin và oxoneosatin gây co giật ở chuột, những sesquiterpen lecton loại anisatin. Safrol, linalool, limonin được xác nhận trong tinh dầu vỏ trái vừaI. majus vừaI. microanthum Dunn. Vỏ câyI. difenji B.N. Chang (hayI. jadifengpi) chứa magnolol, sitosterol, những epiisopimaric, abietatetranoic, mangiferolic, mangiferonic, betulinic acid, limonen, linalool. Hai chất sau nầy cũng đã được tìm ra trongI. brevistylum bên cạnh cineol, terpinol. Trong thân láI. dunnianum có sesquilignan, trong vỏ trái có neodunniamin, deoxy pseudoanisatin. Phần chiết chứa những phenyl propanoid. Nhân một cuộc tìm kiếm những sesquiterpen lacton trong các loại Illicium, dunnianin, dibenzoyl dunnianin, deoxy oxodunnianin, pseudoanisatin cùng những floridanolid đã được tìm ra trongI. floridanum Ellis. Chất biocyclo illicinon asaron acetal trong gỗ câyI. tashiroi tăng gia cholin acetyl transferase ở neuron vách chuột. Thân láI. angustisepalum chứa đựng abietan diterpen và prezizaan sesquiterpen. Phần chiết từI. tsangii cống hiến một loạt tsangan là những sesquiterpen có sườn cốt allohimachalan, megastigman hoặc murolan, hoặc santalan và isocampherenan. Sau cùng, những cyclo parvifloralon cùng những lacton parviflorid, cyclo parviflorid đã được chiết xuất từI. parviflorum ở Bắc Mỹ.
Trong thị trường, trái hồi được biết nhiều nhất là nguyên liệu dùng để làm rượu khai vị hay rượu tiêu cơm. Sau đây là một vài công thức làm rượu.
Liqueur d’anis: 500 g rượu 95°, 500 g đường, 30 g hột hồi, 2 cái trứng, 320 g nước.
Chartreuse: 500 g rượu 95°, 500g đường, 1 g rễ bạch chỉ, 10 g hột tiểu hồi, 1 g hột dương hồi, một nhúm bột nghệ, 700 nước.
Ratafia aux épices: 50 g rượu 95°, 100 g đường, 5g hột thìa là, 5 g hột cúc gai, 5 g hột rau mùi, 5 g hột đại hồi, 5 g hột dương hồi, 5 g hột tiểu hồi, 5 g trái mọng bách xù, 250 g nước.
Nguyên tác cách thức làm rượu nói chung là ngâm các hột trong rượu 95°, cho tan đường trong nước rồi trộn với nhau ít lâu trước khi dùng. Trứng chỉ lấy lòng trắng cho vào nước dùng.
Tin tức Khoa học và Công nghệ 3(29) 2000, khoahoc.net 6.2011
Tham khảo:
1- A. Sharaf, N. Goma, Phytoestrogens and their antagonism to progesterone and testosterone, J. Endocrinol. 31(3) (1965) 289-90
2- Z.P. Kostennikova, O.I. Belova, T.V. Grigor’eva, K.I. Varentsova, M.N. Lyakina, Evaluation of the quality of the Traskov antiasthmatic mixture, Farmatsiya (Moscou) 25(4) (1976) 60-3
3- Hoang Van Phiet, Hoang Thanh Huong, Mai Nghi, Basic study of Lang Son anise as a contribution to plant chemistry, Tap san Hoa hoc 17(4) (1979) 12-6
4- Y. Liu, Pharmaceutical composition for treating nonlymphatic leukemia and its components, Eur. Pat. Appl. EP 203,386 (1986) 13 tr.
5- . Yamada, Rodenticides for moles, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 6245,508 (1987) 6 tr.
6- I. Yasuda, T. Hamano, I. Takano, T. Seto, I. Murata, S. Miyazawa, M. Oda, T. shibuya, Anthelminthic effects of Chinese medicines. III. Lethal and inhibitory effects of antyu-san and fennel components in Anisakis type I larvae, Kenkyu Nenpo-Tokyo-toritsu Eisei Kenkyushuo (39) (1988) 24-7
7- Y.G. Liu, Plant materials as immunostimulants for decreasing side effects in cancer chemotherapy, Can CA 1,264,474 (1990) 22 tr.
8- Y.G. Liu, Safe antileukemia drug comprising harringtonine, homoharringtonine, anethole, oleanolic acid, and ginsenoide, Can CA 1,267,845 (1990) 8 tr.
9- H. Fujita, T. Okumura, M. Hasegawa, K. Pponma, Bacteriostatic agents containing star anise powders or extracts for foods, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 04,278,069 (1992) 6 tr.
10- E. Okuyama, T. Nakamura, M. Yamazaki, Convulsants from star anise (Illicium verum Hook.f.), Chem. Pharm. Bull. 41(9) (1993) 1670-1
11- M. Then, G. Petri, B. Simandi, S.erneczky, Biologically valuable substances of common fennel (Foeniculum vulgare Mill.). I. Comparison and evaluation of samples extracted by conventional and supercritical methods, Olaj. Szappan, Kosmet (Hung) 44(4) (1995) 146-51
12- G.S. Essway, H.M. Sobbhy, H.A. El-Banna, The hypoglycemic effect of volatile oil of some Egyptian plants, Vet. Med.J. Gisa 43(2) (1995) 167-72
13- R. Nakayama, H. Kikuzaki, N. Nakatami, H. Horiuchi, Antioxidative activity of constituents from fennel seeds, Nippon Kasei Gakkaishi 47(12) (1996) 1193-9
14- M.O.M. Tanira, A.H. Shah, A. Moshin, A.M. Ageel, S. Qureshi, Pharmacological and toxicological investigations on Foeniculum vulgare dried fruit extract in experimental animals, Phytother. Res. 10(1) (1996) 33-6
15 Y. Pan, G. Chen, J. Sun, L. Xiao, Bismuth aluminate granules for peptic or duodenal ulcer, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,150,024 (1997) 10 tr.
16- M. Ono, C. Masuoka, Y. Ito, Y. Niiho, J. Kinjo, T. Nohara, Antioxidative and antihyaluronidase activities of some constituents from Foeniculi Fructus (fruit of Foenniculum vulgare Miller), Food Sci. Technol. Int. Tokyo 3(1) (1997) 53-5
17- G. Sargunas, G. Daniuniene, C. Talacka, S. Aleksiunas, J. Audrioniene, E. Jokubauskis, Formulation for alcoholic bitters, Lith. LT 3,679 (1996) 9tr. ; LT 3,690 (1996) 10 tr. ; LT 3,773 (1996) 7 tr. ; 4,127 (1997) 9 tr. ; LT 4,134 (1997) 9 tr.
18- Le Thi Anh Dao, Transformations of anethol from Vietnamese anis oil fragrant products, Tap chi Hoa hoc 35(1) (1997) 82-4
19- Mai Ngoc Chuc, Preparation of anisaldehyde from essential oil of Illicium verum, Hoa hoc va Cong nghiep Hoa chat (5) (1997) 30-2
20- T. Ikeda, K. Nagata, H. Honda, T. Shono, T. Narahashi, Insecticidal activity of sikimi extract and its modulation of the GABA receptor channel, Pesticide Sci.52(4) (1998) 337-42
21- M.H. Pourgholami, S. Majzoob, M. Javadi, M. Kamalinejad, G.H.R. Fanaee, M. Sayyah, The fruit essential oil of Pimpinella anisum exerts anticonvulsant effects in mice, J. Ethnophar. Iran 66(2) (1999) 211-5
22- I. Gulcin, M. Oktay, E. Kirecci, O.I. Kufrevioglu, Screening of antioxidant and antimicrobial activities of anise (Pimpinella anisum L.) seed extracts, Food Chem. 83(3) (2003) 371-82
23- I. Sakaguchi, N. Ikeda, M. Matsuo, M. Nakayama, K. Kato, Hair growth stimulants containing Illicium extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003012470 (2003) 6 tr.
24- N. Mimica-Dukic, S. Kujundzic, M. Sokovic, M. Couladis, Essential oil composition and antifungal activity on Foeniculum vulgare Mill. obtained by different distillation conditions, Phytoth. Res. 17(4) (2003) 368-71
25-2- H.S. Lee, Acaricidal activity of constituents identified in Foeniculum vulgare fruit oil against Dermatophagoides spp. (Acari : Pyroglyphidae), J. Agric. Food Chem. 52(10) (2004) 2887-9
26- I. Dadalioglu, G.A. Evrendilek, Chemical compositions and antibacterial effects oils of Turkish oregano (Origanum monutiflorum), bay laurel (Laurus nobilis), spanish lavender (Lavandula stoechas L.), and fennel (Foeniculum vulgare) on common foodborne pathogens, J. Agric. Food Chem. 52(26) (2004) 8255-60
27- H.S. Lee, p-Anisaldehyd acaricidal component of Pimpinella anisum seed oil against the house dust mites Dermatophagoides farinae and Dermatophagoides pteronyssinus, Planta Medica 70(3) (2004) 279-81
28- N. Tabanca, S.I. Khan, E. Bedir, S. Annavarapu, K. Willett, I. Khan, N. Kirimer, K.H.C. Baser, Estrogenic activity is isolayted compounds and essential oils of Pimpinella species from Turkey, evaluated using a recombinant yeast screen, Planta Medica 70(8) (2004) 728-35.

37- Cây cối trong đời sống Đức Phật
 Bồ đề hãy biết cây đất Phật,
Gương sáng thì hay ánh sáng ngời. (*)
Đời sống đức Phật Thích Ca luôn dính liền với cây cối, từ lúc xuất thế, qua khi giác ngộ, thuyết pháp đến thời nhập diệt.
Theo tục truyền, mẹ Ngài, hoàng hậu Mahamaya (Ma ha ma da) có mang Ngài, năm 563 trước dl, trên đường rời Kapilavatthu (Ca tỳ la vệ) về quê nằm nơi, trong lúc ghé nghỉ ở vườn Lubini (Lâm tỳ ni) thưởng thức hoa tươi muôn màu và chim hát líu lo thì vịn vào cây sal hay sala tức là cây Shorea robusta, có tác giả viết là cây ashoka hay simsapa (16) tức là cây vô ưu Saraca indica, còn có tên vàng anh (8), và sinh Ngài từ nách tay. Vào cuối đời, ở Kusinagara (Câu thi na), Ngài cũng nằm trong chiếc vỏng mắc trên hai cây sala (hay, theo những giả thuyết khác, giữa bốn cặp cây sala hoặc trong một rừng cây sala) và xuất ly năm 483 trước dl, chứng nhập Niết Bàn sau bốn kỳ thiền định. Như vậy, cây sala đã chứng kiến cuộc sinh tử của Ngài (4,9). Nhưng trong thế gian ngày nay, được biết nhiều là sự chứng ngộ của đức Phật thực hiện dưới gốc cây đa bồ đề Ficus religiosa mà người Ấn Độ gọi là asvattha (cây điềm lành) còn có tên pipal, pippala, peepalbanti, Âu Mỹ dịch ra Bo tree, Bodh tree, ta có danh từ Giác thụ.
Truyền thuyết kể rằng sau sáu năm khổ hạnh, Ngài rời bỏ Uruvilva (U lâu tần hoa), xuống tắm trong dòng sông Nairanjana (Ni liên hà), ăn cơm và uống sữa cô thôn   nữ Sujata biếu tặng, xin một nắm cỏ lót đất rồi lại ngồi dưới gốc cây đề hay bồ đề cách thị trấn Gaya (Già da) 8 cây số để thiền định. Thị trấn nầy sau mang tên Both Gaya (Bồđề đạo tràng), một danh từ còn chỉ định sự giác ngộ. Từ sáng đến tối, Ngài thắng xung kích cám dỗ của thần chết, phóng thích đầu óc mọi liên hệ với thế giới cảm tính từ đó đạt được thiên cảm hùng vĩ những tiền thân do hành vi quyết định, nhận thức nguyên nhân những tiền thân ấy, phát động quy luật "sản xuất theo khái niệm liên tiếp" đạt chính pháp và đắc đạo (4,11). Ngài còn ngồi ở đây bảy tuần nữa, tận hưởng sự giải thoát, một thời gian đầy kỳ diệu, không ăn, không uống, trước khi lên đường đi thuyết giáo ở vườn Mrgadava (Lộc uyển) cây cao bóng mát tại Sarnath (Lộc vương), cạnh Banaras (Ba la nại).
Ngày nay, Both Gaya là một nơi hành hương có tiếng. Chính vua Asoka (A dục) năm 258 trước dl đã xây quanh cây bồ đề một cái miếu lộ thiên và cạnh cây một ngôi tháp cùng một ngôi đền, một hành lang là nơi đức Phật đi dạo sau khi chứng ngộ, bước đầu cho một khuôn viên đồ sộ. Nhưng cây bồ đề nguyên thủy đã bị phá huỷ vào thế kỷ VII. Tại chỗ đó, người ta có trồng một cây con thì cây con cũng bị bão thổi trốc gốc năm 1876 (15). Còn cây bồ đề thấy ngày hôm nay là từ một nhánh ở Tích Lan đem qua. Tương truyền chính hai người con của vua Asoka, đại diện môn phái chính thống vương triều đã cho nhập Phật pháp vào Tích Lan thời nhà vua Devanam Piyatissa. Hoàng tử - La hán Mahendra (Ma hi đà) có đem theo nhiều thánh tích của đức Phật, phong chức cho nhiều tỳ kheo và thành lập tu viện đầu tiên Mahavihara (Đại tịnh xá) ở kinh đô Anuradhapura. Nhưng chính cô em, công chúa Sanghamitta 6 năm sau theo gót hai anh, vào năm 240 trước dl, mang qua Tích Lan một chồi rễ cây bồ đề Gaya gọi là Bodhidruma (Bồ đề thị) và phong chức cho những tỳ kheo ni đầu tiên, đánh dấu trường phái Sthaviravada - Vibhajyavada (Thượng tọa bộ - Phân biệt thuyết độ) ở Sri Lanka (6). Có phải một chồi rễ cây nầy đã được đem trở về Gaya? Tại chỗ, người bản xứ tin tưởng cây bồ đề hiện nay là cây nguyên thủy còn lại. Bản thân tôi may mắn được chắp tay trước cây ấy, giữa đám khách hành hương suốt ngày không ngớt lại quỳ khấn, xúc cảm không ít khi ngắm cây cao trụi cành già cỗi, có khả năng trúc gãy nên người ta phải dùng nhiều gậy tre chống đỡ.
Trong sự tích Phật giáo, cây cối luôn giữ một chỗ đứng quan trọng. Ở nơi diễn biến bốn giai đoạn chủ yếu trong cuộc đời tinh thần của đức Phật đều có mặt của cây: xuất thế ở Lubini, giác ngộ dưới gốc cây bồ đề Gaya, thuyết giáo lần đầu tiên ở vườn Mrgadava, xuất ly trong rừng Kusinagara. Vì vậy, trong các công trình đầu tiên nay đang còn, cây đã được đưa ra thay thế tượng hình đức Phật. Trên 6 cánh cửa torana công trình Sanci  (thế kỷ 1)  ở  Madhya Pradesh, bäy đức Phật cùng đức Di Lặc được trình bày với tám cây tượng trưng ở các hình chạm nổi thấp. Fouscher (1,12)   kê một bản các đức Phật và những tên cây bản xứ tương ứng  ( trong vòng ngoặc chữ xiên là tên Pali):
Vipasyin (Vipassin, Tỳ Bà Thi Phật), cây patali tức Bigonia suaveolens;
Sikhin (Sikhin, Thí Khí Phật), cây pundarika (một loại hoa sen trắng? (10));
Visvabhu (Vessabhu, Tỳ Sa Bà Phật), cây sala tức Shorea robusta;
Krakucchanda (Kakusandha, Câu Lưu Tôn Phật), cây sirisa tức Acacia sirissa;
Kanakamuni (Konagamana, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật), cây udumbara tức Ficus glomerata, cây sung;
Kasyapa (Kassapa, Ca Diếp Phật), cây nyagrodha tức Ficus indica, cây sanh ;
Gautama (Gotama, CồĐàm), cây asvattha tức Ficus religiosa, cây đa bồ đề;
Maitreya (Metteya, Di Lặc), cây nagapuspa tức Michelia champaka, cây ngọc lan.
Nhờ những hình tượng nầy ở Bharhut (2) có kèm theo lời dẫn nên cuộc xác định được thực hiện có phần dễ dàng. Một chú ý cần nêu ra là trên cửa số 3, có thêm vào một cây xoài Mangifera indica nhưng ở cánh cửa nầy các đức Phật không được sắp đặc có thứ tự như ở cửa số 1 nên khó xác định đúng chỗ, tuy có giả thuyết đặt nó tương ứng với đức Phật Sikhin, thay vì cây pundarika. Theo tục truyền, khi đức Phật đang thiền định dưới gốc cây bồ đề, Ngài bị ma quái lại phá phách, trong số nầy tiêu biểu nhất là quỷ thần Mara (Ma vương), lợi dụng quyền lực đã đạt được để thúc xúi sự ham muốn nhục dục và lòng quyền luyến từ đấy giam giữ con người trong vòng sinh tử liên tiếp. Dùng miệng lưỡi mật ngọt không dụ dỗ được đức Phật, đưa ba con gái là Trsna (Khát Khao), Priti (Hoan Hỷ) và Raga (Khoái Lạc) lại quyến dũ không thành, Mara tấn công với cả một đạo quân quỷ sứ cũng thất bại và phải rút lui. Trước những thách thức, đức Phật vẫn bình tâm trầm ngâm suy nghĩ về những hoàn thiện tinh thần thực hiện trong những kiếp trước và tay điểm xuống đất minh chứng đã vượt qua được quyến rũ của quỷ thần. Trên tháp Sanci thì trong tranh tường thuật lại chủ đề nầy, ngoài đạo quân quỷ sứ tán loạn, vợ chồng Mara và ba cô con gái, những thiên thần hân hoan trước thắng lợi của đức Phật, hai chiếc ngôi ở giữa và bên trái biểu tượng hành động của đức Phật và sự thừa nhận đức Phật của thiên thần,có một cây cao cành lá sum sê tượng trưng cho sự giác ngộ của đức Phật. Còn trong bức tượng mang tên "sự xung kích của Mara (Ma vương), trường phái Amaravati (thế kỷ II-III) tìm ra ở Uttah Pradesh, Chantarala, trên ngôi là một cây bồ đề tượng trưng cho đức Phật. Nghệ thuật Amaravati thường hình dung đức Phật bằng một cái ngôi với bên cạnh một cây có lá mang nét rõ hình trái tim ngày nay là hình đồ trang sức các cô gái Ấn Độ đeo trên ngực: tác dụng chiều sâu, phân trải lớp cảnh, đối xứng bố cục quanh tượng đức Phật ở trung tâm,... tất cả những khả năng tạo hình chạm nổi đều được tận dụng (13).
Vài tính chất dược lý và ứng dụng
Bên phần khoa học, trong bước đầu khảo cứu một số cây cối trong đời sống của đức Phật, bên lề cấu tạo, chiết xuất,có thể đưa ra một vài nhận xét về tính chất dược liệu và ứng dụng. Bồ đề Ficus religiosa L., họ Dâu tằm Moracea(5),là cây đã được nói đến nhiều nhất. Vỏ cây đem chiết với ethanol cống hiến nhiều nhựa, glycosid, chút ít alcaloid và có một hoạt động làm liệt đối giao cảm (parasympatholytic activity): thả duỗi ruột chuột, heo, thỏ, chó; đối kháng hiệu ứng co giật và ngăn  chặn tác dụng tim mạch của acetylcholin; bảo vệ heo chống hen suyển do acetylcholin  và  histamin  gây  ra (17) cho nên dã được  dùng làm thuốc chữa hen suyển (26). Uống và tiêm tĩnh mạch thì LD50 là 2,24 và 0,80 g/kg (17). Sitosterol glucosid chiết xuất từ bột khô vỏ đề tiêm tĩnh mạch vào thỏ 5,0 và 7,5 mg/kg làm giảm hạ đường trong máu 23,2 và 33,86%. Trong hệ thống thần kinh trung ương chuột, chất nầy gây kích thích, co giật và hủy bỏ tình trạng suy thoái do reserpin gây ra ở độc lượng 40-400 mg/kg, LD50 là 62 mg/kg (18). Trong vỏ đề còn có vitamin K1 (22), đặc biệt hai chất bergapten và bergaptol có tác dụng kháng vi sinh vật (23). Nhờ những thớ sợi trong thân, cây đề có tính chất chống máu tăng lipid và có nhiều ảnh hưởng lên không những lipid mà còn cả cholesterol, triglycerid, phospholipid trong gan (21). Với 0,7-1,5% tanic acid, lá đề là một thức ăn rất được dê ưa chuộng (19) tuy acid nầy có phần độc cho nó thể hiện qua khám nghiệm ở tim, gan thận cũng nhưở da (20). Trong kỹ nghệ, cây đề được dùng trong mỹ phẩm bảo vệ da (24) hay thuốc khử mùi (25).
Sal hay sala Shorea robusta Gaertn.f., họ Dầu Diphterocarpaceae, là một cây đã được thường dùng làm thuốc venkungiliyam trong hệ thống Ayurvedic Ấn Độ (31). Bơ cây được học hỏi rất nhiều(30), đã được dùng trong mỹ phẩm(29). Hột cây chứa đựng nhiều amin acid (27), 98g/kg protein là một thức ăn tốt cho gà con (28). Hột cây còn cống hiến một chất nhờn rất công hiệu trong thuốc đạn hay thuốc mỡ (34). Dầu hột có tính chất diệt trùng, cho vào thức ăn chữa bệnh thú vật (33). Gỗ cây đã được dùng làm bột giấy (32). Thân cây đem chiết xuất thì có được một chất khử nấm (35), đã được dùng trong thuốc thoa da (36).
Cây ashoka Saraca indica L., họ Điệp Caesalpinoideae (8), cũng có một số tính chất dược lý hay ho. Trộn lẫn với phần chiết các cây khác và sữa chúa, cây có khả năng ức chế lipase, ức chế sự hấp thu lipid, được dùng trị bệnh trứng cá, phòng ngừa béo phì (46), bảo vệ sức khỏe, nhất là phụ nữ có mang (45), làm thuốc ngừa thai, thử trên chuột hiệu nghiệm 33,3-85,7% (39). Phần chiết nước là một thuốc chống u khối, tăng gia 24% đời sống chuột bị ung thư cổ trướng Ehrlich và giảm hạ 24% khối u S-180 (38). Vỏ cây ức chế hoạt động trùng HIV-1 PR hơn 70% ở liều lượng 0,2 mg/ml (40). Cũng như ở cây sala, vỏ cây đã được khảo cứu về khả năng ngăn chặn cuộc cấu tạo sạn đái là những calcium phosphat, oxalat hay carbonat (43). Chứa đựng conchiolin, nó là thành phần thuốc làm dịu da(44). Vỏ sắc ức chế hoạt động enzym nhờ có tannin và những hợp chất phenolic (37). Lectin chiết xuất từ hột cây dính kết hồng cầu nhiều loại máu người và thú vật, là một chất điều biến trong hệ thống miễn dịch động vật có vú (42).
Những cây bồ đề ở Huế
Trong số những cây cối có dính líu đến đời sống đức Phật, cây đa bồđề có lẽ là quan trọng nhất. Thời tiến chiến, ở Huế, cha Cadière (7) có ghi bốn cây: hai ở An Cựu, một ở đồn lính và một ở cạnh Câu lạc bộ Thể thao. Cây ở gốc chợ An Cựu là nơi lưu trú một con rắn hiền và thiêng, thường hiện ra với một mào lông, không phá hại ai, trái lại ai đến cầu khấn thì được thỏa mãn: bệnh tật, làm ăn,... Cây kia nằm trong chợ gần bờ sông và đường quốc lộ thì thờ một Bà Hỏa. Nguyên gốc cuộc thờ cúng là người giữ đình tên Chút cho phơi những cây tre ngâm nước có phần hôi vào cây, lập tức ngay sau anh bị đau lưng, thầy thuốc, người nắn xương chẳng chữa được. Tối hôm đó, anh nghe từ cây có lời cảnh cáo, ra ngoài nhìn thấy có ánh sáng tỏa ngời, biết là có thần linh tọa, liền quỳ xin tạ tội và hôm sau mua hương đèn, giấy vàng bạc dâng cúng. Lành bệnh, anh vội xây am cúng thờ. Sau nầy Bà Hỏa còn chữa nhiều bệnh và giúp người lại cầu khấn làm ăn khá giả. Cây bồ đề ở đồn lính cạnh Tòa Khâm thí có bàn thờ Thủy sư của Hải quân và thường được gọi là Miếu Ông Voi vì có hai tượng voi ở trước cửa. Đặc biệt của miếu nầy là rước thờ nhiều thần ở các nơi khác về cho nên lẫn lộn nhiều vị Khai hoàng, Thần hoàng, Quan thánh, Thổ địa,... Cây bồ đề thứ tư nằm cạnh bể tắm Câu lạc bộ Thể thao, trước bệnh viện. Cây rất cao, choáng cả lề đường. Một bà già lo chuyện cúng lễ. Ở đây có 4 bàn thờ: hai quan lớn Ông Đệ Nhất, Ông Đệ Nhị và các Bà, thật ra chỉ có một Bà được gọi Đức Bà, Thánh Mẫu, Bà Mẫu hay Bà Chúa Ngọc , Thiên Y A Na  Diễn Ngọc Phi, thượng đẳng thần. Bên mặt, một bàn thờ nhỏ hơn, cũng tựa vào thân cây, là để cúng các Cô. Bên trái là bàn thờ Thổ thần. Trên cành cây to nhất còn có bàn thờ Bà Trung Thiên. Tục truyền Đức Bà nguyên quán ở đèo Ba Dội ngoài Thanh Hóa, có tiếng linh thiêng từ đời Gia Long. Người ta kể sự tích ông Đặng Huy Trứ, trên đường ra Bắc nhậm chức, đi ngang trước am, thấy một đàn công liền khấn xin, được Đức Bà biếu cho một con đậu lên cáng theo ông. Vua Thiệu Trị nhận thấy Bà rất linh thiêng, một mặt ra lệnh cúng Bà khắp nơi, một mặt rước Bà vào thờ ở Điện Hòn Chén.
Qua miêu tả trên đây của một vị linh mục ngoại quốc đã từng sống lâu ở Huế, ta thấy lại tín ngưỡng của ông cha ta trước đây không lâu và cũng nhận ra cây đa bồ đề không còn chỉ là cây thờ Phật nữa trừ phi nhân dân đồng hóa Trời Phật với những vị Thánh Thần khác.
khoahoc.net 19.5.2005
Tham khảo:
(*) Trích Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm.
Đại cương
1- J. Marshall, A. Fouscher, N.G. Majumdar, The Monuments of Sanci, Calcuta-Dehli (1940) 199-200
2- A.K. Coomaraswamy, La sculpture de Bharhut, Paris, Vanoest, Annales du Musée Guimet, Bibliothèque d’art, Nouvelle Série, VI (1956) 65-6
3- G. Terral, Choix de Jâtaka, dịch từ Pâli qua Pháp ngữ, Connaissance de l’Orient, Collection UNESCO, nxb Gallimard, Paris (1958) 166-71
4- A. Bareau, En suivant Bouddha, nxb Philippe Lebaud, Paris (1985) 50-3
5- Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, (1986) 280, 574
6- D.T. Devendra, Le Bouddhisme à Sri Lanka – Expansion du Bouddhisme en Asie, trong bộ Présence di Bouddhisme, giám đốc René Berval, nxb Gallimard, Paris (1987) 6
7- L. Cadière, Croyances et Pratiques religieuses des Vietnamiens, EFEO, Paris (1992) 9-70
8- Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Montréal, I, (2) (1991) 1087; II (1) (1992) 457
9- P. Harvey, Le Bouddhisme, dịch từ An introduction to Bouddhism, nxb Seuil, Paris (1993) 37,43
10- Phạm Hữu Dung, Từ điển đối chiếu Phật ngữ, tác giả xuất bản (1996)
11- Dictionnaire du Bouddhisme, trong bộ Encyclopaedia Universalis, nxb Albin Michel, Paris (1999) 92-3
12- S. Gill, Les discours des portails: Procédés de création dans la sculpture des portails du stupa majeur de Sanci, Arts Asiatiques 55 (2000) 32-54
13- I. Charleux, E. Parlier, L’art bouddhique, nxb Scala, Paris (2000) 36-7
14- V. Crombé, Le Bouddha, "Biographie ", nxb Desclée Brouwer, Paris (2000) 136-7, 155-6
15- Nguyễn Tường Bách, Mùi hương trầm, nxb Trẻ, tp Hồ Chí Minh (2001) 84-90
16- Trần Đình Sơn, Hoàng Anh, Tản mạn Phú Xuân, nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh (2001) 212-6
Ficus religiosa
17- C.L Malhotra, P.K. Das, N.S. Dhalla, Parasympatholytic activity of Ficus religiosa, Ind. J. Med. Res.(1913-1988) 48 (1960) 734-42
18- S. H. Ambike, M.R.R. Rao, Studies on a phytosterolin from the bark of Ficus religiosa, Indian .J. Pharm. 29 (3) (1967) 91-4
19- S.K. Panda, N.C. Panda, B.K. Sahu, Effect of tree-leaf tannin on dry matter intake by goats, Indian Vet. J. 60 (8) (1983) 660-4
20- K.C. Tripathy, B.K. Sahu, N.C. Panda, B.C. Nayak, Toxicity of tannic acid in goats, Ind. J. Anim. Sci.54 (11) (1984) 1091-3
21- V. Agarwal, B.M. Chauhan, A study on composition and hypolipidemic effect of diatery fiber from some plant foods, Plant Foods Hum. Nut. 38 (2) (1988) 189-97
22- K.D. Swami, G.S. Malik, N.P.S. Bisht, Chemical investigation of stem bark of Ficus religiosa and Prosopis spicigera, J. Indian Chem. Soc. 66 (4) (1989) 288-9
23- K.D. Swami, N.P.S. Bisht, Constituents of Ficus religiosa and Ficus infectoria and their biological activity, J. Indian. Chem. Soc. 73 (11) (1996) 631
24- M. Hayase, Skin conditioners containing urea, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 11052428(1998) 4 tr.
25- M. Konishi, R. Fujimoto, Irritating odor masking for lower alcohols cosmetics containing the irritating odor masking agents, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 10179967 (1999) 7 tr.
26- J.R. Patel, D.R. Patel, Compositions for treatment of asthma containing Ficus religiosa bark admixed with rice pudding, US US 6149914 (2000) 6 tr.
Shorea robusta
27- S. Chand, S.N. Mahapatra, Amino acid composition and analysis of sal (Shorea robusta) and mahua (Madhuca latifolia) seed meal, Oils Oilseeds J. 10-11 (26) (1974) 15-6
28- S.S. Zombade, G.N. Lodhi, J.S. Ichhponani, The nutritional value of salseed (Shorea robusta) meal for growing chicks, British Poultry Sci.20 (5) (1979) 433-8
29- A. Zabotto, J. Griat, Shorea robusta fats for aqueous or nonaqueous cosmetic compositions, Ger. Offen. DE 3242385 (1983) 22 tr.
30- S.Y. Reddy, J.V. Prabhakar, Confectionery fats from sal (Shorea robusta) fat and phulwara (Madhuca butyracea) butter, Food Chem. 34 (2) (1989) 131-9
31- A. Saraswathy, E. Sasikala, K.K. Purushothaman, Bergenin from Shorea robusta Gaertn., Idian. Drugs 26 (10) (1989) 574-5
32- R. N. Shukla, S.P. Sharma, R.M. Srivastava, On chemical composition of Shorea robusta, Vijnana Parishad Anusandhan Patrika 33 (4) (1990) 253-61
33- A.K. Banerjee, M. Jain, Analysis of seed oils of Annona squamosa, Tectona grandis and Shorea robusta, Scit. Phys. Sci. 3 (2) (1991) 106-12
34- S. Chaudhuri, D.K. Bhattacharyya, Utilization of sal (Shorea robusta) fat in ointment and suppository base, J. Oil Tech. Ass. India 26 (2) (1994) 43-7
35- P. Gupta, I. Dev, Studies on the fungicidal of sal (Shorea robusta) heartwood extractives, J. Timber Dev. Ass. India 45 (1-2) (1999) 16-24
36- K. Yamaha, A. Mononobe, T. Kataka, Skin external use agent, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2000319159 (2000) 9 tr.
Saraca indica
37- V. Prasad, S.C. Gupta, Inhibitory effect of bark and leaf decoctions on the activity of pectic enzymes of Alternaria tenuis, Indian J. Exp. Biol. 5 (3) (1967) 192-3
38- S. Mukerji, A.K. Banerjee, B.N. Mitra, Plant antitumor agents. I., Indian J. Pharm. 32 (2) (1970) 48-9
39- D. Suganthan, G. Santhakumari, Antifertility activity of an indigenous preparation Ayush-47, Indian J. Med. Res.70 (3) (1979) 504-16
40- I.T. Kusumoto, et all., Screening of various plant extracts used in Ayurvedic medicine for inhibitory effects on human immunodefiency virus type (HIV-1) protease, Phytother. Res. 9 (3) (1995) 180-4
41- S. Ray, B.P. Chatterjee, Saracin: a lectin from Saraca indica seed integument recognizes complex carbohydrates, Phytochem. 40 (3) (1995) 643-9
42- S. Ghosh, et all., Saracin: a lectin from Saraca indica seed integument induces apoptosis in human T-lymphocytes, Arch. Biochem. Biophys. 371 (2) (1999) 163-8
43- T.V.R.K. Rao, M. Das, In-vitro inhibition of mineralization of urinany stone forming minerals by some medicinal plant extracts, Asian J. Chem. 12 (3) (2000) 719-22
44- K. Shimomura, F. Hattori, Skin compositions containing conchiolin hydrlyzates and plant extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001316239 (2001) 14 tr.
45- P. Pushpangadan, D. Prakash, Herbal nutraceutical formulation for females/expectant mothers and its process of preparation, PCT Int. Appl. WO 2003017784 (2003)
46- K. Yoshizumi, Plant extracts and royal jelly as lipase inhibitors, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003192605 (2003) 7 tr.


38- Cây Kơnia đượm tình Tây Nguyên
Tôi ghép từng hạt K’nia
Tôi ghép thành cánh chim bay...
Ngả lưng trên đồi
Bài thơ Bóng cây Kơ-nia (music.bennhac.com) vời vợi mênh mang rừng núi, phổ thành bài hát vang lừng trong thời kháng chiến. Tác giả đã dựa lên tinh thần núi rừng đưa kơnia lên làm cây tượng trưng, nhắc nhở Tây Nguyên là một mảnh đất của xứ sở, một bộ phận không rời của đất nước. Sáng tác trong khói lửa, nhà thơ không quên mình là một chiến sĩ văn hóa nên lời lẽ dụng ý có phần khí khái.
Buổi sáng em làm rẫy,
Thấy bóng cây Kơ-nia.
Bóng ngả che ngực em,
Về nhớ anh không ngủ.
Buổi chiều mẹ lên rẫy,
Thấy bóng cây Kơ-nia,
Bóng tròn che lưng mẹ,
Về nhớ anh mẹ khóc.
Em hỏi cây Kơ-nia
Gió mày thổi về đâu,
Em hỏi cây Kơ-nia
Gió mày thổi về đâu.
Về phương mặt trời mọc.
Mẹ hỏi cây Kơ-nia
Rễ mày uống nước đâu,
Uống nước nguồn miền Bắc.
Con giun sống nhớ đất,
Chim phí sống nhớ rừng.
Em và mẹ nhớ anh,
Uống theo nguồn miền Bắc.
Như bóng cây Kơ-nia,
Như gió cây Kơ-nia,
Như bóng cây Kơ-nia,
Như gió cây Kơ-nia,
Ơ... Như bóng cây Kơ-nia,
Như gió cây Kơ-nia.
Nhạc sĩ gây nên dòng điệu trữ tình là Phan Huỳnh Điểu. Sinh năm 1924, quê gốc Đà Nẵng - Quảng Nam, từ thuở tiền chiến, ông được đã nổi tiếng khắp nước qua bài Trầu Cau (1945). Ông đến với Cách mạng vào tuổi đôi mươi, hăng hái lên đường gia nhập kháng chiến chống ngoại xâm. Bài hát Đoàn Giải phóng quân vang dậy tiễn đưa những đoàn quân đầu tiên thẳng tiến miền Nam. Sau Điện Biên phủ (1954), ông phải lên đường tập kết ra Bắc, những kỷ niệm còn lưu lại trong bài Liên khu 5 yêu dấu. Nhớ thương quê hương cách trở, ông gởi lòng vào Quê tôi miền Nam, Tình trong lá thiếp (1955),... rồi Những ánh sao đêm (1963) trước khi leo đèo vượt núi trở vào miền Nam (1964-1970). Về lại miền Bắc, ông phổ nhạc nhiều bài thơ như Cuộc đời vẫn đẹp sao (Hương Ly), Hành khúc ngày và đêm (Bùi Công Minh), Sợi nhớ sợi thương (Thúy Bắc),... và đặc biệt bài Bóng cây Kơ-nia của Ngọc Anh (1972). Sau 1975, định cư ở Tp Hồ Chí Minh, ông vẫn luôn dồi dào tình cảm với những bài Anh ở đầu sông, em cuối sông (Hoài Vũ 1978), Sợi nhớ sợi thương (Thúy Bắc 1978), Ở hai đầu nỗi nhớ (Trần Hoài Thu 1983), Người ấy bây giờ đang ở đâu (Hoài Vũ 1991), Thuyền và Biển (Xuân Quỳnh 1992)... Bài thơ phổ nhạc nầy cũng là tựa đề một băng nhạc mà tôi may mắn có trong tay. Bên cạnh những bản nhạc của ông do nhiều danh ca trình bày: Ở hai đầu nỗi nhớ (Bảo Yến), Sợi nhớ sợi thương (Thu Hiền), Những ánh sao đêm (Ngọc Tân), Anh ở đầu sông, em cuối sông (Lê Dung), Thuyền và Biển (Tuấn Phong),... có bài Bóng cây Kơ-nia. Mấy ai biết nhạc sĩ đã mất mười năm vật lộn với nốt nhạc để thử gởi tâm tình vào một luồng điệu trữ tình. Ca sĩ trình diễn lại là cô gái dân tộc ít người Măng Thị Hợi. Ai đã từng lên Tây Nguyên đón gió ban chiều, nhìn mây vời vợi trên đỉnh non cao, không sao tránh được cảm xúc khi nghe giọng hát lưu luyến, khêu gợi của một ca sĩ đã đổ dồn mọi tình cảm của mình vào bài hát. Nhiều người cho bài nầy thật là một tuyệt tác của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu (10,11).

Nhưng ai còn nhớ nhà thơ đã sáng tác bài Bóng cây Kơ-nia? Nguyễn Ngọc Anh tức Ngọc Anh, sinh năm 1934, là người đồng hương tỉnh Quảng Nam với Phan Huỳnh Điểu. Xuất thân từ Trường trung học Bình dân Quân sự Khu 5, ông đi làm phóng viên ở mặt trận Tây Nguyên trước khi về làm ở Bộ Tư lệnh Quân khu 5. Thân mình mảnh mai, ông thường được phân công đóng vai con gái trong các vở kịch và rất được tán thưởng. Năm 1954, cũng như Phan Huỳnh Điểu, ông phải tập kết ra Bắc, công tác ở Ban Dân tộc Trung ương rồi ở Viện Văn học, chuyên về văn học miền núi. Khiêm tốn, ít át, Ngọc Anh lặng lẽ viết những bài thơ dần dần trở thành dân ca và nhất là được người Tây Nguyên thừa nhận nhờ đã biết rung động với rừng núi: Cheo reo quê mình, Có nhiều rừng núi, Có sông có núi, Có làng có rẫy,... nêu cao công việc lao động : Trưa về ngồi kéo sợi, Dưới bóng mát nhà rông, Sợi dài hơn mây núi, Trắng ngỡ thác đầu buôn,... đau thương mong nhớ làng rẫy: Đất ông bà, Ta nhớ ta thương, Nhớ rẫy cũ làng xưa, Nhớ mùa gặt mới, Nhớ tiếng trâu ngoài làng, Tiếng voi đằng xa, Và tiếng chim ăn hoa buổi sáng,... Trong số các bài thơ nầy, có bài Bóng cây Kơ-nia cũng đượm hồn rừng núi không kém: Em hỏi cây Kơ-nia, Gió mày thổi về đâu, Về phương trời mọc. Mẹ hỏi cây Kơ-nia, Rễ mày uống nước đâu, Uống nước nguồn miền Bắc,... Cũng như Phan Huỳnh Điểu, năm 1964, ông trở lại miền Nam sau khi xây dựng gia đình với một cô gái đồng hương. Ông ít sống với gia đình và đã vĩnh viễn ra đi năm 1965, để lại một bà vợ gầy yếu và hai đứa con nhỏ. Trong thời gian cuối đời này tuy ngắn ngủi, ông luôn cố gắng tiếp tục phục vụ Tây Nguyên, huấn luyện các tiết mục cho đoàn văn công tỉnh Kon Tum, ghi chép dân ca các sắc tộc, từ chối về khu an toàn làm báo Văn nghệ quân giải phóng khu 5 để luôn được ở cạnh núi non cây rừng, cạnh những cây kơnia thân thích tỏa bóng buôn làng (14a).
Nêu hai nghệ sĩ Nguyễn Ngọc Anh và Phan Huỳnh Điểu đã nêu cao tinh thần cây kơnia về mặt văn hóa, người chăm lo về mặt kỹ thuật là kỹ sư lâm nghiệp Nhữ Văn Vẽ, một người say mê bài hát. Ông đã âm thầm nghiên cứu, tìm hiểu và nhân giống cây trong mục đích trồng nó trong địa bàn tỉnh. Mặc dầu cây rất hợp với các tuyến phố, thẳng đứng, tán tròn, không rụng lá, rễ cọc sâu không ăn lên vỉa hè và phá đường, lại có hoa tím đẹp thơm như hoa xoan nhưng mong muốn của ông không được thi hành. Tiếc thay! Nhờ ông mà ta biết được kơnia là một cây có sức sống rất mãnh liệt, không dễ bị cháy, không bị chất dioxin phá hoại. To nhất Tây Nguyên, cây có đường kính khoảng một mét và nếu cưa sát gốc thì nó vẫn tiếp tục nảy mầm. Gỗ cây rất dẻo và cứng, khi cưa thường xuyên phải nhúng nuớc lưỡi cưa thì mới kéo nổi, tuy thế khi hạ xuống một thời gian thì bị hà ăn rỗng ngay... Phải chăng chỉ vì cây đã mất rễ! Nhà thơ Ngọc Anh đã từng viết Mẹ hỏi cây Kơ-nia, Rễ mày uống nước đâu, Uống nước nguồn miền Bắc, vì tuy không phải là chuyên gia, ông đã cảm thấy rễ cây ăn sâu vào đất (thật ra rễ trong đất dài gấp đôi thân cây bên ngoài) và nhiều ngôi hầm bí mật đã bám theo rễ cọc cây làm trụ, nếu vô ý cắt đứt rễ thì cây chết và hầm bị lộ (14b)...
Ngọc Anh không phải là người độc nhất được cây kơnia quyến rũ. Trong báo mạng Đặc Trưng Nhạc, Nguyễn Chánh Tín có trình bày bài nhạc phim Ngả lưng trên đồi (dactrung.net) ghép hạt kơnia thành cánh chim bay:
Thả lưng dưới bóng cây
Tôi nhìn bầu trời qua kẽ lá
Bỗng đâu một làn gió lạ
Thổi nhanh qua nắng hạ
Làm rụng quả K’nia xanh
Ngả lưng dưới bóng mây
Tôi nhìn bầu trời vương chút nắng
Thấy yêu một giờ vắng lặng
Cao nguyên mơ đất bằng
Tôi nhặt hạt K’nia khô
Tôi ghép từng hạt K’nia
Tôi ghép thành cánh chim bay
Đôi mắt em từ bóng cây
Đôi mắt em là bóng mây
Tôi ghép liền cánh chim bay...
Cây kơnia, Kơ-nia, hay K’nia đã là nguồn cảm hứng cho những thi sĩ. Mang tên cây cầy (PHH), kơnia cũng đã đi vào lịch sử. Giữa Bình Định và Pleiku có đèo An Khê cao hơn 700 m, dài trên 10 km, đường đi hiểm trở, dốc đèo gay go, khách trèo đèo mỏi mệt thường dừng chân ngồi nghỉ ở Nghẹo Cây khế. Gần cây khế có hai cây cổ thụ sống đã lâu năm, một cây là cây ké, cây kia là cây cầy (12). Theo Quách Tấn và Quách Giao, thời Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc và bộ tham mưu đóng ở núi phía nam, Nguyễn Huệ và ban quân sự đóng ở ngọn núi phía bắc. Hai núi nầy cao và rậm, nằm phía đông đèo An Khê:
An Khê đất rộng đẹp thay
Biết bao thắng cảnh mê say lòng người
Non Bình có hang Tối Trời
Lại thêm núi Nhược cao vời nẻo xa
Cây cầy khỉ cố ngân nga
Tưng bừng chiên trống kéo ra đầy đường...
Rằm tháng tám năm Quý Tỵ (tháng 9 năm 1773), được tin Trương Phúc Loan cử Nguyễn Khắc Tuyên vào trấn thủ Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc ra tay trước, làm lễ xuất quân, lập đàn tế cáo trời đất giữa đèo An Khê, nơi Nghẹo Cây khế, nơi có tráng đất rộng rợp bóng mát của hai cây ké và cây cầy.
Cây ké phất cờ
Cây cầy gióng trống
Tiền hô hậu ủng
Đất thủng đá nhào...
Dùng mưu lược chiếm Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc tự ngồi vào cũi, sai thủ hạ khiêng đến thành nộp cho Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên. Quan trấn thủ tưởng thật, mở cửa thành cho vào. Nửa đêm, Nguyễn Nhạc tháo cũi, cũng các thủ hạ giết lính gác, mở cửa thành và đốt pháo hiệu cho quân Tây Sơn vào:
Cây ké phất cờ
Cây cầy gióng trống
Hòn Chiêng vang động
Hòn Trống đỗ hồi
Lên ngôi Vương soái
Quan ải đạp bằng
Cuốn phăng hào lũy
Phủ lỵ Quy Nhơn
Oán hờn đất dậy
Cò phất quân reo
Dân theo chiếm phủ... (13)
Theo Bs Phạm Thúy Hồng, trong mục Mách thuốc một số báo Rừng và Đời sống thì cây kơnia tức cây cầy mang tên khoa học Irvingia malayana, thuộc họ Cầy Irvingiaceae. Cây cầy Irvingia malayana Oliv. ex Benn., tứcI. oliveri Pierre hayI. harmandiana Pierre, cũng được cho thuộc họ Xang Ixonanthaceae(3) hay họ Thanh thất Simaroubaceae (4,7), còn được gọi cây cốc, cây đậu tường (14). Đây là loài thân gỗ, phát triển tốt ở vùng đất đỏ ba dan, thường cao tới 20-30m, gốc đường kính tới 50-70 cm. Lá có phiến xoan, đầu nhọn, đấy tà tròn, mặt dưới màu lam mốc môc, gân phụ 10-13 cặp; cuống dài 5-7 mm, lá bẹ hẹp, dài; chùm tụ tán ở ngọn nhánh, cánh hoa trắng; dĩa mật to, noãn sào hai buồng; quả nhân cứng tròn tròn, to 4-5 cm, nhân có xơ, hột to (3). Gỗ kơnia chắc, mịn, làm đồ gỗ mộc, làm nhà cửa. Loại cây nầy hay mọc đơn lẻ cao vút, từ xa đã nhận ra ở trên rẫy hoặc buôn làng, như một biểu tượng cho sự bất khuất không sợ phong ba, bão táp. Kơnia có quả, mà hạt của nó làm thực phẩm rất ngon. Đến mùa quả chín, lấy đập vỏ, bóc nhân, ăn sống hay rang giòn rồi giã trộn muối như ta làm muối mè, muối đậu phụng. Một số loài thú như cầy, sóc, chồn,... rất thích quả kơnia nên thường mò quanh gốc, thợ săn có kinh nghiệm hay rình gần đấy để đợi thú đến.
Cây kơnia mọc khắp vùng Đông Nam Á, từ Thái Lan, Cao Mên, Lào, Việt Nam, qua Mã Lai, Tân Gia Ba, đến Nam Dương, Phi Luật Tân. Ở nước ta, cây mọc nhiều ở Tây Nguyên, phổ biến ở rừng luôn luôn xanh. Ở Khu bảo tồn thiên nhiên Tà Cú (15), trong số 144 loài cây đại mộc cho gỗ quý, 38 loài cây làm cảnh, 34 loài cây có thể ăn được, 159 loài cây thuốc, Irvingia malayana là một trong 5 cây được kê trong sách đỏ Việt Nam (www.thuvienhoasen.org). Cây nầy ở Khe Tran mang tên địa phương a long chê (www.cifor.cgiar.org.). Bên Campuchia, Irvingia malayana, có tên khmer cham mo (www.phnomenom.com), là một cây thuộc vùng Ansar Chambok trên bờ hồ Tonle Sap, nơi những cây được thổ dân dùng lấy nhựa hoặc được những thầy Kru Khmer dùng làm thuốc chữa bệnh (www.wrm.org.uy). Người Lào dùng quả cây ép thành dầu máy, năng suất đạt đến 85.22% (6). Một cuộc khảo cứu cặn kẽ đã được thực hiện trên gỗ cây Irvingia malayana (tên Thái Lan kabok, tên Mã Lai thương mãi pauh kijang): mộc tâm màu nâu vàng, trắng hay xám, không gân, có lỗ phát tán, mạch dính vào nhau, sợi mạch lẻ tẻ, sợi vách mạch dày, nhu mô trục sắp theo tuyến mạng, tế bào thường xơ cứng, không có tế bào dầu hay chất nhờn, không có nhũ quản hay ống tanin (8). Châu Phi cũng có cây nầy, thường được gọi là xoài hoang, xoài rừng hay xoài Phi. Mang nhiều tên ogbono, etima, pdika hay quả dika, trái cây chứa đựng nhiều chất mỡ và protein. Nó thường được sấy khô ngoài trời, đem bán như vậy hay dưới dạng bột để làm một bột nhão làm bánh dika hoặc sô cô la Gabon, chất nhầy dùng để làm đặc món cháo ogbono. Quả hạch nhiều sợi cũng đã được ép ra thành dầu. Gỗ cứng thường được dùng trong kỹ nghệ xây dựng (biodiversity.mongabay.com).
Từ thập niên đầu tiên thế kỷ XX, các nhà khảo cứu dược lý học đã tìm hiểu sâu rộng chất mỡ chiết xuất từ cây cầy Irvingia ở Đông Dương song song với những cây thuộc họ Cam quýt Rutaceae, tương đương với bơ dika trên bờ biển Tây Phi. Cây cầy nở hoa vào mùa xuân, qua các tháng 7-8 thì quả chín với một vỏ ngoài có sợi, vỏ trong thân gỗ. Cơm lấy từ hạch quả ra được đem ra chiết bằng hơi và cho cô lại. Chất mỡ (năng suất 21,86%) có thể dùng làm xà phòng hay cho vào ống tre đã có sẵn sợi tim để làm đèn. Bả còn lại được dùng làm thức ăn cho súc vật, làm phân bón hay chất đốt. 5 kg quả cống hiến 1 kg hạt và 430 g bơ. Đem những acid béo biến hóa thành ester rồi phân tích thì biết được bơ chứa đựng (%) olein (5), laurin (60-65) và myristin (60-65) (1,2). Một công tác khảo cứu trên Irvingia malayana ở Campuchia cho biết quả chứa đựng (%) nước (7,5) và dầu (70). Những acid béo phần lớn là bảo hòa, gồm có (%) những dãy C12 (42) và C14 (41,8). Thành phần sterol tuơng tự những dầu khác, chỉ ít giàu alpha-tocopherol hơn gamma-tocopherol, đặc biệt chứa đựng những chất kháng oxi hóa nên dầu có thể dùng trong các ngành dược học, mỹ phẩm, margarin, ... (5). Về mặt cấu tạo, còn được tìm ra trong Irvingia malayana những neolignan, phenylpropanoid bên cạnh những propanon, ferulaldehyd, ferulat, sitosterol, glutinol, caffeic aldehyd, oleanoic acid (4). Gần đây, khảo cứu về hoạt động cảm nhận ở thần kinh hệ trên 30 cây mọc bên Mã Lai, người ta đã biết được lá Irvingia malayana cùng với phần chiết 6 cây khác có tác dụng lên cơ quan cảm nhận 5HT1 nhưng không có hiệu quả gì lên GABAB và dopamin D2S (7), đằng khác có một tác dụng chống sốt rét đáng kể IC50 = 04-8,6 nmg/ml (9). Bs Phạm Thúy Hồng cho biết theo Đông y, vỏ kơnia tính mát, đắng nhẹ, không độc, kiện tỳ, lợi niệu. Trị kém ăn, ăn không tiêu, chướng bụng, dùng 50-100 g vỏ nấu với nửa lít nước uống trong ngày (có thể thêm trần bì 15 g, gừng 5g). Trị sốt cao, phù, nước tiểu đỏ: 500 g vỏ kơnia, 2 lít nước sắc uống nhiều lần trong ngày. Vỏ cũng được dùng cho đàn bà mới sanh (3). Trong dược thư Phật giáo Nam tông, cây Irvingia malayana đã được ghi trong mục các thuốc có vị mỡ trong số 13 vị căn bản để củng cố xương chẹn, chữa trị những chứng gân-thần kinh (perso.orange.fr).
Ở tỉnh Đac Lac, huyện Ban Dôn, có một làng mang tên Chu K’nia. Ơ Tây Nguyên, bản mang tên nầy là chuyện thường. Cái lạ là cách đây mấy khoảng 10 năm, một em bé khi cởi áo quần thì thấy cơ thể phát ra một ánh sáng phôtpho, càng chùi cọ ánh sáng càng lớn thêm, gài vào tóc thì nghe tiếng nổ lốp đốp. Em cho biết có ba đứa em, sống bình thường, không có gì đảo lộn trong đời sống hằng ngày. Ngoài ra, chỉ có phần trên cơ thể phát quang, mỗi ngày giữa 22 và 23 giờ. Cái phiền là người tò mò, có khi tới từ xa, lại gõ cửa, ngay cả giữa khuya để "xem hiện tượng"! Đã có các nhà báo và khoa học lại tiếp xúc nhưng chưa thấy một giải thích, kết luận (www.vn.ref.org). Một sự kiện khác có phần thời sự hơn. Sau cuốn nhật ký của Bs Đặng Thùy Trâm được đăng ra, cuộc hy sinh của liệt sĩ trẻ tuổi nầy trên chiến trường Đức Phổ (Quảng Ngãi) đã được trong và ngoài nước bàn tán nhiều. Một tour mang tên "Ngọn lửa Thùy Trâm và đất thép Phổ Cường" cũng được tổ chức "... đi lại trên những con đường chị Đặng Thùy Trâm và đồng đội từng đi,... Tại gốc cây kơnia, nơi chị Đặng Thùy Trâm ngã xuống ngày 22.1.1970, du khách sẽ cùng thắp nhang tưởng niệm" (16). Đã từng được tôn vinh trong lịch sử, không bao giờ cây kơnia đi sâu hơn vào lòng dân tộc.
Nghiên cứu và Phát triển 1(60) 2007, khoahoc.net 2.2007
Tham khảo:
1- Emile Bontoux, Irvingia butter, Matières grasses 8 (1909) 13276-8
2- Emile Bontoux, Butter of Irvingia, Bull. Sci. Pharmacol. 17 (1911) 78-82
4- K. Mitsunaga, Y. Ouyang, K. Koike, Y. Sakamoto, T. Ohmoto, T. Nikaido, Phenolic constituents of Irvingia malayana, Natural Med. 50(5) (1996) 325-7
5- J. Bandelier, T. Chunhieng, M. Olle, D. Montet, Original study of the biochemical and oil composition of the cambodia nut Irvingia malayana, J. Agric. Food Chem. 50(6) (2002) 1478-82
6- Somposh Sudajan, Sommuk Chusilp, Development of a Irvingia malayana nut sheller, KRU res. J. 9(1) Jan-Jun 2004
7- L.Y. Chung, S.H. Goh, Z. Im.champa.kku.ac.th iyabir, Central nervous system receptor activities of some malaysian plant species, Pharma. Biol. 43(3) April-May 2005, 280-8, taylorandfrancis.metapress.com
8- H.G. Richter, M.J. Dallwitz, Bois commerciaux – Irvingia malayana Oliv. Pau kijang delta-intkey.com 16.04.2006
9- Julie Nguyen-Pouplin, Hung Tran, Tuyet Anh Phan Ta, Christiane Dolecek, Jeremy Farrar, Tich Hien Tran, Philippe Caron, Bernard Bodo, Phìlippe Grellier, Activités antimalariques et cytotoxiques des plantes médicinales ethnopharmacologicales choisies du Vietnam du sud, J. Etnopharmacol. 15.08.2006
10- Le compositeur Phan Huynh Dieu, toujours jeune malgré ses 73 answww.vn.refer.org.
11- Nguyễn Thị Minh Châu, Phan Huỳnh Điểu - Composer of love, Vietnamese traditional Music, www.vnstyle.vdc.com.vn
12- Quách Tấn, Di tích và truyền thuyết về nhà Tây Sơn, e-cadao.com
13- Đào Đức Chương, Nhà Tây Sơn qua ca dao, Thế Kỷ 21, 20.11.2006, nguoi-viet.com
14a- Nhà thơ Ngọc Anh: Sống dưới bóng Kơnia, chết bên gốc Kơnia, Trang văn học, 20.11.2006, hanoi.vnn.vn; 14b- Văn Công Hùng, Những chuyện chưa biết về cây kơnia, www.vnwe blog.com
15- Lưu Hồng Trường, Một số kết quả nghiên cứu thực vật núi Tà Kóu, thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Tà Kóu, tỉnh Bình Thuận, www.lamdong.gov.vn
16- Đặng Ngọc Khoa, Về với Phổ Cường, quê hương thứ hai của chị Đặng Thùy Trâm, Thanh Niên Online 20.11.2006, www.2.thanhnien.com.vn.


39- Cây vấp gỗ cứng
Kèn Saranai bập bùng trong mờ ảo
Hận Đồ Bàn ai hát thật say sưa
Rừng cây kraik thẩn thờ buồn khôn tả
Lá tơ vàng thương tiếc hào quang xưa.
Dorohiem Chế Liên
Tục truyền vào thế kỷ XVII, ở nước Chiêm Thành có một cô con gái không chồng mà có con, bị cha mẹ cho là hư hỏng, la mắng đuổi đi, lại thêm hàng xóm hắt hủi, phải sống lang thang, ngủ dưới gốc cây, lượm lặt lúa rơi, ngắt hái rau hoang về ăn đỡ đói. Đứa con trai sinh ra sống lêu lổng, lớn lên làm nghề giữ trâu. Bị chế nhạo là con hoang, chàng xấu hổ bỏ nhà sang ở làng Hamubrâu bên cạnh. Ở đây cũng bị ganh ghét, chàng lại tức tối dọn về làng Boh Muthuh gần Phan Rang (5). Có tài bắn cung lại nhờ tướng mạo vương giả, chàng được nhà chiêm tinh học của nhà vua Mahataha để ý và tiến cử vào triều. Vua không có con trai, nuôi chàng ăn học, còn gả ngay cả công chúa con mình làm vợ và sau cùng truyền ngôi báu cho chàng (2). Một tài liệu khác kể rằng trước cảnh loạn lạc, một người Thượng gốc Churư tên Thốt được dân chúng Chăm và người Thượng bầu ra làm lãnh tụ đứng ra dẹp loạn. Loạn dẹp xong, tù trưởng Thốt được dân chúng tôn lên làm vua (7). Dù sao vua Pô Rômê (từ danh từ Rama, tức là đức vua được thánh hóa, còn gọi Pô Ramê, Pa Rame), theo thiên niên sử của người Chăm, trị vì từ 1627 đến 1651. Bài ca tụng nêu lên vẻ đẹp vô song của ông: đầu bằng vàng, vai đùi bằng đồng thanh nhẵn bóng, tay đeo nhẫn lóng lánh, chân mang dày sáng loáng như những tia chớp, mặt ông chói lọi như vàng, trong suốt như nước thuần khiết (1). Là một vị vua sáng suốt, biết tổ chức, ông chăm lo đời sống nhân dân, nên đất nước sống trong thái hòa. Ông buộc các lãnh tụ tôn giáo Bà La Môn và Bani phải sinh hoạt chung với nhau, phân chia những ngày lễ lớn như các nghi lễ về nông nghiệp cho hợp lý để các thầy tế lễ và giáo dân đạo kia có thể tới tham dự. Nhiều đập nước lớn dẫn thủy nhập điền được xây dựng tại những nơi khô cằn và triền núi để nhân dân dễ bề canh tác. Nhà vua chọn Krong La (làng Palai Bacon, xã Hòa Trinh, thị xã Phan Rang bây giờ) làm kinh đô, cạnh sông Krong Binh, tức là sông Viêu. Nơi nầy trước kia là kinh đô cũ (Virapura) của vua Satyavarman, được trồng nhiều cây kraik (ta phiên âm cây krết) tượng trưng cho uy quyền nhà vua (7).
Vua Pô Rômê có ba vợ. Bà thứ nhất là hoàng hậu Bia Suthi (hay Bia Suchi (2), Bia Thanh Chik (5)) không có con, vua qua xứ Lào tìm thuốc để cho vợ có con nối dòng. Ông chẳng tìm ra thuốc nhưng trên đường lại gặp và đem từ Đắc Lắc về một bà vợ thứ hai, sắc tộc Ê đê (tức Radhé lúc trước) hay Koho (2), công chúa Bia Tan Chan (hay Bia Thăng Chăn (3), Bia Thanh Chanh (5), Bia Suncan (2)). Ông có phước với bà nầy vì không những bà đã cho ông nhiều con mà sau nầy bà là người vợ độc nhất chịu theo ông lên hỏa đàn khi ông chết và được hỏa táng (4). Năm 1629, nhân Văn Phong là một người Chăm nổi lên đánh phá các làng di dân người Việt tại Phú Yên, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên sai Nguyễn Phúc Vinh mang quân đánh dẹp và thành lập Trấn Biên Dinh, lấn sâu vào lãnh thổ Chiêm Thành tới chân núi Thạch Bi (đèo Cả). Sau thất bại nầy, Pô Rômê làm hòa và xin cưới con gái thứ ba của Sãi Vương là công chúa Ngọc Khoa (8) trở thành Bia Út, tước hiệu hoàng hậu Akaran (7). Ba bà vợ không hòa thuận với nhau và lắm khi nhà vua phải rời cung điện để tránh nghe nhũng cãi vả ồn ào hằng ngày (1). Có thuyết cho rằng công chúa Ngọc Khoa giả làm gái đi buôn qua Chiêm Thành. Vua nguyên là người hiếu sắc, nghe tin có người đẹp, liền cho triệu vào, say mê sắc chim sa cá lặn của nàng liền cưới làm vợ thứ ba (5). Bà nầy đặc biệt là đẹp nhất trong hàng cung phi mỹ nữ, được vua sủng ái vô cùng, duy phải cái tật hay làm nũng. Muốn được độc quyền tình yêu của nhà vua, thỉnh thoảng bà giả vờ đau, rên xiết, lăn lóc (8). Vua sai bốn ngự y giỏi lại hội chẩn, nghe tâu bà không có bệnh gì thì ra lệnh chém đầu cả bốn ông.
Theo giả thuyết cho bà bà là thám tử của chúa Nguyễn thì bà đã tìm hiểu cây kraik bảo vệ xứ sở là quan trọng đến bực nào và đòi vua chặt đốn cho được cây ấy. Sau một thời gian lưỡng lự, không chịu nghe lời khuyên ngăn của đình thần, của các nhà chiêm tinh, vua sai một trăm binh sỉ cầm rìu ra chặt cây nhưng chặt đến đâu thì vết thương hàn gắn ngay lại đến dấy. Tức giận, vua giật rìu dồn dập bửa vào cây thì máu phun ra và nghe cả tiếng rên. Vua la lớn: "Cây kraik, tại sao mày làm hoàng hậu ta đau khổ? Làm sao ta để mầy sống được?" Đúng vào sau câu hỏi ấy, cây qụy sức sụp đổ, máu tràn lai láng trên đất (1). Cây bảo hộ bị đốn, như hết còn được phù hộ, năm 1651, trước một trận giáp chiến với quân Việt, trong khi quân sĩ và tướng tá chạy lên trốn ở đất người Thượng (4), chỉ một mình vua Pô Rômê ở lại kháng cự, bị bắt và hành hình. Cô con gái Pô Mum đem xác cha về hỏa táng và như đã nói, chỉ có Bia Tan Chan nhảy vào đống lửa hy sinh theo chồng, còn Bia Suthi thì lượm được một chiếc răng để thờ (1). Ngày nay Pô Rômê và bà hoàng hậu Bia Tan Chan được thờ trong một cái tháp xây trên một ngọn đồi cằn cỗi tại thôn Hậu sanh tức Palai Thươn, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Ngưòi lớn tuổi ở đây bảo đúng ra tháp Pô Rômê không phải xây ra cho ông vua nầy mà nguyên là tháp của vua cha vợ... Còn bà hoàng hậu Bia Suthi thì được thờ trong một ngôi miếu nhỏ cạnh tháp. Chỉ còn thiếu bà hoàng hậu Bia Út, có thể đã được cho về nước lấy cớ thăm mẹ đau trước khi quân Việt tấn công Champa (5). Hàng năm, vào ngày lễ Katê, người Chăm lại đây cúng tế như ở tháp Pô Klaung Garai cạnh Phan Rang (3).
Trước đây hơn một thế kỷ, cây kraik lạ thường kia đã được một tác giả (1) định danh là cây vấp Mesua ferrea Linn. thuộc họ Bứa (PHH) hay Măng cụt (ĐTL) Guttiferae (PHH) hay Clusiaceae (ĐTL). Mọc nhiều ở vùng Assam, Myanmar, Hymalaya, nó mang một số tên khác nhau: nahar, nahor, nagkassar, nagkesar, negkesar, nagkeshara, nagkeshor, nageshwar (Ấn Độ), bunga lawang (Nhật Bản), Pháp gọi nó bois d’anis, bois de fer, Anh Mỹ ironwood hay Indian rose chesnut. Là một đại mộc cao 10-20m, tàn rậm, nhánh nhỏ, cây có phiến lá tròn dài thon, chót nhọn, không lông, hoa cô độc, thơm, cánh hoa trắng, tiểu nhụy nhiều, bao phấn vàng, chỉ dính nhau ở đáy. Nó đặc biệt được tả là một cây có gỗ rất cứng trong số các cây vấp Mesua khác: vấp Clemens tức M. clemensorum, vấp sét M. ferruginea, vấp nhiều hoa M. floribunda, vấp trái to M. macrocarpa (PHH). Gần đây, theo một học giả khác (8) thì kraik là cây căm xe (tên Cao Mên kram krahamXylia dolabriformis Benth. Hay Mimosa xylocarpa Roxb., thuộc họ phụ Trinh nữ Mimosoideae, họ Đậu Fabaceae hay Leguminosae. Còn được gọi irul, pyinkado, mang tên X. xylocarpa (Roxb.) Taubert hay X. kerrii Craib. et Hutch, nó cũng là một cây đại mộc cao đến 25m, lá xoan hay bầu dục, không lông mặt trên, mặt dưới có lông thưa hay dày, trái cứng nâu đỏ, hột bầu dục, dẹp, dài. Gỗ nó đo đỏ cũng được miêu tả là rất cứng (PHH). Chỉ so sánh về độ cứng của gỗ, cả hai cây nầy đều có khả năng là cây kraik. Còn nên xem xét thêm về mặt tính chất hóa học, dược học, duợc liệu và ứng dụng của chúng vì một cây linh thiêng như kraik ắt phải có ít nhiều dấu ấn gì đặc biệt.
Thật ra, cây X. dolabriformis hay X. xylocarpa (hai tên thường được dùng trong các bản báo cáo khoa học) tương đối ít được biết ngoài một số tài liệu học hỏi về tính chất gỗ cây để dùng nó làm giấy, đặc biệt về lignin, ảnh hưởng của nhựa lên sức chịu đựng của gỗ. Về thành phần hóa học, đã được tìm ra những ketomanoyl oxid, oxomanoyl oxid, sandara copimaradin -on, -ol, -diol trong gỗ, dolabri proanthocyanidin trong vỏ cây. Hột cây chứa đựng protein (albumin và globulin) gồm có nhiều amin acid cốt yếu trừ cystin và methionin, một số acid mỡ không bảo hòa mà nhiều nhất là linoleic acid. So sánh hai thành phần của protein, albumin gồm có nhiều isoleucin, cystin, methionin, tryptophan, threonin và ít leucin, lysin, phenylalanin, tyrosin, valin hơn globulin. Còn có những chất không dinh dưỡng là phenol tự do, tannin, phytic acid, hydrogen cyanid, trypsin. Dầu ép từ hột cây chứa đựng nhiều oleic, linoleic, behenic, lignoceric acid và chút ít palmitic, stearic, cerotic acid cùng phytosterol. Về mặt dược liệu, tính chất độc nhất được biết là sự ức chế kết dính tiểu cầu máu do serotonin gây ra của hydroxy pipecolic acid chiết xuất từ lá cây (15).
Cây Mesua ferrea được các nhà khảo cứu chú trọng đến nhiều hơn. Phần cây được học hỏi nhiều nhất là hột cây và dầu ép ra. Hột cây chứa đựng nhiều acid mỡ: myristic, palmitic, stearic, linoleic, arachidic, mammeisin, những coumarin là ferruol (cũng được tìm ra trong vỏ cây), mammeigin, mesuarin, mesuol có vị đắng. Đem hột cây ép thì có được một loại dầu nhớt vàng nâu có mùi khó chịu, chứa đựng nhiều acid mỡ đã thấy trong hột : palmitic, steraric, arachidic, oleic, linoleic, bên cạnh hexa decanoic, octa decanoic, octa decatrienoic acid, stearin. Mùi dầu có thể do các chất carbonyl như acetaldehyd, hexaldehyd, glyoxal mà lại. Dầu hột cây giàu acid mỡ có thể là một nguồn kỷ nghệ dầu, đem nhiệt phân thành dầu thắp. Thành phần của dầu hột còn là các amin acid : cystin, arginin, serin, citrullin, hydroprolin, prolin, alanin, methionin, phenylalanin, isoleucin, leucin. Cũng có thể chiết dầu từ những bộ phận khác của cây: dầu lá cây non giàu copaen và caryophyllen, dầu hoa cây giàu copaen và germacren, dầu vỏ cây giàu bisabolen và selinen. Ngoài ra, những mesua xanthon, những hydroxy, dihydroxy, methyl xanthon, euxanthon, cùng sitosterol đã được tìm ra trong gỗ cây, những mesua bixanthon, betulenic acid, epicatechin, pyrano jacareubin, những mesuferrol, flavonoid epicatechin, trong vỏ cây, một flavanon glycosid là mesuein trong lá cây, amyrin, mesuaferrol, những biflavonon mesuaferron, mesuanic acid trong nhị hoa, những triterpenoid, tanin, samonin và các chất đường trong hoa và nhị hoa. Nhị hoa được xem là thành phần môn thuốc cổ truyền Ấn Độ negkesar (19).
Về mặt dược liệu, cây Mesua ferrea cống hiến những chất mansuol, mensuon có tính chất kháng sinh, hữu hiệu nhất chống Staphylococcus aureus: nồng độ tối thiểu ức chế của mensuon là vào khoảng 30 g/cc tương dương với penicillin khoảng 0,30 g/cc còn mensuol thì quanh 1% so với penicillin (11). Những xa nthon như mensuaxanthon, jacareubin, calophyllin, dehydro cyclocyanidin đề có tác dụng làm suy nhược hệ thần kinh trung ương, có tính chất kháng viêm khi thử trên chuột, không có một tác dụng dược lý nào lên hệ thống tim mạch khi thử lên ếch và chó (16). Tinh dầu hột cây có tính chất chống hen suyển (13), khử vi khuẩn Pseudomonas solanacearum rất hữu hiệu (12). Được khảo sát về tính chất ngừa thai, dưỡng thai (14), hoa cây đem trộn với nhiều cây khác như hột tiểu hồi Foeniculum vulgare, hột kha tử Terminalia chebula, củ nga truật Curcuma zedoaria trong một liều thuốc cổ truyền Ấn Độ có khả năng ức chế 60% sự kết thai từ đấy tăng gia tỷ lệ hư thai với liều lượng 500 ml/kg trên chuột (17). Cây cũng được dùng trong cuộc chữa chứng khó tiêu và những bệnh ở thận (23). Một phần chiết của cây có tính chất ức chế tác dụng của pancreatic lipase ở tụy (25), của glucotransferase nên được cho vào thức ăn hay thuốc đánh răng chống viêm khớp răng (28), chống những vi khuẩn Gram âm, Gram dương và kỵ khí Trichophyton mentagrophytes, Candida albicans (22) nên được dùng trong một liều thuốc chống trứng cá (21), trong mỹ phẩm bảo vệ da (20) kích thích tóc mọc (26). Tinh dầu hoa cây rất thơm, nhờ những chất aldehyd, được dùng để ướp hương xà phòng (10). Hoa búp là một thuốc thiên nhiên nhuộm vàng (9). Dầu trong thuốc mỹ phẩm Krameris được chiết xuất từ hoa búp (1 kg) với hexan (4 lần 2 lít) đun sôi rồi đem tẩy màu với than và cho cô lại (14,5 g) (27). Trong kỹ nghệ, dầu hột cây đã được dùng làm nhựa, vec ni, nhựa polyester và được xem là vật liệu rẻ tiền để tổng hợp dầu biodiesel (24).
Tuy người Chăm lúc trước chẳng biết những tính chất dược liệu nầy của cây kraik ngày nay được khoa học chứng minh, rất có thể họ đã dùng các bộ phận của cây trong các liều lượng như đã thấy trong nền y khoa cổ truyền Ấn Độ. Nếu thật vậy thì rất dễ hiểu kraik được xem như là cây bảo hộ xứ sở, tương đương với cây neem Azadirachta indica (6a) đã được người Ấn Độ tôn vinh là "nhà dược phẩm" trong làng. Bây giờ còn cần phải xác định kraik là cây nào và kiếm cách khai thác những tính chất dược liệu của nó trước khi người ngoại quốc lại dành ghi văn bằng sáng chế như đã thấy với cây neem Ấn Độ và nhiều cây khác trên thế giới (6b).
Nghiên cứu và Phát triển 1(54) (2006) 53-7, khoahoc.net 5.2007
Tham khảo:
1- Antoine Cabaton, Nouvelles recherches, Hymne à Pô Ramé, Ernest Leroux Ed. (1901) Paris 112-4
2- Marcel Ner, Rapport. V- Trésors, traditions et vestiges chams. Traditions cham en pays kil, BEFEO (1930) 572-3
3- Trần Kỳ Phương, A la recherche d’une civilisation éteinte, nxb Thế giới (1993) Hà Nội 76-83
4- Bernard Bourotte, Histoire des Montagnards du Sud-Indochinois. Chute de la pricipauté des Che Ma, BSI (1) XXX (1995) 40
5- Ngô Văn Doanh, Tháp cổ Chămpa. Sự thật và huyền thoại, nxb Văn hóa-Thông tin (1994) Hà Nội 187-96
6- Võ Quang Yến a) Thuốc trị bá chứng từ cây sầu đâu, Thông tin khoa học và Công nghệ Huế (3) (1996) 3-34; b) Thuốc men thức ăn và văn bằng, Thông tin khoa học và Công nghệ Huế (3) 33 (2001) 37-42
7- Nguyễn Văn Huy, Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam. 7- Cố gắng tồn tại trong khó khăn, Thông Luận 174 (2003) 16-20
8- Hương Giang Thái Văn Kiểm, Trên đường Nam tiến theo dấu hai bà Ngọc Vạn và Ngọc Khoa, Nhớ Huế, Westminster, California 15 (2004) 75-86
9- C.D. Mell, Interesting sources of natural dyestuffs, Textiles Colorist 53 (1931) 30-2, 100-3, 187-90, 268-70
10- N.C. Deb, Chemical examination of the stearin from the seeds of Mesua ferrea Linn. (Nag-Keshor). I- Ind. Soap J. 8 (1941) 15-7
11- D.P. Chakraborty, M. Purkayastha, P.K.B. Bose, Antibiotic properties of some constituents of Mesua ferrea, Proc. Nat. Onst. Sci. India 25B (1959) 8-11
12- A. Kar, S.R. Jain, Antibacterial activity of some Indian indigenous aromatic plants, Flav. Ind. 2 (2) (1971) 111-3
13- M.B. Bhide, P.Y. Naik, R.S. Joshi, Studies on the antiasthmatic activity of Mesua ferrea, Bull. Haffkine Inst.5 (1) (1977) 27-30
14- P.K. Meherji, T.A. Chetye, S.R. Munshi, R.A. Vaidya, D.S. Antarkar, S. Koppikar, P.K.Devi, Sreening of Mesua ferrea (Nagkesar) for estrogenic and progestational activity in human and experimental models, Ind. J. Exp. Biol. 16 (8) (1978) 932-3
15- L. Mester, L. Szabados, M. Mester, N. Yadav, Identification of carbon-13 spectroscopy of trans-hydroxypipecolic acid, a new inhibitor of platelet aggregation induced by seretonin in the leaves of Xylia xylocarpa, Planta Medica 35 (4) (1979) 339-41
16- C. Gopalakrishnan, D. Shankaranarayanan, S.K. Nazimudeen, S. Viswanathan, L. Kameswaran, Antiinflammatory and CNS depressant activities of xanthones from Calophyllum inophyllum and Mesua ferrea, Ind. J. Pharm. 12 (3) (1980) 181-91
17- C. Seshadri, S.R. Pillai, Antifertility activity of a compound ayurvedic preparation, J. Sci. Res. Plants & Med. 2 (1-2) (1981) 1-3
18- D. Konwer, S.E. Taylor, B.E. Gordon, J.W. Otvos, M. Calvin, Liquid fuels from Mesua ferrea L. seeds oil, J. Am. Oil Chem. Soc.66 (2) (1989) 223-6
19- R. Banerji, A.R. Chowdhury, Mesua ferrea: chemical constituents and biological activity, Ind. J. Forestry15 (3) (1993) 207-11
20- K. Kose, T. Ikeda, K. Kondo, S. Uehara, Mesua for skin cosmetics, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 10265361 (1988) 8 tr.
21- E. Bombardelli, A. Cristoni, P. Morazzoni, R. Seghizzi, Pharmaceutical and cosmetic antiacne formulations containing plant extracts (Krameria triandra or Mesua ferrea), PCT Int. Appl. WO 9817293 (1988) 14 tr.
22- E. Bombardelli, P. Morazzoni, Pharmaceutical and cosmetic formulations with antimicrobial activity, PCT Int. Appl. WO 9817294 (1988) 13 tr.
23- T.J. Dennis, K. Akshaya Kumar, Constituents of Mesua ferrea, Fitoterapia 69 (4) (1988) 291-304
24- B.K. De, D.K. Bhattacharya, Biodiesel from minor vegetable oils karanja oil and nahor oil, Fett Lipid 101 (10) (1999) 404-6
25- N. Gowéadia, T.N. Vasudevan, Studies on effect of some medicinal plants on pancreatic lipase using spectrophotometric method, Asian J. Chem. 12 (3) (2000) 847-52
26- O. Nakaguchi, M. Katsada, M. Matsuyama, T. Hashigaki, T. Sakano, K. Onishi, Y. Yamaguchi, Y. Okamoto, Plant active ingredient or extract for hair restoration, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001031528 (2001) 10 tr
27- Indena S.P.A. Italy, Pharmaceutical and cosmmetic formulations with antimicrobial activity, Cont-in-part of U.S. Ser. N0 254 .038 (2001) 5 tr
28- K. Oshima, T. Mitsunaga, Glucosyltransferase inhibitor containing specified plant extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2002187843 (2002) 9 tr.


40- Ginkgo: Một cây hóa thạch sống
Bản thể cây phải chăng một cội
Tự mình chia chẻ làm thành đôi
Hay cây là hai tự tìm chọn
Để mọi người xem như một thôi.
Johann Wolfgang von Goethe (1815)
Sam là một động vật sống cách đây 500 triệu năm, trong rất lâu chỉ được biết dưới hình thức hóa thạch, phải đợi đến đầu thế kỷ XVII mới bắt gặp dưới biển. Sự tích cây ginkgo cũng ly kỳ không kém: vết ấn lá cây đã được tìm ra trong đá có 270 triệu năm tuổi, vào kỷ hai, nghĩa là trước cả những khủng long đã sống vào kỷ Jura (213 triệu năm). Có lẽ vào thời ấy có nhiều loài ginkgo, chẳng hạn Ginkgo primigenia, nhưng qua nhiều tai biến địa chất, tiếp theo sự tàn lụi của những khủng long là những động vật phân tán hột cây, chỉ còn hai loài vào kỷ ba (65 triệu năm): Ginkgo adiantoides và Ginkgo gardneri theo những di tích hóa thạch. Cách đây khoảng 7 triệu năm, ginkgo không còn thấy ở châu Mỹ và 5 triệu năm sau đến lượt châu Âu cũng mất tích nó. Cây chỉ còn mọc ở châu Á, không thay đổi vì lá cây ngày nay không mấy khác là cây hóa thạch kỷ ba. Là cây độc nhất tồn tại từ thuở xa xưa, với những quả xem như là cổ nhất, làm giây liên lạc giữa hiện tại và quá khứ trong số hàng vạn loài cây, ginkgo là một kỳ quan trong ngành thảo mộc. Bên Trung Quốc cây đã được tìm ra trước ở miền bắc nhưng sau cũng bắt gặp mọc hoang trong nhiều dãy núi miền trung và miền nam. Từ thời nhà Hán (206 tCN- 220 sCN), quả hạt cây đã được dùng làm thức ăn và được ghi chép vào sách Thần nông bản thảo kinh nhưng phải đợi đến 1578 mới được Lý Thời Trân (1518-1593) kê vào cuốn Bản thảo cương mục. Một bài thơ đã đề cao nó như những viên ngọc đem tặng cho một người khách cực thân. Nhiều họa sĩ chiếu cố hình thức ngọn lá, còn các thi sĩ thì đua nhau ca ngợi vừa quả vừa lá. Người ta trồng nó bắt đầu từ các triều đại Tống (960-1280), Thanh (1280-1368), nhất là trong các sân chùa, sân miếu, những nơi có nhiều Phật tử và đồ đệ Lão tử tuy không có liên hệ giữa cây và đạo giáo. Bên Nhật Bản thì quả được dùng trong các buổi trà đạo, làm bánh, kẹo và được biết qua sách từ 1492. Vào thời Edo (1600-1867), dân chúng ăn nó như rau, dùng nó trong dấm đóng hộp. Đã từng được tôn vinh là kho tàng quốc gia vì sống lâu đời, không hề bị môi trường ô nhiễm chi phối, lại vẫn còn tồn tại tươi tốt sau quả bom nguyên tử ở Hiroshima, ngày nay cây còn được xem như một cổ thụ thần thoại, hoang đường.

Châu Âu biết được ginkgo nhờ ông bác sĩ kiêm nhà thảo mộc người Đức Engelbert Kaempfer (1651-1716). Được Công ty Hòa Lan Ấn Độ Đông phương gửi đi công cán, ông sống ở Nhật Bản từ 1690 đến 1692. Năm 1691, lần đầu tiên ông có dịp xem xét cây và tả nó trong cuốn Amoenitatum Exoticarum năm 1712. Ông viết: "Cây đạt kích thước một cây hồ đào: thân dài, thẳng, dày, nhiều nhánh; vỏ trở nên xám, có nhiều kẽ nứt, lỗ hổng khi về già; gỗ cây nhẹ, ít dày đặc, ít bền; lõi mềm, xốp... Cuối xuân, đầu mút nhánh mang cụm hoa đuôi sóc chứa đầy một thứ bột mịn. Trái thịt, dày đặc, qua một cuốn dài bằng ngón tay cái mắc vào cây ở chỗ lá mọc, từ hình dáng tròn và dài ngoằn qua kích thước, vỏ ngoài sần sùi một màu vàng lạt, nó giống như một quả mận Damas: vỏ thịt, giàu, trắng, mùi vị chát, dính chặt vào quả hạch trừ phi tách nó ra, để ủng thối và khuấy trong nước như thường làm với Areca indica. Quả được gọi là ginnau, giống như quả đào lạt nhưng lớn gấp đôi, có dáng một nhân quả mơ với một vỏ gỗ mỏng, trong, mảnh dẻ; nhân trắng chứa một quả hạnh độc nhất có vị dịu, dễ tách ra, thịt chắc. Ăn điểm tâm, những quả nầy giúp ích tiêu hóa, giảm hạ bụng trướng do thức ăn gây ra: vì vậy, nó được dọn cho khách vào phần thứ hai của bửa ăn. Những quả hạnh được dùng nhiều cách trong bếp từ khi người ta khám phá ra có thể nấu hay nướng chúng...." Ông đem hột về trồng những cây đầu tiên ở Utrech bên Hòa Lan trong vườn bách thảo. Sau đó cây mới được đem qua Anh (Gordon 1754), Nga (Kew 1762), Pháp (Montpellier 1778). Hoa Kỳ chỉ biết nó từ 1784 trong vườn ông William Hamilton và qua 1900 thì cây được trồng suốt ven đường những đô thị bờ biển miền đông.
Nguồn gốc tên cây ginkgo là từ danh từ tiếng Tàu yin hsing, ta phiên âm ngân hạnh, người Tây phương dịch ra quả mơ bạc. Người Nhật phiên âm gin kyo: có thể ông Kaempfer chép lầm chữ y ra chữ g, hay ở vùng Lempo quê ông miền bắc nước Đức người ta không phân biệt y và g, hay chữ ông ta viết không rõ nên xảy ra sự lầm lẫn biến ginkyo thành ra ginkgo. Những tự điển ngày nay cũng sử dụng nhiểu danh từ khác: gingko, ginko, gingo hay ginkyo. Người Tàu còn gọi cây là it cho, ya chio (chân vịt), bai guo hay pei kuo. Từ danh từ nầy mà ta có tên cây bạch quả, hay nôm na hơn ta gọi cây lá quạt vì hình dáng lá cây (đừng lầm với cây rẻ quạt Daniella ensifolia DC hay Belamcanda sinensis Lem). Năm 1771, bác sĩ kiêm nhà vạn vật học Thụy Điển Carl von Linné (1707-1778) xác định tên cây là Ginkgo biloba L., biloba chỉ loài cây vì lá có hai (bi) thùy (lobe). Sau nầy còn có hai tên Salisburia adiantifolia (Smith 1797), Phterophyllus salisburiensis (Nelson 1866) được đề nghị nhưng không mấy ai hưởng ứng. Một ông tác giả Loudon kể chuyện năm 1780, một người ở Paris tên là Pétigny qua London, gặp một người làm vườn chịu bán cho ông 5 cây ginkgo với giá tiền 25 ghinê (đồng vàng Anh); hôm sau, người làm vườn tiếc của, xin mua lại một cây thôi với cùng giá tiền; ông Pétigny không chịu, đem 5 cây ginkgo về trồng ở Pháp. Vì 25 ghinê tương đương với 40 êcu (tiền Pháp) nên ngày nay ở Pháp có danh từ "cây 40 êcu". Tên nầy nay rất được thông dụng và thường được gặp trong các vườn bách thảo trên bảng đặt trước cây. Cũng còn có một tên ít thông dụng hơn là "cây 1000 êcu" vì khi lá vàng rụng xuống gốc cây trông như một thảm êcu. Cây ginkgo có những tính chất giữa những cây dương xỉ và những cây thuộc bộ thông nên rất khó xếp hạng nó. Lúc đầu, người ta muốn xếp nó vào lớp Coniferopsidaea như dương xỉ, nhưng sau thấy cần phải đặt cho nó một lớp riêng biệt Gingopsida hay Ginkgophyta. Ngày nay loài Ginkgo biloba L. chính thức thuộc chi Ginkgo, họ Ginkgoaceae, bộ Ginkgoales.
Ginkgo là một cây biệt chu (dioïque) nghĩa là chùy (cône) phấn hoa (pollen) và tiểu noãn (ovule) nằm trên hai cây đực và cái khác nhau, tuy cũng có ginkgo ngày xưa mang cả hai bộ phận nầy trên một cây. Đằng khác, ginkgo là một loại cây khỏa tử hay hạt trần (gymnosperme) nghĩa là hạt không chứa trong trái như ở những cây bí tử (angiosperme) thường thấy. Trên cây đực, chùy phấn hoa màu vàng mọc từng nhóm 3-6 cái rủ thõng như những đuôi chồn, mỗi cái dài 1-2 cm. Hạt phấn hoa thường mang hai bao phấn hoa gọi là tiểu bào tử nang (microsporange) đằng mút có tinh dịch. Trên cây cái, tiểu noãn gồm có một cái bì bao quanh một bộ mô gọi là noãn tâm (nucellus) chứa đựng bốn đại bào tử (macrospore). Vào mùa xuân, những hạt phấn hoa rời cây đực được gió đưa lại cây cái thì luồn qua lỗ noãn (micropyle) là một lỗ nhỏ trên bì tiểu noãn, để lọt vào buồng thụ phấn rồi phát triển thành giao tử (gamétophyte). Tế bào giao tử phân chia, cấu thành hai tinh trùng mang tiêm mao rung động (một đặc tính của cây ginkgo và cây tuế cycas) rồi đợi thời kỳ thụ tinh vào mùa thu, từ lỗ noãn bên dưới bơi lên, một tinh trùng phối hợp với noãn tâm. Khi phôi thai bắt đầu phát triển, noãn tâm từ xanh thay màu phồng lớn bằng quả mận vàng và vẫn tiếp tục ngay cả khi quả rơi xuống đất nhờ chất dinh dưỡng có sẵn. Khi ấy, thai là một bì chất dinh dưỡng đùm bọc hai tử diệp (cotylédon); bì nầy gồm có một lớp trong cứng (sclerotesta) và một lớp ngoài vàng cam (sarcotesta) dày khoảng 5 cm. Lớp ngoài nầy trở dần nên vàng đỏ, mang nhiều vết và cho thoát ra một mùi thúi khi thoái hóa vì chất butanoic acid. Bì cây còn có thể gây nôn mửa, mụn nhọt trên cơ thể ta vì cơm quả chứa đựng urushiol là một chất gây dị ứng khi chạm vào da. Vì những mô bên trong của hạt là giao tử và phôi thai có thể ăn được nên phải dùng găng tay lượm hạch rồi phải rửa nước thật sạch để thải hết bì trước khi dùng. Bì nầy trì hoãn cuộc nảy mầm, may nhờ trong bao tử các thú ăn hạt, bì bị tiêu hủy và hạt hết còn bì khi được bài tiết ra ngoài.
Ngoài cho hột nảy mầm, có thể phát tán cây ginkgo bằng các phương pháp giâm cành hay tháp cành. Giâm cành là cách chắc chắn nhất để có được một cây theo giới tính mong muốn. Người ta thường hay ghép cành cây đực lên thân cây cái để cuộc thụ tinh được dễ dàng. Rất khó phân biệt được giới tính khi chưa đến mùa cây trỗ hoa. Bên Nhật, trẻ con được nghe giảng khi lá hai thùy lá cây cách nhau rõ rệt như hai ống quần thì đó là cây đực, còn nếu hai thùy gần như gắn liền với nhau như một cái váy thì đó là một cây cái. Lắm người tin mùa xuân lá cây đực mọc sớm hơn lá cây cái và qua mùa thu lá cây đực cũng rơi sớm hơn. Nhận xét nầy nghe nói cũng diễn biến trong một cây ghép vừa đực vừa cái. Cây ginkgo cao 30-40 m nhưng cũng có lúc lên đến 50 m, choáng một khoảng càng rộng khi cây càng già. Cũng vào lúc nầy, cây có thể cho mọc những rễ ngoài trời, rơi xuống dọc thân cây và cành, chạm vào đất, nẩy rễ thành thân, mọc cành. Xem xét cặn kẽ gỗ cây, người ta nhận thấy mộc bộ (xylème) không có mạch dẫn nhựa mà là những sợi mạch (trachéide) gây ra những khoảng gian bào, chứa đựng những đám tinh thể (druse) mà thành phần là calcium oxalat. Muối oxalat nầy còn nhiều hơn trong vỏ cây. Đây là những đặc tính khác của cây ginkgo.
Quả hạch ginkgo có vị dịu, nấu chín ăn tựa như hạt dẻ. Người ta có thể luột, hấp hay nướng, ăn với cơm, nấm, rau, đậu phụ hay trộn vào cháo. Chỉ chứa đựng 3% chất mỡ, nó cống hiến một nguồn tinh bột, protein, niacin. Ăn nhiều hay ăn lâu ngày, đặc biệt ở con trẻ thiếu vitamin B6, thường có xảy ra sự ngộ độc do chất methoxy pyridoxin gây ra. Bên Nhật Bản, từ thế kỷ 18, mang tên ginnan, quả được đem nướng làm đố nhắm rượu saké. Ngày nay, quả được dùng làm món nhúng nabe ryori hay đem nướng hoặc luột, hấp với trứng trong món chawan mushi. Ngoài chợ có bán quả hạch tươi hay đóng hộp qua những nhãn Pakewo, Pakgor,... Dầu quả hạt đã được dùng làm nhiên liệu thắp đèn. Người ta cũng cho trộn cơm quả hạt với dầu hay rượu làm xà phòng. Lá cây, trước khi được chiết để nghiên cứu chất thuốc, thường đã được sắc uống, chế trà, dùng trong mỹ phẩm bảo vệ da (20), điều hòa lưu thông máu trong da (28), thuốc rửa tóc, kích thích tóc lại mọc (25). Nó cũng được dùng làm thuốc sát trùng hay làm phân bón. Một sử dụng nghệ thuật là nhờ hình dáng lạ, màu vàng đẹp mùa thu, lá tự nó là một dải đánh dấu trang vừa rẻ tiền vừa trang nhã; hơn nữa nhờ tính chất diệt trùng, một phần nào nó bảo vệ sách! Có lẽ bên Nhật hình dáng lá cây được thấy nhiều nhất, trên áo kimono, khăn quàng, khăn tay cũng như trên bia mộ, huy hiệu các gia đình, trường học, tượng trưng cho thành phố Tokyo từ năm 1989. Nó được dùng làm mẫu cho những búi tóc các nàng gheisa, các lực sĩ sumo. Trong các viện bảo tàng, khách ngắm được những mảnh đốc kiếm sukashi tsuba bằng kim loại hình lá cây rất thanh nhã, nay thành mẫu những đồ nữ trang lắc lư trên ngực các cô, các bà. Sau cùng gỗ cây, nhẹ, trơn, dẻo, được dùng để chạm trổ, chế tạo bàn và con cờ, những vật dụng trong buổi trà đạo, trên bàn thờ chùa miếu, thùng vận dụng rượu saké, những tủ chống cự lại được sâu mối, gỗ cây cái trong kỹ nghệ làm giấy.
Sách vở Tàu từ lâu đã bàn đến những vị thuốc trong cây ginkgo. Quả nhuộm đỏ được sử dụng trong các buổi lễ, dọn ăn trong các đám cưới, giúp tiêu hóa, giải rượu. Thường được dùng thay thế hột sen, quả là một thuốc lại sức trong thời kỳ bổ dưỡng, thuốc yang quy tăng cường năng lực tính phái. Nó là thành phần các liều thuốc chữa những bệnh tim, phổi, ho hen, viêm họng, ỉa chảy, nóng sốt, điều hòa đường niệu, tương quan giữa thận và bóng đái. Người ta tin nấu chín, nó ổn định tinh dịch, còn tươi thì nó có khả năng tác dụng chống ung thư, độc trùng. Nhờ các chất ginkolic acid (16,22), ginnol, nó có tính chất ức chế hoạt động vi khuẩn, nhiễm trùng do mốc meo gây ra. Quả hạch xay nhỏ đem sắc uống có khả năng kích thích sự tuần hoàn. Lá cây trong thang thuốc bai guo ye được dùng để chữa những chứng hô hấp như hen suyển, viêm phế quản, những chứng thính giác, những bệnh ngoài da, khí hư, ho lao, tuần hoàn, huyết áp, bệnh lậu, bao tử, kiết kỵ, trí nhớ, lo âu. Đem nghiền thành bột, lá cây được đem xông chữa tai, mũi, họng cũng như viêm mũi hay phế quản. Lá cây còn được dùng làm thuốc cao dán. Nó được xem là thuốc trị liệu khớp cắn (occlusion) động mạch ngoại biên gây ra tật đi khập khiểng cách quảng (claudication intermittente)(1,29). Chứa đựng nhiều flavonoid (14), nó có hoạt động phản oxy hóa, thu hồi những gốc tự do ở mức não và võng mạc ở mắt nên có tác dụng ngăn ngừa những rối loạn nguyên do từ tuổi già, rối loạn tuần hoàn óc não, chứng Alzheimer (12) và làm chậm sự lão hóa võng mạc (10). Tác động lên sự lão suy của não, kích thích sự tổng hợp dopamin, nó cải thiện trí nhớ, tâm trạng, cảnh giác, năng lực nhận thức (22). Tăng máu vào não, nó giảm nhẹ sự sa sút trí tuệ thoái hóa (7) tuy có khả năng tăng gia xuất huyết (18). Nó có thể giúp ích cho những người không thoải mái ở núi cao (15) hay bị loạn năng tình dục (27). Đặc biệt cho các bà, nó có khả năng giảm đau sau thời kỳ mãn kinh (17,33).
Bắt đầu từ 1950, người Đức là những người Tây phương đầu tiên muốn khảo cứu sâu rộng tiềm lực y học của ginkgo, đặc biệt phần chiết từ lá, tưởng có phần phong phú hơn phần chiết từ quả hạch. Nói chung, ở Âu châu, những phần chiết được xem có hiệu nghiệm không kém gì những phương thuốc cổ điển để kìm hãm cuộc tiến triển của chứng Alzheimer cũng như để làm giảm bớt những hỗn loạn có liên hệ đến sự suy đồi của trí nhớ và chức năng nhận thức. Chính bác sĩ kiêm nhà thực vật học Willmar Schwabe ở Karlsruhe đầu tiên phân tích những thành phần của phần chiết từ lá, nghiên cứu những hoạt động của chúng và năm 1965 cho sản xuất thuốc Tebonin, nồng độ 10/1 (nghĩa là 1kg chiết từ 10 kg lá). Sau đó, hảng Beaufour ở Pháp và nhiều hãng khác tiếp tay phát triển phần chiết, phần lớn với nồng độ 50/1. Riêng ở Đức, phần chiết EGB 761 (ngoài Tebonin còn mang những tên Kaveri, Tanakan, Rokan, Ginkgold) là một trong 5 vị được ghi nhiều nhất trong các toa thuốc, theo sau là phần chiết Li 1370, chứa đựng 22-24% glucoflavonoid (quercetin, kaempferol, isohamnetin,...)(32) và 5-7% terpenolacton (những ginkgolid, bilobalid) (14,30). Flavonoid là những chất chống oxy hóa, cũng đã tìm ra được trong rau quả. Còn những ginkgolid là những chất ức chế sự đông tụ máu, có hiệu nghiệm nhất là ginkgolid B (16) trong toa thuốc BN-52021(9). Được Furakawa chiết xuất năm 1932, phải đợi đến 1966 mới thấy Nakanishi khảo cứu tường tận cấu tạo, ginkgolid được Corey ở Viện Đại học Harvard năm 1988 thành công nhân tạo tổng hợp để nghiên cứu các tính chất chống sự hắt gạt những cơ quan vừa ghép và nhân đó hai năm sau đuợc thưởng giải Nobel. Hội đồng Liên bang Đức về Sức khỏe năm 1988 có kê khai một bảng những hoạt chất của cây ginkgo đuợc Hội đồng thực vật học Hoa Kỳ in.
Nói chung, tính chất cốt yếu của ginkgo là chống oxy hóa (19), đào thải những gốc tự do (3), được dùng trong cuộc trị liệu chứng Alzheimer (12,26). Người ta dùng nó để điều trị bệnh trên nền tảng cơ chế bệnh lš gây ra một cuộc thoái hóa thần kinh(6), những biến chứng sau một cuộc nhồi máu não như những rối loạn nhận thức, trí giác, vận động, trí nhớ, ngôn ngữ(22), những chứng ù tai, chóng mặt(2). Phần chiết với ginkgolid có tính chất bảo vệ thần kinh, hoạt động tiết acetylcholin phụ thuộc cơ chế chứng Alzheimer(5), bảo vệ màng ruột (4), giảm hạ bệnh phù và tổn thương sau chứng tăng thân nhiệt (9). Bên phần chiết với flavonoid thì có tác dụng chống đầu độc tế bào, bảo vệ những tế bào thần kinh, tất nhiên cũng chống bệnh thiếu máu cục bộ não (11). Theo một văn bằng sáng chế Hàn Quốc, phần chiết chứa đựng isoginkgetin thi giảm hạ nhựa và nicotin trong thuốc hút, đồng thời làm tăng mùi hương(23), lá dùng quấn điếu thay thuốc lá(34). Phần chiết ginkgo không chỉ là chống oxy hóa, nó còn là một thuốc có tiềm năng chống viêm(13), giảm nhẹ bất an tâm thần(8,34), ngăn cản, kềm hãm, giảm hạ thiệt hại động lực thần kinh, mất cân (24). Trái cây ginkgo được dùng để làm dấm chữa các chứng tăng huyết áp, tăng lipid huyết, bệnh đái đường(36). Một văn bằng Nhật Bản đề nghị một thức uống hạ huyết áp, điều hòa máu, tăng miễn dịch, phòng ngừa các chứng mạch tim, mạch não (35), bổ sức gồm có ginkgo và nga truật Curcuma zedoaria (21). Thuốc men thì đã sử dụng nhiều ginkgo. Năm 1997, số tiền bán phần chiết lá ginkgo vượt quá 100 triệu USD. Những lá nầy được sản xuất trong một đồn điền lớn 400 ha (25.000 cây mỗi ha) ở South-Caroline (Hoa Kỳ) của một công ty Pháp-Đức và những đồn điền nhỏ hơn ở Bordeaux (Pháp). Ở Á châu, Nhật Bản, Hàn Quốc và gần đây Trung Hoa đều có trồng ginkgo. Năm 1990, một đồn điền ở tỉnh Shandong và nhất là ở tỉnh Jiangsu đạt đến 3000 ha. Khí hậu hai nơi gần giống nhau nên công ty Pháp-Đức đã kết hợp với người Tàu, đem qua máy móc gặt hái vì đến nay người Tàu hái lá bằng tay: những cây trồng nầy không cao quá con người và cứ 5 năm thì nhổ đi trồng lại.
Nếu cây ginkgo ngày nay đang trở thành một cây thuốc quan trọng trong môn liệu pháp thực vật học, nó có thể ghi trong lịch sử một nạn nhân: ông Sakugoro Hirase (1856-1925). Cán sự thực vật học ở Phân khoa Khoa học, Viện Đại học Hoàng gia Tokyo, ông tự học kỹ thuật nuôi trồng. Từ năm 1894 ông khảo cứu thời gian thụ trái và cấu tạo phôi thai cây ginkgo. Khảo sát noãn tâm qua kính hiển vi, ông thấy được một cấu trúc tỏa tia đặc biệt, hai noãn cơ thực vật (archegonia) trong tiền phôi nhũ (endosperme), sau đó những tiêm mao rung động: ông đã khám phá ra những tinh trùng (1896) cây ginkgo. Sau những báo cáo ở Hội Thực vật học Tokyo, ông cho đăng kết quả trong tờ Tạp chí của Hội (1898): ở Tokyo, thời kỳ thụ phấn nằm giữa tháng 4 và tháng 5, còn thời kỳ thụ tinh thì giữa tháng 9 và tháng 10. Cùng Seiichino Ikeno (1866-1943), giảng sư đại học, với những khám phá về tinh trùng cây tuế Cycas revoluta, hai ông được tặng thưởng giải Viện Hàn lâm Hoàng gia Tokyo năm 1912. Những khám phá của ông được chính thức thừa nhận, nhưng không phải giảng viên hay giáo sư đại học, thành công của ông có lẽ đã gây khó khăn cho ông trong giới khảo cứu, vì sau đó ông từ chức và đi làm giáo viên. Năm 1925, khi ông từ trần, S. Ikeno trở thành giáo sư ở Viện Đại học Tokyo, có viết bài ca tụng và năm 1967, Gs Y. Ogura cũng có bài nhắc lại sự tích khám phá tinh trùng cây ginkgo. Bên phần S. Hirase, dù sao đã để lại một tấm gương sáng không những cho những nhà thực vật học mà cho cả một thế hệ thanh niên Nhật Bản.
Nghiên cứu và Phát triển 3 (62) 2007, khoahoc.net 03.2009,
chimviet.free.fr 09.2011
Tham khảo:
www.xs4all.nl/~kwanten, www.passeportsante.net/fr, www.biologie.uni-hamburg.de/b-online
1- H. Letzel, W. Schoop, Gingko biloba extract EGB761 and pentoxifylline in intermittent claudication. Secondary analysis of the clinical effectiveness, VASA (4) 21 (1992) 403-10
2- C.B. Cano, A.J. Marco, B. Perez del Valle, P.F.J. Pellicer, The effect of Ginkgo biloba on cocheleovestibulary pathology of vascular origin, A..Otorrinolaringologicos Iberoamericanos (6) 22 (1995) 619-29
3- M. Rosler, W. Retz, J. Thome, P. Riederer, Free radicals in Alzheimer’s dementia: currently available therapeutic strategies, J. Neu. Trans. Supp. 54 (1998) 211-9
4- A. Onen, E. Deveci, S.S. Inaloz, B. Isik, M. Kilinc, Histopathological assessement of the prophylactic effect of Gingko biloba extract on intestinal ischemia-reperfusion injury, Acta Gastroenterologica Belgica (4) 62 (1999) 386-9
5- E.K. Perry, A.T. Pickering, W.W. Wang, P.J. Houghton, N.S.L. Perry, Medicinal plants and Alzheimer’s disease : from ethnobotany to phytotherapy, J. Pharmacy and Pharmacology (5) 51 (1999) 527-34
6- S. Kieszek, Trials and perspectives in pharmacotherapy of Alzheimer’s disease, Psychiatria Polska (3) 33 (1999) 331-40
7- A. Gajewski, S.A. Hensch, Ginkgo biloba and memory for a maze, Psychological Rep. (2) 84 (1999) 481-4
8- D. Pratico, N. Delanty, Oxidative injury in diseases of the central nervous system : focus on Alzheimer’s disease, Amer. J. Med. (7) 109 (2000) 577-85
9- J. Westman, K. Drieu, H.S. Sharma, Antioxidant compounds EGB-761 and BN-52021 attenuate heat shock protein (HSP 72 kD) response, edema and cell changes following hyperthermic brain injury. An experimental study using immunohistochemistry in the rat, Amino acids (1) 19 (2000) 339-50
10- C.P. Juarez, J.C. Muino, H. Guglielmone, R. Sambuelli, J.R. Echenique, M. Hernadez, J.D. Luna, Experimental retinopathy of prematury : angiostatic inhibition by nimodipine, Ginkgo biloba, and dipyridamole, and response to different growth factors, Eur. J. Ophthalmology (1) 10 (2000) 51-9
11- M.S. Kobayashi, D. Han, L. Packer, Antioxidants and herbal extracts protect HT-4 neuronal cells against glutamate-induced cytotoxicity, Free Rad. Res. (2) 32 (2000) 115-24
12- H. Sienkiewicz-Jarosz, W. Kostowski, Perspectives of therapy of Alzheimer’s disease, Psychiatria Polska, (4) 34 (2000) 623-40
13- A. Wong, S. Dukic-Stefanovic, J. Gasic-Milenkovic, R. Schinzel, H. Wiesinger, P. Riederer, G. Munch, Anti-inflammatory antioxidants attenuate the expression of inducible nitric oxide synthase mediated by advanced glycation endproducts in murine microglia, Eur. J. Neurosci. (12) 14 (2001) 1961-7
14- K. Nakanishi, K. Stromgaard, D.R. Saito, Synthesis of gingolide probes for neuromodulatory studies, Abs. Papers 223rd ACS Nat. Meet. Orlando, FL, US 7-11(2002)
15- J.H. Gertsch, T.B. Seto, J. Mor, J. Onopa, Ginkgo biloba for the prevention of severe acute mountain sickness (AMS) starting one day before rapid ascent, High Alt. Med. Biol. (1) 3 (2002) 29-37
16- F. Drago, M.L. Floriddia, M. Cro, S. Giuffrida, Pharmacokineticks and bioavailability of a Ginkgo biloba extract, J. Ocular Pharmacological Therapeutics (2) 18 (2002) 197-202
17- H. Xu, D.S. Fabricant, C.E. Piersen, J.L. Bolton, J.M. Pezzuto, H. Fong, S. Totura, N.R. Farnsworth, A.I. Constantinou, A preliminary RAPD-PCR analysis of Cimicifuga species and other botanicals used for women’health, Phytomedicine(8) 9 (2002) 757-62
18- B.J. Tesch, Herbs commonly used by women : an evidence-based review, Amer. J. Obstetrics and Gynecology 188 (5 Suppl) (2003) S44-55
19- O. Lopez, D. Bonnefont-Rousselot, M. Edeas, J. Emerit, F. Bricaire, Could antioxidant supplementation reduce antiretroviral therapy-induced chronic stable hyperlactatemia?, Biomedicine and Pharmacotherapy (3) 57 (2003) 113-6
20- M.M. Cals Grierson, A. Ormerod, Use with extracts vegetaux to improve the function barrier of the skin, Fr. Demande FR 2831443 (2003)
21- S. Toyota, Health beverage preparation from Curcuma rhizome juice, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003111581 (2003) 4 tr.
22- T. Morimasa, Gingko biloba extracts for treatment of complications after brain infarction, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003095966 (2003) 7 tr.
23- C.W. Cho, C.Y. Jung, A filtering material for cigarettes composed of ginkgo leaves starch, spices, and a zeolite, PCT Int. Appl. WO 0313285 (2003) 22 tr.
24- M.F. Beal, R.J. Ferrante, J. Ribert, Use of gingko biloba extracts to promote neuroprotection and reduce weight loss, PCT Int. Appl. WO 0347511 (2003)
25- K.H. Lee, S.I. Han, G.H. Park, Y.E. Kwon, Evaluation of the herbal extract or the effects of hair-regrowth compared to 3% minoxidil; elongation of anagen period on C3H mice, Yakhak Hoechi (1) 47 (2003) 14-9
26- B. Schmitt, T. Bernhardt, H.J. Moeller, I. Heuser, L. Froelich, Combination therapy in Alzheimer’s disease: a rewiev of current evidence, CNS Drugs (13) 18 (2004) 827-44
27. D. Wheatley, Triple-blind, placebo-controlled trial of Ginkgo biloba in sexual dysfunction d ue to antidepressant drugs, Hum. Psychopharmacology (8) 19 (2004) 545-8
28- E. Boelsma, R.J.A.N. Lamers, H.F.J. Hendriks, J.H.J. van Nesselrooij, L. Roza, Evidence of the regulatory effect of Ginkgo biloba extract on skin blood flow and study of its effects on urinary metabolites in healthy humans, Planta Med.(11) 70 (2004) 1052-7
29. M.H. Pittler, E. Ernst, Complementary therapies for peripheral arterial disease: systematic review, Atherosclerosis (1) 181 (2005) 1-7
30- K. Nakanishi, Terpene trilactones from Gingko biloba : from ancient times tothe 21 st century, Bioor. Med. Chem. (17) 13 (2005) 4987-5000
31- J. Liang, Cigarette-like product containing leaves of Gingko biloba, Lycium chinense and Mentha haplocalyx, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1559313 (2005) 8 tr.
32- G. Kostalova, D. Tekelova, Sz. Czigle, J. Toth, M. Mrlianova, S. Lalkovic, Comparison of flavonoid contents in mass produced drugs and diatery supplements containing Gingko bilola L., Farm. Obzor (Slovakia) (5) 74 (2005) 119-23
33 S. Elsabagh, D.E. Hartley, S.E. File, Limited cognitive benefits in stage+2 postmenopausal women after 6 weeks of treatment with Ginkgo biloba, J. Psychophamacology. (2) 19 (2005) 173-81
34- M. Atmaca, E. Tezcan, M. Kuloglu, B. Ustundag, O. Kirtas, The effect of extract of Ginkgo biloba addition to olanzapine on therapeutic effect and and antioxidant enzyme levels in patients with schizophrenia, Psychiatry and Clinical Neurosciences (6) 59 (2005) 652-6
35- X. Zhao, Vinegar manufactured from Gingko biloba and Fagopyrum tataricum, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1721521 (2006) 5 tr.
36- L. Weng, Method for producing pure Gingko biloba beverage, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1803032 (2006) 4 tr.


41- Ngải ngậm hương trầm
Lên non đón gió tìm trầm,
Xui ong làm mật, giục tằm nhả tơ.
Ca dao
Theo truyền thuyết, bà Thiên Y A Na khi rời cha mẹ nuôi lên Bắc Hải cũng như khi đem hai đứa con Tri và Quý trốn Bắc Triều về lại Cù Huynh, đều núp lén trong cây trầm rồi để cho dòng nước cuốn đi. Hương trầm thơm tỏa ngào ngạt nên nơi cây trao dạt vào bờ được gọi là Hương Sơn (thuộc tỉnh Khánh Hòa). "Ở huyện miền núi Con Cuông (Nghệ Tĩnh), có một địa danh tên là Trầm Hương. Người ta bảo, nơi đây, xưa kia có một rừng trầm nằm dọc theo bờ sông Lam. Rễ cây lan man khắp đồi núi và vệ sông, tỏa mùi thơm lên cả mặt nước, cỏ cây và bầu trời. Hương thơm đậm đặc đến nỗi những đám mây bay qua đó cũng tẩm hương, rồi mây bay theo chiều gió dạt về mạn dưới thành những trận mưa có vị thơm - người ta gọi là mưa hương "(8). Người Chăm tin đấng thượng đế khi giao phó thần Pô Ino Nagar xuống khai phá mặt đất cho phép bà đem theo lúa và trầm thể hiện oai quyền mầu nhiệm của mình. Chùa Báo quốc ở Huế chứa một mảnh gỗ trầm hương dài 80, phân rộng 40 phân, dày vài phân, có hình dung một con người. Tục truyền lúc trước có người mua đem về nhà thì tai họa liên miên nên phải đem lên chùa gởi để các vị sư luôn hương đèn cúng bái, mong bài trừ được những ảnh hưởng xấu (3).
Cây trầm cống hương
Những huyền thoại được lưu truyền bắt nguồn từ hương thơm của cây trầm. Cây gỗ không chìm nầy còn mang tên trầm kỳ, trà hương, gió núi, dó bầu. Gỗ cây thường được gọi gỗ kỳ nam hay gỗ trầm hương. Trong một cây trầm có thể có cả hai loại kỳ nam (bois d’aloès) và trầm hương (bois d’aigle), hương thơm xen lẫn chút cay, khác nhau ở chỗ mùi vị, một bên vừa chua vừa ngọt, bên kia hơi đắng lại có phần dịu; thường kỳ nam quý hiếm hơn trầm hương (5). Trong các báo khoa học, tên nôm na của cây trầm là agarwood hay agalwood (gỗ thạch), có khi eaglewood (gỗ đại bàng). Riêng người Nhật Bản có nhiều tên gọi: jinko, jinkok, kanakok, kanankok, kyara hay ryoku-yu. Hai danh từ jinkok và kanakok thường được dùng để chỉ định những loại trầm thu nhặt ở Việt Nam và xuất cảng qua Hồng Kông, rất được chú trọng những năm gần đây (13-19). Thường kỳ hương được xếp thành loại hắc kỳ (màu đen, hảo hạng, đắc tiền nhất), thanh kỳ hay hoàng kỳ (màu xanh vàng) và bạch kỳ (màu trắng đục). Ngày nay, trên thế giới, nhu cầu vượt quá xa nguồn cung cấp và thu hoạch không có phương pháp, lắm khi bất hợp pháp ở vài nước nên Quy ước Thương mãi Quốc tế về những Loài động vật và Thực vật Hoang dã Lâm nguy cơ CITES đã lên tiếng báo động và kêu gọi thực thi Quy ước cùng kiểm tra thương mãi (9)...
Cây trầm lớn, cao khoảng 15-30 m, có khi lên đến 40 m, mọc ở châu Á từ Ấn Độ, Miến Điện, Trung Quốc, Thái Lan, qua Mã lai, Cao Mên, Lào, Nam Dương. Ở Việt Nam, cây trầm mọc nhiều ở miền Trung, từ Quảng Trị, Thừa Thiên vào Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, đến đảo Phú Quốc (5b). Cây trầm thuộc chi Aquilaria, họ Trầm (ĐTL) hay Trầm hương Thymeleaceae (PHH) Aquilaria do tiếng La Tinh aquila (aigle, chim đại bàng) mà ra, nên danh từ Pháp bois d’aigle hay Anh eaglewood chỉ định những loại gỗ khối nhựa, màu nâu, có khi mang đường rạch vằn hay vết lốm đốm như lông chim (2)Aquilaria gồm có nhiều loài: A. agallocha Roxb., A. baillonnii Pierre ex Lam., A. banaensis Pham Hoang Ho, A. crassna Pierre ex Lecomte (tiếng Campuchia chỉ trầm là krasna hay chan krasna), A. malaccensis Benth, A. sinensis (Lour.) Gilg. hay Spreng (7)vừa rồi mới có tìm ra A. rugosa ở Việt Nam, lắm khi khó phân biệt. Trong các loài thuộc Aquilaria thì A. crassna, A. malaccensis và A. sinensis có tiếng cống hiến nhiều kỳ nam hay trầm hương, nhưng được khảo cứu nhiều nhất là A. agallocha và chẳng thấy dấu vết A. crassna trong tập Chemical Abstracts. Trái lại, ở Việt Nam thấy có nghiên cứu chọn giống cây có cơ chế tạo trầm tự nhiên cây trầm hương (dó bầu) A. crassma 20 năm tuổi trên vùng đảo Phú Quốc (10). Ngoài ra cũng thấy có khai thác các cây Aloexylon agallochum Lour., Excoecaria agallocha Linn (ĐTL).
Gỗ cây trầm rất quý nên lúc xưa được các thổ dân miền sơn cước dùng làm lễ vật đưa về cống nộp cho vua chúa. Ngoài hương thơm, gỗ cây tương đối cứng có thể đẽo gọt, tạc thành tượng Phật chẳng hạn. Cách đây hơn 250 năm, nhận được biểu của Mạc Thiên Tứ, trấn thủ Hà Tiên, báo cáo về việc tế lễ, để tỏ lòng đặc biệt ưu ái với vị trọng thần biên trấn, chúa Đỉnh Quốc Công Nguyễn Phúc Thụ đã ban cho hai thanh gỗ trầm hương. "Hai thanh cống hương đen như huyền, bản rộng hơn tấc, cao những hàng xích. Một thanh dựng ở giữa tế đàn Sơn xuyên, một thanh dựng ở giữa tế đàn Xã tắc. Khói đốt bốc thẳng đứng, như hai cây cột khói thơm dựng ở giữa trời. Hương trầm tỏa ngan ngát giữa đêm thanh, trăng sao lồng lộng; dân cư tận xa vòng ngoài Trúc bằng thanh, còn nghe thấy mùi thơm trộn trong gió chướng rao rao" (4).
Nguyên gốc của kỳ nam hay trầm hương, tuy đã được nghiên cứu nhưng chưa thấy giải thích tường tận. Từ xưa nhiều giả thuyết đã được đưa ra, chẳng hạn như kiến sống trên cây chế mật rơi lên gỗ, lâu ngày thấm vào thành hương thơm (5b). Cũng cùng ý ấy, một giả thuyết khác cho những cây có tổ kiến hay tổ mối dưới chân thì đào tận rễ dễ tìm ra (5). Có người lại tin phân chim ở kẽ cành biến chất cũng có thể tạo thành trầm (ĐTL). Thật ra nhìn từ bên ngoài rất khó xác định một cây có trầm. Ngày nay, người ta nhận thấy kỳ nam hay trầm hương là một khối nhựa do cây tiết ra để tự băng bó, bảo vệ chống vi trùng, thời tiết khi có vết thương. Biết vậy, những người tìm trầm khi kiếm ra cây có khả năng cống hiến trầm thì cố ý vạch cắt cây gây vết thương rồi đợi khối nhựa cấu thành, có khi nhiều tháng, nhiều năm. Cơ chế cấu tạo khối nhựa có thể là một hiện tượng thoái hóa vi khuẩn, nhưng thực chất hơn là do nấm gây ra. Người ta đã tìm ra được những loại nấm MyceliaMenanotus flavolines (16)Epicoccum granulatum (6) nhiễm gỗ cây trầm. Nấm Mycelia còn có một đặc điểm nữa là cho phát hiện trong mảnh trầm cắt những oleoresin trước không có trong cây. Ngoài ra, loại nấm bậc cao nâu sẫm Cytosphaera mangiferae Died. trích chiết từ gỗ cây A. agallocha đang biến chất thành trầm, cho nhiễm vào những mảnh gỗ Aquilaria thì chế biến ra gỗ có hương thơm mùi trầm. Thí nghiệm không thành nếu dùng những mảnh gỗ các cây Syzyum hay Amoora mọc cạnh các cây Aquilaria kia trong những khu rừng Sylhet ở Bangladesh hay dùng các nấm Penicillum sp., Aspergillus sp., Fusarium sp. cũng được trích chiết từ các cây A. agallocha đã bị nhiễm. Theo tác giả công trình khảo cứu nầy thì côn trùng đã đem nấm vào các lỗ nứt, kẽ nẻ của vỏ cây (6). Từ A. agallocha cũng đã chiết xuất một loại nấm Paecilomyces varioti đặc biệt có khả năng xúc tác những phản ứng khử, kết vòng, kết hydroxy,... biến hóa citronellal ra isopulegol, menthon ra menthol, cinnamaldehyd ra cinnamid acid,... (26).
Hương thơm cây trầm
Hương thơm trong cây trầm là do các phân tử chromon và sesquiterpen mà ra. Những chromon có thể là agarotetrol hay isoagarotetrol chứa nhiều nhóm hydroxy. Hai chất nầy có trong những cây trầm Tân Gia Ba và Việt Nam theo tỷ lê 2:1 (14). Những chromon khác phần lớn là những dẫn xuất của ethyl phenyl chromon tìm ra trong A. agallocha và A. sinensis: hydroxy, dihydroxy, methoxy, dimethoxy, tetrahydroxy, tetrahydroxy tetrahydro; của ethyl phenyl pentahydroxy chromon; của ethyl phenyl methoxy chromon: methoxy, dimethoxy; của ethyl phenyl tetrahydro chromon; của ethyl phenyl pentahydro chromon. Người ta cũng đã tìm ra được những ethyl biphenyl chromon và ethyl triphenyl chromon. Một công trình khảo cứu về tương quan giữa chất lượng và thành phần trầm bán ở Hồng Kông với agarotetrol và isoagarotetrol qua một loạt đo các làn sóng 270-400 nm cho thấy một số hoá chất khác ngoài chromon. Những sesquiterpen phần lớn tìm ra trong A. agallocha, cũng có một số tài liệu khảo cứu trên A. malaccensis và A. sinensis. Những phân tử được các nhà khảo cứu Ấn Độ chiết xuất trước tiên từ tinh dầu trầm là agarol bên cạnh gmelofuran và những agarofuran: dihydro, hydroxy dihydro, norketo hay epieudesmol là agarofuran mở vòng, đồng thời với agarospirol và oxoagarospirol. Cũng cùng loại selimanic furanoid nầy, những jinkohol đã được tìm ra cạnh jinkoh-ceremol.

Với công thức tương tự, các tác giả Trung Quốc đã chiết xuất những baimuxinol, dihydro baimuxinol, isobaimuxinol, baimixinal, baimuxinic acid, baimuxifuranic acid, sinanofuranol từ A. sinensis bên cạnh những hóa chất tương đối thông thường như benzyl aceton, methoxy benzyl aceton, anisic, palmitic, octadecenoic, dienoctadecanoic acid trong tổ chức gỗ. Ba chất sau nầy thay đổi thành phần khi gỗ bị nhiễm nấm Menanotus flavolines, đồng thời cũng xuất hiện oxoagarospirol. Bước qua sườn guain thì một loạt bảy sesquiterpen được xác định trong trầm Việt Nam mà quan trọng nhất là guaiadienal đã góp phần lớn trong mùi hương thanh nhã. Tinh dầu trầm Việt Nam, theo các nhà khảo cứu Nhật Bản, thì ngoài guaiadienal, còn chứa selinadienol, selinadienon bên cạnh guaiene, bulnesen, agarofuran, kusunol, karanon, dihydro karanon, oxoagarospirol cùng các ethyl phenyl chromon đã thấy ở trên (15), năm eudesman sesquiterpen cùng epoxy norketo guaien, dehydro jinkoh-eremol và neopetasan (19). Các tác giả nầy cho jinkoh có thể là A. sinensis, còn kanankoh tức A. agallocha thì có hai loại: một loại giàu guaien và eudesman đã oxi hóa, loại kia có oxoagarospirol là thành phần sesquiterpen chính (17). Trước đó, một nhóm khảo cứu viên Nhật Bản khác đã so sánh tinh dầu hai loại trầm Việt Nam (loại A: A. agallocha) và Nam Dương (loại B: có thể là A. malaccensis) thì thấy thành phần và tỷ lệ rất khác nhau (13). Tinh dầu % loại A : agarofuran (0,6), norketo agarofuran (0,6), agarospirol (4,7), jinkoh-eremol (4,0), kusunol (2,9), dihydro karanon (2,4), oxoagarospirol (5,8); loại B: agarofuran (1,3), epieudesmol (6,2), agarospirol (7,2), jinkohol (5,2), jinkoh-eremol (3,7), kusunol (3,4), jinkohol II (5,6), oxoagarospirol (3,1).
Ngoài hai loại chromon và sesquiterpen vừa thấy, một vài hóa chất khác cũng đã được tìm ra: liriodenin, aquillochin trong thân cây A. agallocha, dibehenyl ferulyl glycerid (0,55%), decatrienyl phorbol acetat trong vỏ cây A. malaccensis. Trong hai chất sau nầy, chất thứ nhất có một liều gây chết LD50 0,8 microg/ml chống hệ thống P-388 chứng bạch cầu lympho bào in vitro nhưng vô hiệu in vivo, liều gây chết LD50 của chất kia là 0,0022 microg/ml in vitro. Đây là lần đầu tiên những chất nầy được xác định có một hoạt động gây hại tế bào in vitro (11). Về mặt dược liệu, tinh dầu chiết xuất từ A. agallocha có một hoạt động nhỏ trợ tim. Gần đây nhờ có tính chất gia tốc sự cấu tạo collagen, nó được dùng làm thuốc làm dẻo da, ngừa da nhăn, chữa chấn thương (24), nhờ tính chất chống melanin cấu tạo nên được dùng làm thuốc bảo vệ da chống nhiễm sắc tố, vết hoe (25); nó cũng được dùng trong một liều thuốc gồm có hổ phách, mộc hương, đinh hương, đàn hương, hương phụ,... để làm thuốc chống co giật đồng thời gây ngủ (27). Bên phần A. sinensis thì tinh dầu có hoạt động khử những vi khuẩn gam âm và gam dương (28), hợp với nhiều chất khác để làm thuốc chống béo (23), chữa gan (22). Thật ra, từ xưa ở nước ta, kỳ nam và trầm hương đã được dùng làm thuốc giải nhiệt, chống đái, chữa đau bụng, đau ngực, ỉa chảy, nôn mửa, khí thủng, trị sốt rét, suyển kinh niên (5a) , bí tiểu tiện, bổ dạ dày nhờ có vị cay, tính hơi ôn, vào ba kinh tỳ, vị và thận, có tác dụng giáng khí nạp thận hình can tráng nguyên dương. Người ta dùng chúng dưới dạng bột hay ngâm rượu, ít khi sắc, thường chỉ mài với nước mà uống. Để chữa nôn mửa, đau bụng, dạ dày, đơn thuốc gồm có trầm hương, nhục quế, bạch đậu khấu, hoàng liên, đinh hương, tán nhỏ dùng nước nóng chiêu thuốc, ngày uống ba, bốn lần (ĐTL).
Ngậm ngải tìm trầm
Tuy vậy, công dụng chính của trầm là hương thơm. Cả hai loại hóa chất chromon và sesquitepen đều có mùi thơm đặc biệt, khi đốt nóng mới tỏa ra cùng các chất dễ bốc hơi khác, đặc biệt là những sesquiterpen carboxylic acid. Một nhóm khảo cứu viên Nhật Bản đã thử phân biệt hương thơm của một số sesquitetrpen. Họ nhận thấy có khi chỉ vì vị trí của một dấu nối đôi như hai chất selina-3,11 và selina-4,11 dienal mà mùi hương rất khác nhau, chất thứ nhất có mùi gỗ, mùi hoa hòa với mùi khói, chất kia phảng phất hương bạc hà. Bốn chất đồng phân neopetasan, epineopetasan, dihydro karanon, ngoài vị trí các dấu nối đôi, còn khác nhau ở hướng các nhóm methyl thì có chất thơm mùi gỗ ngọt, có chất nặng mùi khói, có chất lại phảng phất mùi chua và nhựa thông (19). Mặt khác, những chức trong phân tử cũng đóng một vai trò: nếu là selinadienon có mùi dịu như hoa tươi, selinadienol lại thơm mùi gỗ ngọt, trong khi guaiadienal tỏa mùi gỗ giống mùi của damacenon thêm vào chút long não (15). Các tác giả nầy cũng có khảo sát khói của hai loại trầm Việt Nam (kamakoh và jinkoh): một loại đầy benzaldehyd, acetic acid, vanillin, loại kia chứa toàn hóa chất hữu cơ vòng thơm nên khi đem đốt mùi hương rất khác nhau (18). Thơm như vậy nên dùng gỗ cây trầm làm nhang là chuyện dĩ nhiên. Một văn bằng sáng chế Nhật Bản cho trộn với bột tabu và nước để làm nhang (12). Để làm tăng hương thơm của tinh dầu trầm, nhất ra để tạo ra một mùi hương đặc biệt, quyến dũ, người ta cũng đã cho trộn với tinh dầu dạ hương (lấy từ túi thơm của con cầy hương). Ngoài ra, cây trầm còn có những ứng dụng khác. Gần đây, một văn bằng Trung Quốc dùng cây A. agallocha trong một hỗn hợp gồm có nhân sâm, ngải cứu, bạc hà, kinh giới, hoắc hương, ma hoàng để làm thuốc hút không có thuốc lá và rao là không độc cho cơ thể (20). Nó cũng được dùng trong một văn bằng để khử những mùi ammoniac, trimethylamin, methylmercaptan (21). Nhờ không bị sâu mọt phá hoại và chịu đựng thời tiết, gỗ cây trầm được sử dụng trong ngành chạm trổ. Sau cùng cũng nên biết bên Ấn Độ, gỗ cây trầm đã được dùng làm giấy viết và giấy in có chất lượng.
Cây trầm rất hiếm quý nên giá bán rất đắt. Có một dạo, người ta đổ xô đi tìm trầm, phải lặn lội nhiều tháng trong rừng mới hầu mong bắt gặp. Có khi họ xây lều ngay cạnh để canh giữ. Người xưa bảo đi tìm trầm phải trong sạch về mặt tinh thần cũng như thể xác, suy tư đứng đắn, ăn nói đàng hoàng, kiêng cử đàn bà, rượu chè cờ bạc. Nếu đi thành toán thì không được chuyện trò ồn ào, cãi nhau ầm ỉ. Để tránh thú dữ, beo cọp, họ cầm roi dâu, vừa đi vừa quất lên cành lá bên đường. Để chống yêu quái, ma quỷ, họ ngậm ngải để làm bùa hộ thân. "Theo lắm người kể chuyện, ngải là một thứ củ do người Mọi Trường Sơn luyện rất công phu. Họ hấp củ cây ngải trong vò mật ong một tháng, để giữa dòng suối chảy một trăm ngày. Đoạn phải đặt trong tay đủ năm người chết, và đeo trước ngực năm bà già trong đời giữ vẹn tiết trinh. Vẫn chưa hết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để lừa cho hổ ăn. Nghĩa là nếu may thì ngải sẽ nằm trong bụng hổ. Đoạn phải bẫy cho được con hổ ấy, rối giết và lấy ngải ra. Ngải là một cái bùa thiêng lúc ấy có sức mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng thì không ăn uống cũng sống được. Và thú dữ đi sát bên cạnh cũng không thấy mình được. Nhưng hạn trong ba tháng mươi ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không thì người ấy sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ thật..." (1).
Một điều đáng ngạc nhiên là một cây hiếm quý như vậy, đã được sử dụng trong nhiều nước, chưa từng nghe đến một trại nuôi trồng. Đến nay chỉ thấy khai thác cây trầm mọc hoang, một ngày kia ắt sẽ tiệt giống như CITES đã lên tiếng kêu cứu. Đứng về mặt sản phẩm hương mùi, sợ e rồi trầm hương dần dần sẽ nhường chỗ cho các hóa chất nhân tạo tổng hợp như đã bắt đầu thấy.
Thông tin Khoa học và Công nghệ 4 (22)1998, vietsciences 9.2009
Tham khảo:
1- Thanh Tịnh, Ngậm ngải tìm trầm trong Quê mẹ, nxb Văn học, Hà Nội tái bản (1983) 64; in lần đầu 1943.
2-A. Pételot, Plantes médicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam, Archives des Recherches Agronomiques et Pastorales du Vietnam, Saigon III (1954) 65-99
3- L. Cadière, Croyances et pratiques religieuses au Vietnam, EFEO Sài Gòn II (1955) 12
4- Mộng Tuyết thất tiểu muội, Nàng Ái Cơ trong chậu úp, nxb Văn hóa, Hà Tiên-Kiên Giang, tái bán (1996) 27; in lần đầu 1960
5- F. Mouton, Le bois merveilleux du Sud, Imp. Emmanuel Vitte, Lyon (1970) 37-9, 44-5
dẫn 5a- Nguyễn Văn Minh, Dược tính chỉ nam, Sài Gòn, kỳ nam (1964) 102 ; trầm hương (1969) 1481; 5b- H. Lecomte, Sur les graines de Thymeleaceae, Bull. Soc. Bot. France (1914) 410
6- M. Jalaluddin, Useful pathological condition of wood, Econ. Bot. 31 (1977) 222-4
7- Phạm Hoàng Hộ, Flore du Cambodge, du Laos et du Vietnam, Thyméleacées, Muséum national d’Histoire Naturelle, Paris 26 (1992) 46-9
8- Võ Văn Trực, Hương trầm trong Những ngày hội dân dã, nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội (1997) 111-2
9- Chu Hữu Tín, Cây trầm kỳ nam, Mua bán trầm hương và kiểm tra mua bán trầm hương, khoahoc.net21.04.2005, 16.06.2005
10- Thái Thành Lượm, Nghiên cứu chọn giống cây có cơ chế tạo trầm tự nhiên cây trầm hương (dó bầu) Aquilaria crassma Pierre 20 năm tuổi trên vùng đạo Phú Quốc Việt Nam, khoahoc.net06.09.2007
11- S.P. Guanasekera, A.D. Kinghorn, G.A. Cordell, N.R. Farnsworth, Plant anticancer agents. XIX. Constituents of Aquilaria malaccensis, J. Nat. Prod. (5) 44 (1981) 569-72
12- K.K. Yamamoto, Incense containing chromone derivatives isolated from Aquilaria agallocha, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 59, 106,414 (1984) 10 tr.
13- K. Yoneda, E. Yamagata, T. Nakanishi, T. Nagashima, I. Kawasaki, T. Yoshida, H. Mori, I. Miura, Sesquiterpene constituents in agawood. Part 4. Sesquiterpenoids in two different kinds of agarwood, Phytochem. (9) 23 (1984) 2068-9
14- T. Konishi, Y. Okutani, K. Iwagoe, S. Kiyosawa, Y. Shimada, Studies on the algalwood "Jinko". IX. Quantitive analysis of 2-(2-phenylenthyl) chromone derivatives (supplement), Shoyakugaku Zasshi (1)43 (1989) 1-6
15- M. Ishihara, T. Tsuneya, M. S higa, K. Uneyama, Three sesquiterpenes from agarwood, Phytochem. (2) 30 (1991) 563-6
16- S. Qi, B. Lu, L. Zhu, B. Li, Formation of oxo-agarospirol in Aquilaria sinensis, Zhiwu Shenlixue Tongxun (5) 28 (1992) 336-9
17- M. Ishihara, T. Tsuneya, K. Uneyama, Components of the volatile concentrate of agarwood, J. Essent. Oil Res.(3) 5 (1993) 283-9
18- M. Ishihara, T. Tsuneya, K. Uneyama, Components of the agarwood smoke on heating, J. Essent. Oil Res.(4) 5 (1993) 419-23
19- M. Ishihara, T. Tsuneya, K. Uneyama, Sesquiterpenes constituents of agarwood. 4. Fragrant sesquiterpenes from agarwood, Phytochem. (5) 33 (1993) 1147-55
20- J. Liu, Non-toxic tobaccoless cigaret, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,111,965 (1995) 4 tr.
21- T. Shimamura, T. Yamada, Deodorants containing aloe components for indoor air treatment, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 09099045 (1997) 5 tr.
22- Z. Guo, Plaster for treating liver disease, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 96,1170585 (1998) 4 tr.
23- P. Yan, Antiobesity essence compositions, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1171236 (1998) 5 tr.
24- M.H. Jin, S.Y. Kim, H.J. Kim, M.Y. Chagn, S.H. Kang, Skin composition containing collagen synthesis facilitator, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2000018467 (2000)
25- Y. Ochiai, A. Ogawa, Skin-lightening cosmetics containing tyrosinase inhibitors, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001316241 (2001) 12 tr.
26- M.A. Deodhar, N.H. Pipalia, S.M. Karmarkar, Biotransformation of terpenoids : reductive ability of Paecilomyces varioti, J. Med. Arom. Plant Sci. (1) 24 (2002) 1-5
27- B.S. Koo, D.U. Lee, Y.H. Shin, Treatment and prevention of insomnia and seizure containing perfume components of herbal material, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2003071213 (2003)
28- J.F. Hu, K. Kuhen, D. Hafenbradl, J. Li, T . Chen, J. Harris, N. Gray, P.G. Schultz, Twenty high-grade traditional Chinese medicines : their anti-Hiv, antibacterial, and anticancer biological screening, Abst.Pap.229th ACS Nat.Meet.San Diego,CA USA March 13-17 (2005) MEDI-397.

44- Sấu đâu, cây thuốc trị bá chứng 
Sầu đâu trong héo ngoài tươi
Vui là vui gượng, cười là cười khuây
Ca dao
Sầu đâu là một cây quen thuộc ở Việt Nam. Nó mọc ở ngoài Bắc cũng như ở trong Nam, trên đồi núi cùng suốt miền đồng bằng. Ông cha ta đã từng hái lá bỏ vào chum vại để trừ sâu, nấu nước tắm súc vật, sắc thuốc từ vỏ thân, vỏ rễ, hột, lá để tẩy giun, diệt trùng, chữa bệnh ngoài da hay viêm âm đạo. Tuy đã được dùng từ lâu trong hệ thống Ayurvedic bên Ấn Độ, trình bày trong các sách y khoa Phạn tự thời xưa như Susrutasanhita, được thế giới chú ý từ hơn một nửa thế kỹ nay, mãi đến gần đây nó mới được các phòng thí nghiệm, các hãng kỹ nghệ khảo cứu sâu rộng để khai thác những hoạt chất độc đáo của nó.
Một số lớn luận án tiến sĩ, các văn bằng sáng chế đã nghiên cứu cặn kẽ cấu trúc, thành phần hóa học cùng những tính chất dược lý của những hoạt chất ấy. Không hiếm những bản tổng kết đăng ở các báo và những sách chuyên môn xuất bản riêng biệt gom góp những kết quả đạt được. Các nhà khảo cứu còn tổ chức nhiều hội nghị quốc gia như bên Ấn Độ hay quốc tế: Rottach Egern (1980), Rauisch Holzhausen (1983), Eschborn (1984) Sofia (1985), Nairobi (1986),... để trình bày, trao đổi, thảo luận về những cơ chế tổng hợp hay tác dụng của những hoạt chất lên các cơ quan sinh vật. Năm 1995, cả một bộ sách dày hàng trăm trang gồm hàng chục chương đi vào chi tiết của mọi lãnh vực khảo cứu (1).
Trong rất lâu, vấn đề danh từ chưa được thống nhất. Tên các hóa chất được đặt ra rất hỗn độn, không theo một hệ thống hay một trật tự nào. Ở Việt Nam ta ngay cả tên cây cũng chưa được định nghĩa rõ ràng. Cuốn Tự điển Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội (Hà Nội 1994, tr.824) chưa phân biệt cây xoan và cây sầu đâu. Ở Huế tên còn được thi vị hóa thành sầu đông. Trong cuốn Cây thuốc Việt Nam của Viện Dược liệu, Nxb Khoa học và Kỹ thuật (Hà Nội 1990, tr.97, 263), cũng như trong các cuốn Thuốc trị bệnh từ cây cỏ hoang dại của Lê Quý Ngưu và Trần Như Đức, Nxb Thuận Hóa (Huế 1995, tr.394), Les plantes médicinales au Vietnam của ACCT (Paris 1990, tr.151), cả hai tên xoan và sầu đâu (hay sầu đau) đều được đặt cho cây Melia azedarach. Xin tạm gác một bên những tên xoan rừng, sầu đâu rừng, sầu đâu cứt chuột dành cho cây Brucea javanica (Linn.) Merr. thuộc họ Thanh thất Simaroubaceae và tên sadao hay sầu đâu Thái Lan đặt cho cây Azadirachta indica siamensis. Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong cuốn Cây cỏ Việt Nam (Montréal 1992, Q.II, t.1, tr.487) sầu đâu là Azadirachta indica Juss.sầu đâu cao là Azadirachta excelsa (Jack) Jacobs, còn xoan là Melia azedarach L., xoan đào là Melia azedarach cultivar tosendam, tất cả thuộc họ Xoan Meliaceae. Trong sách Những cây thuốc thông thường, Nxb Đồng Tháp (Sa Đéc 1987, tr. 265) Võ Văn Chi cũng gọi Azadirachta indica là sầu đâu, còn thêm tên xoan đào. Sau cùng, Giáo sư Đỗ Tất Lợi trong cuốn Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật (Hà Nội 1986, tr.181, 1147) thì cho sầu đâu là Melia azedarach, thêm vào các tên xoan trắng, xuyên luyện, khổ luyện, đốc hiên,... Sau đó ông phân biệt Melia azedarach hay Melia indica là xoan Ấn Độ, còn Melia toosendam là xoan Tứ Xuyên hay xoan Tây Bắc.
Kiểm điểm những cách gọi vừa thấy, dựa lên đề nghị của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, trong khi chờ đợi ý kiến của các nhà thảo mộc, xin tạm thời thống nhất các tên thành 3 nhóm:
* Sầu đâu là Azadirachta indica A.JussNgười Ấn Độ trước kia đặt tên bakayan khác với nim (hay neem) từ chữ phạn mahanimba. Người Telugu có tên vepa. Âu Mỹ dùng danh từ china berry, china tree, neem tree hay margosa. Vì vậy hóa chất có những tên bakayanic acid, neobakayanin, nimbin, nimbinon, nimbinal, margosa, margocin, margoson,... azadirachtin, azadirachtol, azadirachion, vepaol.
* Xoan hay xoan Ấn Độ là Melia azedarach Linn. Người Ấn Độ gọi nó là djharek, còn Âu Mỹ thì có tên berry tree, có khi cũng gọi china berry.
* Xoan Tứ Xuyên là Melia Toosendam Sieb. et Zucc.
Cây sầu đâu được các nhà khảo cứu Ấn Độ và Pakistan chú ý trước tiên và rất nhiều vì nó đã được kê khai vào những môn thuốc cổ truyền các nước ấy. Có tác dụng trong lãnh vực chống viêm, kháng vi khuẩn, kích thích miễn dịch, nó được tôn vinh là "cây dược phẩm trong làng" (2). Thật ra cây sầu đâu mọc ở nhiều nơi, ở Việt Nam cũng như ở các nước khác, từ châu Á qua châu Phi, đặc biệt ở Nigeria. Vào thập niên 30, máy móc phân tích chưa tinh vi, công thức các hóa chất chưa được biết rõ ràng. Khảo cứu có hệ thống chỉ bắt đầu với những công tác của S. Siddiqui ở Viện Đại học Karachi (Pakistan) từ những năm đầu thập niên 40. Hoạt chất nằm trong đủ mọi bộ phận của cây, từ hoa, lá, trái, hột qua thân, nhựa, cành, rễ. Ứng dụng của chúng bao gồm các lãnh vực canh nông, y khoa và ngay cả chút ít kỹ nghệ: bảo vệ mùa màng, chữa đủ thứ bệnh, chế tạo kính men. Việc khảo cứu tính chất trừ khử sâu bệnh đã được tăng gia những năm gần đây, mỗi năm hàng chục bản báo cáo trình bày tác dụng các hoạt chất của cây lên các loài sâu bọ. Hoạt chất được chiết xuất nhiều nhất là từ trái cây, phần lớn ở những trái chín tươi. Nhiều liều thuốc dùng ngay phần chiết thô. Một số lớn hóa chất được chiết từ hột, trung bình trọng lượng chiếm 10% của trái. Nhiều nghiên cứu chỉ cách ép hột ra dầu (thường được gọi neem oil, 45%) rồi mới chiết xuất từ dầu. Dung môi thường được dùng là rượu (methanol, ethanol), aceton, ether, ether dầu hỏa, chloroform,... và nước. Cũng có phương pháp tách từ dầu ra một chất đắng vô định hình (25%) cống hiến hoá chất qua các phép rửa, lọc, làm ròng.
Hóa chất quan trọng đầu tiên được chiết ra là azadirachtin hay ấn khổ luyện tử tố. J.H. Butterworth và D.E. Morgan ở Viện Đại học Keele bên Anh ngâm hột sầu đâu trong ethanol rồi dùng phép sắc ký trên alumin tách ra một chật vô định hình. Sau nhiều lần lọc qua sắc ký lớp mỏng và cho tan hòa trong carbon tetrahydrochlorid, azadirachtin kết tinh thành bột, năng suất 0,7g/kg. Về dung môi chiết xuất, sau nầy đã thấy có dùng hỗn hợp ethanol-nước, ethanol-hexan, một mình hexan hay dùng hexan rửa hột rồi mới chiết xuất với ethanol, năng suất đạt đến 5g/2kg. Cũng có thể dùng nước để chiết nhưng sau đó phải chiết lại với ethylacetat. Có báo cáo đã đề nghị dùng carbon dioxyd tới hạn trong một hệ thống luồng động thì ngoài azadirachtin còn chiết được cả salanin, nimbin, tiglyolazadirachtol và genunin. Nhưng muốn có azadirachtin thật ròng (hơn 99%) thì phải cho nó qua máy sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC. Azadirachtin ròng cần thiết để xác định cấu trúc của nó qua các phương pháp cọng hưởng từ hạt nhân NMR, quan tuyến X, phối ký MS, đánh dứt một cuộc thảo luận giữa K. Nakanishi, W. Kraus và H.B. Broughton trong gần 15 năm sau 1975.
Ngày nay, nhiều azadirachtin đồng vị đã được chiết xuất: loại A và B có nhiều nhất, C và D chỉ có ít. Dùng phép HPLC thì đồng thời với các azadirachtin kia, những nimbin, nimbolid, ohchinolid, deacetynimbin, azadiradion, salanin, ba azadirachtin H, I, K cùng hydroxy norazadirachtin cũng được chiết ra. Một văn bằng sáng chế được đề nghị sản xuất azadirachtin bằng phương pháp cấy mô, dùng Agrobacterium tumefaciens gây nhiễm vào mô Azadirachta indica. Sau azadirachtin, phân tử được khảo cứu cặn kẽ nhất về cấu trúc là nimbin. Chất này được S. Siddiqui chiết xuất từ 1942 trong dầu cùng với nimbinin và nimbidin. Sau đó, ông khảo cứu rất nhiều về những chất tương tự trong đủ các bộ phận của cây. Mãi đến 1959 mới thấy có khảo cứu về cấu trúc, tính chất hóa học, hóa học lập thể,... và nguồn gốc: nimbin cùng như salanin có thể đều phát xuất từ vilasamin tìm ra trong lá. Ngoài azadirachtin, cây sầu đâu tổng hợp và tích lũy rất nhiều loại hóa chất, từ những muối như Ca, Cu, Fe, K, Na, Zn trong gỗ, trong dầu, ngay cả muối quinin, những chất hữu cơ đơn giản như alcan, sulphid thơm mùi hành tỏi, amin trong nhựa đến những phức tạp như flavanol trong hoa, trong lá, steroid trong gỗ, trong lá, đường trong nhựa, trong vỏ. Amin acid cũng có mặt trong nhiều bộ phận của cây: hoa, lá, dầu, nhựa. Ngoài ra, khoảng 120 hoá chất hữu cơ có vòng kín no hay không, mang đủ chức acid, alcool, ester, ether, epoxyd, ceton,... Hầu hết các tên được đặt không theo một danh pháp nào. Những danh từ được dùng nhiều để làm gốc là azadirachta (azadirachtin, azadirachtinol, hay cắt ngắn lại thành azadiron, azaditol), nim (nimbin, nimbandiol) và margosa (margosin, margoson).
Azadirachtin và các hoạt chất khác của cây đã được thử nghiệm lên nhiều loại sâu bọ, từ châu chấu, bọ hung qua dế mèn, sâu đậu, sâu lúa,... Tác dụng đầu tiên của là xua đuổi hoặc ngừa ăn trước khi sâu bọ cắn vào lúa, đậu hay trái cây. Nếu lỡ ăn vào thì một loạt phản ứng khác tác dụng lên nền sinh lý thần kinh và cơ thể chúng chẳng hạn để dừng chậm hay ngăn chặn quá trình biến thái của nhộng trần. Cả bốn azadiractin đều có tác động tương tự lên sâu đậu và bọ hung. Một phần các bản báo cáo chỉ định rõ ràng các hoạt chất, một phần cho biết là một phần chiết nhưng không biết từ bộ phận nào của cây hay trình bày qua một tên thương mãi: Margocide OK, CK, Neem-Azal, RB-a, RB-b, hoặc Margosan-O, Azatin, RH-99099, Neem PTI-EC4, NSE,...
Trong y khoa, nhờ cống hiến chất bổ, làm se nên vỏ cây được dùng khi buồn nôn, oẹ mửa (16), để chữa tăng tiết dạ dày, loét thực quản, loét tá tràng (24). Phần chiết của hột có tác động lên tinh trùng nên được dùng ngừa thai (19). Lá dùng để chữa bệnh vàng da, đau gan, eczema (7). Hoạt chất diệt trùng, chống viêm thường được chỉ định trong phần chiết: nimbolid, nimbidin và nimbic acid trong hột, polysaccharid, nimbionon và nimbionol trong vỏ, alkenal, methylbutenol, flavanol glycosid trong lá, amin acid trong lá và vỏ. Nimbonon và nimbinol đã được đem thử với các vi khuẩn Gram dương như Bacillus subtilis, Staphylococcus epidermicis, S. aureus, và các vi khuẩn Gram âm như Klebsiella ozaen cùng khác vi khuẩn S. citreus, Streptococcus lactis, Acinetobacter calcoaceticus (15). Bên phần nimbolid thì tác dụng rất mạnh lên S. aureus, S. coagulase cũng như nimbic acid lên S. aureus, B. subtilis, S. coagulase  Diphtheroidae (9).Tính chất gây kháng thể (18), chữa loét, khối u (12,18), giảm hạ đường trong máu (23) đã được đề cập đến. Một tính chất cũng khá quan trọng là diệt muỗi, chữa trị sốt rét. Azadirachtin đã cho kết quả hiệu nghiệm theo thứ tự:
Aedes togoi = Anopheles stephensi > Culex quinquefasciatus > Aedes aegypti
Chiết từ lá, isonimbocinolid đã được thử lên Aedes aegypti (11), alcan Me(CH2)nMe (n = 16,17,24,32) lên Culex pipiens fatigans (8). Chiết từ hột, dipropyl disulphid diệt muỗi Aedes aegypti. Những chất có lưu huỳnh đóng vai trò trong việc xua đuổi không những muỗi mà còn các loài sâu bọ khác như sâu thuốc lá Heliothis virescens, sâu lúa mì H. zea (14). Gedium cũng là một chất chống sốt rét hiệu nghiệm (17).
Một tính chất đã từng được biết ở nước ta là dầu sầu đâu không kích thích da (20) nên phần chiết từ hoa, lá, cành, rễ đã được pha trộn với nhiều chất khác để làm thuốc bảo vệ da (4,5), xà phòng liệu pháp (21), xà phòng chữa nấm da (22). Phần chiết từ hột được dùng để chữa da đầu, bảo dưỡng tóc, phòng ngừa tóc rụng (6). Còn phần chiết từ lá, gỗ, vỏ, thân pha với ethanol 90% thì được dùng trong việc phòng ngừa và chữa trị viêm lợi, viêm khớp răng (3). Sau cùng, qua một lãnh vực khác, tro gỗ thân cây được dùng trong kỹ nghệ đồ gốm: nhờ kích thước đúng mức, bản chất vô định hình, do đó khả năng phản ứng lớn, người ta đã đem nó thay thế calcite trong việc chế tạo kính, men phải nung lên đến 1250 độ.
Như vậy, từ canh nông, y khoa qua kỹ nghệ, cây sầu đâu đã đóng góp đắc lực. Tạo hóa đã khéo tổng hợp, chỉ trong một cây mà không biết bao nhiêu là hóa chất: cây sầu đâu thật là một nhà máy hóa học tinh vi mà chưa có một thực hiện nào của con người có thể sánh được. Đặc biệt, trong số các hóa chất tự nó chế tạo ra, azadirachtin cũng như salanin, nimbin, deacetylnimbin đã từng được lập công thức thành thuốc trừ sâu bọ, bảo vệ mùa màng, hoa quả (10), bên cạnh các chất thuốc khử trùng, chống viêm, chữa loét, khối u, diệt muỗi, chữa trị sốt rét, bao dưỡng da, tóc, phòng ngừa thụ thai,... để chỉ kể một số ứng dụng thường gặp. Thật dễ hiểu khi thấy những hãng thuốc Hoa Kỳ muốn ghi văn bằng đoạt chiếm một tài nguyên quý báu như vậy, một tài nguyên mà nước ta chú trọng về canh nông, bị nhiều bệnh nhiệt đới hoành hành, không thể không kiếm cách khai thác.
Thông tin khoa học và Công nghệ 3 1996, khoahoc.net 1.2012
Tham khảo:
1- Neem tree, Azadirachta indica A. Juss. Others meliaceous plants, Schmutterer Helmut Ed., VCH (Weiheim, Đức 1995)
2- Le neem ou arbre-pharmacie du village, Nutranews (10) (2004) 20-23
3- Keimiat G.m.b.H., Dental care compositions from Azadirachta indica, Brit. 1,314,136 (1973) 3 tr.
4- H. Sawanobori, H. Tanaka, K. Saito, Y. Takeuchi, S. Shirasawa, S. Saito, Melia azedarach extracts for skin cosmetics, Japan 77 28,853 (1977) 2 tr.
5- H. Sawanobori, H. Tanaka, K. Saito, Y. Takeuchi, S. Shirasawa, S. Saito, Melia azedarach extracts for skin cosmetics, Japan 77 28,854 (1977) 2 tr.
6- A. Latif, Formulation for treating hair, Brit. UK Pat. Appl. 2,000,971 (1979) 2 tr.
7- S. Siddiqui, B.S. Siddiqui, S. Faizi, T. Mahmood, Isolation of tetranortriterpenoid from Azadirachta indica Phytochem. (12) 23 (1984) 2899-901
8- S.R. Lange, Chemistry of alkanes separed from leaves of Azadirachta indica and their larcival insecticidal activity against mosquitoes, Schriftenr. GTZ (1984) 161 (Nat. Pestic. Neem Tree Other Top. Plants) 59-65
9- W. Rojapano, S. Suwanno, S. Somjaree, T. Glinsukon, Y. Thebtaranont, Mutagenic and antibacterial testing of nimbolide and nimbic acid, J. Sci. Soc. Thailand (4) 11 (1985) 177-81
10- K. Feuerhake, H. Schmutterer, Development of a standardized and formulated insecticide from a crude neem kernel extract, Z. Pflanzenkrankh. Pflanzenschutz (6) 92 (1985) 643-9
11- S. Siddiqui, S. Faizi, T. Mahmood, B.S. Siddiqui, Isolation of a new tetranortriterpenoid from Azadirachta indica Juss (Meliaceae), Heterocycles (5) 24 (1986) 1319-24
12- S. Siddiqui, S. Faizi, T. Mahmood, B.S. Siddiqui, Two new insect growth regulator meliacins from Azadirachta indica A. Juss (Meliaceae), J. Chem.Soc. Perkin Trans (1986) 1021-5
13- C. Nishimura, Y. Kumazawa, S. Yamamoto, M. Shimizu, Y. Tamura, T. Normura, Polysaccharides as enhancers of antibody formation, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 62,167,729 (1987) 6 tr.
14- M.F. Balandrin , S.M. Lee, J.A. Klocke, Biological active volatile organosulfur compounds from seeds of the neem tree, Azadirachra indica (Meliaceae), J. Agric. Food Chem. (5) 36 (1988) 1048-54
15- S. Siddiqui, I. Ara, S. Faizi, T. Mahmood, B.S. Siddiqui, Phenolic tricyclic diterpenoids from the bark of Azadirachta indica, Phytochem. (12) 27 (1988) 3903-7
16- I. Ara, B.S. Siddiqui, S. Faizi, S. Siddiqui, Structurally novel diterpenoid constituents from the stem bark of Azadirachta indica (Meliaceae), J. Chem. Soc Perkin Trans 1 (1989) 343-5
17- S.A. Khalid, H. Duddeck, M. Ganzalez-Sierra, Isolation and characterization of an antimalarial agent of the neem tree Azadirachta indica, J. Nat. Prod. (5) 52 (1989) 922-7
18- P.G.K. Kigodi, G. Blasko, Y. Thebtaranoth, J.M. Pezzuto, G.A. Cordell, Spectroscopic and biological investigation of nimbolide and 28-deoxonimbolide from Azadirachta indica, J. Nat. Prod. (6) 52 (1989) 1246-51
19- S. Garg, G. Doncel, S. Chabra, S.N. Upadhvay, G.P. Talwar, Synergetic spermicidal activity of neem seed extract, reetha saponins and quinine hydrochloride, Contraception, (2) 50 (1994) 185-90
20- S.K. Tandan, S. Gupta, S. Chandra, J. Lal, R. Singh, Safety evaluation of Azadirachta indica seed oil, a herbal wound dressing agent, Fitoterapia (1) 66 (1995) 69-72
21- Y. Li, Preparation of therapeutuc toilet containing margosa seed oil, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1297028 (2001) 5 tr.
22- Y. Li, Medical soap fortinea treatment containing margosa seed oil, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1297029 (2001) 5 tr.
23- A.S. Chauhan, K.B. Chalasani, S. Surapanini, S.K. Yandrapu, R. Kataram, G.M. Chary, P.V. Diwan, K.V. raghavan, Therapeutic/edible compositions comprising herbal ingredients and methods for treating hyperglycemia, U.S. Patent Appl. Publ. US 20030180399 (2003)
24- U. Bandyopadhyay, K. Biswas, A. Sengupta, P. Moitra, P. Dutta, D. Sarkar, P. Debnath, C.K. Ganguly, R .K. Banerjee, Clinical studies on the effect of neem (Azadirachta indica) bark extract on gastric secretion and gastroduodenal ulcer, Life Sci.(24) 75 (2004) 2867-78.

45- Trận chiến mù u
Bướm vàng đã đậu trái mù u rồi
Lấy chồng sớm làm gì để lời ru thêm buồn
Trần Tiến

Người Huế hay tự hào về một chuyện đánh thắng Tây thời Tự Đức. Thấy quân Pháp, trong các cuộc duyệt binh, khi bước không co chân, tưởng họ không có đầu gối, vậy chỉ việc kiếm cách đánh ngã xuống đất thì họ không đứng lên lại được! Cũng như ta đã tưởng nước miếng của họ có hồ vì chỉ liếm vào là dán được tem. Nhà học giả Đông phương Thái Văn Kiểm dựa lên truyền thuyết kể chiến thắng nầy: "Khi quân Pháp đổ bộ lên cửa Thuận An, kéo binh vào thành Huế, quân ta mai phục hai bên đường vào đàn Xã tắc, bèn lấy trái mù u, đổ ra đầy đường. Quân Pháp đi giày da, đạp lên mù u, nhào té đảo điên. Quân ta thừa thế nhảy ra đánh áp la cà làm cho quân Pháp phải chạy tán loạn. Vì vậy mới gọi là trận giặc mù u. Ngày nay, hai bên đường Xã tắc, còn hai hàng mù u cao ngất nghễu thỉnh thoảng rụng trái trên vai người đi đường, như để nhắc nhở một trang sử oanh liệt" (1). Một người quê gốc Huế, anh Võ Hương An, rất am hiểu những sự tích ở chốn Thần kinh, tìm hiểu sâu rộng thì nhận ra chuyện vậy mà không phải vậy (4a). Tối hôm 22 tháng 5 năm Ất Dậu tức là ngày 04.07.1885, hai vị đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết thật muốn tấn công quân Pháp ở Trấn Bình Đài tức Mang Cá, không quên cho rải trước đồn những trái bàng và mù u. Suốt đêm, trước pháo đạn của ta, quân Pháp bình tĩnh thế thủ trong hầm, đợi đến rạng ngày 23 mới phản công. Quân ta ít thuốc đạn, thiếu tổ chức, tán loạn bỏ chạy, đạp lên các trái bàng và mù u, té ngã, chà đạp lên nhau, rất nhiều người chết. Thì ra gậy ông đập lại lưng ông! Và không có chuyện đánh thắng Tây, cũng không phải ở đàn Xã tắc. Theo nhà văn Pierre Loti, tức trung úy hải quân Julien Viaud, thì quân Pháp chỉ đánh chiếm Thuận An rồi thương thuyết để đặt nền bảo hộ lên nước ta nên không có chuyện quân Pháp từ Thuận An lên đánh thành Huế (4b).
Nếu sự tích được bố trí ở đàn Xã tắc thì có lẽ vì trước đàn nầy có trồng cây mù u. Câu hỏi không được trả lời rõ ràng là tại sao mù u được trồng ở đàn Xã tắc cũng như cây thông trước Văn thánh, cây bàng truớc Võ thánh? Văn thánh trồng thông, Võ thánh trồng bàng, Ngó vô Xã tắc: hai hàng mù u. Một giải thích theo lối chơi chữ (4a), ít được xem có sức thuyết phục, cần phải được dè dặt đón nhận với tất cả tính thận trọng cần thiết nếu không là để tìm hiểu cách lập luận của một số người Huế: Văn thánh hay Văn miếu là nơi văn học thì phải tinh thông nghĩa lý văn chương sách vở, nên trồng thông để nhắc nhủ người đi học. Võ thánh hay võ miếu là nơi tượng trưng cho việc dụng binh thì phải luận bàn kế hoạch cho chu đáo nên phải trồng bàng. Cần phải biết người Huế khi phát âm không phân biệt chữ có g và chữ không có g. Còn Xã tắc là đàn được lập ra năm Gia Long thứ năm (1806) để thờ các thần chủ về đất đai (Thái Xã Thần) và mùa màng (Thái Tắc Thần), tức là nơi giao tiếp với đất trời mà thiên địa là mịt mù nên người ta mới trồng cây mù u để tượng trưng!!!
Còn được gọi hồ đồng, nam mai, cây mù u mang tên khoa học Calophyllum inophyllum L. (hay Balsamaria inophyllum Lour.) thuộc họ Măng cụt Clusiaceae (3) hay Bứa Guttiferae (ñTK, PHH). Tiếng Hy lạp kalos có nghĩa là đẹp và phullon là lá. Tiếng Phạn gọi nó là punnaga nên Ấn Độ có tên punna hay punnagam, Miến Điện có tên ponnyet. Tây phương có những tên ballnutlaurel wood, laurier d’Alexandre. Bên đảo La Réunion, cây được gọi takamaka và mang tên khoa học Calophyllum tacamahaca Willd. (hay C. lanceolarium Roxb., hay C. lanceolatum Blume. hay C. spectabile Willd.)(5). Trong các đảo khác, còn có những tên domba ở Tích Lan, tamanu ở Tahiti, Tonga, kamani ở Hawai, dilo ở Fiji, fetau ở Samua, nambagura ở Vanuatu, faroha ở Madagascar... Trong chi Calophylum bên ta còn có khoảng 15 cây khác phần lớn mang tên còng (tía, nước, trắng, đa, dây, núi, nhám, nhiều hoa,...), bên cạnh những tên choi, rù ri, vấy ốc (PHH). Cây cao chừng 15-20m, có lá mọc đối, mỏng, thon dài, phía cuống hơi thắc lại, đầu lá hơi tù, gân nhỏ, nhiều, chạy song song và nổi rõ ở cả hai mặt lá; hoa khá to, thơm, màu trắng, mọc thành chùm xim ở kẽ lá hay đầu cành; quả hạch hình cầu, khi chín có màu vàng nhạt, vỏ quả giữa mẫm, vỏ quả trong dày, cứng; hạt có lá mầm chứa rất nhiều dầu. Mùa hoa: tháng 2-6, từ xa người ta phân biệt được cây mù u với cây khác nhờ màu trắng đặc biệt của hoa; mùa quả chín: tháng 10-12 (ñTL), có thể dùng để bổ sung cho đường phố và công viên (3b). Cây mù u có ưu điểm là dễ trồng, dễ mọc trên các loại đất, từ vùng đầm lầy, ven biển đến đồi trọc khô cằn (2), cần được chọn lọc làm vật liệu phục hồi các hệ sinh thái phòng hộ vùng cát ven biển (3a).
Nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới đã học hỏi những tính chất dược liệu của cây mù u: sát trùng, làm se, long đờm, giảm đau, lợi tiểu, tẩy xổ (17). Phân tử được nhóm Gopalakrishnan ở Madras bên Ấn Độ khảo cứu nhiều là những chất có sườn xanthon: dehydrocycloguanandin, calophyllin B, jacareubin và dẫn xuất deoxy, mesuaxanthon A và B, euxanthon. Tất cả đŠu có tính chất chống viêm khi đem thử trên chuột. Hai chất jacareubin và deoxyjacareubin còn có khả năng ức chế lở loét (6). Jacareubin, chất xanthon quan trọng nhất, chỉ tìm ra được trong các loại Calophyllum. Chúng có tính chất kháng vi khuẩn khi đem thử trên những trùng Staphylococcus aureus, Bacillus subtilis, Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae, Proteus vulgaris, Samonella typhimuium, Pseudomonas aeruginosa và Vibro sp. Hai chất jacareubin và deoxyjacareubin có nhiều hiệu lực nhất: 4-5 trên số 8 vi khuẩn (7). Những xanthon như inoxanthon, caloxanthon A, B, macluraxanthon, calophyllic acid, brasiliensic acid, inophylloidic acid, friedelanon, calaustralin, calophyllolid, inophyllum C chiết xuất từ vỏ rễ và hột mù u đã được đem thử lên tế bào KB và thấy có tính chất chống vi khuẩn (28). Nhóm Mahmud ở Karachi bên Pakistan khảo cứu một số chất cholesterol, friedelin, canophyllol, canophyllic acid, inophynon, isoinophynon về những tính chất chống vi khuẩn và chống nấm. Dùng chất ròng hay tan hòa trong dung dịch (ethanol, butanol, chloroform), chúng có hiệu lực chống Staphylococcus aureus, Streptococcus pyrogenes (17). Một phòng thí nghiệm ở Nagoya bên Nhật Bản đem thử một số phenylcoumarin lên virus Epstein-Barr, thấy chúng có khả năng ức chế hoạt động chống trùng nầy. Đặc biệt calocoumarin A rất hiệu nghiệm trên loét da chuột và có thể dùng để ngăn chận ung thư (22). Dipyranocoumarin (37), những inophyllum A,B,C,D,E,P (16)đã được đem thử trong cuộc khảo cứu chống trùng HIV, hai inophyllum B và P ức chế HIV reverse transcriptase (IC50 38 và 130 nM), tác dụng chống HIV-1 trong tế bào cấy (IC50 1,4 và 1,6 microM) (11).
Nói chung, những hóa chất được chiết xuất từ rễ, lá, thân cây và hột - dầu. Từ rễ, phòng thí nghiệm Phân khoa Hóa, viện Đại học Serdang ở Mã Lai đã chiết xuất inophyllin-A (27,33), viện Vật liệu Y khoa Bắc Kinh 11 xanthon (25), nhóm Iinuma ở viện Đại học Gifu bên Nhật Bản nhiều xanthon đủ thứ: dipyranon (15), caloxanthon, hydroxanthon, methoxyxanthon (12), caloxanthon A, B (13), D, E (14). Từ lá, nhiều xanthon cùng jacareubin, amentoflavon đã được chiết xuất ở viện Vật liệu Y khoa Bắc Kinh (38), friedelanon, triacontanol, canophyllol (29), friedooleananon (20) ở viện Đại học Quảng Châu, inophynon, isoinophynon ở viện Đại học Karachi bên Ấn Độ (19), những loại friedelan ở viện Đại học Polynésia Tahiti (30). Từ hột, những inocalophyllin A, B và những ester của chúng đã được chiết xuất ở viện Đại học Kaohsiung Đài Loan (24), những coumarin ở Phòng thí nghiệm Quốc gia Pune bên Ấn Độ(21), những lipid đã được học hỏi (8). Từ dầu, một số một loạt acid: myristic, palmitic, stearic, oleic, linoleic, linolenic, eicosanic, hơn 58% acid không bảo hòa, đã được methyl este hóa (36). Trong thân cành, calophinon (26), trong thân gỗ tetrahydroxanthon (9), neoflavanoid, biflavonoid (10), cùng nhiều xanthon khác cũng đã được tìm ra. Trong số 36 chất dễ bốc hơi phát xuất từ những cành nhỏ, có nhiều nhất là amorphen, caryophyllen, cadinen và farnesen (35). Bên Việt Nam ta, dầu và nhựa mù u thường được dùng trong môn y khoa truyền thống. Các nhà khảo cứu ở viện Hóa học đã chiết xuất và xác định được cấu trúc những chất tovopyrifolin, amentoflavon (32), pyranocoumarin calophyllolid, inophyllum-D, isocalophyllic acid từ lá cây cùng những chất friedelan triterpen canophyllol, oxofriedelanoic acid, canophyllic acid, friedlin và epifriedelanol (23,31,34). Họ cũng đã học hỏi những lipid và acid mỡ trong dầu hột mù u để xác định hydrocarbon, triglycerid và acid mỡ tự do, nhất là thành phần chính phospholopid (18). Ngày nay, có nhiều quảng cáo dùng dầu mù u làm thuốc mỹ nghệ giàu các vitamin B, C, bảo vệ, tái sinh da.
Ở nước ta, cây mù u thường mọc hoang, tại những vùng đất cát gần bờ biển, và được trồng ở nhiều tỉnh từ Kiến An cũ, Quảng Ninh đến Quảng Bình, Phan Thiết, vào Vĩnh Long, Mỹ Tho, Gia Định, Thủ Dầu Một, Bà Rịa... lấy hạt ép dầu thắp đèn (ñTL). Ở Huế, cây mù u được trồng ở nhiều đường, trong Đại nội, quanh công viên Phu Văn Lâu,... Nhựa có mùi hôi đặc biệt, dùng để bôi tan các chỗ sưng tấy, chữa họng sưng, mụn nhọt, vết loét nhiễm trùng, tai có mũ. Dầu trị ghẻ, nấm tóc, các bệnh da, chữa viêm thần kinh trong bệnh cùi hủi, có thể bôi trị thấp khớp. Mủ dùng ngoài làm lành sẹo, nhất là bị bỏng. Vỏ dùng trị bệnh dạ dày và xuất huyết nội. Gỗ dùng thay nhựa. Rễ chữa viêm viêm răng (4a). Dầu mù u pha với iod dùng để điều trị nhọt, quần đinh, mụn, dùng xoa bóp trị được các bệnh phong thấp, dùng chữa bỏng rất có hiệu quả. Quả mù u đốt cháy thành than rắc lên mụn nhọt có kết quả tốt. Nhựa được dùng dưới dạng bột rác lên vết lở loét, mụn nhọt, làm thuốc dán để điều trị các vết thương. Ngoài công dụng của một cây dược liệu, mù u còn là một cây công nghiệp, dầu dùng thắp đèn, nấu xà phòng, gỗ dùng để đóng tàu thuyền, làm cột buồm vì thân cây có sứa gỗ xoắn hình trôn ốc, chắc và dẻo (2). Thân cây, tỷ trọng cao, bền bĩ, còn được dùng trong ngành đóng đồ gỗ, nhạc khí, điếu hút, dụng cụ nấu ăn,... Lá và hột cây cho phân hủy, thối hỏng có thể dùng làm phân bón. Hột cây đem nướng có tính chất đuổi muỗi. Ở nhiều nước ven biển, cây được trồng để bảo vệ bờ biển chống xói mòn, ngăn chận bảo táp. Mù u thật là một cây có ích dù hột cây không giúp ta thắng Tây thời Hàm Nghi! Đáng lạ là không thấy có một văn bằng sáng chế nào về các vị thuốc của cây, thường dùng trong ngành đông y truyền thống, kể cả các phòng thí nghiệm Trung Quốc những năm gần đây cho đăng ký rất nhiều những liều thuốc dân gian.
Nghiên cứu và Phát triển 4(87) 2011, khoahoc.net 7.2012
Tham khảo:
1- Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha Văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn (1960) 3
2- Đoàn Văn Quýnh, Tìm hiểu một số cây có giá trị bề y dược học và môi trường trong quần thể cây xanh ở Huế, Thông tin khoa học và công nghệ, Huế 2 (1996) 98-9
3a- Đỗ Xuân Cẩm, Da dạng sinh học và khả năng tận dụng các loài cây bản địa làm nguồn tài liệu phát triển rừng phòng hộ ven bờ biển miền Trung, Nghiên cứu và Phát triển, Huế 2 (85)(2011) 81-92; 3b- Mai Văn Phô, Hãy làm cho Huế xanh hơn và đẹp hơn, Nghiên cứu và Phát triển, Huế 2 (85)(2011) 75-80
4a- Võ Hương An, Huyền thoại trận mù u, khoahoc.net 31.01.2008; 4b- Pierre Loti, Trois journées de guerre en AnnamLes Editions du Sonneur, Paris 2006
5- Arbres de la Réunion, http://arbres-reunion.cirad.fr/especes/clusiaceae/calophyllum_ tacahamac_willd
Tài liệu khoa học (giới hạn trong ba thập niên gần đây)
6- C. Gopalakrihnan, D. Shankaranarayanan, S.K. Nazimudeen, S. Viswanathan, L. Kameswaran, Antiinflammatory and CNS depressant activities of xanthones from Calophyllum inophyllum and Mesua ferrera, Ind. J. Pharmacol. 12(3) (1980) 181-91
7- B.M. Sundaram, C. Gopalakrishnan, S. Subramanian, Antibacterial activity of xanthones from Calophyllum inophyllum L. , Arogya (manipal, India)12(3) (1986) 48-9
8- J. Hemavathy, J.V. Prabhakar, Lipid composition of Calophyllum inophyllum kernel, J. Amer. Oil Chem. Soc. 67(12) (1990) 955-7
9- S.H. Goh, I. Jantan, A xanthone from Calophyllum inophyllum, Phytochem. 30(1) (1991) 366-7
10- S.H. Goh, I. Jantan, P.G. Waterman, Neoflavanoid and biflavanoid constituents of Calophyllum inophylloide, J. Nat. Prod. 55(10) (1992) 1415-20
11- A.D. Patil, A.J. Freyer, D.S. Eggleston, R.C. Haltiwanger, M.F. Bean, P.B. Taylor, M.J. Caranfa, A.L. Breen, H. Bartus et all. The inophyllums, novel inhibitors of HIV-1 reverse transcriptase isolated from the Malaysaian tree, Calophyllum inophyllum Linn., J. med. Chem. 36(26) (1993) 4131-8
12- M. Iinuma, H. Tosa, T. Tanaka, S. Yonemori, Two new xanthones in the underground part of Calophyllum inophyllum, Heter. 37(2) (1994) 833-8
13- M. Iinuma, H. Tosa, T. Tanaka, S. Yonemori Two xanthones from root bark of Calophyllum inophyllum, Phytochem. 35(2) (1994) 527-32
14- M. Iinuma, H. Tosa, T. Tanaka, S. Yonemori, Two xanthones from roots of Calophyllum inophyllum, Phytochem. 38(3) (1995) 725-8
15- N.U.D. Khan, N. Parveen, M.P. Singh, B. Achari, P.P.G. Dastidar, P.K. Dutta, Two isomeric benzodipyranone derivatives from Calophyllum inophyllum, Phytochem.42(4) (1996) 1181-3
16- K. Kawazu, T. Nitoda, H. Kazaki, Analytical method of inophyllum A,B,C,D,E, and P, anti-HIV constituents of Calophyllum inophyllum by HPLC, Okayama daigaku Nogakubu Gakujutsu Hokoku 87 (1998) 13-6
17- S. Mahmud, G.H. Rizwani, M. Ahmad, S. Ali, S. Perveen, V.U. Viqar, Antimicrobial studies on fractions and pure compounds of Calophyllum inophyllum Linn., Pakistan J.Pharmacolog.15(2) (1998) 13-25
18- Pham Quoc Long, Pham Hoang Ngoc, Tran Van Sung, Lipid composition from seed oil of Calophyllum inophyllum L. (Clusiaceae), Tap chi Hoa hoc 36(4) (1998) 48-51
19- M.S. Ali, S. Mahmud, S. Perveen, V.U. Ahmad, G.H. Rizwani, Epimers from the leaves of Calophyllum inophyllum, Phytochem. 50(8) (1999) 1385-9
20- C.F. Yao, H.P. Zeng, Studies on the chemical constituents of Calophyllum inophyllum Linn., Huanan Shifan Daxue Xuebao, Ziran Kexueban (3) (2000) 62-4
21- S.P. Joshi, V.B. Deodhar, U.D. Phalgune, A new coumarin from the seeds of Calophyllum inophyllum Linn., Indian J. Chem. B : Org. Chem. Med. Chem. 39B(7) (2000) 560-1
22- M.Itoigawa, C. Ito, H.T.W. Tan, M. Kuchide, H. Tokuda, H. Nishino, H. Furukawa, Cancer chemopreventive agents, 4-phenylcoumarins from Calophyllum inophyllum, Cancer Letters 169(1) (2001) 15-9
23- Tran Thanh Thao, Vo Thi Bach Hue, Nguyen Khac Quynh Cu, Isolation and structure determination of calophyllolide obtained from seeds of Calophyllum inophyllum L. grown in Vietnam, Tap chi Duoc hoc 40(9) (2002) 16-8
24- Y.C. Shen, M.C. Hung, L.T. Wang, C.Y. Shen, Inocalophyllins A,B and their methy esters from the seeds of Calophyllum inophyllum, Chem. Phar. Bull .51(7) (2003) 802-6
25- Y. Wu, P.C. Zhang, R.Y. Chen, D.Q. Yu, X.T. Liang, Two new xanthones from Calophyllum inophyllum, Huaxue Xuebao 61(7) (2003) 1047-51
26- H.C. Cheng, L.T. Wang, A.T. Khalil, Y.T. Chang, Y.C. Lin, Y.C. Shen, Pyranoxanthones from Calophyllum inophyllum, J. Chin. Chem. Soc .51(2) (2004) 431-5
27- G.C.L. Ee, A.S.M. Kua, Y.L. Cheow, C.K. Lim, V. Jong, M. Rahmani, A new pyranoxanthone inophyllin B from Calophyllum inophyllum, Nat. Prod. Sci. 10(5) (2004) 220-2
28- M.C. Yimdjo, A.G. Azebaze, G. Anatole, A.E. Nkengfack, E. Augustin, A.M. Meyer, B. Bodo, Z.T. Formum, T. Zaccharias, Antimicrobial and cytotoxic agents from Calophyllum inophyllum, Phytochem. 65(20) (2004) 2789-95
29- C. Yao, H. Zheng, X. Wang, Chemical constituents from cultivated Calophyllum inophyllum Linn, Guangdong Huagong 32(8) (2005) 40-1
30- F. Laure, G. Herbette, R. Faure, J.P. Bianchini, P. Raharivelomanana, B. Fogliani, Structures of new secofriedelane and friedelane acids from Calophyllum inophyllum of french polynesia, Mag. Res. Chem. 43(1) (2005) 65-8
31- Nguyen Thi Minh Hang, Nguyen Quyet Chien, Nguyen Van Hung, Coumarins from leaves of Calophyllum inophyllum L., Tap chi Hoa hoc 43(6) (2005) 683-7
32- Nguyen Thi Minh Hang, Nguyen Quyet Chien, Nguyen Van Hung, Tovopyrifolin C amentoflavone from the leaves of Vietnamese plant Calophyllum inophyllum L. Tap chi Hoa hoc 43(1) (2005) 3-4
33- G.C.L. Ee, A.S.M. Kua, C.K. Lim, V. Jong, H.L. Lee, Inophyllin A, a new pyranoxanthone from Calophyllum inophyllum (Guttiferae), Nat. Prod. Res. A: Struc.Synth. 20(5) (2006) 485-91
34- Nguyen Thi Minh Hang, Nguyen Quyet Chien, Nguyen Van Hung, Triterpenes from the leaves of the Vietnamese plant Calophyllum inophyllum L., Tap chi hoa hoc 44(1) (2006) 115-8
35- W. Mei, Y. Zeng, H. Dai, X. Zheng, Chemical constituents of the volatile oil from Calophyllum inophyllum Linn., Zhiwu Ziyuan Yu Huanjing Xuebao 15(1) (2006) 74-5
36- Y.J. Su, L.M. He, Study on components of fatty acids in oil from se eds of Calophyllum inophyllum, Fenxi Shiyanshi 26(6) (2007) 62-4
37- K.D. Pawar, S.P. Joshi, S.R. Bhide, S.R. Thengane, Pattern of anti-HIV dipyranocoumarin expression in callus cultures of Calophyllum inophyllum Linn., J. Biotech. 130(4) (2007) 346-53
38- Y. Li, Z. Li, H. Hua, Z. Li, M. Liu, Studies on flavonoids from stems and leaves of Calophyllum inophyllum, Zhongguo Zhongyao Zashi32(8) (2007) 692-4.

46- Văn bằng và thuốc men
Mấy đời bánh đúc có xương,
Mấy đời trọc phú có thương dân nghèo.
Ca dao
 Ấn Độ, neem tức Azadirachta indica, một loại sầu đâu bên ta, là một thảo mộc cốt yếu trong đời sống nhân dân. Lá cây, vỏ cây, rễ cây, hột neem từ hàng ngàn năm nay được kê trong hàng trăm liều thuốc chữa bệnh, chống trùng, diệt vi rut, vừa rẽ tiền, vừa dễ kiếm, dễ dùng (2). Không ai dè năm 1990, Bộ Canh nông Hoa Kỳ và Công ty W.R. Grace ở New-York đăng ghi một văn bằng sáng chế về một chất thuốc chiết xuất từ hột cây neem, nghĩa là họ đòi độc quyền sử dụng chất thuốc ấy. Nói một cách khác, người dân Ấn Độ hết còn có quyền lấy hột cây neem làm thuốc nữa. Chuyện thật bất công, vô nghĩa, rõ rành rành, ai có chút lý trí đều thấy ngay, nhưng người dân nghèo Ấn Độ làm sao địch nổi một cường quốc như Hoa Kỳ, một hảng thuốc giàu mạnh như W.R. Grace! Tuy vậy không lẽ ngồi khoanh tay nhìn người ỷ giàu, ỷ mạnh lấn hiếp, họ chạy tìm phương cách chống đối. Rút cuộc, một nhà khoa học Ấn Độ, bà Vandana Shiva, chịu đứng ra cầm đầu cuộc cứu giải. Giúp sức bà có bà Magda Alvoet, Bộ trưởng Bộ Môi trường nước Bỉ và Liên bang Quốc tế các Phong trào Canh nông Sinh vật học IFOAM cũng tiếp tay hỗ trợ đểđưa đơn kiện vào năm 1995. Kết quả là vừa rồi, sau hơn 5 năm giấy tờ, sau 2 ngày thảo luận sôi nổi, nghe chính ngay những cụ già Ấn Độ lại tường trình đã trích chiết dầu từ hột cây neem làm thuốc từ hàng chục năm nay, rất lâu trước khi văn bằng của Hoa Kỳ được đăng ghi, Cơ quan Văn bằng Sáng chế Âu châu (European Patent Office EPO) ở Muenchen bên Đức đi đến kết luận chất thuốc diệt trùng, khử nấm và phương cách chiết xuất gọi là mới trong văn bằng không có gì mới lạ so với chất thuốc mà người Ấn Độ đã biết sử dụng từ 5.000 năm nay và tuyên bố văn bằng không có hiệu lực (4a).
Thắng lợi thật rõ ràng cho người dân Ấn Độ, những người đứng hàng đầu về nhận thức giá trị tài nguyên của nước mình trong số các nước đang phát triển. Tuy nhiên bản án chỉ áp dụng ở Âu châu. Bên Hoa Kỳ và Nhật Bản, văn bằng vẫn tiếp tục có giá trị. Đủ bộ phận của cây được ứng dụng rộng rãi trong các lãnh vực sát trùng, trị nấm, khử vi rut, ngừa thai, chữa nhiều bệnh hô hấp, sốt rét, kiết lỵ, rối loạn tiêu hóa,... Cây neem được các công ty Hoa Kỳ chú trọng nhiều nhất về tính chất ngừa sâu: hơn 200 loại côn trùng bị những hoạt chất của cây neem phá rối, tiêu diệt! Trái với những thuốc nhân tạo tổng hợp, các thuốc thiên nhiên của cây neem không nhất thiết trừ tiệt các loài sâu mà lắm khi chỉ kềm hãm sự phát triển ấu trùng của chúng. Mặt khác, các thuốc nầy không bắt buộc gây một cuộc kháng cự của sâu bọ ngay cả sau nhiều thế hệ. Ngày nay, những nhà khảo cứu về môi trường rất nhạy cảm trước hiệu lực quá mãnh liệt của nhiều chất thuốc. Dựa lên tính chất thần hiệu của cây neem, không dưới 70 văn bằng đã được đăng ghi trong 10 năm vừa qua: sau văn bằng thứ nhất năm 1990, có 4 cái năm 1995 và đến gần 40 cái năm 1999, phần lớn của hai công ty W.R. Grace và Rohm and Haas. Những chi tiết của các văn bằng nói chung chẳng có gì mới lạ so với cách thức thường thấy ở Ấn Độ, ngay cả những phương pháp chiết xuất mà các tác giả nêu cao là hiện đại, tối tân (4a).
Cây neem mà những văn bản sách Veda của Ấn Độ giáo gọi là Sarve Roga Nivarini, nghĩa là cây chữa mọi chứng bệnh, được người Ấn Độ tôn vinh là "nhà dược phẩm" trong làng và người Persan đặt tên "cây tự do", thật đã biểu tượng cho sự phóng khoáng của người dân nghèo vì nó cung cấp đủ nguyên liệu thiên nhiên để làm thuốc bảo vệ sức khỏe. Không có lý do gì các hảng quốc tế lại ức hiếp đăng ghi văn bằng để giữ làm của riêng cho mình. Những cơ quan, hội đoàn như IFOAM phải luôn cảnh giác vì chuyện cây neem không phải là vụ phi pháp độc nhất. Người Ấn Độ còn nhắc lại chuyện buồn cười về cây lô hội hay hổ thiệt Aloa vera, thường được dùng để chữa những bệnh nhức đầu, nhuận tràng, ăn uống không tiêu, sung huyết phổi hay các phủ tạng. Một trong gần 1.000 văn bằng đăng ký về cây nầy chỉ dẫn cách dùng lá cây để làm chảy nước mắt: phương pháp chiết xuất cho là mới so với cuộc xử lý cách đây hơn 2.000 năm là đề nghị dùng nước có chứa chlor. Ông Devinder Sharma, chuyên viên Ấn Độ về văn bằng, mỉa mai nhận xét: thời trước, nước trong sạch, cần gì phải đổ chlor vào để tẩy sạch! Văn bằng đăng ghi chỉ là một duyên cớ để cưỡng chiếm kiến thức cổ truyền của người dân Ấn Độ(4a).
Các hãng lớn cũng còn muốn cưỡng chiếm luôn nhãn hiệu của người ta. Từ lâu, một loại gạo đặc biệt gọi là basmati được trồng gần 2 triệu hecta ở Ấn Độ và Pakistan. Khắp thế giới ai cũng được thưởng thức loại gạo ngon nầy, có tiếng hơn nhiều so với gạo de An Cựu của Huế. Thế mà năm 1997, công ty buôn gạo Rice Tec bên Hoa Kỳ của nhà triệu phú Hans Adam II, hoàng thân tỷ phú xứ Liechenstein, cho đăng ghi một văn bằng về một "loại gạo basmati mới" mà tính chất thơm, ngon cho là giống gạo basmati của vùng Punjab kia và trồng ở đất nào cũng được. Lấy tên basmati để đặt tên loại gạo cho là mới của mình đã là một chuyện phi pháp. Hãng buôn nầy còn đi xa hơn: họ quyết định chỉ có gạo của Rica Tec mới được mang tên basmati! Người Ấn Độ và Pakistan không chịu cách xử lý của văn bằng: một loại gạo không phải chỉ được xác định qua hình thức và hương thơm: theo họ, và họ rất có lý, nếu rượu sâm banh chỉ có thể chế tạo với trái nho trồng ở vùng Champagne thì gạo basmati phải bóc vỏ từ lúa mọc ở miền Punjab (4c).
Hoạt động phi pháp có khi lấn vào địa hạt tục lệ, văn hóa. Ở vùng Amazoni bên Nam Mỹ, ayahuasca tức Banisteriopsis caapi là một cây thường chỉ được dùng trong các cuộc tế lễ tương tự như phượng cúng bên ta. Năm 1986, một nhà khảo cứu Hoa Kỳ, Loren Miller, đăng ghi văn bằng dùng cây ấy để chữa ung thư và các chứng hỗn loạn tinh thần. Người bản địa cho đấy là một phạm thượng, nhất thiết không đồng ý để người ngoại quốc lấy bán và tư hữu hóa một loại cây mà họ coi là thiêng liêng, thường chỉ thầy pháp mới có quyền đụng tới. Năm 1999, họ đến biểu tình trước Cơ quan Văn bằng Sáng chế Hoa Kỳ và được toại nguyện. Đáng biết là văn bằng bị hủy bỏ không phải vì duyên do luân lý, lý lẽ văn hóa, tôn trọng đạo giáo mà vì về mặt luật lệ những chi tiết miêu tả không tương ứng với những tiêu chuẩn đòi hỏi và nhiều bản báo cáo trước đó đã nêu rõ tính chất y dược của cây ayahuasca(4b).
Có trường hợp các hãng buôn cướp hẳn lợi nhuận cho mình và, đi xa hơn, phá phách nguồn lợi của người dân nghèo. Ở nước Gabon bên châu Phi, từ thuở xa xăm người bản xứ đã biết trồng cây "tôi quên" tức Pentadiplandra brazzeana để chiết dùng chất ngọt của nó. Năm 1995, sau khi khảo cứu tường tận cây và hoạt chất, Viện Đại học Visconsin bên Hoa Kỳ đăng ghi 4 văn bằng chiết xuất chất brazzein, một protein ngọt gấp 1.000 lần đường đồng thời cũng đem lại ít calo. Họ bán môn bài khai thác cho những công ty công nghệ sinh học ngoại quốc, thành thử người dân Gabon chẳng nhận được một xu nhỏ nào. Họ còn thực hiện một chương trình còn độc hại hơn: để khỏi còn lệ thuộc cây trồng ở Gabon, họ cho cấy gen chế tạo brazzein vào những cây biết tổng hợp protein như bắp chẳng hạn. Như vậy họ không cần tới cây "tôi quên" nữa và Gabon mất một nguồn lợi gần trăm tỷ USD mỗi năm trên thị trường thế giới trong lúc khắp nơi người ta đang kiếm cách tránh dùng những chất đường có tác dụng xấu lên cơ thể (4d). Nói đến chất ngọt, tưởng cũng nên nhắc đến cây cỏ ngọt Stevia ribaudiana một dạo đã được khảo cứu và trồng nhiều bên nước ta (1). Chất steviosid chiết xuất ra, ngọt gấp 300 lần đường, cần phải được tinh chế, đã được Nhật Bản khai thác trong nhiều văn bằng thành thử việc buôn bán hoạt chất ra nước ngoài chắc không được tự do như ta mong muốn.
Cách mấy hai năm, hãng Monsanto bên Hoa Kỳ thực hiện một chương trình mang danh Hệ thống Bảo vệ Công nghệ không kém phần phi nghĩa: cho cấy gen vào lúa, bắp,... nhắm mục đích giúp cây tự vệ chống trùng, tăng năng suất nhưng đồng thời cũng làm hột cây tuyệt sản, nghĩa là sau nầy không thể dùng hột cây làm giống được nữa. Nói một cách khác, người nông dân, nếu không nghĩ xa, chỉ nhìn năng suất trước mắt, sẽ không còn khả năng giữ một ít hột làm giống nữa như trước mà lại phải đi mua! Họ đã gán cho chương trình tên Terminator, một nhân vật trong phim ảnh dã tưởng có nhiệm vụ đánh phá làm tiệt nòi những phần tử kháng chiến (3). Năm 2001, ông Percy Schmeister, một nhà nông tỉnh Saskatchewan bên Gia Nã Đại bị kết án phải bồi thường cho hãng Monsanto 15.450 CD vì hãng nầy kiện ông đã dùng giống của họ mà không chịu mua. Nhà nông cải lại là lúa ruộng ông không còn bị côn trùng phá hoại vì có lẽ đã hợp lai với lúa các ruộng bên cạnh dùng giống Monsanto, nhưng cũng có thể là nhờ ông biết chăm sóc kỹ lưỡng. Để trả đủa, ông đưa đơn kiện lại hãng Mosanto đã làm nhiễm bẩn ruộng của ông vốn phát triển tốt đẹp từ 50 năm nay (5).
Đăng ghi văn bằng sáng chế trong lãnh vực thuốc men là để bảo đảm quyền sở hữu của những hội dược phẩm. Nếu là các vị thuốc lấy từ cây cỏ, theo lý thuyết chỉ có thể đăng ghi về phương cách chiết xuất và ứng dụng chứ không có quyền chiếm dụng hoạt chất có sẵn trong cây. Đứng về mặt bảo vệ sức khỏe nhân dân, như đã thấy, những văn bằng nầy dần dần lấn áp quyền lợi công cộng. Đối với người dân nước nghèo, văn bằng sử dụng nguyên liệu thiên nhiên là một áp bức. Nói chung, những thuốc nầy cũng như những thuốc nhân tạo tổng hợp ưu đãi người giàu. Theo Tổ chức Y tế Thế giới OMS, giữa 1975 và 1995, trong số 1.233 nhãn thuốc nhân tạo tổng hợp bán ra thị trường, chỉ có 11 cái (mà một nửa dành cho thú vật) chữa bệnh nhiệt đới, nghĩa là bệnh ở những nước nghèo. Những nhãn thuốc khác nhắm chữa những bệnh thần kinh, tim, mạch thường xảy ra ở các nước no ấm, sung túc. Biết bao công của đã được đổ vào các cuộc khảo cứu chẳng hạn để làm sụt cân, xóa vết nhăn trên mặt hay chữa chứng kinh hoàng ở thú vật nuôi trong nhà như chó, mèo,... The Nation, một tờ báo Hoa Kỳ thiên tả, đã đưa ra một nhận xét khách quan nhưng cũng là một phán xét luân lý: một người giàu có, già béo, sói tóc, bất lực được coi trọng hơn 500 triệu bệnh nhân sốt rét! Dễ hiểu thôi: hãng buôn nào mà không đặt lợi nhuận lên cao nhất. Mặc dầu công ty hóa chất Merck đã có biếu 65 triệu viên thuốc Ivermectine trong khoảng 10 năm góp phần trừ tiệt bệnh giun chỉ bên Phi châu, nhiều phòng thí nghiệm tự nguyện khảo cứu về bệnh buồn ngủ đang hoành hành dữ dội ở Ouganda, hãng Pfizer hứa phát không thuốc Flucanazole cho Nam Phi để chữa một chứng viêm màng não liên quan đến bệnh sida, không ai nuôi ảo tưởng một tấm lòng hào hiệp của các hãng buôn. Bác sĩ Jean-Marie Kindermans ở Hội các Y sĩ không biên giới MSF nhận định: cách suy luận cũa kỹ nghệ dược phẩm không đi đôi với hoạt động xã hội (7).
Cũng may (nếu có thể cho là may !) nếu chứng chagas giới hạn ở Bolivie, chứng sốt rét vàng phá hoại ở Guinée, chứng buồn ngủ tồn tại ở Ouganda, nhiều bệnh như ho lao, ung thư, sida, gần đây cả sốt rét, không phân biệt ranh giới địa lý, xã hội, xâm nhập ngay cả các nước tân tiến, giàu có, buộc các phòng thí nghiệm, các nhà khảo cứu những "nước phía bắc" phải lưu tâm kiếm cách trừ khử. Tuy nhiên, không phải nhờ vậy mà thuốc men tràn ngập các nước nghèo. Trước tình trạng thiếu thốn và nằm trong phạm vi khả năng của mình, nhiều nhà buôn ở các "nước phía nam" như Ấn Độ, Thái Lan, Brazyl, Argentina đua nhau chế thuốc đã quá hạn văn bằng, tung ra thị trường những nhãn thuốc có khi rẻ hơn 40 lần thuốc tương đương trước kia. Phản công thấy ngay tức khắc: năm 1998, Hoa Kỳ đe dọa đánh thuế mọi sản phẩm Thái Lan xuất khẩu qua bên ấy, lấy cớ nước nầy đã dùng hoạt chất fluconazol chế tạo thuốc chống màng viêm não cạnh tranh với thuốc Triflucan của hãng Pfizer. Đúng ra, về mặt nhân đạo, các hãng thuốc lớn phải ủng hộ các cuộc chế tạo nầy, đồng thời làm dịu bớt những điều kiện khắt khe trong văn bằng. Đằng khác, các hãng buôn lớn tưởng cũng nên xác định hai giá thuốc cho các nước giàu và các nước nghèo. Sức khỏe không phải là một thị trường giống các thị trường khác.
Vậy mà trước đây không lâu, 39 công ty dược phẩm quốc tế đưa đơn kiện chính phủ Nam Phi năm 1997 đã cho phép dân chúng tùy ý sử dụng những thuốc cốt yếu mà ưu tiên là những thuốc quá hạn văn bằng rẽ tiền chế tạo tại chỗ hay nhập cản. Hội MSF kêu gọi quốc tế ủng hộ chính phủ Nam Phi và yêu cầu 39 công ty kia rút đơn kiện: cuộc bảo vệ tính mệnh con người cần phải được coi trọng hơn bảo vệ văn bằng. Hội nhắc lại Nam Phi là nước bị sida hoành hành nhiều nhất với hơn 4 triệu dân mang trùng. Bác sĩ Eric Goemaere ở hôi nầy nhấn mạnh : thật là một điều khiếm nhục khi kỹ nghệ khăng khăng đặt lợi nhuận cao hơn đời sống và tiếp tục chống đối những sáng kiến của chính phủ Nam Phi để cải thiện khả năng đạt được thuốc men (6).
Phải nói pháp lý đứng về phía các công ty dược phẩm vì chính phủ Nam Phi đã ký những điều khoản của Tổ chức Thương mãi Thế giới OMC, gọi là hiệp định Trips, trong đó 137 nước cam kết tôn trọng trong 20 năm độc quyền của các văn bằng. Tuy vậy, có nhiều điều khoảng nhân nhượng có thể điều đình: ở tình trạng cấp cứu, có thể thực hiện một môn bài bản xứ hoặc nhập cảng những thuốc men mua rẻ. Theo ông Tony Leon, lãnh đạo phe đối lập, Nam Phi có 250.000 bệnh nhân chết vì sida trong năm 2000 thì tất nhiên được đặt vào tình trạng cấp cứu. Nhưng ông Tổng thống Thabo Mbeki thì nhất định từ chối giải pháp ấy. Ông bảo có nhiều phương cách khác đểđạt thuốc men và hiện các bệnh nhân đang cấp bách chờ đợi các liều thuốc hiệu nghiệm chứ không phải những bàn cãi pháp lý tế nhị (6). Lời kêu gọi của MSF có kết quả: 39 công ty dược phẩm đã rút đơn kiện. Nhưng nay mai OMC còn phải đương đầu với những tranh chấp khác với các nước Thái Lan, Brazyl, Argentina và các nước nhỏ khác, luôn kiếm cách đạt được những liều thuốc rẻ tiền, một cách nầy hay cách khác.
Ngày nào chưa dung hòa được lợi nhuận của các hãng buôn lớn và việc cung cấp thuốc men cho dân các nước nghèo thì cuộc tranh chấp còn tiếp tục. Hiện các "nước phía nam" đang cần phát triển lanh chóng viêc chế tạo thuốc men và từ đấy cũng đang cần được ủng hộ tài chánh. Theo ông Viren Mehta, giám đốc Phòng tham vấn về dược liệu Mehta Partners ở New York, thì kỹ nghệ dược phẩm đang đạt đến một khúc ngoặt. Công nghệ sinh học đã hé mở một tương lai thích thú: nó giúp ta tránh những sai lầm và thực hiện việc khảo cứu chủ yếu về những cơ chế thiên nhiên. Ở chân trời hai thế hệ, có thể dự tính những giải pháp dựa lên một quan hệ giá tiền - hiệu lực tốt nhất.. Nếu những kết quả được bảo vệ trong một thời gian chỉ định, giới tư nhân có thể chờ đợi có đủ lợi nhuận để chịu nhận một cuộc phân phát toàn bộ trong ngắn hạn. Phần lớn các hãng thuốc đều đồng ý cần phải sản xuất nhiều hơn. Thành quả là cuộc khảo cứu đang tăng cường ở các nước Brazyl, Mexico. Ở Ấn Độ, phần lớn 28.000 phòng thí nghiệm trước đây chỉ bắt chước chế tạo những nhãn thuốc có văn bằng, bây giờ tung ra thị trường những sản phẩm độc đáo (7). Ta có thể lạc quan nhìn tương lai.
Thông tin khoa học và Công nghệ 3 (33) 2001, vietsciences 3.2008
Tham khảo:
1-Võ Quang Yến, Cây cỏ ngọt và các chất đường, Thông tin Khoa học và Công nghệ 4 (1995) 8
2- Võ Quang Yến, Thuốc trị bá chứng từ cây sầu đâu, Thông tin Khoa học và Công nghệ 3 (1996) 3
3- Hervé Ratel, "Terminator", l’arme ultime des semenciers, Sciences et Avenir 5(1999)76
4- Hervé Ratel, a- L’arbre aux brevets; b- Ayahuasca, Pas touche à la plante sacrée; c- Riz basmati, le fat du prince; d- La brazzénine, un sucre au goût amer, Scoences et Avenir 10 (2000) 63
5- Qui sème des OGM récolte un procès, Sciences et Avenir 5 (2001) 35
6- Michel de Pracontal, Quel prix pour 4 millions de vie.
Le Nouvel Observateur 3 (2001) 122

7- Ivan Brisco, Industrie pharmaceurique: charité bien ordonnée, Le Courrier de l’UNESCO 2 (2001) 122.


15/11/2015
Võ Quang Yến
Nguồn: Nhà xuất bản Đà Nẵng 2008
Chim Việt Cành Nam tái bản 2014
Theo http://chimviet.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đoản khúc concerto cuối cùng

Đoản khúc concerto cuối cùng 1.  Tiếng chuông giáo đường chiều nay theo gió bay đi rất xa ngân nga trong không gian thầm lặng lan tỏa ra k...