Nghệ thuật tả cảnh của thi hào
Đoạn Trường Tân Thanh hay
Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một áng văn chương tuyệt tác trong lịch sử
văn học nước ta. Truyện Kiều có giá trị về mọi mặt : tư tưởng, triết lý, luân
lý, tâm lý và văn chương.
Truyện Kiều vì thế đã trở thành quyển truyện thơ phổ thông nhất nước ta: từ các bậc cao sang quyền quý, trí thức khoa bảng, văn nhân thi sĩ, cho đến những người bình dân ít học , ai cũng biết đến truyện Kiều, thích đọc truyện Kiều, ngâm Kiều và thậm chí bói Kiều.
Giá trị tuyệt hảo của truyện Kiều là một điều khẳng định mà trong đó giá trị văn chương lại giữ một địa vị rất cao. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được bàn đến nghệ thuật tả cảnh của thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều. ..
Nghệ thuật tả cảnh của ï Nguyễn Du nói chung rất đa dạng, tài tình và phong phú. Chính Nghệ thuật tả cảnh này đã làm tăng rất nhiều thi vị và giá trị cho truyện Kiều.
Lối tả cảnh diễm tình.
Đây là lối tả cảnh mang tính cách chủ quan, man mác khắp trong truyện Kiều. Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật chính hoặc phụ ẩn chứa trong đó.Nói một cách khác, Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái cảm xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Chính Nguyễn Du đã tự thú nhận sự chủ quan của mình trong lúc tả cảnh qua hai câu thơ:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Trong khuynh hướng này, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du vượt khác hẳn các thi nhân khác, kể cả những thi sĩ Tây Phương, vốn rất thiện nghệ trong lối tả cảnh ngụ tình. Trong khi các thi sĩ này chỉ đi một chiều, nghĩa là chỉ tìm những cảnh vật nào phù hợp với tâm trạng của con người thì mới ghi vào, còn ï Nguyễn Du thì vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời vừa đưa tâm hồn đến với cảnh, tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người, giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai..
Ví dụ như khi chị em Kiều đi lễ Thanh Minh về, tới bên chiếc cầu bắc ngang một dòng sông nhỏ gần mả Đạm Tiên, thì cả người lẫn cảnh đếu cảm thấy nao nao tấc dạ trong buổi chiều tà:
“Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
“Nao nao” chỉ tâm sự con người, nhưng cũng chỉ sự ngập ngừng lãng đãng của dòng nước trôi dưới chân cầu.
Hình ảnh một mảnh trăng khuyết soi nghiêng nhìn Kim Trọng khi chàng nửa tỉnh nửa mê, chập chờn với hình ảnh Kiều sau lần gặp gỡ đầu tiên:
‘Chênh chênh bóng Nguyệt xế mành
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu”
Chàng biếng nhác cả việc sách đèn , để phòng đọc sách lạnh tanh với tiếng gió quạnh hiu phập phồng qua màn cửa:
Buồng văn hơi giá như đồng
Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan
Mành Tương phất phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.
Rồi những giờ phút thề ước ba sinh đã qua, khi phải tạm xa nhau thì dòng sông kia bỗng sao trở thành kẻ khắt khe để chia rẽ duyên tình:
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Một đoạn tả cảnh khác, tình người ẩn sâu trong cảnh vật. Đó là cảnh Kim Trọng sau khi hộ tang cha, về tìm lại Kiều nơi vườn Lãm Thúy, nhưng người xưa nay còn thấy đâu, chỉ còn cảnh vườn hoang cỏ dại lạnh lùng dưới ánh trăng.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời
Lần thứ hai, Kim Trọng tìm về nhà Vương Viên Ngoại để hỏi thăm Kiều thì cảnh nhà bây giờ thật sa sút, sân ngoài cỏ hoang mocï dại, ướt dầm dưới cơn mưa, tiêu điều như nỗi buồn tênh trong lòng chàng:
Một sân đất cỏ dầm mưa
Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường
Khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, nhìn qua song cửa thấy cảnh biển chiều hôm, với những cánh buồm xa xa lại tưởng tới thân phận bọt bèo không định hướng của mình:
Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Lúc Kiều theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri, thì lòng nàng cũng chẳng thực sự là vui mà buồn hiu hắt như hàng lau bên vệ đường:
Gió chiều như gợi cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu
Và khi theo Sở Khanh để trốn Tú Bà, thì cảnh một đêm thu có trăng sáng, nhưng cũng lạnh lùng cũng chẳng khác chi tâm sự rối bời của Kiều:
Lối mòn cỏ nhạt màu sương
Lòng quê đi một bước đường một đau
Lúc thất vọng não nề, muốn gieo mình xuông sông Tiền Đường cho rũ nợ trần, tâm sự Kiều cũng như mảnh trăng sắp tàn, chẳng còn chút gì lưu luyến nơi thế gian:
Mảnh trăng đã gác non đoài
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong
Lối tả chân.
Ngoài lối tả cảnh diễm ï tình, Nguyễn Du còn điểm trang cho truyện Kiều bằng nhiều bức tranh tả chân, tả rất thực, và thuần túy là những họa xinh đẹp, không ngụ tình. Những bức tranh bằng thơ có khi tươi tắn, có khi sầu mộng được viết theo lối văn tinh xảo. Chỉ cần một vài nét phác họa với những điểm chính hiện hữu.
Đây là cảnh một túp lều tranh bên sông vắng lúc hoàng hôn, vừa giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất nên thơ:
Đánh tranh chụm nóc thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Hoặc chỉ một vài nét chấm phá mà người đọc đã hình dung ra cảnh một mái tranh nghèo rách nát tơi tả theo tháng ngày:
Nhà tranh vách đất tả tơi
Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa
Hoặc bức tranh sơn thủy của một khung trời chiều long lanh phản chiếu trên mặt sông êm ả:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng Hay bóng liễu rủ bên cầu và thướt tha soi bóng trên sông tạo nên một khung cảnh đẹp mộng thơ:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Khi chị em kiều đi viếng mộ Đạm Tiên, thì cảnh vật cũng theo đó đìu hiu ảm đạm: cơn gió đìu hiu lay động một vài cành lau trên vùng cỏ mờ nhạt theo sương chiều:
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Cảnh thanh tịnh của ngôi chùa Giác Duyên nơi Kiều đã được cứu vớt, mà đường tới thì quanh co theo giải sông, có khu rừng lau như cách biệt với cuộc sống rộn rã bên ngoài:
Quanh co theo giải giang tân
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật Đường
Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi Giáo sư Nghiêm Toản đã có nhận định như sau: “trong Đoạn Trường tân thanh, luôn luôn có những bức tranh nho nhỏ như những hạt kim cương rải rác đính trên một tấm thêu nhung” (Việt Nam văn Học Sử Trích Yếu)
Hãy xem cảnh bóng trăng chênh chếch soi mình trên sóng nước, đẹp lãng đãng như nỗi tưởng nhớ miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ lần đầu. Chỉ vài nét đon sơ giữa trăng, nước và sân nhà đã đủ diễn tả một khung cảnh tuyệt nhã đẹp như một bức tranh:
Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân
Lối tả cảnh tượng trưng:
Nguyễn Du cũng rất nhiều khi phô diễn lối tả cảnh tượng trưng, nghĩa là chỉ dùng một vài nét chấm phá, thành một nghệ thuật đã đạt đến mức uyển chuyển và tinh tế.
Hãy nghe hai câu thơ:
Vi lô san sát hơi may
Một trời thu để riêng ai lạnh lùng
Đó là một cảnh một rừng vi lô trong mùa thu xám có gió heo may, lành lạnh. Lối tả cảnh này có thể Nguyễn Du chỉ viết theo nghệ thuật cảm quan của mình chứ không hề nghĩ rằng mình đang tạo ra một lối vẽ cảnh một cách tượng trưng bằng những vần thơ. Mãi đến hơn một thế kỷ sau ,tức vào thế kỷ 19, lối tả cảnh tượng trưng nay mới phát triển thật mau tại Pháp mà các nhà phân tích văn học gọi là “Symbolists”. Đó là sự nhận định của Giáo sư Hà Như Chi.
Nên để ý nghệ thuật của Nguyễn Du là mang cái gì rộng lớn mênh mông, để rồi đem vào hàm chứa trong một cái gì nhỏ bé (luận giải của Giáo Sư Hà Như Chi trong Việt Nam Thi Văn Giảng Luận). Trong hai câu thơ trên, “một trời thu”mang một ý niệm không gian rộng lớn bao la, trong khi bốn chữ “riêng ai một mình” lại chỉ một phạm vi nhỏ bé, một tâm tình đơn lẻ cá nhân.
Một vài câu thơ khác cũng mang cùng một khuynh hướng như:
Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng
Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình
Đó là cảnh mặt trời chiều bâng khuâng nghiêng mình soi bóng trước mái hiên nhà để rồi chuyển sang, ẩn vào tâm tư riêng của một cõi lòng Kiều cô đơn. (Cần chú ý thêm là cách dùng điệp ngữ một cách tài tình khéo léo của Nguyễn Du, với chữ “nghiêng" và “riêng” được lập đi lập lại nhiều lần mà vẫn cảm thấy hay)
Có khi Nguyễn Du lại dùng một lối tả cảnh tượng trưng ngược lại, nghĩa là đem tấc lòng nhỏ bé của con người cho tỏa rộng bay hòa vào cái rộng lớn của trời đất.
Hãy xem cảnh Kiều và Thúc Sinh chia tay nhau:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Đó là sự phân ly buồn bã tuy chỉ giữa hai người, nhưng đã làm ảm đạm cả một vùng cảnh vật chung quanh.
Hay cảnh Kiều thất vọng cuộc đời, mở cửa phòng nhỏ bé để gieo mình xuống dòng bao la của sông Tiền Đường:
Cửa bồng vội mở rèm châu
Trời cao sông rộng một màu bao la. Nói về nghệ thuật tả cảnh tượng trưng này, giáo sư Dương Quảng Hàm đã viết: “tả cảnh thì theo lối phác họa mà cảnh nào cũng linh hoạt.”
Lối tả cảnh dùng màu sắc.
Nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều màu sắc như bức tranh của một người họa sĩ. Trước tiên phải là ánh sáng , một yếu tố cơ bản, rồi sau đó mới tới các màu sắc với sự pha chế sao cho làm nổi được cảnh chính và cảnh phụ .
Hãy xem một cảnh Xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả cảnh đầy màu sắc của Nguyễn Du:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã tuyệt hảo: trên thảm cỏ xanh mướt bao la, nổi những bông hoa lê trắng tinh. Chỉ có hai màu xanh và trắng như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em Kiều đi dự lễ Thanh Minh. Ở đây cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vì cành lê điểm một vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết:”cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Tất nhiên có thể Nguyễn Du đã phải đảo chữ chỉ vì tôn trọng luật “bằng trắc” của thơ lục bát, nhưng cũng phải công nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được.
Cũng một cảnh cỏ xanh nữa, nhưng lần này là màu xanh thẫm soi mình cạnh màu nước trong:
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.
Hay cảnh lung linh ánh nước soi chiếu mây vàng của hoàng hôn:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng.
Một cảnh khác mà màu sắc lại buồn ảm đạm, chỉ có màu nâu của đất, màu xanh vàng của cỏ úa chen chân bên cái thấp lè tè của gò đất mả Đạm Tiên:
Sè sè nắm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Nói chung, Nguyễn Du chú trọng nhiều đến màu sắc của thiên nhiên, đặc biệt là của hoàng hôn ,của cây cỏ, của trăng và của nước là những màu sắc thi vị, nhưng lại gieo ấn tượng cho một nỗi buồn xa xăm, cũng chỉ vì truyện Kiều mang bản chất nhiều nỗi buồn hơn vui.
Giáo sư Hà Như Chi dẵ nhận định về lối dùng màu sắc của cụ Nguyễn Du như sau: ”Nguyễn Du khi tả ánh sáng không những chỉ trực tiếp mô tả ánh sáng ấy, mà lại còn tả một cách gián tiếp, cho ta thấy sự phản chiếu trên ngọn cỏ, lá cây mặt nước,đỉnh núi..”(Việt Nam Thi Văn Giảng Luận)
Đúng như thế, hãy xem cảnh khu vườn với hoa lựu nở đỏ như ánh lửa lập lòe trong mùa hạ, khi mùa nắng đã được đón chào bởi tiếng quyên ca lúc khởi một đêm trăng:
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
Lối dùng chữ trang nhã và bình dân trong tả cảnh.
Nguyễn Du là một thi nhân thuộc dòng dõi quan quyền phú quý, nhưng gặp phải cảnh loạn lạc đổi chúa thay ngôi giữa nhà Lê và nhà Nguyễn, đã phải về quê cũ ở Huyện Tiên Điền để ẩn cư. Cụ đã trải qua những ngày sống trong phú quý và những ngày sống thanh đạm nơi thôn dã, nên trong tâm hồn đã thu nhập được hai cảnh sống. Cụ đã hài hòa kết hợp được hai cảnh sống đó, nên trong lãnh vực văn chương tả cảnh trong truyện Kiều, cụ có khi dùng những chữ thật trang nhã quý phái, có khi lại dùng những chữ thật giản dị bình dân.
Những chữ dùng trang nhã quý phái đă được kể nhiều qua những câu thơ ở trên, thiết tưởng chẳng cần lậïp lại. Bây giờ chúng ta hãy xem những chữ rất bình dân mà Nguyễn Du dùng trong lúc tả cảnh.
Ví dụ chị em Kiều du Xuân ra về thì trời vừa ngả bóng hoàng hôn, Nguyễn Du dùng hai chữ “tà tà“ chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Kiều thong thả bước chân ra về, mà cũng có thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt trời chiều:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Thế rồi gặp cảnh mả Đạm Tiên đắp vội , chỉ còn một nắm đất thấp “sè sè“ bên đường, chen lẫn vài ngọn cỏ úa:
Sè sè nắm đấ bên đường
Rầu rầu ngon cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rồi ngọn gió gọi hồn “ào ào “ thổi tới như muốn nhắn nhủ điều chi:
Ào ào đổ lộc rung cây
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Hay cảnh vườn Thúy khi Kim Trọng trở lại tìm Kiều mà không thấy nàng, chỉ thấy cánh én xập xè bay liệng trên mặt đất hoang phủ đầy rêu phong:
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giầy. Và đêm xuống ánh trăng soi “quạnh quẽ“ lẻ loi nơi vườn vắng, tri âm chỉ còn là những cọng cỏ dại mọc lưa thưa:
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời
Chính vì Nguyễn Du đã kết hợp được cả hai lối hành văn bác học và bình dân một cách tài tình nên truyện Kiều đã được tất cả mọi giai tầng trong xã hội đón nhận thưởng thức một cách nhiệt thành. Những chữ mộc mạc bình dân đã chứng tỏ một bước tiến của nền văn chương Việt Nam trên con đường xa dần ảnh hưởng của chữ Hán chữ nôm màï Nguyễn Du đã tiên phong dấn bước.
6. Lối dùng điển tích trong tả cảnh .
Nguyễn Du là một thi hào dùng rất nhiều điển tích trong tác phẩm của mình. Nhưng khác với những nhà thơ khác, thường dùng điển tích chỉ vì chưa tìm được chữ quốc ngữ thích đáng để thay thế . Nguyễn Du thì khác, cụ đã dùng điển tích để “làm câu thơ thêm có ý vị đậm đà mà vẫn lưu loát tự nhiên, không cầu kỳ thắc mắc “như Giáo sư Hà Như Chi đã nhận định. (Việt Nam Thi Văn Giảng Luận) Nhưng phải nói, những điển tích mà Nguyễn Du dùng chính đã làm giàu cho nền văn chương quốc ngữ Việt Nam, thậm chí nhiều điển tích đã trở thành ngôn ngữ hoàn toàn Việt Nam, mà nói tới ai ai cũng hiểu ý nghĩa đại cương của nó. Chẳng hạn những chữ Biển dâu, Gót sen, Sư tử Hà Đông, kết cỏ ngậm vành, mây mưa, ba sinh, chắp cánh liền cành ..v...v .
Những điển tích thường nằm nhiều trong những đoạn thơ tả người, tả tình, tả tâm trạng, tả tiếng đàn, trải dài trong suốt truyện Kiều.
Riêng trong lãnh vực tả cảnh là chủ điểm của bài này, chúng ta không gặp nhiều điển tích cho lắm. Nhưng cũng xin đan cử vài ví dụ.
Chẳng hạn như đoạn tả cảnh Kiều nhớ Kim Trọng bên dòng nước trong xanh phản chiếu ánh trăng ngà:
“Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”
“Gương Nga”chỉ mặt trăng, do tích Hằng Nga, mỹ nhân, vợ của Hậu Nghệ, đánh cắp và uống hết thuốc tiên mà Hậu Nghệ xin được của bà Tây Vương Mẫu. Hằng Nga hóa tiên và bay lên mặt trăng. Từ đó người ta thường gọi mặt trăng là Gương Nga hay chị Hằng, chị Nguyệt.
Hai câu thơ khác:
Sông Tần một giải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan
Sông Tần lấy từ câu “dao vọng Tần Xuyên, can trường đoạn tuyệt” ý nói ở xa nhìn nước sông Tần như nát gan xé ruột. Dương Quan là tên một cửa ải xa ở phía tây nam tỉnh Cam Túc. Cả hai điển tích trên đều mang ý nghĩa một sự nhớ nhung khi xa cách. Đó là lúc Thúy Kiều tiễn đưa Thúc Sinh trở về thăm vợ cũ là Hoạn Thư.
Hay:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Chữ Khóa Xuân lấy từ điển tích Châu Du bị gió đông cản việc phóng hỏa đốt trại Xích Bích, nên Đài Đồng Tước không bị cháy, nhưng chính vì đó mà đã khóa chặt tuổi xuân hai chị em tên Đại Kiều và Tiểu Kiều ,một người vợ Tôn Sách và một người vợ Châu Du..
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều.
Hai câu thơ trên ngụ ý tả cảnh lầu Ngưng Bích như là nơi đã khóa kín tuổi xuân của Thúy Kiều.
Một đoạn khác khi Kim Trong trở về vườn Thúy để tìm Kiều, nhưng nàng đã không còn ở đó, chỉ còn ngàn cánh hoa đào hồng thắm đang cười như tiễn biệt gió đông:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông Hai câu này lấy từ điển tích nho sinh Thôi Hộ đời nhà Đường, trở về Đào Hoa Trang để thăm người con gái năm xưa đã dâng cho chàng nước uống trong lúc dự hội Đạp Thanh. Nhưng người đẹp đã vắng bóng dù cảnh cũ vẫn còn đấy, chìm ngập trong ngàn cánh hoa đào phe phẩy dưới nắng xuân. Thôi Hộ đã viêt hai câu thơ nguyên văn văn:
Nhan diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Kết luận.
Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật là muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật ấy chẳng khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mạc, nhiều khi chỉ một mảnh trời, một ánh trăng, một cành liễu, một dòng nước hay một áng mây hoàng hôn ..v..vv . Chỉ thế thôi, nhưng chữ dùng về màu sắc và cách sắp đặt cảnh gần xa thật tài tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc , như để cùng chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã ban cho cảnh thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh của Nguyễn Du mà không khỏi bồi hồi tấc dạ. Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới mức tinh diệu để chỉ riêng một lãnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ truyện Kiều không hổ thẹn để xứng đáng là một tác phẩm văn chương quốc ngữ hay nhất trong kho tàng văn học của nước ta.
Hãy nghe học giả Đào Duy Anh nhận xét về truyện Kiều “Chúng ta sở dĩ yêu chuộng truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lý cho đời, mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kỳ diệu để rung động tâm hồn ta...” (Khảo Luận về Kim Vân Kiều)..
Thật đúng như vậy, những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc truyện Kiều hẳn là một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi vì chúng ta đã từng có những cảm giác này. Truyện Kiều vì thế đã sống mãi với thời gian và không gian, từ thế hệ này qua thế hệ khác, lúc nào cũng được mọi người trân trọng và yêu mến.
Truyện Kiều vì thế đã trở thành quyển truyện thơ phổ thông nhất nước ta: từ các bậc cao sang quyền quý, trí thức khoa bảng, văn nhân thi sĩ, cho đến những người bình dân ít học , ai cũng biết đến truyện Kiều, thích đọc truyện Kiều, ngâm Kiều và thậm chí bói Kiều.
Giá trị tuyệt hảo của truyện Kiều là một điều khẳng định mà trong đó giá trị văn chương lại giữ một địa vị rất cao. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được bàn đến nghệ thuật tả cảnh của thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều. ..
Nghệ thuật tả cảnh của ï Nguyễn Du nói chung rất đa dạng, tài tình và phong phú. Chính Nghệ thuật tả cảnh này đã làm tăng rất nhiều thi vị và giá trị cho truyện Kiều.
Lối tả cảnh diễm tình.
Đây là lối tả cảnh mang tính cách chủ quan, man mác khắp trong truyện Kiều. Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật chính hoặc phụ ẩn chứa trong đó.Nói một cách khác, Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái cảm xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Chính Nguyễn Du đã tự thú nhận sự chủ quan của mình trong lúc tả cảnh qua hai câu thơ:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Trong khuynh hướng này, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du vượt khác hẳn các thi nhân khác, kể cả những thi sĩ Tây Phương, vốn rất thiện nghệ trong lối tả cảnh ngụ tình. Trong khi các thi sĩ này chỉ đi một chiều, nghĩa là chỉ tìm những cảnh vật nào phù hợp với tâm trạng của con người thì mới ghi vào, còn ï Nguyễn Du thì vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời vừa đưa tâm hồn đến với cảnh, tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người, giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai..
Ví dụ như khi chị em Kiều đi lễ Thanh Minh về, tới bên chiếc cầu bắc ngang một dòng sông nhỏ gần mả Đạm Tiên, thì cả người lẫn cảnh đếu cảm thấy nao nao tấc dạ trong buổi chiều tà:
“Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
“Nao nao” chỉ tâm sự con người, nhưng cũng chỉ sự ngập ngừng lãng đãng của dòng nước trôi dưới chân cầu.
Hình ảnh một mảnh trăng khuyết soi nghiêng nhìn Kim Trọng khi chàng nửa tỉnh nửa mê, chập chờn với hình ảnh Kiều sau lần gặp gỡ đầu tiên:
‘Chênh chênh bóng Nguyệt xế mành
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu”
Chàng biếng nhác cả việc sách đèn , để phòng đọc sách lạnh tanh với tiếng gió quạnh hiu phập phồng qua màn cửa:
Buồng văn hơi giá như đồng
Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan
Mành Tương phất phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.
Rồi những giờ phút thề ước ba sinh đã qua, khi phải tạm xa nhau thì dòng sông kia bỗng sao trở thành kẻ khắt khe để chia rẽ duyên tình:
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Một đoạn tả cảnh khác, tình người ẩn sâu trong cảnh vật. Đó là cảnh Kim Trọng sau khi hộ tang cha, về tìm lại Kiều nơi vườn Lãm Thúy, nhưng người xưa nay còn thấy đâu, chỉ còn cảnh vườn hoang cỏ dại lạnh lùng dưới ánh trăng.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời
Lần thứ hai, Kim Trọng tìm về nhà Vương Viên Ngoại để hỏi thăm Kiều thì cảnh nhà bây giờ thật sa sút, sân ngoài cỏ hoang mocï dại, ướt dầm dưới cơn mưa, tiêu điều như nỗi buồn tênh trong lòng chàng:
Một sân đất cỏ dầm mưa
Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường
Khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, nhìn qua song cửa thấy cảnh biển chiều hôm, với những cánh buồm xa xa lại tưởng tới thân phận bọt bèo không định hướng của mình:
Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Lúc Kiều theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri, thì lòng nàng cũng chẳng thực sự là vui mà buồn hiu hắt như hàng lau bên vệ đường:
Gió chiều như gợi cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu
Và khi theo Sở Khanh để trốn Tú Bà, thì cảnh một đêm thu có trăng sáng, nhưng cũng lạnh lùng cũng chẳng khác chi tâm sự rối bời của Kiều:
Lối mòn cỏ nhạt màu sương
Lòng quê đi một bước đường một đau
Lúc thất vọng não nề, muốn gieo mình xuông sông Tiền Đường cho rũ nợ trần, tâm sự Kiều cũng như mảnh trăng sắp tàn, chẳng còn chút gì lưu luyến nơi thế gian:
Mảnh trăng đã gác non đoài
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong
Lối tả chân.
Ngoài lối tả cảnh diễm ï tình, Nguyễn Du còn điểm trang cho truyện Kiều bằng nhiều bức tranh tả chân, tả rất thực, và thuần túy là những họa xinh đẹp, không ngụ tình. Những bức tranh bằng thơ có khi tươi tắn, có khi sầu mộng được viết theo lối văn tinh xảo. Chỉ cần một vài nét phác họa với những điểm chính hiện hữu.
Đây là cảnh một túp lều tranh bên sông vắng lúc hoàng hôn, vừa giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất nên thơ:
Đánh tranh chụm nóc thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Hoặc chỉ một vài nét chấm phá mà người đọc đã hình dung ra cảnh một mái tranh nghèo rách nát tơi tả theo tháng ngày:
Nhà tranh vách đất tả tơi
Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa
Hoặc bức tranh sơn thủy của một khung trời chiều long lanh phản chiếu trên mặt sông êm ả:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng Hay bóng liễu rủ bên cầu và thướt tha soi bóng trên sông tạo nên một khung cảnh đẹp mộng thơ:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Khi chị em kiều đi viếng mộ Đạm Tiên, thì cảnh vật cũng theo đó đìu hiu ảm đạm: cơn gió đìu hiu lay động một vài cành lau trên vùng cỏ mờ nhạt theo sương chiều:
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Cảnh thanh tịnh của ngôi chùa Giác Duyên nơi Kiều đã được cứu vớt, mà đường tới thì quanh co theo giải sông, có khu rừng lau như cách biệt với cuộc sống rộn rã bên ngoài:
Quanh co theo giải giang tân
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật Đường
Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi Giáo sư Nghiêm Toản đã có nhận định như sau: “trong Đoạn Trường tân thanh, luôn luôn có những bức tranh nho nhỏ như những hạt kim cương rải rác đính trên một tấm thêu nhung” (Việt Nam văn Học Sử Trích Yếu)
Hãy xem cảnh bóng trăng chênh chếch soi mình trên sóng nước, đẹp lãng đãng như nỗi tưởng nhớ miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ lần đầu. Chỉ vài nét đon sơ giữa trăng, nước và sân nhà đã đủ diễn tả một khung cảnh tuyệt nhã đẹp như một bức tranh:
Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân
Lối tả cảnh tượng trưng:
Nguyễn Du cũng rất nhiều khi phô diễn lối tả cảnh tượng trưng, nghĩa là chỉ dùng một vài nét chấm phá, thành một nghệ thuật đã đạt đến mức uyển chuyển và tinh tế.
Hãy nghe hai câu thơ:
Vi lô san sát hơi may
Một trời thu để riêng ai lạnh lùng
Đó là một cảnh một rừng vi lô trong mùa thu xám có gió heo may, lành lạnh. Lối tả cảnh này có thể Nguyễn Du chỉ viết theo nghệ thuật cảm quan của mình chứ không hề nghĩ rằng mình đang tạo ra một lối vẽ cảnh một cách tượng trưng bằng những vần thơ. Mãi đến hơn một thế kỷ sau ,tức vào thế kỷ 19, lối tả cảnh tượng trưng nay mới phát triển thật mau tại Pháp mà các nhà phân tích văn học gọi là “Symbolists”. Đó là sự nhận định của Giáo sư Hà Như Chi.
Nên để ý nghệ thuật của Nguyễn Du là mang cái gì rộng lớn mênh mông, để rồi đem vào hàm chứa trong một cái gì nhỏ bé (luận giải của Giáo Sư Hà Như Chi trong Việt Nam Thi Văn Giảng Luận). Trong hai câu thơ trên, “một trời thu”mang một ý niệm không gian rộng lớn bao la, trong khi bốn chữ “riêng ai một mình” lại chỉ một phạm vi nhỏ bé, một tâm tình đơn lẻ cá nhân.
Một vài câu thơ khác cũng mang cùng một khuynh hướng như:
Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng
Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình
Đó là cảnh mặt trời chiều bâng khuâng nghiêng mình soi bóng trước mái hiên nhà để rồi chuyển sang, ẩn vào tâm tư riêng của một cõi lòng Kiều cô đơn. (Cần chú ý thêm là cách dùng điệp ngữ một cách tài tình khéo léo của Nguyễn Du, với chữ “nghiêng" và “riêng” được lập đi lập lại nhiều lần mà vẫn cảm thấy hay)
Có khi Nguyễn Du lại dùng một lối tả cảnh tượng trưng ngược lại, nghĩa là đem tấc lòng nhỏ bé của con người cho tỏa rộng bay hòa vào cái rộng lớn của trời đất.
Hãy xem cảnh Kiều và Thúc Sinh chia tay nhau:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Đó là sự phân ly buồn bã tuy chỉ giữa hai người, nhưng đã làm ảm đạm cả một vùng cảnh vật chung quanh.
Hay cảnh Kiều thất vọng cuộc đời, mở cửa phòng nhỏ bé để gieo mình xuống dòng bao la của sông Tiền Đường:
Cửa bồng vội mở rèm châu
Trời cao sông rộng một màu bao la. Nói về nghệ thuật tả cảnh tượng trưng này, giáo sư Dương Quảng Hàm đã viết: “tả cảnh thì theo lối phác họa mà cảnh nào cũng linh hoạt.”
Lối tả cảnh dùng màu sắc.
Nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều màu sắc như bức tranh của một người họa sĩ. Trước tiên phải là ánh sáng , một yếu tố cơ bản, rồi sau đó mới tới các màu sắc với sự pha chế sao cho làm nổi được cảnh chính và cảnh phụ .
Hãy xem một cảnh Xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả cảnh đầy màu sắc của Nguyễn Du:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã tuyệt hảo: trên thảm cỏ xanh mướt bao la, nổi những bông hoa lê trắng tinh. Chỉ có hai màu xanh và trắng như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em Kiều đi dự lễ Thanh Minh. Ở đây cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vì cành lê điểm một vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết:”cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Tất nhiên có thể Nguyễn Du đã phải đảo chữ chỉ vì tôn trọng luật “bằng trắc” của thơ lục bát, nhưng cũng phải công nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được.
Cũng một cảnh cỏ xanh nữa, nhưng lần này là màu xanh thẫm soi mình cạnh màu nước trong:
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.
Hay cảnh lung linh ánh nước soi chiếu mây vàng của hoàng hôn:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng.
Một cảnh khác mà màu sắc lại buồn ảm đạm, chỉ có màu nâu của đất, màu xanh vàng của cỏ úa chen chân bên cái thấp lè tè của gò đất mả Đạm Tiên:
Sè sè nắm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Nói chung, Nguyễn Du chú trọng nhiều đến màu sắc của thiên nhiên, đặc biệt là của hoàng hôn ,của cây cỏ, của trăng và của nước là những màu sắc thi vị, nhưng lại gieo ấn tượng cho một nỗi buồn xa xăm, cũng chỉ vì truyện Kiều mang bản chất nhiều nỗi buồn hơn vui.
Giáo sư Hà Như Chi dẵ nhận định về lối dùng màu sắc của cụ Nguyễn Du như sau: ”Nguyễn Du khi tả ánh sáng không những chỉ trực tiếp mô tả ánh sáng ấy, mà lại còn tả một cách gián tiếp, cho ta thấy sự phản chiếu trên ngọn cỏ, lá cây mặt nước,đỉnh núi..”(Việt Nam Thi Văn Giảng Luận)
Đúng như thế, hãy xem cảnh khu vườn với hoa lựu nở đỏ như ánh lửa lập lòe trong mùa hạ, khi mùa nắng đã được đón chào bởi tiếng quyên ca lúc khởi một đêm trăng:
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
Lối dùng chữ trang nhã và bình dân trong tả cảnh.
Nguyễn Du là một thi nhân thuộc dòng dõi quan quyền phú quý, nhưng gặp phải cảnh loạn lạc đổi chúa thay ngôi giữa nhà Lê và nhà Nguyễn, đã phải về quê cũ ở Huyện Tiên Điền để ẩn cư. Cụ đã trải qua những ngày sống trong phú quý và những ngày sống thanh đạm nơi thôn dã, nên trong tâm hồn đã thu nhập được hai cảnh sống. Cụ đã hài hòa kết hợp được hai cảnh sống đó, nên trong lãnh vực văn chương tả cảnh trong truyện Kiều, cụ có khi dùng những chữ thật trang nhã quý phái, có khi lại dùng những chữ thật giản dị bình dân.
Những chữ dùng trang nhã quý phái đă được kể nhiều qua những câu thơ ở trên, thiết tưởng chẳng cần lậïp lại. Bây giờ chúng ta hãy xem những chữ rất bình dân mà Nguyễn Du dùng trong lúc tả cảnh.
Ví dụ chị em Kiều du Xuân ra về thì trời vừa ngả bóng hoàng hôn, Nguyễn Du dùng hai chữ “tà tà“ chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Kiều thong thả bước chân ra về, mà cũng có thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt trời chiều:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Thế rồi gặp cảnh mả Đạm Tiên đắp vội , chỉ còn một nắm đất thấp “sè sè“ bên đường, chen lẫn vài ngọn cỏ úa:
Sè sè nắm đấ bên đường
Rầu rầu ngon cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rồi ngọn gió gọi hồn “ào ào “ thổi tới như muốn nhắn nhủ điều chi:
Ào ào đổ lộc rung cây
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Hay cảnh vườn Thúy khi Kim Trọng trở lại tìm Kiều mà không thấy nàng, chỉ thấy cánh én xập xè bay liệng trên mặt đất hoang phủ đầy rêu phong:
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giầy. Và đêm xuống ánh trăng soi “quạnh quẽ“ lẻ loi nơi vườn vắng, tri âm chỉ còn là những cọng cỏ dại mọc lưa thưa:
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời
Chính vì Nguyễn Du đã kết hợp được cả hai lối hành văn bác học và bình dân một cách tài tình nên truyện Kiều đã được tất cả mọi giai tầng trong xã hội đón nhận thưởng thức một cách nhiệt thành. Những chữ mộc mạc bình dân đã chứng tỏ một bước tiến của nền văn chương Việt Nam trên con đường xa dần ảnh hưởng của chữ Hán chữ nôm màï Nguyễn Du đã tiên phong dấn bước.
6. Lối dùng điển tích trong tả cảnh .
Nguyễn Du là một thi hào dùng rất nhiều điển tích trong tác phẩm của mình. Nhưng khác với những nhà thơ khác, thường dùng điển tích chỉ vì chưa tìm được chữ quốc ngữ thích đáng để thay thế . Nguyễn Du thì khác, cụ đã dùng điển tích để “làm câu thơ thêm có ý vị đậm đà mà vẫn lưu loát tự nhiên, không cầu kỳ thắc mắc “như Giáo sư Hà Như Chi đã nhận định. (Việt Nam Thi Văn Giảng Luận) Nhưng phải nói, những điển tích mà Nguyễn Du dùng chính đã làm giàu cho nền văn chương quốc ngữ Việt Nam, thậm chí nhiều điển tích đã trở thành ngôn ngữ hoàn toàn Việt Nam, mà nói tới ai ai cũng hiểu ý nghĩa đại cương của nó. Chẳng hạn những chữ Biển dâu, Gót sen, Sư tử Hà Đông, kết cỏ ngậm vành, mây mưa, ba sinh, chắp cánh liền cành ..v...v .
Những điển tích thường nằm nhiều trong những đoạn thơ tả người, tả tình, tả tâm trạng, tả tiếng đàn, trải dài trong suốt truyện Kiều.
Riêng trong lãnh vực tả cảnh là chủ điểm của bài này, chúng ta không gặp nhiều điển tích cho lắm. Nhưng cũng xin đan cử vài ví dụ.
Chẳng hạn như đoạn tả cảnh Kiều nhớ Kim Trọng bên dòng nước trong xanh phản chiếu ánh trăng ngà:
“Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”
“Gương Nga”chỉ mặt trăng, do tích Hằng Nga, mỹ nhân, vợ của Hậu Nghệ, đánh cắp và uống hết thuốc tiên mà Hậu Nghệ xin được của bà Tây Vương Mẫu. Hằng Nga hóa tiên và bay lên mặt trăng. Từ đó người ta thường gọi mặt trăng là Gương Nga hay chị Hằng, chị Nguyệt.
Hai câu thơ khác:
Sông Tần một giải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan
Sông Tần lấy từ câu “dao vọng Tần Xuyên, can trường đoạn tuyệt” ý nói ở xa nhìn nước sông Tần như nát gan xé ruột. Dương Quan là tên một cửa ải xa ở phía tây nam tỉnh Cam Túc. Cả hai điển tích trên đều mang ý nghĩa một sự nhớ nhung khi xa cách. Đó là lúc Thúy Kiều tiễn đưa Thúc Sinh trở về thăm vợ cũ là Hoạn Thư.
Hay:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Chữ Khóa Xuân lấy từ điển tích Châu Du bị gió đông cản việc phóng hỏa đốt trại Xích Bích, nên Đài Đồng Tước không bị cháy, nhưng chính vì đó mà đã khóa chặt tuổi xuân hai chị em tên Đại Kiều và Tiểu Kiều ,một người vợ Tôn Sách và một người vợ Châu Du..
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều.
Hai câu thơ trên ngụ ý tả cảnh lầu Ngưng Bích như là nơi đã khóa kín tuổi xuân của Thúy Kiều.
Một đoạn khác khi Kim Trong trở về vườn Thúy để tìm Kiều, nhưng nàng đã không còn ở đó, chỉ còn ngàn cánh hoa đào hồng thắm đang cười như tiễn biệt gió đông:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông Hai câu này lấy từ điển tích nho sinh Thôi Hộ đời nhà Đường, trở về Đào Hoa Trang để thăm người con gái năm xưa đã dâng cho chàng nước uống trong lúc dự hội Đạp Thanh. Nhưng người đẹp đã vắng bóng dù cảnh cũ vẫn còn đấy, chìm ngập trong ngàn cánh hoa đào phe phẩy dưới nắng xuân. Thôi Hộ đã viêt hai câu thơ nguyên văn văn:
Nhan diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Kết luận.
Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật là muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật ấy chẳng khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mạc, nhiều khi chỉ một mảnh trời, một ánh trăng, một cành liễu, một dòng nước hay một áng mây hoàng hôn ..v..vv . Chỉ thế thôi, nhưng chữ dùng về màu sắc và cách sắp đặt cảnh gần xa thật tài tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc , như để cùng chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã ban cho cảnh thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh của Nguyễn Du mà không khỏi bồi hồi tấc dạ. Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới mức tinh diệu để chỉ riêng một lãnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ truyện Kiều không hổ thẹn để xứng đáng là một tác phẩm văn chương quốc ngữ hay nhất trong kho tàng văn học của nước ta.
Hãy nghe học giả Đào Duy Anh nhận xét về truyện Kiều “Chúng ta sở dĩ yêu chuộng truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lý cho đời, mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kỳ diệu để rung động tâm hồn ta...” (Khảo Luận về Kim Vân Kiều)..
Thật đúng như vậy, những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc truyện Kiều hẳn là một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi vì chúng ta đã từng có những cảm giác này. Truyện Kiều vì thế đã sống mãi với thời gian và không gian, từ thế hệ này qua thế hệ khác, lúc nào cũng được mọi người trân trọng và yêu mến.
Trần Ngọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét