Ðể thực hành quan điểm bình dân hóa và phổ biến hóa nghệ thuật
của mình, Lê Bá Đảng luôn luôn tìm cách bội phân tác phẩm thành nhiều phiên bản,
giá bán rẻ đi nhưng chất sắc và giá trị vẫn y như nguyên tác. Với Lebadangraphy,
thập niên 70, ông chế tạo một thứ giấy riêng để in tranh từ những bản khắc trên
đá, khiến tranh in của ông không chỉ là những phiên bản (reproduction) phẳng lì
mà giữ trọn chiều sâu, nét gồ, nét trũng như những bức tranh thật.
Thập niên 80, thời kỳ Tấn tuồng nhân loại (La comédie
humaine), những dessin người của Lê Bá Ðảng, vẽ trên một loạt chất liệu giấy mới,
linh họat sống động hơn, có chiều sâu nhân vị, có chất khinh khoát của lời,
với những nét dị hợm trong cá tính, bộc lộ những trạng thái và tình thế của con
người trong thể Tánh.
Không gian Lê Bá Đảng, giữa những năm 80-90, không còn
thuần túy hội họa nữa, mà được cắt, dán, vẽ, khắc... trên chất liệu đặc biệt, gồm
thâu vũ trụ và sinh vật trong một không gian nghệ thuật. Lê Bá Ðảng phát triển
một lối tạo hình mới: không tượng, không tranh mà tổng hợp cả tranh lẫn tượng.
Năm 1997, ông bài trí động Lê Bá Đảng ở Baux
de Provence, một thắng cảnh miền trung nam nước Pháp, với chủ đề Âu Cơ, Âu
Lạc, dựng lại "nguồn gốc Việt, lịch sử Việt"trong hang động bên
trời Tây. Dựa trên Nghệ thuật sắc không(Le vide et le plein), ông
phác họa nhiều sơ đồ tạo hình có thể thực hiện trên đất Việt, lấy Trường Sơn,
Sóc Sơn, Phù Đổng... làm một thứ "bảo tàng viện thiên nhiên", hội tụ
từ cánh chim, ngọn cỏ, mạch gió đến con người. Ông sáng tạo Tranh hai mặt
(Double face), một loại tranh khắc mà mỗi mặt trái phải đều là tác phẩm
nghệ thuật. Rồi ông trở về với sơn dầu, mầu nước qua loạt tranh Mắt.
Sau thời kỳ Mắt, Lê Bá Ðảng bước vào thời kỳ Thiền với
những mặt người nửa Thiền nửa Phật trên nền xanh biến thiên bất tận, như muốn đạt
đến sự mộc mạc đơn giản tột cùng. Thiền xanh -mặt người nổi chìm
trong bể xanh- gói những bí mật trần ai, âm thầm thách đố người xem, thử tìm
sau những hình hài Thiền, Phật này còn bao nhiêu sắc thái khác?
Thu 2003, Lê Bá Ðảng triển lãm Thiền xanh ở Paris
dưới tiêu đề Thu xanh. Sang xuân 2004, Thiền xanh về Huế cùng những
sáng tác khác, tạo nên chủ đề Muôn, Một: muôn vàn trong một, một trong
muôn vàn: mỗi nét ẩn dấu muôn sự đời và biết bao sự đời gói trọn trong vài nét
phác.
Truyện kể rằng: "Thời xưa ở nước ta, lúc trời đất
còn mờ mịt, đồng không cảnh vắng, bốn phía mênh mông, ăn lông, uống máu, trí tuệ
còn chưa mở mang. Lúc đó, tổ tiên ta, đói thì ăn, khát thì uống, thói tục thuần
phác, chẳng biết dựa dẫm vào đâu, giống như một làng người quỷ rừng rú (sỉ mỵ)". Đó
là nguồn cội xa xanh của dân tộc ghi trong Lĩnh Nam Chích Quái. Một
dân tộc biết "chế lấy mây và gây lấy nắng" như lời Mai Thảo.
Một dân tộc có những bí mật truyền thuyết, và những bí mật ấy sẽ được nhìn lại,
khám phá, phiêu lưu trong nghệ thuật tạo hình, bằng những bước chân Giao
Chỉ.
Lê Bá Đảng say mê bàn chân Giao Chỉ, biết bao
nhiêu tranh, tượng của ông đã chỉ khắc tạc một bàn chân, bàn chân Giao Chỉ.
Tương truyền: Đế Minh, du xuân xuống miền nam Ngũ Lĩnh, gặp một người
con gái tự xưng là Vụ Tiên. Vụ Tiênlà Mây Mù. Vẫn tương truyền,
sao Vụ Tiên Nữ tức sao Vụ Nữdọi xuống dòng Bách Việt.
Núi Vụ Tiên chính là núi Côn Lônở biên giới Lào Cai-Vân Nam.
Đế Minh, gặp Vụ Tiên-Mây Mù, sinh ra Lộc Tục, phong cho con làm Kinh
Dương Vươngcoi miền Giao Nam, đặt tên nước là Xích Quỷ (bởi vì
dân ở đây sống trần truồng, da đỏ). Lại vẫn tương truyền, Kinh Dương Vương có
phép thần, bơi xuống Thủy phủ, được Long Vương gả con gái
là Ánh Mây (Vân Anh) cho, sinh Lạc Long Quân. Sau Kinh Dương
Vương về lại hồ Động Đình, để Lạc Long Quân trị vì Xích Quỷ. Chẳng bao
lâu, một người anh em họ là Đế Lai, đi tuần du phương nam với ái thiếp Âu
Cơ. Lạc Long Quân gặp Âu Cơ, tiếng sét ái tình, Long Quân đem Âu Cơ về trốn ở động Hàm
Rồng (Thanh Hóa). Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, nở ra trăm con trai, 50
người theo cha xuống Thủy quốc miền duyên hải, 50 người theo mẹ về Lục
quốc, xây dựng nước Văn Lang ở vùng Phong Châu (Việt Trì, Bạch
Hạc).
Theo sát huyền thoại mẹ, bước chân Giao Chỉ của Lê
Bá Ðảng dẫn vào không gian mây, nước giao hòa. Mây như nguồn
gốc bên ngoại, mẹ Việt xưa là mây: Vụ Tiên-Mây Mù, Vân Anh-Ánh Mây...
và nước, như nguồn gốc bên nội: Long quân, thủy tộc... Mây, nước kết
hôn tạo ra con người sỉ mỵ, con người rừng rú.
Tiếp thời sỉ mỵ, đến thời Âu Cơ, tân tiến hơn, mẹ Âu Cơ hiện
nguyên hình xiêm y lộng lẫy: mẹ là lục địa, mẹ đất và cha là Long
quân, cha thủy tề, cha nước. Đất-nước cưới nhau, tạo nên tộc Việt,
tộc người. Cho nên, trong ngôn ngữ của chúng ta, quê hương và tổ quốc được gói
trọn trong hai chữ đất nước thành một hình ảnh độc đáo, như thể chữ
đã tạo hình, tạo ảnh, tạo lại cội nguồn dân tộc. Bước chân Giao Chỉcủa Lê
Bá Đảng, dường như muốn tái tạo lại hành trình: từ mây nước trở
nên đất nước, và từ đất nước sinh ra con người; rồi con
người lại trở về với mây nước.
Trên một bức bích họa, Lê Bá Ðảng tung lên không gian cõi mênh
mông mây nước khởi thủy đất trời: Xa xa, hiện ra hình dạng sỉ mỵ, lông lá,
nửa người nửa thú. Tiếp theo sau là bóng những xích quỷ, thú tính lộn truồng
trong nhân tính. Rồi đến những hình ảnh xiêm y lộng lẫy nghê thường, cố che đi
tấm thân cầm thú nhưng chưa dứt được cõi lòng đầy ắp sân si... Dục lạc, khổ
đau, chiến tranh, chết chóc... Vết chân Giao Chỉ bước trên thương
tích, trên sa mạc cô đơn, trên thiên tai hồng thủy, dày xéo lên nhau, trên những
khổ đau, bội bạc tình đời. Xem tranh, dù ta xuôi dòng xưa để về nay, hay ngược
dòng nay trở lại xưa, cũng chỉ là một ngược xuôi vô ích bởi con người không hề
tiến bộ, con người lúc nào cũng thế, chỉ là khối cô đơn nguyên thủy, đời đời vô
minh trong cõi sống.
Ngựa
Ngựa và người, phát âm gần giống nhau, âm hao tương
đồng ấy chiếu vào sáng tác Lê Bá Đảng, trở thành một mã quan nghệ thuật độc
đáo.
Đối với Lê Bá Đảng, ngựa là một nhân vật.
Sự "giao lưu" người-ngựa, không mới, có từ thời thượng
cổ, trong truyền kỳ Hy Lạp, với những con centaure ngựa-người (ngựa đầu người).
Ngựa còn tượng trưng cường lực, sức chịu đựng dẻo dai, bền bỉ, ngựa mang ấn tượng
ra đi, tự do vùng vẫy, ngựa là vũ khí của chinh nhân, chinh phục, ngựa đi đôi với
chiến tranh, ngựa là biểu tượng của dục vọng, nhục thể... Nhưng trên thực tế,
người luôn luôn coi ngựa như loài súc vật, tuy thông minh, ngoan cường nhưng vẫn
là thú.
Lê Bá Đảng đảo ngược vai trò, với ông ngựa thực thụ là
người, thế giới ngựa của ông là thế giới tự do, quần thảo những vũ bão, mơn trớn
những phong ba, dục tình, dục vọng, là thế giới của chinh phục: ngựa chinh
phục người.
Thế giới ngựa của Lê Bá Đảng là một thế giới bất kham, hỗn
tạp giữa ảo và thực. Tất cả những biến chuyển tâm linh và thể xác của người hiện
hình trong chân dung ngựa. Vẽ ngựa, nét bút Lê Bá Ðảng linh động, vùng vẫy, như
muốn bộc lộ phần nhân tính trong con vật và ông đạt. Ngựa của ông có sức quyến
rũ mê hoặc như những nhân vật kỳ ảo, toát ra sự giao hoà vũ trụ ngựa-người. Như
thể khi đã nắm bắt được "phần chung" giữa người và vật, họa sĩ có thể
giải mã được những nét u uẩn riêng của hai thể loại: ngựa có thể "hoá
thân" thành họa sĩ, như "nhân vật" chị Mã trong một truyện ngắn
của Lê Bá Đảng: chị Mã có khả năng sáng tạo sinh động và huyền hoặc như người.
So sánh tranh ngựa và những bức "kịch người" trong Tấn
tuồng nhân loại, người xem có cảl tưởng như người-vật đã hoá thân trong
nhau, như thể chính ngọn bút chị Mã đã vẽ nên những sinh vật li ti là
con người hoạt náo, triền miên trong vòng ăn, ngủ, đi, đứng, đánh, đấm, khóc cười,
bài tiết, sinh lý, gian manh, đạo đức, tội ác, nhân ái; những sinh vật nhỏ
nhoi, hạ tiện, không ngừng quay cuồng trong thế giới tục lụy. Sự giao thoa người-ngựa
trong tác phẩm dường như còn ẩn nghiã tiên thiên: người với ngựa tuy hai mà một,
bằng lối phát âm gần gụi ngựa-người, bằng thế uyển chuyển trong động tác sinh
lý, bằng tính thiên di, bằng lòng yêu tự do, bằng mãnh lực quật khởi... Ở Lê Bá
Đảng, có sự nhập thần giữa người và ngựa, phân thân giữa người và ngựa, khiến
người xem tranh không phân biệt được chính người vẽ ngựa hay ngựa vẽ người. Xóa
biên giới giữa nhân và vật để thể hiện một thế giới tạo vật
huyền đồng trong nghĩa Lão Trang, với những con ngựa sống động như những con
người. Mỗi "nhân vật ngựa", bằng những dessin cực kỳ giầu
đường nét, có ma lực và mã lực biến hoá những cảnh trí thông thường thành ngoạn
mục, mộng tưởng.
Ngựa của Lê Bá Đảng không chỉ là những hình hài bất động
trên tranh mà chúng có khả năng chuyển động, quyến rũ, toát ra đời sống tâm
linh trong ánh mắt, nụ cười, trong tác động thể xác và thú tính: Ngựa buồn, ngựa
vui, ngựa trầm ngâm, ngựa đắng cay, đau khổ, ngựa lồng, ngựa phóng, ngựa đá, ngựa
ăn, ngựa ngủ, ngựa dằn dữ, phong ba, ngựa yêu, ngựa ghét, ngựa nằm, ngựa đứng,
ngựa ngồi... Tất cả những tư thế, những ngậm ngùi của ngựa đều được họa sĩ khai
triển, trong những chiều kích khác nhau, bằng những chất liệu khác nhau. Mỗi
khi có một nồng độ nào đó dâng lên trong huyết quản nghệ sĩ, thì lại có... ngựa,
ngựa là sự giao thoa giữa một cảm xúc bất kỳ, với một làn sóng không tên dấy
lên từ trực giác sáng tạo, cái mà Francis Bacon gọi là "tai nạn"(accident),
tôi xin gọi là tia chớp lóe lên từ một cõi không, biến không thành có, biến ngựa
thành người.
Tấn tuồng nhân loại
Có thể nói, mỗi thời kỳ hội họa của Lê Bá Đảng ít nhiều đều
phát xuất từ bi kịch cá nhân. Họa sĩ lấy cuộc đời làm củi lửa cho tác phẩm và
những bi hài kịch trong loạt tranh được ông gọi là Tấn tuồng nhân loại
(Comédie humaine) cô đọng những trò đời, trò điếm mà ông đã trải qua.
Vẽ ngựa, Lê Bá Đảng có cái nhìn lạc quan về người, ông tìm
trong ngựa sự "hướng thượng" đến "tính người". Nhưng vẽ người,
ông đứng ở tư thế ngược lại: nhìn người dưới góc độ thú, nói cách khác, ông đứng
ở "quan điểm" của con thú để nhìn người. Nhà thơ Francis Ponge đã từng
nhìn người bằng mắt ốc, mắt sỏi... Lê Bá Đảng nhìn người bằng mắt ngựa, mắt
mèo, mắt núi, mắt sông... và như thế, chưa chắc người đã cao hơn, siêu hơn thú,
vật.
Người xem đặt biệt chú ý đến những nét mỏng, nét đơn, tạm gọi
là những nét bi quan Lê Bá Đảng: Nếu trong tranh ngựa, dessin của ông tung bay,
hoành tráng, thì trong tranh người, ông hà tiện nét, nét ông li ti, hài hước,
hoài nghi, cay độc, châm biếm, đến độ suồng, dâm... Họa sĩ muốn bộc lộ những ti
tiện tráo trở của con người với những hỉ, nộ, ái, ố... trong trạng thái trần trụi
thê thảm nhất, đường nét của ông cũng khôi hài, hạ tiện, cũng đơn mỏng và lật lọng
như phận người. Dessin thay người, chúng sống hộ người những trạng
thái mong manh, bạc bẽo, nhạt nhẽo, phận sao phận bạc như vôi, chúng phản
ánh những bi quan của Lê Bá Đảng về con người, chúng vẽ nên thói đời đơn bạc, đảo
điên, chúng hướng về những bấp bênh trong cuộc sống, chập chờn trong định mệnh,
chúng treo ngành giữa sống và chết. Lê Bá Đảng dùng nét như một chất liệu hội họa,
như phong cách họa sĩ, để vẽ nên nhân cách con người.
Lê Bá Đảng ghét người. Ông thao túng người qua những nét cực
kỳ mỉa mai, châm biếm. Ông vẽ cõi nhân sinh bé tí trong những trạng thái ngoạn
mục và khôi hài, chữ nhân đi liền với chữ dục, thế giới người của Lê Bá Đảng là
cõi nhân dục triền miên. Ông vẽ những cái không thể vẽ được: cái phiếm và cái
điếm trong con người.
Tính cách biếm và điếm trong con người, cộng
với nết rong chơi, hài hước của tác giả, thêm những chất liệu cực kỳ đơn giản:
mực tàu, nét mỏng, tạo "không khí" đối thọai, thỏa hiệp tay đôi giữa
nghệ sĩ và những nhân vật mà ông tạo ra. Như thể Lê Bá Ðảng ở trong nhân vật,
nhìn và vẽ nhân vật bằng linh hồn và thể xác của chính mình.
Với người, Lê Bá Đảng vừa phân thân vừa hóa thân, vừa vẽ, lại
vừa là nhân vật trong tranh đang vẽ. Tất cả thực hiện bằng mắt. Nếu mắt với
mọi người là "cửa sổ của linh hồn",thì đối với Lê Bá Đảng, mắt
còn là hồng tâm sáng tạo. Mắtsoi suốt thế giới ta bà. Mắt sống trong
núi, trong cây, trong cỏ, trong sông, trong biển... Mắt từ thượng nguồn chẩy xuống
miền xuôi: suối mắt, mắt phượng, mắt hiển linh, mắt thịt da, mắt dâm ô trụy lạc,
mắt thú, mắt người, mắt ma, mắt quỷ, mắt Phật...
Đối tượng vẽ được/bị nhiều con mắt tứ phía chiếu vào, rồi như
chính nó cũng đang đăm đăm nhìn quang cảnh xẩy ra trước mắt. Hiện tượng phức xạ
này khiến những chân dung trong tranh Lê Bá Đảng lạ lùng hơn những biếm họa
khác: chúng nhiều chiều. Xoay đi, xoay lại, nhìn dưới góc độ nào, mỗi thực thể
trong tranh đều có thể nhìn mình, đều có thể dở dói những hành vi khác nhau, gợi
những cảm giác, những rung động khác, bộc lộ không những cả "nội tâm" lẫn "hình
thức" của chúng mà còn phản ánh những ẩn ức, những điều không nói, những
ám ảnh, mộng mơ, chưa thành hình. Họa sĩ hướng người xem về vùng biệt tích
trong vô thức con người, cho thấy tất cả đều khả thể.
Không gian Lê Bá Đảng
Ý niệm về không gian, ai chẳng có. Ý muốn biểu dương vũ trụ
cũng không lạ. Nhưng ý thức được tính tương đối trong vũ trụ thì có lẽ phải đến
Trang Tử mới thật sự đặt vấn đề. Với chim bằng, cá côn, ao trời, gió lốc...
Trang Chu đã "tạo hình"cái vô cùng của tạo vật và cái lẽ tương đối
ở đời.
Hội họa Tây phương, giàu kỹ thuật, không ngừng biến chuyển,
nhưng vẫn nghiêng về hiện thực, vẽ những gì thấy được, những thể nắm
bắt được, kể cả khi phá thể để lập thể, trừu tượng. Trong một chừng
mức nào đó, hội họa Tây phương vẫn chưa thật tình thám hiểm thế giới tâm linh,
chưa thật sự trăn trở với lẽ âm dương, sống chết, cái lý tương đối ở đời.
Hội họa Đông phương nghiêng về đạo, về triết lý sống,
nhưng lại không tìm cách phát triển những kỹ thuật hội họa tân kỳ cho phép diễn
tả một cách đa chiều, đa dạng.
Hiếm hoi là những nghệ sĩ dung hợp được kỹ thuật tạo hình
phương Tây với triết lý sống phương Đông, để tạo ra con đường nghệ thuật phức
âm, đa nghĩa; rọi ánh sáng dưới nhiều góc độ vào những trăn trở của con người về
cõi sống, cõi chết, cõi biết, cõi không, về hư vô cực lạc, về cái đạo của
con người, ở chỗ Tâm và Vật không còn phân chia giới hạn.
Lê Bá Ðảng là một trong những nghệ sĩ gốc Á Đông hiếm hoi, đã
nắm được bí quyết giao hoà Ðông Tây, tìm đến sự hòa đồng Tâm-Vật,
Âm-Dương, Hữu Hạn-Vô Hạn trong tác phẩm nghệ thuật.
Trong hành trình sáng tạo, Lê Bá Ðảng đi từ con mèo, con ngựa,
con trâu đến... con người, và ở mỗi con, ông đều cố gắng đào sâu đến
nguồn ngọn, cỗi rễ: Với lối nhìn "thấu suốt", ông có thể chế tạo những
"đầu-trâu-tâm-phật", "hình người-dạ thú", "khẩu phật-tâm
xà"... dễ như trở bàn tay. Qua hơn nửa thế kỷ sống với nghệ thuật tạo
hình, dường như ông đã thuộc lòng thế giới "nhân vật cầm thú", cũng lại
quá quen với không gian ba chiều trong lối học hàn lâm, mà cách nhìn "viễn
cận" chưa hề thay đổi từ hơn 20 thế kỷ.
Không gian Lê Bá Đảng là sự phản kháng những không gian
ba chiều đã trọng tuổi, là sự chống lại quan niệm lỗi thời của hội họa trường ốc:
Vẽ những gì thấy trước mắt. Dù nghệ nhân có thể hồi khứ, ngoái lại dĩ vãng,
nhưng vẫn phải moi ký ức ra khỏi óc, để nó lên bàn, trước mặt, mà vẽ.
Hội họa lập thể mở rộng hơn: Đối tượng vẽ, không im lìm,
không "chết", nó có quyền chuyển động. Lập thể mở thêm chiều thứ tư:
Chiều chuyển động cho tác phẩm.
Hội họa trừu tượng phá thể, để ngòi bút xé nát đối tượng,
tiêu tùng hình thái, vẽ những tư tưởng. Mỗi nghệ sĩ có thể tạo một lối họa, lối
nhìn riêng về đối tượng; và người xem cũng có quyền nhìn tác phẩm theo ý mình,
độc lập với nghệ sĩ. Hội họa trừu tượng phá bung những định kiến, những hàng
rào ngăn cách, để con người tự do thưởng ngoạn, tự do tưởng tượng và nghệ sĩ tự
do sáng tác. Mối tương quan cố định giữa đề tài bức tranh và sự cảm nhận của
người xem không còn nữa. Hội họa trừu tượng lấy tư tưởng làm đối tượng, lấy tự
do làm khởi điểm và chính ở chỗ tự do ấy, con người mới thấy cái giới hạn
của chính mình.
Lê Bá Đảng muốn thoát ra khỏi tất cả những ràng buộc về quy
luật của nghệ thuật cổ điển, kể cả sự "tự do giới hạn" trong hội họa
trừu tượng, để mở ra một "cõi ta" của riêng mình, ông sáng tạo Không
gian Lê Bá Đảng.
Không gian Lê Bá Đảng là gì?
- Ðó là sự gặp gỡ giữa nhiều ngành nghệ thuật: Kiến trúc,
điêu khắc, hội họa... Lê Bá Đảng không chỉ vẽ mà ông tạo hình.
- Ðó là mối tương quan giữa người, vật và vũ trụ. Cách nhìn của
Lê Bá Đảng có gì gần gũi lẽ tương đối của Trang Chu: nhỏ có lý của nhỏ, lớn có
lý của lớn, phải cũng vô cùng và trái cũng vô cùng: cứ lấy ánh sáng mà soi thì
sẽ thấy lẽ tương đối nẩy ra, và họa sĩ thể hiện cái lẽ tương đối ấy
trong Không gian Lê Bá Đảng. Bỏ cái nhìn một chiều, hướng về trước mặt,
ông muốn biến đổi không ngừng các góc độ nhìn.
Ở những mô hình Không gian thực tiễn, Lê Bá Ðảng nhìn từ
không trung, bằng mắt chim (côn), như đứng trên mặt trăng nhìn xuống đất. Tôi gọi
là viễn cận vạn lý.
Không gian thực tiễn thể hiện những nứt nẻ trên mặt đất,
những đỉnh cao, vực sâu, trong lòng đất, lòng biển, từ sự bất tận của đại dương
đến những li ti như phận người, phận kiến. Trong không gian thực tiễn, với viễn
cận vạn lý, Lê Bá Đảng có thể gồm thâu vũ trụ địa chất và thế giới nhân sinh
trong chiều kích không quá một thước dài, hai thước rộng.
Không gian ảo tưởng gây không khí siêu hình giữa sống và
chết. Ông vẽ cái hư vô, cái không và cái có. Kỹ thuật, chất liệu, cách sắp
xếp trong mỗi không gian như muốn tạo nên một thế giới, một vũ trụ ngoài
màu sắc. Nói khác đi, trong cõi hư vô ấy, màu sắc chỉ là cái cớ để lưu lại với
hội họa, ông hay dùng sắc nâu, sắc xám, toàn trắng, toàn đen, màu đất nung, chấm
phá vài điểm son như những cột mốc, để tư tưởng, trí nhớ và tâm linh có thể trụ
lại giữa khoảng vô thỉ, vô chung.
Trước những tác phẩm này, một cảm giác hoang mang, lạc loài
xâm lấn, như mình đang nhìn cái hữu hạn của cuộc đời giao tiếp với cái vô hạn của
tử sinh, luân hồi, truyền kiếp.
Trong loại không gian thứ ba, Không gian lịch sử-địa tầng,
họa sĩ tạo cảm giác thời gian liên kết với không gian: một bên là con đường
xuyên suốt quá khứ-tương lai, một bên là viễn cận xuyên địa: mắt nhìn
từ cung trăng xuống địa cầu, đâm sâu vào những địa từng, địa đạo. Dường như họa
sĩ muốn hình tượng hóa cả một thời kỳ lịch sử dân tộc: Xuyên qua những thửa ruộng
khô, những cánh đồng cháy, những bãi cát dài, những ngôi cổ mộ, vào những lớp địa
tầng, đi đến trung tâm trái đất. Trên đường xuyên địa, thỉnh thoảng lộ lên vài
chiếc bóng lơ lửng, mơ hồ, rêu phong, như thấp thoáng có hồn Trọng Thủy đang
tìm dấu Mỵ Châu qua vết lông ngỗng xác xơ, tan tác... Ở một khoảng tối
này, có phải Diêm Vương đang hành hình lũ tội đồ? Ở một không gian u
ám trên kia, Hằng Nga đang cô đơn, giá buốt trên cung Quảng?...
Tác phẩm của ông có nét hoài nghi về tương lai, kèm những khổ đau trong hiện tại
và u hoài về quá vãng.
Nghệ thuật của ông như muốn "thoát hài", đập vỡ cổ
kính để tạo ra không gian phi thời gian, gồm thâu quá khứ, vị lai, địa tầng, địa
chất, cõi này, cõi khác trong khoảnh khắc một cái nhìn. Ðộc đáo. Cô đơn. Nhưng
chính sự cô đơn đó là ánh sáng nội tâm soi trong địa đạo Lê Bá Đảng.
Hạt gạo Trường Sơn
Vật thể hóa một hiện tượng tâm linh, đem những yếu tố hữu
hình, vật chất ra để phân tích một hiện tượng thần bí, đó là công việc của khoa
học nhân văn. Sinh hóa một vật thể, huyễn hóa một hiện tượng vật chất, thuộc địa
hạt nghệ sĩ.
Hạt gạo trong lòng một dân tộc hơn bẩy mươi phần trăm làm nghề
nông, trở thành hạt đời, hạt reo mầm sống, hạt hạ mầm chết. Có gạo, có sinh;
không gạo, không sống. Người ta sống nhờ gạo, với gạo, nhưng không ai coi gạo
như một hạt huyền bí, có khả năng tạo sinh, khi hột gạo đầy; cũng không nhìn gạo
như hạt phù thủy, có khả năng khai tử khi gạo rỗng. Những ý tưởng tâm linh, tâm
vật ấy hiện diện trong hạt gạo Lê Bá Đảng. Ông dùng điêu khắc và hội họa
hòa hợp để kiến tạo nên một sinh thể gạo mà tâm sinh vật, vật
sinh tâm. Hạt gạo bá đảng là hạt gạo của trăm làng, reo rắc truyền
bá lời nói thẳng, hạt gạo có bệ phóng như cái loa. Hạt gạo trực ngôn mang bản
chất của người nghệ sĩ có tên Bá Đảng. Bá như trăm, bá như
cái loa, bá cứng như gỗ trắc, bá mềm và uyển chuyển
như dây cương ngựa bằng da; đảng như thôn làng, đảng như lời
nói thẳng; tất cả những ý nghĩa đó của hạt gạo tiềm ẩn trong hai chữ Bá Đảng,
tên người nghệ sĩ.
Gạo, từ một vật thể đã biến thành một sinh thể tâm
linh huyền hoặc: gạo đầu lâu, gạo thạp thố, gạo ông Địa, gạo Rùa, gạo Âu Cơ
trăm trứng, gạo Âm ty, gạo Vọng phu, gạo Thành Hoàng, gạo Thổ Công, gạo cá
Kình, gạo Bình Than, gạo Diên Hồng, gạo Ngũ Lĩnh, gạo Nước, gạo Rồng, gạo Rắn,
gạo Tiền sử... Lê Bá Đảng thể hiện gạo như một sự tìm về nguyên thủy.
Trên đường đi, gạo bước qua lịch sử, bước qua truyền thuyết, gạo Bá Đảng gọi
sử thi dân tộc và qua dân tộc là sử thi con người.
Những thực thể gạo rực lên như những ánh đuốc tuệ, đặc như thể
chất, rỗng như hư vô, được họa sĩ vận vào phong cảnh Trường Sơn, như muốn nhân
hóa thiên nhiên: biến nhiên giới thành nhân giới: Ông muốn khắc tạc và reo rắc
trên Trường Sơn những hạt gạo mầm Bá Đảng, tạo nên một miền Trường Sơn có nội
tâm và ngoại cảnh giao thoa. Vùng Trường Sơn nghệ thuật, rải rác những hạt gạo
Bá Ðảng, sẽ nổi bật những biến cố lịch sử con người mà Trường Sơn đã mục kích,
đã sống từ thuở hồng hoang đến bây giờ. Trường Sơn ấy không chỉ là Trường Sơn
thiên nhiên thuần túy mà đã trở thành một Trường Sơn nhân văn, trùng điệp núi rừng,
nhưng không hoang dại mà mang dấu ấn nhân sinh. Rặng núi dài xương sườn của đất
Việt, bây giờ có tâm ký, có ức ký, và từ nay sẽ biết thổ lộ phần tâm ức của
mình cùng suối, đèo, mây, gió, biết nói chuyện với những khách du tìm đến Trường
Sơn. Bấy giờ, người ta sẽ tìm đến Trường Sơn, không chỉ vì những thắng cảnh
thiên nhiên đất đá, mà còn tìm đến Trường Sơn như một vùng rừng núi nhân văn,
có sức sáng tạo của con người, biết bảo giữ lịch sử và huyền thọai dân tộc.
Mèo
Hội họa Trung Quốc bắt đầu từ Thư pháp (calligraphie).
Thư gia nổi tiếng nhất Hoa Trung là Vương Hi Chi, sống khoảng thế kỷ thứ tư, thứ
năm trước Tây lịch. Những mộc bản đầu tiên ở phương Đông, khắc chữ của Vương Hi
Chi. Một người tên là Pien Tsai giữ được cuộn giấy có chữ của Vương, Đường Thái
Tôn phải dùng mưu để ăn cắp. Tương truyền người ấy mất ăn mất ngủ rồi
chết.
Chết vì mất chữ. Không phải ngẫu nhiên mà người Trung Hoa
coi thư pháp là nghệ thuật chính, nghệ thuật nguyên thủy, bởi chữ của
họ dựng lên từ đời. Mỗi chữ vẽ chân dung hiện tượng mà nó muốn gọi
tên: Chữ nhân vẽ người, chữ địa vẽ đất,...
Lê Bá Đảng không vẽ chữ, ông lấy vật làm chữ. Tại sao ông lại
chọn Mèo làm con vật "chính danh"? Vì Mèo có mệnh hệ gắn bó với họa
sĩ từ lâu: Mèo là con vật đầu tiên giúp Lê Bá Đảng thành danh (những bức tranh
đầu tiên ông vẽ và bán được là những bức tranh mèo). Đối với Lê Bá Đảng, Mèo
không chỉ là nguồn gốc phát xuất một tài năng, một tên tuổi. Mèo còn là chữ ký
của tác giả.
Ông dùng mèo như một ký hiệu thuần túy tự họa. Nét mèo của
ông trở thành ngôn ngữ, một thứ ngôn ngữ hội họa đầy tính thư pháp, nhưng chuyển
tải được cả những suy tư trừu tượng, siêu hình, nó là dấu ấn của hiện hữu và hư
vô trong toàn bộ tác phẩm Lê Bá Đảng.
Mèo vừa là chim, vừa là rắn. Mèo là
những dấu hỏi: Lê Bá Đảng là ai? Là tôi, hay là một tiền kiếp, hậu kiếp nào
khác? Lê Bá Ðảng có hay không? Mỗi nét mèo là một câu hỏi. Mỗi
nét mèo là một thắc mắc. Khi vẽ chim bằng mèo và mèobằng rắn,
phải chăng ông muốn bay cao, muốn đo không gian, tìm chiều sâu của vô tận? Hay
ông muốn trắc khảo chiều sâu, chiều rắn độc của lòng người?
Mèo biểu hiện cả phần chim lẫn rắn trong
ta, vũ trụ mèocủa Lê Bá Ðảng mang khát vọng của chúng ta: chân bám sát đất
mà luôn luôn tìm cách vươn cao, muốn bay bổng trong không gian, muốn tìm trên
thượng tầng một bầu khí mới. Hỏi có gì nơi đó?
Mèo là chữ ký của nhân sinh, là ký hiệu của sinh loại "đầu
đội trời - chân đạp đất", vừa thực tiễn, vừa hàm hồ, với những kỳ vọng
lắt léo trong lòng.
Sau cùng, những nét mèo của Lê Bá Ðảng, có một
chỗ đứng riêng trong hội họa của ông, chúng xác định nghệ thuật thư pháp của họa
sĩ, một nghệ thuật tạo hình nguyên thủy, đơn sơ, mộc mạc, không phấn son, không
màu sắc.
Nghệ thuật sắc không
"Sắc tức thị không, không tức thị sắc"
Muôn vàn sự vật, dù mang nhiều hình sắc nhưng chỉ do nhân
duyên hòa hợp mà nên. Chúng không có thực thể, chúng rỗng, cho nên: sắc tức
là không mà không tức là sắc.
Sắc hay là thể sắc (Le plein) gồm cả nội
sắc lẫn ngoại sắc.
Nội sắc gồm những sắc căn hay ngũ căn:
năm giác quan của con người: mắt, tay, tai, mũi, lưỡi. Ngoại sắc là
những đối tượng mà ngũ căn nắm bắt được như màu sắc, hình tượng, âm
thanh, mùi và vị.
Hai yếu tố Sắc tướng (Le plein) và Hư
không (Le vide)vừa đối chất, vừa bổ sung cho nhau trong tác phẩm của Lê Bá
Ðảng.
Đám mây kia, có hay không? Hay chỉ là muôn vàn hơi nước tích
tụ lại? Hơi nước kia, có hay không? Hay chỉ là sự bốc hơi của nước ở một nhiệt
độ nào đó? Nhiệt độ kia, có hay không?... Tất cả những câu hỏi như thế đều vô
thường, trả lời rằng có cũng được mà không cũng được. Lê Bá
Đảng dựa trên vô thường để tạo vũ trụ sắc-không của mình bằng
chất liệu trên mạng lưới điện tử. Chất liệu như đất, đá, sắt thép, giúp ông tạo
hình; ánh sáng, điện ảnh và điện tử giúp ông biến hình để tác tạo một thứ không
gian "ăn" vật chất: Nói rõ hơn: vạn vật bị tan trong một không gian
háu đói, mà đen tối là nền. Lê Bá Đảng thể hiện sự vong thân của vật thể: Sắc biến
thành không, không "ăn" sắc, trong một không gian mà
ông gọi là bí mật Lê Bá Đảng.
Giải mã bí mật: hãy nói về Sắc (le Plein). Sắc ở
đây được biểu hiện dưới hình thức không tượng mà cũng không tranh: vị sư ngồi
thiền, nhưng hình như không phải sư, cũng không phải tượng, vì tượng thì phải đầy,
đằng này vị thiền sư bị rỗng. Sự "rỗng" vừa nói lên chất hư
không theo Phật học, lại nói lên chất hư vô trong triết học. Hai
chìa khoá này, mở cửa cho ta vào thế giới tưởng tượng của chính mình: Thiền sư
còn đó hay người đã tịch rồi? Có phải là thiền sư hay chỉ là ảo giác? Họa sĩ loại
hết những yếu tố "thừa" trong tạo vật, nhân sinh, như thịt xương, màu
sắc, để chỉ giữ lại hai cốt lõi: sắc-không. Và ông thể hiện "sắc-không"
với chất liệu dây thép, dây vàng, dây gai... để tạo ra nhiều hình sắc khác
nhau: Nhện giăng tranh, mắt nhện, ngựa vờn, ngựa gió, khỏa thân, thiền
sư ... toàn bằng dây. Dây tạo nên hình nhưng lại làm rỗng nội dung, khiến
cho mỗi hình thể như có chứa đựng hư vô trong mình.
Vũ trụ sắc-không là sự phủ định của họa sĩ về thế
giới nhân sinh mà ông tạo ra: một sự xóa thể, vong thân, nhưng nó cũng chứng tỏ
tính cao ngạo của con người, muốn vươn đến cái siêu việt, vô thân, vô thể.
Tranh hai mặt
Phần đông các nghệ sĩ tạo hình thường chỉ chú ý đến một mặt của
tác phẩm, tức là mặt phải, mặt trình diễn, mặt phô ra trước người xem. Chẳng hiểu
sao Lê Bá Đảng lại chú ý đến mặt trái của tác phẩm. Có họa sĩ nào nghĩ đến việc
vẽ trên mặt sau của bức toile? Có nhà điêu khắc nào khắc trong lòng bức tượng?
Vậy mà Lê Bá Đảng chú tâm đến mặt sau bức tranh, chú ý đến lòng bức tượng.
Khi tạo tranh hai mặt, có phải ông đã thấy trong
lòng trái đất một thế giới khác? Trong lòng đại dương một vũ trụ khác? Trong
lòng người, dưới đáy sâu tâm hồn, một lớp lang khác hẳn diện mạo bên ngoài? Cái
đáy này, tạm gọi là vùng tâm thức, hay tiềm thức, con người không biết rõ lắm,
nhưng không thể phủ nhận. Vùng ấy hình như chứa đầy những hình ảnh dị thường,
lành dữ lẫn lộn, sáng tối chưa phân minh, truyền thuyết, lịch sử hoảng loạn
trong nhau.
Để vẽ cả hai mặt của thế giới người và vật ấy, Lê
Bá Đảng dùng chất cứng như kim loại làm cốt, rồi ông bồi thêm một chất liệu giống
như vôi vữa để tạo nền. Trên chiều dầy kim loại và chất liệu xây dựng này, ông
tạc hai mặt tác phẩm: Mầu sắc ở đây thường là mầu cổ, mầu rêu, rêu xanh, rêu
xám, màu hoàng thổ, màu sa huỳnh, màu long não, màu da đồng, màu quá khứ... Những
đường khắc trên tranh là những nét mơ hồ, như một vùng tâm-tiềm chứa những hình
ảnh chồng chất như mớ bòng bong. Ðó là cái kho huyền bí, nhưng cũng lại là thực
tế hiển hiện như rong rêu trong lòng biển, như khối huyết tương trong lòng đất
mà hỏa sơn phun ra.
Tranh hai mặt Lê Bá Đảng thể hiện tính chất lưỡng diện của
sinh thể và vật thể: trái đất có lòng, đại dương có tim, con người có tâm.
Nhưng nếu hỏi tâm là gì thì không biết.
Huệ Khả nói với Bồ Đề Đạt Ma: Tâm con không yên. Đạt Ma
trả lời: Ngươi đưa tâm của ngươi ra đi. Huệ Khả đáp: Con tìm mãi
tâm mà không thấy. Bồ Đề Đạt Ma bảo: Đó! Tađã yên tâm cho ngươi rồi đó. Huệ
Khả giác ngộ.
Lê Bá Đảng dường như muốn vẽ cái tâm ấy. Vẽ cái chỗ
không biết ấy. Vẽ trạng thái tâm truyền tâm, không qua văn tự.
Cõi dục
Tranh, tượng của Lê Bá Đảng thường được vẽ, được khắc, trên
nền phụ nữ khỏa thân. Như thể thân xác là nền của nghệ thuật. Ông cho người
xem cái cảm tưởng chỉ cõi dục, với những dục ảnh, dục tình mới có khả năng diễn
tả toàn bộ đời sống thiên nhiên và con người.
Ông trộn thân xác trong bối cảnh thiên nhiên, vật
thể; rồi lại từ cái vũ trụ đã hình thành từ thân xác ấy, ông phân tích những tế
bào, những bắp cơ, những mạch tuyến... để khám phá động tác dục tình. Nhưng động
dục chỉ là một cớ để họa sĩ tạo đường nét mới: dục tình ở đây là sự giao
hoan đường nét, giữa mây và bão, giữa đài hoa và nhụy hoa, giữa phấn và noãn,
giữa thần linh và ác quỷ, giữa chất liệu và màu sắc, giữa chữ và nghĩa, giữa
gió và mưa... Vị trí giao hoan thay đổi không ngừng như những cảnh trí, những
thế đứng, thế ngồi, của các đường cong, đường thẳng trên thân thể... và đồng thời
cũng là cuộc gặp gỡ hoan lạc giữa những ý niệm, của mình với chính mình, giữa
con người và vật thể, con người và thú tính, con người với bóng mình, con người
với những giấc mơ... Rốt cuộc, nghệ thuật dục họa của ông là sự tìm
kiếm không ngừng một thân xác nằm trong trời đất. Chân lý: cái đẹp đầu
tiên và cuối cùng đều nằm trong thân xác.
Xem tranh Lê Bá Đảng là một cách tìm hồn và xác của cái đẹp.
Khi thấy một bóng, một dáng, một dạng... người chen lẫn trong nước,
trong trời, trong núi, trong mưa, trong mây, trong cây, trong lá... ấy là ta đã
bắt được hồn tranh. Họa sĩ đem hồn mình giấu trong cỏ, cây, mây, nước,
dưới những đường nét bí mật của một tha nhân khác phái, tạo nên sự kết hợp
tâm-thân giữa hai thực thể cái-tôi và cái-khác-tôi, đưa đến cuộc giao hoan thầm
kín giữa tình yêu và nghệ thuật. Trong dục họa, Lê Bá Đảng nhân cách hóa cảnh
vật bằng chính tâm hồn mình ở mức độ thầm kín nhất: vẽ cuộc giao hoan nguyên thủy.
Người nghệ sĩ luôn luôn tìm kiếm sự thật, mà con ngườilà sự
thật đầu tiên và cuối cùng. Người nằm trong thân xác.
Cho nên họa sĩ đặt thân xác vào trong trời đất, như một đối tượng bí mật, để tư
tưởng không ngừng tìm kiếm, để con mắt tìm mọi cách chiếu ánh sáng vào. Hành động
thầm kín nhất của thân xác là giao hoan, một động tác tình yêu, nhưng đồng thời
cũng là một đòi hỏi, một nhu cầu, một động tác bạo lực, động tác sống và gieo mầm
sống...
Giao hoan là khu rừng bí mật, mà nghệ thuật khó khai thông, lại luôn luôn bị cất dấu, dập vùi bởi những cấm kỵ đạo đức, tôn giáo. Phá giới, họa sĩ đặt hoan giao lên đài vẽ, như một động tác chính yếu của thân xác, cần phải khảo sát. Nó cũng là động tác cơ bản của con người trong trạng thái nguyên thủy, khi Adam và Eve nếm trái cấm lần đầu, và con mắt vụng trộm của Thượng đế chưa kịp sục sạo truy lùng để ngăn cản và hành tội.
Giao hoan là khu rừng bí mật, mà nghệ thuật khó khai thông, lại luôn luôn bị cất dấu, dập vùi bởi những cấm kỵ đạo đức, tôn giáo. Phá giới, họa sĩ đặt hoan giao lên đài vẽ, như một động tác chính yếu của thân xác, cần phải khảo sát. Nó cũng là động tác cơ bản của con người trong trạng thái nguyên thủy, khi Adam và Eve nếm trái cấm lần đầu, và con mắt vụng trộm của Thượng đế chưa kịp sục sạo truy lùng để ngăn cản và hành tội.
Mắt
Hỡi đôi mắt! Hồ thủy tinh trong suốt
Soi trần gian, địa ngục, vạn đời ma.
Bích Khê
Bích Khê hỏi mắt: Người là ai? Người hỡi người là
ai?
Lê Bá Đảng tìm về đồng tử.
Bởi con ngươi là "chúa của mắt" như
lời thơ Apollinaire "pupille, Christ de l'oeil". Từ địa vị chúa
tể ấy, con ngươi ngự trị sinh hoạt con người.
Con ngươi là thần linh của mắt, ở trong mắt.
Cho nên Lê Bá Ðảng thực hiện đến hàng chục bức con ngươi.
Và, Mắt, dưới nét vẽ của Lê Bá Đảng là một thực tế bát quái biến dịch,
có khả năng nói tất cả mà không cần lời. Mắt với ông là hành trình tự
do và khủng hoảng của con người, vừa tình, vừa tội, vừa đam mê, vừa phản trắc,
vừa âm mưu, vừa khốn khổ; mắt xác định cái tôi, mắt là cực lạc, nhưng cũng là
âm phủ. Mắt luồn lọt trong không gian, chui xuống các lớp địa tầng, mắt nằm
trong lục phủ ngũ tạng, mắt xoi mói điều tra, mắt mật vụ, mắt van xin, mắt tử tội...
Mắt, trong tranh Lê Bá Đảng, gợi không khí Kafka, báo hiệu một
thế kỷ u tối, tuyệt vọng, con người bị đàn áp và tự đàn áp. Mắt, nói lên sự
sợ hãi trường thiên của cá nhân con người trong thế kỷ: bị dò thám, theo dõi,
đe dọa... tất cả những trạng huống hãi hùng phản ảnh trong ánh mắt, lòng đen
chìm trong hố sâu huyền hoặc, đen hơn địa ngục, bàng hoàng hơn nhật thực, tăm tối
hơn nguyệt thực.
Mắt loạn là một chủ đề khác, một sự loạn thần, nhìn gà
hóa cuốc, nhìn trăng hóa sao, nhìn trời thấy đất... Lê Bá Đảng vẽ những loạn tưởng,
những trạng thái cuồng qua ánh mắt, vẽ những phẫn nộ, những mầm hoang tưởng
trong con ngươi con người.
Mắt của Lê Bá Ðảng có hai phần: Mắt và Não. Não là
những đường tơ song song, hình thức sóng, não tựa như hình ảnh Thượng đế trong
câu tục ngữ Hòa Lan: "Thượng Đế tiến thẳng với những đường
cong". Tuyến não giống như tuyến mắt. Ðồng tử là tụ điểm, từ đó các
làn sóng não thùy xuất phát, vừa để tung ra, vừa phong tỏa các tin tức về trạng
thái tâm linh con người.
Trong những bức màu nước thực hiện năm 96, Lê Bá Ðảng làm nổi
bật sự giao hòa giữa não thùy và đồng tử trong các trạng thái khác nhau. Tranh
phóng vào những vùng tăm tối của não thùy, vào những âm u của trời đất, của
lòng người; bởi tranh ông không chỉ thể hiện "phần người", mà luôn
luôn có cả "phần thú". Tranh, có thể từ người biến sang vũ trụ, hoặc
ngược lại từ vũ trụ trở về con người, tiềm ẩn sự hỗn mang trong tư tưởng, sự loạn
thần của cỏ cây mây nước, sự vong thân của con người cầm thú, mắt người, miệng
quỷ, tâm phật...
Ở tranh Mắt, 2000, sự vong thân của mắt như dữ dội hơn với
những bức sơn dầu lớn, như có diêm vương trong đáy mắt: một vòng xanh, đen, trầm,
lặng, mênh mông như đại dương, vô thanh như niết bàn, nhưng cũng ghê gớm như một
địa ngục tịch lặng.
Các làn sóng não thùy cũng đã biến đi, vùng sóng não, giờ đây, chỉ còn là một mặt bằng thuần nhất, trong như bích ngọc, lam ngọc, thủy ngọc... như thể tất cả tội ác rồi cũng tan tác, cũng cát bụi, như những kiếp người. Chỉ còn trụ lại những đáy mắt, ngục mắt, trục đồng tử không chết được, không tiêu tan được, đã đọng lại thành những tinh thể... Ðó là những linh hồn lang thang, không sống được ở cõi này, cũng không siêu thoát được trong cõi khác, bởi chúng đã chứng kiến, đã nhúng tay vào sự hành hạ con người, chúng là con người thác sinh không lối thoát, chủ thể những tha hóa của chính mình.
Các làn sóng não thùy cũng đã biến đi, vùng sóng não, giờ đây, chỉ còn là một mặt bằng thuần nhất, trong như bích ngọc, lam ngọc, thủy ngọc... như thể tất cả tội ác rồi cũng tan tác, cũng cát bụi, như những kiếp người. Chỉ còn trụ lại những đáy mắt, ngục mắt, trục đồng tử không chết được, không tiêu tan được, đã đọng lại thành những tinh thể... Ðó là những linh hồn lang thang, không sống được ở cõi này, cũng không siêu thoát được trong cõi khác, bởi chúng đã chứng kiến, đã nhúng tay vào sự hành hạ con người, chúng là con người thác sinh không lối thoát, chủ thể những tha hóa của chính mình.
Thiền xanh
Suzuki, trong Thiền luận, chương bàn về Trụ xứ của
Bồ Tát, có nhắc đến câu kinh Bát nhã bát thiên tụng: "Tâm của
Như Lai không trụ bất kỳ đâu, không trụ trên các pháp hữu vi, không trụ trên
các pháp vô vi và do đó không hề rời khỏi vũ trụ." Câu này có ý diễn
đạt thuyết Tánh không trong đạo Phật. Tôi là gì? Tôi ở đâu? Tôi từ
đâu đến? Tôi đi về đâu? Những câu hỏi này phát xuất từ đầu mối: Tự tánh của
tôi ở đâu? Nghĩa là trụ xứ hay chỗ trú của tôi ở đâu? Do đâu mà tôi dấy
lên hành động? Về nghi vấn này, các vị thiền sư trả lời khác nhau.
Thượng Khê Liên, khi được hỏi về phong cảnh Thượng Khê,
đáp: "Con nước trước mắt chảy về đông." Thiền sư Minh,
ở Tương Đàm đáp: "Núi liền Đại Nhạc, nước tiếp TiêuTương." Riêng
Thái Khâm ở Kim Lăng trả lời: "Không vẽ nổi". (Thiền Luận,
Suzuki, quyển hạ). Tất cả những khẩu quyết trên đều nhắc tới trụ xứ của Bồ
Tát.
Kinh kim cương đưa ra một khía cạnh khác của thuyết Tánh
không: "Hãy để cho tâm của người khởi lên mà không cố định nó bất
cứ ở đâu." Lời kinh này tàng ẩn ý nghĩa: hãy dựng tâm mình dạy mà
không cố định nó bất cứ ở đâu, tức là hãy làm chủ trọn vẹn chính
mình.
Hai ba chục bức thiền xanh khổng lồ vẽ trong thời
gian rất ngắn, như mỗi tia chớp giác ngộ, thấy một Bồ Tát dấy lên từ vô thức, họa
sĩ ghi lại ngay. Những nét đọng lại trên nền xanh ấy, không là người, không là
Phật, mà là một cõi, tôi gọi đó là "trụ xứ của Bồ Tát", là
cõi tâm không, tánh không. Họa sĩ vẽ cái "tâm không trụ" của
chính mình và ông đã tạo ra cõi thiền Lê Bá Đảng.
Ở đây, ông đã bỏ hết dessin, màu sắc, chỉ giữ lại vài
nét mơ hồ chìm nổi thất lạc trong màu xanh nguyên thủy; như muốn vẽ những gì
không thể vẽ được của vũ trụ Tánh không. Cho nên, nhìn thiền
tranh, chúng ta tìm thấy một sự tịnh tâm, một vũ trụ mộng tưởng, một khoảnh
khắc sống "khác" những gì đang sống... Họa sĩ vẽ Phật ư? Không lấy gì
làm chắc. Nhưng vẽ gì thì vẽ, Lê Bá Đảng cũng chỉ vẽ chính mình, vẽ trụ xứ
của mình. Một trụ xứ không biết đến từ đâu, trở về đâu. Với thiền tranh,
trụ xứ của Lê Bá Đảng biến đổi khôn lường, trong vũ trụ xanh. Ðể vẽ cái "vòng
tâm bất định", họa sĩ trình bày một vòng tròn, tượng trưng mặt bồ tát, với
những nét thấp thoáng, dạng tròn mà như vô dạng, có đường kính giới hạn nhưng lại
như vô hạn, tất cả như muốn xác định trụ xứ của bồ tát: là một vòng tâm bất
định.
Do đó, mỗi khuôn mặt bồ tát mà họa sĩ vung lên tuy là
một vòng tròn có chu vi khép kín nhưng tạo được cảm giác mở rộng đến vô cùng. Mỗi
khuôn mặt, dấy lên từ một cõi thiên thanh bất tận như trái đất, hành tinh xanh
trong vũ trụ đạo. Mỗi nét mặt là một cõi tâm, "tâm vô tâm" trong vũ trụ tánh
không. Mỗi nét tròn gồm thâu những khổ đau, bất hạnh trong trời đất, những hạnh
phúc của miền cực lạc xa xăm.
Thiền xanh, tạo cảm giác đứng trước một không gian mà vật
chất tan biến trong tinh thần, tinh thần hòa tan trong vật chất, và để trả lời câu
hỏi "Tôi ở đâu", họa sĩ bảo: Không vẽ nổi, qua những bức tánh
không, đó là trụ xứ bồ tát, như câu thơ Mai Thảo: Tôi không.
Tập hợp những bài viết ngắn từ 1997 đến 2004.
Chú thích:
Những phần Ngựa, Tấn tuồng nhân loại và Không
gian Lê Bá Đảng đã in trong Sóng từ trường (nxb Văn Nghệ, California,
1998) nay được sửa lại và bổ túc thêm.
Tranh Lê Bá Đảng trên mạng lưới:
http://lebadang.free.fr
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét