Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2016

Phía sau mặt trời: Dằng dặc nỗi nhớ khôn nguôi

Phía sau mặt trờiDằng dặc nỗi nhớ khôn nguôi  
Mở đầu trường ca “Phía sau mặt trời”, nhà thơ Trần Thế Tuyển viết:
Khi tất cả đã thành kỷ niệm
Ta nâng niu ôm ấp cánh rừng già
Thương con suối một thời trơ cạn đáy
Mắt buồn chân gió lướt qua v.v…

Thế có nghĩa, đây là khúc hát dài về “thì quá khứ”, mà là quá khứ chiến tranh?
Đúng vậy. Trần Thế Tuyển như cái cây mọc ra trên đất Bắc mà xòe tán dưới ánh nắng chan hòa của trời Nam. Sau phần mở đầu, từ chương một đến chương sáu sắp xếp theo thứ tự thời gian, trong đó đôi khi tác giả có chen vào những liên tưởng kỷ niệm có mối quan hệ tự nhiên trước hoặc sau đó. 
Sự hấp dẫn của “Phía sau mặt trời”, theo tôi, là ở chỗ, tác giả không kể về những kỷ niệm buồn vui thời chiến tranh mà là ký thác vào kỷ niệm ấy những suy nghĩ chín muồi, những trải nghiệm và tình cảm sâu đậm trước hiện thực của một thời thương nhớ.
RẠO RỰC BỜ TRE là những kỷ niệm đẹp thời ấu thơ đến vị thành niên về một vùng quê châu thổ sông Hồng. Làng quê ấy có tiếng chuông nguyện hồn ai, tiếng mõ tụng kinh cứu khổ cứu nạn lại có cả giọng chầu văn trong đêm đồng cô bóng cậu. 
Tác giả của trường ca chào đời khi nạn đói năm Ất Dậu đã qua nhưng không gian vẫn còn nghe mùi tử khí của mấy triệu con người. Những con ma đói trong thơ Trần Thế Tuyển hiện lên vật vờ nhưng sống động đến rợn người:
Đường làng thây chồng chất thây
Không còn ai chôn người chết
Có lẽ thế, ma nhiều không kể xiết
Ma trong câu chuyện bà tôi
Ma trên cành đa Đỗi Đền
Đêm đêm mặc áo tơi
Dọa trẻ con không chịu ngủ

Ma-đom đóm thời xưa quả là sự khủng bố với trẻ con nhà quê chúng tôi:
Làng nghèo nhiều đom đóm
Nhiều ma trong lùm cây
Đêm đi học về cứ chạy như bay
Ai mặc áo tơi đang đuổi.
Ma lẩn khuất trong từng hơi thở
Đom đóm đêm đêm lập lòe

Cái hay ở đây là Trần Thế Tuyển khéo gắn nỗi sợ bình thường của trẻ con nhà quê với sự kiện lớn của dân tộc, đó là nạn đói năm 1945. Miền quê ấy có lẽ không phải nơi “chó ăn đá gà ăn sỏi” nhưng người nghèo, người đói thì nhiều. Hình ảnh người anh ở đợ, lúc ăn cơm nhà chủ, nhai giả vờ rồi nhả ra khăn mang về cho em và cảnh “Lá chuối khô quấn hài nhi nóng hổi” cứ găm vào lòng người đọc.
Kỷ niệm thời thơ ấu không chỉ có buồn mà còn nhiều thú vui rất trẻ con. Câu cáy với lũ nhỏ ven biển là cách mưu sinh lại cũng là một trò chơi ngồ ngộ. Trần Thế Tuyển 3 lần kể về kỷ niệm câu cáy ở 3 thời điểm khác nhau, mỗi lần mang một nội hàm riêng.
Rồi anh chàng "quê kiểng " ấy lớn lên và tập cảm nhận tiếng đập của con tim. Chỉ là sự hữu ý một chút qua ánh mắt có chiều lúng liếng, qua hơi thở phập phồng của cô gái đồng môn, đã tưởng như nàng thề thốt với mình. Và thế là lòng đã thẫn thờ tưởng nhớ.
Cũng giống như bao thanh niên cùng thế hệ thập kỷ 70, Trần Thế Tuyển ngồi trên ghế nhà trường nhưng lòng hướng về Miền Nam đánh Mỹ. Bây giờ anh đã đủ khôn để nhận ra bộ mặt của thần chiến tranh qua những bà mẹ mất con, những người vợ mất chồng và những đứa con mất cha, mất mẹ:
Tất cả cho tiền tuyến
Trai làng hết thẩy thành lính chiến
Đàn bà con gái giữ nhà
Làm tất cả 
và đêm đêm hóa đá…

Ma-đom đóm giờ đây không phải là ma đói mà là ma-liệt sỹ:
Dân làng kể cho nhau nghe
Trong sóng gió bão bùng
Những người ra đi, đêm đêm vẫn về hội họp
Họ nói cười hả hê, bàn tay nắm chặt
Kể cho nhau nghe những trận công đồn

Thực ra thì hiện thực chiến tranh hiện hữu ngay trong mái tranh nghèo của chính tác giả. Nơi ấy có một người mẹ hiền và giỏi, đã âm thầm chịu đựng suốt những năm dài khói lửa và mất mát.
Đầu chương một là “Tiếng mẹ nghẹn ngào, cái nhìn bỡ ngỡ: /-Con về, còn em con đâu?” Đến cuối chương, lại là cảnh tiễn con: “Đôi mắt mẹ cay sè/ Tiễn tôi đầu mốc”. Ở những chương cuối còn hai lần nữa tác giả nhắc lại câu hỏi của mẹ.
TIẾNG LÁ RƠI (chương 2) ,là cuộc hành quân “xẻ dọc Trường Sơn” bằng thơ bắt đầu từ “Đêm Yên Quang” qua vùng “Đông nắng-Tây mưa” tới “cánh đồng Chó ngáp”, mà cảm và nhận vẫn mang hơi thở của chàng trai mới lớn. 
Những cô gái tình cờ gặp gỡ, dường như cô nào cũng có ý gởi trao qua nụ cười chúm chím, qua ánh mắt hẹn hò, qua củ khoai sọ ấm nóng dấu trong chăn? Đó là sự ngộ nhận dễ thương. Thực ra các  cô gái tiễn người ra trận, thấy anh nào cũng đáng yêu, cần bù đắp, sưởi ấm và vì vậy nhiều người trong chăn có món quà thiết thực. Không sao, chàng trai trẻ nào mà chẳng ngộ nhận: “cô ấy yêu mình đấy”!
Chặng đầu hành quân, các chàng trai giầu trí tưởng tượng nên luôn thấy “Đường ra trận như đi trẩy hội” và mình thật oai phong. Ở đây, người lính như những thiên thần, có nét gì hao hao nhân vật của Đoàn Thị Điểm: “Giã nhà đeo bức chiến bào/ Thét roi cầu Vị ào ào gió thu”:
Mười tám tuổi
Chẳng việc gì phải khóc
Tráng sĩ ra chiến trường

Nhưng người lính trẻ hành quân trong bão giông thời hiện đại, không lâu sau sẽ thấy cái chết hiện ra trước mắt với đủ mọi kiểu: Chết do bom rải, do loạt đạn bất ngờ của bọn thám báo, do cây đổ, nước cuốn, do sốt rét ác tính, do đói và do thú dữ ăn thịt…Những cái chết qua ngòi bút Trần Thế Tuyển, mới trần trụi làm sao:
Cái chết bước ra từ nhiều cửa
Muỗi rừng hút máu người…
Bạn tôi đi lấy củi
Cây đổ ngang lưng…
Sốt rừng, thú hoang giằng xé
Xác hồn nghiêng ngả, man mê.

Họ lần đầu xa quê lại hành quân đường dài và đi thẳng tới nơi gian khổ và ác liệt, luôn luôn có tử thần rình rập, thì dĩ nhiên bao trùm hơn cả là nỗi nhớ nhà; nhiều nhất là nhớ mẹ. Nỗi nhớ cồn cào theo suốt năm tháng hành quân, có lúc như hiện hữu, có lúc chìm vào giấc ngủ mơ hồ…Đăc biệt là khi ốm nặng giữa rừng già trong nỗi cô đơn, anh lính trẻ nhớ cha nhớ mẹ nhất, nhớ đến mức bật lên tiếng kêu thảng thốt:
Chính lúc ấy mơ vòng tay mẹ
Mùi sả thơm ngào ngạt cả chân trời
Bát cháo hoa thơm hành, ngát hẹ
Mắt ướt đầm, nhớ thắt ruột, mẹ ơi.
Không trải qua sự khắc nghiệt của đời sống thực, khó có thể có những dòng mộc mạc mà lay động lòng người như thế! Những dòng thơ về mẹ trong “Phía sau mặt trời” khiến tôi nhớ tới câu thơ để đời của Nguyễn Duy:
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết những lời mẹ ru

Chiến trường chính hiệu gói gọn trong chương 4: LINH KHÍ QUỐC GIA, chiếm 12 trang trong 77 trang thơ. Thật bất ngờ: Tác giả lại nói nhiều về cái chết! Cái chết của người lính trong chiến đấu khác cái chết trên đường hành quân, gam mầu đối chọi khiến chất bi tráng mạnh mẽ hơn, rợn ngợp hơn bởi ở đó là sự diện đối diện. Tử thần với hốc mắt đen ngòm, tay dài lêu nghêu vác hái xông ra từ họng đại bác, từ tháp xe tăng. Với người lính cái chết được báo trước, như sự mặc định, rất số học, nhưng thật thiêng liêng, cao cả :
Nhớ mang theo võng tăng bó gói
Trận này chỉ mười người thôi
Mười người nằm trong nôi
"Những thằng khác, xếp hàng chờ đợi"
Nước mắt chẩy vào trong
Chỉ ánh nhìn dò hỏi
“Mày hay tao nằm võng đêm nay?”

Xếp hàng chờ ngã xuống và trước lúc vào trận đánh, người lính chiến hỏi nhau: “Mày hay tao sẽ chết?”; thực tế mới nghiệt ngã làm sao!
Chiến trường xưa nay đều có dáng vẻ như nhau, nên ta lại gặp bức tranh sống động trong “Chinh phụ ngâm” một cách tự nhiên: “Hồn tử sĩ gió ù ù thổi/ Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi”:
Ở đâu thấp thoáng con đò
Ru hồn tử sĩ trăng mờ quạnh hưu.
Đây là một thực tế đớn đau và nhậy cảm, nhưng Trần Thế Tuyển không né tránh:
Không kể người của bên nào
Cả trận địa tối tăm
Xác chồng lên xác.
Ở chương sau, tác giả nhắc lại ý này:
Trời Long An ngập tràn hoa nắng
Cuộc chiến tranh ai thua ai thắng
Máu xương tràn, mắt mẹ quầng sâu

Đúng vậy, rút cuộc, mẹ là người chịu thiệt thòi và mất mát nhiều nhất trong chiến tranh. Đi sâu vào mảng đề tài chiến tranh, khai thác những mặt trái, những tổn thất, mất mát đòi hỏi một trái tim giầu chất nhân văn, một bản lĩnh vững vàng, một thái độ công bằng và nhân hậu. 
Với “Phía sau mặt trời”, Trần Thế Tuyển phần nào gặt hái được thành công là nhờ cái chất " quê kiểng" , chất lính trong con người anh. Sau chiến tranh, tôi đã tới Đắc Tô-Tân Cảnh, lên đồi “thịt băm”, xương trắng chất chồng lẫn lộn. Quả thật, nhìn vào đôi giầy, chiếc thắt lưng còn dính bi-đông thì biết nó của bên nào nhưng nhặt lên một khúc xương thì chỉ có thề xác định đây là xương người!
Ba chương sau cùng là thời hậu chiến, Trần Thế Tuyển tiếp tục đào sâu chủ điểm tình yêu không kịp đâm chồi, sự mất mát lớn lao trong chiến tranh. 
Âm hưởng chủ đạo của trường ca “Phía sau mặt trời” là nỗi buồn đau mênh mang và sâu thẳm. Nỗi đau mất mát thời bình âm ỉ, day dứt và sâu lắng hơn nhưng không hề bi lụy, không lối thoát mà ngược lại, nó mang về niềm vui lặng lẽ nhưng lớn lao và trọn vẹn:
Chúng tôi xây đền nơi ngã ba
Hun hút con đường mang tên Bác
Những chuyến tầu ào ào như thác
Chở niềm vui chia hết mọi nhà.
Khổ thơ “chính trị” đấy mà không khiên cưỡng.
Chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ. Hoàn cảnh cho phép người cầm bút có thể nói những điều mà trước kia chưa thể nói. Điều quan trọng là viết như thế nào. Tô hồng là không nên, là vô duyên (bởi có in ra cũng chỉ tốn giấy mực) nhưng bôi đen lại là tội ác!
Rời khỏi quân đội ra làm Cục Phó Cục báo chí, rồi Tổng biên tập báo Sài Gòn giải phóng, Trần Thế Tuyển đi được nhiều nơi, tổ chức được một số hoạt động tri ân các liệt sỹ, nhất là anh cùng đồng nghiệp báo Sài Sòn giải phóng dấy lên phong trào “Nghĩa tình Trường Sơn”. Anh đi khắp đất nước, dừng chân nhiều lần ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Thành cổ Quảng Trị, bến phà Long Đại, bến vượt Long Khốt v.v…để lắng nghe tâm sự ngổn ngang của người đã khuất, để thương cảm, suy ngẫm và chiêm nghiệm.
Dường như anh đã tiệm cận được hồn vía đồng đội, những con người vĩ đại nhất, có công lao lớn nhất của cuộc chiến đẫm máu kéo dài nhất trong lịch sử dân tộc- cuộc chiến 30 năm:
Trời Tân An ngập tràn cờ đỏ
Mầu của hoa hay mầu máu người…
Đồng đội tôi ở nơi nào sông suối
Hàng trăm nghĩa trang
Từ Khe Sanh, Đồng Hới
Bao nhiêu người còn hài cốt, võng tăng?
Nhà thơ Trần Thế Tuyển ( phải) cùng đồng đội thăm lại chiến trường xưa Long Khốt ( Long An) tháng 10 năm 2014.
Trần Thế Tuyển có người mẹ “hóa đá chờ con”, có người em ngã xuống khi công cuộc giải phóng miền Nam sắp đến hồi kết thúc. Và kỳ lạ thay là người cha, người mẹ Việt Nam ấy,  sau khi tiễn hai người con đầu (một người là liệt sỹ còn một người chưa biết sống chết ra sao),  lại tiễn tiếp hai người con trai nữa lên đường.
Tôi đã nhiều lần thấy người mẹ miền quê Hải Hậu ấy cho nước mắt âm thầm chẩy ngược vào tim giữa cuộc vui sum họp đại gia đình. Phải chăng đây là cái nền cho trường ca “Phía sau mặt trời”?.
Tôi nghĩ, chính sự chân thành và tin tưởng, hòa nỗi đau riêng vào nỗi đau dân tộc khiến ngòi bút nhân văn của Trần Thế Tuyển không ít lần chạm tới cõi tâm linh:
“Thân ngã xuống thành đất đai tổ quốc
Hồn bay lên hóa linh khí quốc gia”.
KHÁNH TƯỜNG
Theo http://dvhnn.org.vn/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Xin tiếp lửa cho ông Đinh Kim Phúc

Xin tiếp lửa cho ông  Đinh Kim Phúc Đọc nhiều bài viết của ông Đinh Kim Phúc, tôi cảm phục kiến thức sâu rộng của ông về Biển Đông và càng c...