Hãy
thức dậy trước lúc bình minh
Thế
là đã hơn hai năm tôi thường thức dậy trước lúc bình minh. Có lẽ cũng từ ngày ấy,
tôi yêu cái không gian lành lạnh đầy sương và bóng tối đang vỡ nhẹ, từ từ chuyển
mình, và tôi thấy thật hạnh phúc khi chờ đón những tia nắng đầu tiên của ngày mới.
Không
biết khi tôi thức giấc thì những ai vẫn đang say ngủ và ai trong số những người
thức dậy sớm cũng có cảm giác như tôi lúc chào đón ánh bình minh. Vì tôi thấy,
thật bất hạnh cho những người trong cả cuộc đời không một lần xúc động trước cảnh
bình minh.
Tôi
từng là một người như vậy. Hai mươi tư năm lặng lẽ đi qua tôi không một lần biết
đến vẻ đẹp của một tia nắng mai. Thậm chí tôi ghét cay ghét đắng những buổi
sáng mà chỉ yêu cảm giác buồn khi chiều muộn hay khi hoàng hôn buông xuống.
Người
ta vẫn thường bảo tình yêu hay sở thích của mỗi người phần lớn do môi trường
giáo dục, môi trường xã hội. Có lẽ điều này đúng nhưng chưa đủ. Với tôi hay một
số người khác, điều này xuất phát từ chính bản thân họ, từ chính cơ địa của mỗi
người tức là cái thể xác mà họ được cha mẹ sinh ra từ thủa lọt lòng cho đến khi
qua đời.
Chẳng
hạn một người mù bẩm sinh sẽ không bao giờ biết đến sự chuyển đổi tinh tế của
màu sắc hay một người điếc thì sẽ chẳng bao giờ biết xúc động trước bất cứ một
kiệt tác âm nhạc nào. Dù không đến nỗi phải bất lực trước vẻ đẹp của cuộc sống
nhưng chính thể xác và những căn bệnh tôi phải đeo mang đã làm cho cuộc sống của
tôi trở thành một "cuộc tồn tại đầy đau khổ" trong suốt hơn hai mươi
năm.
Vốn
là một cô bé yếu ớt từ lúc mới lọt lòng, sinh thiếu tháng lại vào đúng lúc gia
cảnh khó khăn, khi ấy cũng vào thời điểm những năm 79, 80 cả nước đang tập
trung vào chiến tranh biên giới và vừa giải phóng đất nước được mấy năm, hàng
trăm thứ khó khăn chồng chất lên nhau. Bố mẹ đói khổ thì con lấy gì mà sung sướng
được. Đến tận bây giờ mẹ tôi vẫn thường xuýt xoa: "Chị Trang là khổ nhất
nhà, hồi ấy sinh ra bé tí, đến nỗi bồng cũng chẳng được nữa, áo quần chẳng có
mà mặc, mẹ phải dùng túi đựng bột mì để may quần áo cho chị. Lúc mới sinh, nhà
chẳng có than củi gì cả, trời mưa tầm tã, nước lụt cứ dâng mà nhà thì dột, được
một mảnh nilon ba che cho hai mẹ con...".
Tôi
vẫn thường hay khóc, khóc vì nhiều thứ lắm nên đôi lúc tôi cứ nghĩ phải chăng
do mình sinh ra vào mùa mưa nên cuộc đời mình nhiều nước mắt. Hai tuổi rưỡi phải
vào viện vì bệnh lao, sau đó đủ thứ bệnh, tim, thấp khớp, hen suyễn, gan... và
nhiều căn bệnh khác nữa luân phiên hành hạ tôi. Tuổi thơ của tôi trải qua trong
bệnh viện, những kỷ niệm ấu thơ không phải là hoa hay bướm hoặc những buổi chiều
hè trên đồi với nhiều trò chơi thú vị của trẻ thơ mà là những buổi chiều dài dằng
dặc đợi mẹ ở bệnh viện.
Những
cảm xúc đầu tiên trong đời tôi có được là cảm xúc về sự đau đớn thể xác và cái
chết hàng ngày cứ rình rập mình. Nhiều đêm tôi không dám ngủ. Trong suy nghĩ
ngây ngô của trẻ con, tôi chỉ sợ nếu mình nhắm mắt thì mãi mãi không bao giờ tỉnh
dậy được nữa. Khi lớn lên, đi học đại học, ở ký túc xá, những âm thanh ở hành
lang trong đêm khuya cứ gợi cho tôi cảm giác ở bệnh viện. Tiếng bước chân người
đi lại, tiếng xe đẩy, tiếng chuông gọi cấp cứu khiến nhiều lúc tỉnh dậy trong
ký túc mà tôi cứ tưởng mình ở bệnh viện.
Thế
rồi, hình như ông trời vẫn còn thương nên bệnh tật không ảnh hưởng lắm đến trí
não, tôi đi học như mọi người và may mắn học xong đại học. Nhưng rồi ra trường
hơn sáu tháng thì tôi phải vào viện trở lại. Thực sự đến bây giờ tôi cũng không
hiểu mình bị bệnh gì, bởi có quá nhiều ý kiến khác nhau về nó. Tôi chỉ biết
mình đau nhiều lắm và khi vào viện thì đã bắt đầu mất cảm giác một nửa người
bên phải, nghĩa là bắt đầu chuyển qua tê liệt.
Hơn
hai mươi tuổi, vừa tốt nghiệp đại học chưa làm được gì cho cuộc đời, cho cha mẹ
hay ít nhất cũng là cho mình thế mà... Lại bắt đầu khóc, bắt đầu những đêm vật
vã vì bệnh tật, vì lượng thuốc kháng sinh liều mạnh làm cơ thể nhiều lúc tưởng
chừng không kham nổi. Tôi vẫn thường hay nghe nhạc Trịnh, lúc ấy buồn quá bác
sĩ bảo đừng nghe nữa mà suy nghĩ lung tung. Nhưng khổ thay nhà lại gần sát một
quán cafe, đêm khuya người ta cứ bật nhạc Trịnh. Rồi cùng với cái buồn của những
đêm mưa Huế, nhìn lại cuộc đời mình, suy tư về cái chết và thế là lại khóc.
Vào
cái tuổi sung sức nhất của thời con gái, tôi được hơn ba mươi cân (cao 1.58m)
và với sự "tàn phá" của đủ thứ thuốc kháng sinh, tôi gầy còm như một
con mèo hen và xấu xí như một chú vịt. Tôi cũng không biết hy vọng hay trông chờ
gì vào tương lai, nhìn lại quá khứ cũng một màu xám xịt. Tôi nhớ có lần đọc một
bài viết về phong trào Thơ Mới thấy ai đó nhận xét là "luyến tiếc quá khứ,
bi quan hiện tại, nghi ngờ tương lai" nhưng cảm giác của tôi còn tệ hơn.
Cha
mẹ thương tôi lắm, cả bà con và bạn bè cũng vậy nhưng tình thương của mọi người
càng làm tôi tủi thân và mặc cảm thêm. Tôi biết mình chỉ là gánh nặng của mọi
người và càng làm tăng thêm ý nghĩ về sự vô tích sự của mình. Nhiều đêm không
ngủ được, tôi nghĩ tại sao mình không chết từ khi còn bé, trong một lần nào lên
cơn đau tim hay lên cơn hen suyễn chẳng hạn, có lẽ ba mẹ và mọi người sẽ đỡ khổ
hơn. Và rồi tôi ngày càng mất dần ý thức phải phấn đấu, cố gắng để trở thành một
người có ích. Ám ảnh về bệnh tật đẩy tôi vào trạng thái vô cảm, thậm chí trầm cảm.
Tôi nghĩ mình có cố gắng lắm thì rốt cục cũng chỉ đến thế. Một ngày nào đó đột
nhiên bỗng lăn ra chết, mà với tình trạng sức khoẻ như tôi giỏi lắm cũng hơn ba
mươi tuổi mà thôi.
Sau
này tôi mới nhận ra rằng, con người bình thường nếu không bị tai nạn đột xuất
hay bệnh tật hiểm nghèo thì họ có sống được lâu hay không, một phần rất quan trọng
ở chỗ bản thân họ có muốn sống nữa hay không?
Với
một người mà ngày nào cũng nghĩ mình sắp chết thì chắc cũng có lúc họ lăn ra chết
thật sự đấy! Thế rồi với sự cố gắng của gia đình và các bác sĩ, tôi cũng được
xuất viện, nhưng tôi vẫn không khỏi hẳn được. Bác sĩ căn dặn tôi khi xuất viện
rằng: "bệnh này nó như vậy, mười phần bớt mà được sáu bảy phần là tốt lắm
rồi, cháu phải luyện tập để chấp nhận nó, quen với nó bác nghĩ là cháu làm được".
Tôi
không xin được việc làm khi đã tốt nghiệp đại học, cũng đúng thôi, làm sao có
thể chấp nhận một người như tôi vào làm việc. Nay đau mai ốm, thỉnh thoảng lại
đi cấp cứu, mặt mày thì xấu xí, ủ dột. Để cứu vớt cho "cái tương lai mờ mịt
của tôi" cả nhà động viên tôi đi học cao học. Các bác sĩ cũng bảo "để
cháu nó học có khi nó cũng quên đi bệnh tật của mình". Cùng lúc đó tôi nhận
được giấy gọi vào học văn bằng hai ngành Anh văn ở trường đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, đại học Phú Xuân.
Học
tập vất vả nhưng tôi vui bởi vì trong môi trường mới có rất nhiều điều để khám
phá. Nhưng dù thế, tôi vẫn không thoát khỏi sự tra tấn của bệnh tật. Những lúc
trở trời, mình mẩy lại đau ê ẩm, lại uống thuốc và vật vã. Tất cả những công việc
trong ngày lại phải trông chờ vào đứa em trai, mà nó cũng không thể chịu được
khi chứng kiến chị đau đớn. Nó yêu chị lắm, luôn luôn động viên chị bằng những
cuốn sách kiểu như "Tâm hồn cao thượng", "Cửa sổ tâm hồn"...
để chị thanh thản hơn. Tôi cũng học được trong đó rất nhiều, những cuốn sách mà
từ lâu đã trở thành một phần cuộc sống. Thế nhưng từ việc biết đến việc thực hiện
là cả một con đường dài dằng dặc có khi không bao giờ thực hiện được.
Tôi
đã cố gắng thật nhiều để luyện tập, nhưng việc đi bộ buổi sáng chẳng những
không làm cho sức khoẻ tôi tốt hơn mà ngược lại nó khiến tôi bị cảm lạnh. Tôi
cũng đã ghi danh để tập thể dục thẩm mỹ hay nhịp điệu gì đấy nhưng chẳng những
không có kết quả mà còn bị tra tấn bởi không khí ngột ngạt trong các phòng tập.
Thế nên, tôi ngày càng căm ghét những buổi sáng và việc phải thức dậy quá sớm.
Thế rồi lại cũng em trai tôi, hôm đó là một ngày trời chuyển mùa, tôi bị đau và
bi kịch cũ lại tái diễn.
Không
giống mọi lần, lần này nó không động viên nữa mà trở giọng la tôi không chịu cố
gắng và nói là chẳng ai thương chị bằng chính chị đâu, cũng chẳng ai có thể cứu
được bản thân chị ngoài chị. Tôi giận nó lắm và nghĩ rằng nó không thương mình,
nhưng về sau càng nghĩ tôi càng thấy nó nói đúng.
Một
hôm nó chợt hỏi tôi: "À, răng mà chị không đi tập Karate nhỉ, em thấy môn ấy
hay lắm, chị thử đi, có khi thích cũng nên đấy". Em tôi theo học môn này từ
khi nó mới sáu bảy tuổi, khi chúng tôi còn ở quê nhà, nó thích môn này lắm, sau
này vào Huế nó lại đi tập tiếp. Một hôm tình cờ dọn sách cho nó, tôi bắt gặp cuốn
sách nói về quyền trong Karate. Tò mò, tôi đọc từ đầu đến cuối và sau này mới
biết rằng đó là cuốn sách do chính thầy giáo dạy võ của nó (sau này cũng là thầy
của tôi) viết. Qua cuốn sách, tôi biết trong cuộc sống có thật nhiều điều thú vị,
chẳng qua là do mình không quan tâm để ý và có định kiến về nó mà thôi.
Lâu
nay tôi không ưa bạo lực, đánh nhau mà đặc biệt là đánh người, chưa kể tôi còn
nghĩ những người tập võ thuờng vai u thịt bắp, hữu dũng mà vô mưu... Mặc dầu
tôi cũng có đọc Kim Dung, cũng biết sơ sơ về văn hoá võ thuật nhưng tôi tin những
người văn võ toàn tài như vậy trong xã hội bây giờ còn được mấy người. Qua cuốn
sách, tôi hiểu hơn về môn Karate, về quyền và đặc biệt là sự tinh tế, sâu sắc
và tính nhân văn trong những bài quyền của Karate.
Lúc
đó tôi nghĩ rằng, học môn gì thì cũng phải có tư chất, mà tôi vốn là một đứa vừa
yếu đuối về thể xác lẫn tinh thần, lại không được khéo léo gì cho lắm nên làm
sao có thể theo học được. Thể dục là môn kinh khủng nhất đối với tôi từ tiểu học
cho đến khi xong đại học, đó là môn duy nhất tôi thường xuyên thi lại. Thế rồi
em tôi cứ động viên, ngày nào cũng khen môn học này thú vị lắm, và điều quan trọng
là chị sẽ khám phá được chính mình bởi không thử thì biết là mình có làm được
hay không.
Thế
rồi sau bao nhiêu suy tính đắn đo, phải đến hơn hai tháng cân nhắc tôi mới rủ
thêm một đứa em họ nữa đi xin học. Tháng tập luyện đầu tiên quả thật là kinh
hoàng, cuộc sống của tôi gần như bị xáo trộn. Tôi phải thức dậy thật sớm và phải
bước ra đường vào lúc trời còn tối, lúc mọi người vẫn còn đang say ngủ. Những
hôm nắng ấm thì không sao nhưng những ngày trời lạnh đúng là cực hình. Mình mẩy
chân tay đã đau sẵn bây giờ lại càng đau hơn, không biết là do bệnh hay do luyện
tập. Nhưng tôi cứ tự động viên mình rằng thôi cố thêm một buổi nữa, rồi thêm một
buổi nữa, và tất cả sẽ ổn thôi mà, cố gắng lên.
Em
trai vẫn ở bên tôi để động viên không bỏ tập. Nó bảo: "Nếu chị bỏ một buổi
là sẽ nghỉ thêm một buổi khác cho mà xem, rồi sẽ thành thói quen đấy" nên
tôi không ngừng cố gắng. Và điều bất ngờ là không những tôi không bị ốm mà sức
khoẻ có dấu hiệu khởi sắc. Tập luyện, vận động nhiều, tôi khoẻ ra, ăn được hơn
dù không nhiều và mất dần cảm giác chán ăn. Buổi tối tôi ngủ được hơn và những
đêm mất ngủ cũng mất dần.
Thế
là hơn hai năm tôi vẫn thức giấc trước mặt trời, ngày qua ngày tôi càng trở nên
thích và yêu những buổi bình minh. Dù đó là một ngày mùa đông hay mùa hè thì những
buổi bình minh đều là khoảnh khắc chuyển giao giữa đêm và ngày, là khoảnh khắc
thật thiêng liêng. Đó là lúc bóng tối và màn đêm lui dần và nhường chỗ cho ánh
sáng. Với mọi người, đây chỉ là sự vận động của thiên nhiên, của vũ trụ nhưng với
tôi đó là một sự chuyển giao vĩ đại của đất trời.
Trong
cuộc đời của mỗi con người cũng thế, sẽ có những lúc đêm và những lúc ngày, có
những lúc buồn đau và những ngày hạnh phúc. Có khi bóng đêm ngập tràn nhưng
cũng có những ngày tràn đầy ánh nắng, điều quan trọng là phải biết được là có sự
thay đổi và cố gắng để hướng về ánh sáng.
Trong
cái khoảnh khắc thiêng liêng của phút chuyển giao ấy, tôi cũng cố gắng trong hy
vọng để thực hiện cuộc chuyển giao cuộc đời mình bằng cách cố gắng tập luyện.
Và kết quả, tôi đã tăng được 7 kg trong vòng hai năm, khoẻ mạnh và tươi tỉnh
hơn ngày xưa rất nhiều. Cho đến bây giờ tôi vẫn nghĩ về võ công mình chẳng học
được gì nhiều nhưng điều quan trọng hơn tôi cảm thấy thật thanh thản khi luyện
tập.
Mỗi
khi đi quyền, tôi tập trung tâm trí vào từng động tác và trong chốc lát mọi buồn
vui nhọc nhằn của cuộc sống được gạt bỏ một bên. Cuối buổi tập dù mệt nhưng cảm
thấy thật thư thái và tự tin hơn để bước vào một ngày mới. Thế đấy, cuộc đời
nhìn lại tôi thấy thật nhiều điều bất ngờ, và có những cuộc gặp gỡ đã làm nên
những đổi thay trong cuộc đời. Ở đây, đó là lần gặp gỡ của tôi với môn Karate,
với các huấn luyện viên và thầy. Dù không phải học trò thành đạt nhưng những cố
gắng của một cô bé yếu đuối và bệnh tật, của một con vịt con xấu xí và nhút
nhát đã được đền đáp.
Tôi
chọn nghề dạy học và tôi sẽ bảo với các học trò của mình rằng hãy cố gắng và
không ngừng cố gắng. Cuộc đời ai cũng có những lỗi lầm, vì bản thân con người
là bất toàn mà. Nhưng khi mắc lỗi, phải cố đi tiếp mà sữa chữa chứ không bao giờ
được dừng lại, càng không được quay lại điểm xuất phát ban đầu.
Tôi
từng rất cảm động khi nghe thầy căn dặn điều này trong lần thi lên đai. Đúng vậy,
với một võ sinh Karate, khi thi quyền, không được dừng lại nếu đi sai, còn với
chúng ta, phải nỗ lực cố gắng vì hết đêm bao giờ cũng chuyển sang ngày, vì hạnh
phúc bao giờ cũng chỉ đến với những người biết kiên nhẫn, chờ đợi và hy vọng
không ngừng.
Tôi
đã hoàn tất chương trình cao học cũng như chương trình đại học văn bằng hai.
Nhưng cuộc đời không phải lúc nào cũng dễ dàng. Tôi đi làm và lại phải đối mặt
với những khó khăn mới đầy cam go và thử thách. Có lần tôi từng than với một cô
giáo rằng: "Tại sao con không bao giờ có được trọn vẹn sự bình an trong
tâm hồn? Con chỉ muốn thiếp ngủ đi thôi cô ạ". Cô bảo tôi rằng: "Khoảng
bốn mươi năm nữa con sẽ được bình yên đấy, lúc đó tha hồ mà ngủ, chẳng ai có thể
gọi con dậy được nữa đâu".
Nếu
như Marx nói: "Hạnh phúc là đấu tranh", thì Karate dạy tôi phải biết
đối mặt, phải biết dũng cảm chiến đấu và chiến thắng chính mình một cách không
mệt mỏi. Với một võ sĩ Karate khi ra đấu trường dù có mệt mỏi cũng phải chiến đấu
một cách anh dũng, bao giờ cũng phải là chính mình.
Không
phải ngẫu nhiên tôi lại lấy tiêu đề bài viết này là "Hãy thức dậy trước
lúc bình minh", bởi Karate đã khiến tôi yêu những buổi bình minh. Thức dậy
trước lúc bình minh, tôi sẽ được chào đón những tia nắng đầu tiên trong ngày, sẽ
chứng kiến sự đổi thay của trời đất. Đây cũng là thời khắc mà theo tôi là đẹp
nhất, tinh khiết nhất và tươi tắn nhất trong ngày.
Cả
không gian, bầu trời, cây cỏ... như bừng sáng lấp lánh.... đẹp và tươi như một
nụ cười.
Vài
nét về blogger:
Con
ốc sên dễ thương, mọi người gọi tôi là vậy và tôi yêu cái tên đó lắm. Tôi bé
như một con ốc sên, yếu như một con ốc sên và chính xác là tôi chậm... như một
con ốc sên. Tôi cũng có bề ngoài không bắt mắt như ốc sên nhưng tôi xinh xắn và
dễ thương như ốc sên vậy (trong mắt tôi ốc sên là con vật dễ thương).
Mọi người bảo rằng ốc sên bò chậm chạp lắm, nhưng mỗi nơi nó đi qua đều để lại dấu vết, đó là một vệt sáng lấp lánh. Tôi chỉ được một lần dạo chơi qua cuộc đời, nên tôi cũng ước rằng mình như ốc sên, để lại những đường sáng lấp lánh, có chăng chỉ là một nụ cười...
Và tôi viết tất cả cho những người mà tôi yêu thương...
Mọi người bảo rằng ốc sên bò chậm chạp lắm, nhưng mỗi nơi nó đi qua đều để lại dấu vết, đó là một vệt sáng lấp lánh. Tôi chỉ được một lần dạo chơi qua cuộc đời, nên tôi cũng ước rằng mình như ốc sên, để lại những đường sáng lấp lánh, có chăng chỉ là một nụ cười...
Và tôi viết tất cả cho những người mà tôi yêu thương...
Hoàng Thị Quỳnh Trang
Theo http://ngoisao.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét