Lời nguyền
Lời nói đầu
Khi sửa soạn làm số đặc biệt tưởng niệm Khái Hưng, anh Trần Đình Phong cùng anh Nguyễn Đình Vượng có đến tòa soạn nhật báo Dân Chủ tìm tôi,
yêu cầu cho Văn được biết những gì tôi biết về Khái Hưng, cung cấp cho Văn một
ít tài liệu và viết cho Văn một vài bài.
Tuy quá bận, song tôi đã vui vẻ nhận lời và «Văn số 22,
tưởng niệm Khái Hưng» được ra đời vào ngày 15 -11-1964.
Trong đó, ngoài những tài liệu đặc biệt và giá trị viết về
Khái Hưng của học giả Hồ Hữu Tường và các văn hữu khác, tôi đã phải bận tâm và
chú ý đến đoạn chót của bài «Khái Hưng, thân thế và tác phẩm» Bài
tiểu luận này do Thư Trung viết.
Sau khi đã kể lại thân thế và sự nghiệp văn chương của Khái
Hưng, Thư Trung kết luận:
«In lại những tác phẩm mà Khái Hưng đã hoàn thành trong
thời gian ông đấu tranh Cách Mạng không những là việc nên làm của thân nhân và
văn hữu Khái Hưng mà, theo thiển ý còn là việc cần làm của Bộ Quốc Gia Giáo Dục.
Cùng lúc với sự khôi phục giá trị cho một Khái Hưng nhà văn Cách Mạng việc
in những tác phẩm hiếm có của Khái Hưng còn gìn giữ cho kho tàng văn học dân tộc
những tác phẩm có giá trị bền vững, và hơn thế nữa, còn nuôi nấng được trong
lòng những thế hệ trai trẻ đang tới cái ý thức hào hùng của nhà Cách mạng chân
chính thực lòng mến yêu quê hương, thiết tha với tương lai dân tộc...
«Có một điều này chắc chắn: chịu tốn công sưu tầm rồi đem in
thành sách những tác phẩm của Khái Hưng viết hồi 1945 - 1946 ít nhất cũng có
ích cho văn giới và học giới nhiều hơn là đem in lại những bài báo của Phạm Quỳnh
viết từ năm 1917. Việc có ích đấy, nhưng mà có ai làm không? Và ai sẽ làm
đây?»
Theo Thư Trung, chỉ «chịu tốn công sưu tầm rồi đem in
thành sách», vấn đề thật cũng quá giản dị đấy, và cũng không mấy khó?
Nhưng sưu tầm ở đâu? Thư viện nào có giữ? Mò trăng đáy nước có lẽ
còn dễ hơn là việc đi sưu tầm những bài của Khái Hưng viết trong những năm 1945
- 1946.
Tôi có một may mắn không ngờ (nhưng không tiện nói rõ ra đây)
là ngay từ năm 1945 - 1946, và sau ngày toàn quốc, khói lửa tôi vẫn còn giữ được
một số tài liệu quí, có cả những bài Khái Hưng viết. Tôi còn được biết thêm là
ngay từ hồi đó. Khái Hưng còn có cả bản dịch toàn bộ «Liêu Trai Chí Dị» và đã
cho một thân hữu mượn.
Người bạn đó là ai, hiện còn giữ nguyên bộ «Liêu Trai Chí Dị»
của Khải Hưng như lúc văn sĩ cho mượn nữa hay không, tôi cũng xin miễn kể. Câu
chuyện đã trở thành riêng tây và đã đi vào quá khứ «im lặng như một nấm nhà mồ» rồi.
Lời Nguyền tập truyện cuối cùng cũng như vở kịch dài bốn hồi
nhan đề «Khúc tiêu ai oán» của Khái Hưng, hiện nay tôi vẫn giữ (Ấy là
chưa kể tập truyện dài «Xiềng Xích» tôi có được một ít, vì Khái
Hưng đang viết giở giang, và những bài thuộc loại, nghị luận về chính trị, xây
dựng văn hóa, xã hội, khảo cứu và các loại linh tinh khác...)
Qua nhiều lần yêu cầu, thúc dục của gia đình tác giả mong tôi
sớm cho in thành sách và qua những lời kêu gọi của anh bạn Thư Trung nói trên
tôi đã cố gắng cho in cuốn Lời Nguyền, giữa một thời củi quế gạo châu này.
Để làm đẹp lòng người đã chết, với tất cả chân thành của một
người em văn nghệ vẫn hằng mến yêu văn sĩ. Để làm vui lòng những người còn sống,
đã luôn luôn tha thiết với tiền đồ Văn học nước nhà... Và phần thưởng tinh thần
mà tôi tin tưởng sẽ đến với tôi, chính nhờ ở tấm lòng cởi mở của các thân hữu
và của các bạn đọc.
Saigon ngày 19- 5 -1966
NGUYỄN THẠCH KIÊN
LỜI NGUYỀN
Đồ sộ, chót vót trên đỉnh đồi cao, đồn Vụ- bản hách dịch nhìn
xuống con đường đá nối Nho Quan với Hòa Bình. Trên một quả đồi đối diện và thấp
hơn, khu trại giam chính trị phạm náu mình trong hàng dậu dầy nứa nhọn và hai
hàng cọc chăng dây thép gai. Phía dưới là một cái thung lũng nhỏ với con sông
Vành quanh co uốn éo như con rắn dài vận khúc bạc lướt mình trong cỏ hoang, rừng
rậm. Bên kia sông là phố và chợ Trào, dăm chục nóc nhà vừa lợp ngói vừa lợp
tranh quây vuông lấy bốn cái quán gạch trống rỗng.
Xa xa về phía Tây Nam, dẫy núi Hoành Sơn sừng sững như một bức
thành kiên cố đứng ngăn. Buổi sáng nó chìm biến vào trong sương dầy trắng đục,
buổi chiều nó lờ mờ trong sương lam bốc lên như khói. Buổi trưa nó lấp lánh ném
ánh bạc của những cây ngân diệp mọc bên sườn. Về phương Đông bắc, và chỉ xa chừng
dăm cây số, một quả đồi cao và dài đứng án ngữ như một bức bình phong. Quanh đó
những núi đá trắng và đen mọc lởm chởm, với những hình thù cổ quái. Còn phía
Tây bắc là những đồi rậm liên tiếp những rừng sâu, cỏ sắc bao vây lấy từng khu
ruộng nhỏ hẹp và dài.
Vùng ấy hằng ngày yên ngủ để chờ đợi những hồi kèn rời rạc
báo giờ từ vòm đồn tỏa xuống, cả những hôm phiên chợ tấp nập, nó cũng yên lặng
buồn tẻ với những người Mường ít cười ít nói: Họ lững thững gánh gạo, gánh
măng, gánh lợn, gà, vịt, ngỗng ra chợ bán, rồi lại lững thững trở về làng với một
ít muối và các thức đồ dùng của người Kinh đem từ vùng xuôi lên. Họ như chán nản,
chả buồn mặc cả nài giá bao giờ.
Cái trạng thái u huyền giữa một cành thiên nhiên hùng vĩ, khiến
Khanh, một tù nhân chính trị, tưởng tượng ra một thần bí gì rùng rợn ngày đêm
bay lượn trên không để đe dọa vùng này. Một hôm vác ống bương ra suối lấy nước,
y ngỏ ý nghĩ đùa bỡn ấy với người lính kèn. Thì kinh ngạc xiết bao, người kia
hãi hùng se sẽ đáp lại:
- Phải, một lời nguyền.
Người lính cũng chỉ thốt ra một câu vắn tắt. Rồi như khiếp sợ
một cái gì có thể sắp xảy tới, y im bặt.
Đêm hôm ấy trong khi nằm lịm trên giường lát nứa, nghe bài
kèn tám giờ, Khanh lại liên tưởng đến người lính kèn và câu chuyện đương tò mò
khao khát muốn biết: Một lời nguyền! Bài kèn buồn rời rợi với những
âm thanh trầm trầm như những lời ai oán của lòng người sau bao phen uất ức!
Hay đó là lời nguyền đêm đêm lên tiếng làm vang động làn không khí âm u nơi đồi
núi?
Tà tà ta ta tí a ta ta...
Lời nguyền của những kẻ bỏ xác nơi ma thiêng nước độc chốn
sơn lâm? Mới tuần lễ trước Khanh đi đưa một người bạn giam đến nơi yên nghỉ cuối
cùng: bên sườn đồi dưới bóng một cây lao xao cành lá rườm rà luôn luôn thì thào
lời oán trách trong gió thoảng qua. Trong đám dân Kinh bên phố, cũng như trong
hàng ngũ binh lính bên đồn và anh em chính trị trong trại giam, thỉnh thoảng lại
một người từ giã cõi nhân gian, sau những cơn sốt nóng sốt rét mê sảng. Phải
chăng họ đáp lại tiếng gọi thiêng liêng, của một lời nguyền độc địa tự đời nào
vang lại?
Hồi kèn đã dứt. Từ đó, trong tiếng thanh sắt trên đồn, tiếng
mõ tre ở các điểm canh, Khanh đều cảm thấy có liên can tới cái lời nguyền ghê gớm
nào đó của người xưa. Qua kẽ rào nứa, một vài chấm lửa bên sông còn le lói, lập
lòe. Đó là những dấu hiệu mong manh của sự sống trong một vùng như chết lịm dưới
màn sương. Khanh ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Và y mê thấy còn thành đanh đỏ
mỏ từ trên trời cao bay sà xuống mổ vào ngôi mộ người bạn đồng trại, chơ vơ bên
sườn đồi dưới bóng cây lao xao ủ rũ.
Nhưng câu chuyện «Lời nguyền» một hôm Khanh đã được người
lính kèn thuật lại cho nghe trong cái lều canh lúa của người Mường.
Sáng hôm ấy, ra tới suối, Khanh thấy hiện ra một cảnh tượng rất
nên thơ: Bên kia dịp cầu tre, trong một khu ruộng khô đất nhỏ, sáu cô Mường,
áo cánh trắng xiêm dài xanh đương chậm rãi gieo ngô. Từng đôi, người đi trước cầm
cây hóp uể oải chọc xuống đất một lỗ, người theo sau uể oải bỏ rơi vào đó một hạt
ngô. Họ đi thong thả, làm việc rời rạc như biểu diễn trên sân khấu cho khán giả
ngắm nghía cái điệu bộ nhịp nhàng của họ. Ngồi trên lều cao, hai chân quấn
«xà cạp» đá đưa đánh dịp, Chín-bảy - tên gọi tắt con số 1297 của
người lính kèn - đương phùng má thổi bài «la mát».. Xúm chung quanh y, trên
các bực thang bốn cô Mường lắng tai kính cẩn ngồi nghe.
Thấy Khanh đến gần, Chín bảy vội rời cái kèn, bước xuống đón
tiếp, vẻ mặt rạng rỡ, dáng bộ dương dương đắc chí như một con gà sống giữa đám
gà mái tơ vậy. Trong khi hai người nói chuyện, các cô Mường chỉ mỉm cười yên lặng
đứng nhìn. Hỏi câu gì các cô cũng làm thinh không đáp. Chín bảy bảo Khanh:
- Các nàng chỉ biết có hai việc: cười và hút thuốc lào. Rồi
anh xem!
Quả nhiên lúc y đi lấy một cái điếu cầy lớn đem ra bỏ thuốc
đánh diêm hút, tức thì cả mười cô đều bỏ việc cười rú lên, chạy ùa lại. Họ xếp
thành một vòng tròn, lần lượt truyền cho nhau cái điếu cầy miệng rộng che kín nửa
mặt mà rít từng hơi dài. Hết mồi thuốc ấy thay mồi thuốc khác, cái điếu đi vòng
tới vài chục lần và bao diêm đánh đã gần cạn. Và cô nào cô ấy ngây ngất mỉm cười
đầu lảo đảo.
Khi các cô nàng lại quay về với công việc gieo ngô của họ,
Khanh theo Chín bảy lên lều ngồi nói chuyện, và vui vẻ hỏi đến việc gia thất của
người bạn quân nhân.
- Tôi đã có vợ ở vùng xuôi, y đáp, nhưng thế nào rồi tôi cũng
phải lấy một người vợ nữa ở trên này.
Và y thêm: «Cũng như phần đông anh em «nhà
binh» ở đây. Đó là một việc bất đắc dĩ».
- Việc bất dắc dĩ? Khanh hỏi, nghĩa là không được phép đưa vợ
con ở vùng xuôi lên đây?
- Không phải không được phép, nhưng vì đã có lời nguyền.
Khanh bỗng thấy rùng rợn. Người lính kèn lại nhắc tới «lời
nguyền » ghê gớm. Chưa kịp hỏi thêm, thì Chín bảy đã đưa mắt âu yếm nhìn theo
các cô nàng áo trắng xiêm xanh hoạt động dưới trời thu mà kể cho bạn nghe câu
chuyện tương truyền trong hàng đội ngũ.
Ngày xưa, thời còn chưa chịu phục tòng người Pháp, dân Hòa
bình chỉ vâng theo mệnh lệnh của các quan lang; người Kinh cũng ít khi lên vùng
này buôn bán. Đi bắt buộc dân Mường phải theo pháp luật của mình và đóng các thứ
thuế như dân Trung châu, một mặt người Pháp đưa những ông quan lang có thanh thế
nhất trong các họ lớn, như họ Đinh, họ Quách ra làm chánh quan lang hay tuần phủ
đứng cai quản tỉnh Hòa bình, một mặt họ lập nên những đòn binh kiên cố ở khắp
các yếu điểm trong địa hạt với những toán lính khố xanh Trung Châu không biết
tiếng Mường, không thuộc phong tục Mường. Mục đích của họ là để đàn áp dân Mường
và để tránh sự thân thiện giữa nhà binh và dân bản xứ.
Đồn Vụ Bản là một trong những đồn binh kiến thiết theo
chương trình thống trị. Nó án ngữ con đường Nho Quan - Ninh Bình. Và đóng giữa
giang san họ Quách, nó lại có thể kiểm soát những hành động của những ông quan
lang có oai quyền ấy.
Với những nhiệm vụ to tát như thế, viên quản mà người Pháp
tín nhiệm cho về coi đồn, ta có thể tưởng tượng hách dịch đến bực nào.
Có một ông, ông quản Tăng, không những hách dịch, mà còn bệ vệ
và ăn ở hành động theo lối Âu Tây y như một quan binh Pháp vậy. Y nằm giường Hồng
kông, ăn cơm tây. Lúc nào sang phố y cũng đóng trào phục mới với hàng huy
chương rực rỡ trên ngực. Tay y cầm roi da, quay tít, miệng y huýt sáo một điệu
âm nhạc nhà binh. Một con chó tây kếch sù đi bên cạnh y; gặp nhà nào quen
thuộc của chủ nó là nó chạy sồng sộc vào khiến lũ trẻ hết cả hồn vào bảo nhau:
- "Quan quản!"
Quan quản! Tiếng ấy oai vệ như tiếng quan Sứ ở tỉnh vậy. Quan
quản là chúa tể vùng này. Quan châu, một quan lang, đối với y, chỉ như một công
chức bản xử đối với quý quan. Bao nhiêu công việc trọng đại đều ở trong tay
quan quản: như thu thuế thợ, thuế đò, thuế thân, thuế điền. Quan châu chỉ là một
người giúp việc.
Nhưng tiếng «quan quản» hình như cũng chưa vừa lòng y. Một
hôm, người ta không hiểu vì đâu, tiếng ấy bỗng đổi ra «quan đồn» rồi cứ
theo cái đà ấy, chẳng bao lâu nó lại biến chuyển thành «Cụ lớn».
Cụ lớn hét ra lửa! Bao nhiêu là môn hạ! Suốt ngày
thì thọt trong đồn những kẻ nấp bóng Cụ lớn. Thôi thì chẳng thìếu gì lễ lạc, tết
nhất, mùa nào thức ấy. Dùng không hết, «Cụ lớn» phân phát cho binh
lính.
Về nhậm chức mới được hai tháng, quan quản đã lấy một cô nàng
hầu người Kinh con một thương gia có tiếng bên phố chợ. Rồi cách đó nửa năm
quan lại kén luôn một lúc hai cô nàng hầu người Mường nữa.
Cái việc lấy nhiều vợ ấy cũng không tốn kém gì cho quan vì bọn
họ đều là con nhà khá giả. Có một điều khiến họ lo lắng sợ hãi, mỗi khi tưởng tới:
"Là chẳng chóng thì chầy thế nào bà lớn quản cũng lên đây thăm chồng. Lúc
bấy giờ nếu cái tin vợ nọ con kia đến tai bà, thì liệu bà có để cho yên không.
Mà cứ theo lời tuyên truyền và lời nói úp mở của quan quản thì bà là con nhà thế
gia đại tộc. Ông thân sinh ra bà làm Tổng đốc và đã hồi hưu. Người ta
khen: «Thực là môn đăng hộ đối!» Vì quan quản nghe đâu cũng là con
một vị đường quan. Y thường kể chuyện thời niên thiếu của y cho mọi người nghe.
Nhà y giàu sang và y rất được chiều chuộng. Mới mười hai tuổi y đã cưỡi ngựa, bắn
súng, và chỉ thích có một nghề binh. Vì thế lớn lên y đã bỏ học để nhập ngũ
«làm quan quản» chơi. Bao giờ đến đoạn này y cũng thêm: «Làm quan văn
thì biết bao giờ lên đến ngũ phẩm, thế mà làm quan võ tôi mới ngoài ba mươi tuổi
đã chánh tam rồi!».
Có lần y tưởng tượng ra cả một thiên tiểu thuyết để tả cái
gia thế nhà y, bịa đặt ra những nhân vật đẹp đẽ và các phương diện ăn chơi hào
phóng hay đạo mạo nho phong. Người được y tả tĩ mỉ chu đáo nhất là Cụ cố và Bà
lớn. Cụ cố là một hưu quan chỉ thích đánh tổ tôm và uống chè tàu.
Cụ ở một cái nhà lầu kiến trúc kiểu Tây. Trước mặt là cái vườn hoa trồng đủ các thứ hoa quý và lạ. Trên giàn thì treo đủ các thứ phong lan đi kiếm từ các miền Thượng du đem về. Còn Bà lớn thì tính rất tốt rất rộng lượng, để mặc quan lớn muốn yêu ai thì yêu. Một mình bà lớn trông coi mấy trăm mẫu ruộng thượng đẳng điền, người ăn người làm tấp nập quanh năm, nên không rảnh rang mà lên tham quan được. Nào đã hết đâu, quan lại còn có một người em trai đã đậu tú tài tây và đương theo học trường Luật và một người em gái nhan sắc tuyệt trần hiện còn đương kén chồng. Tóm lại nhà quan lớn là một nhà danh giá và sung sướng vào bực nhất ở Bắc Hà.
Cụ ở một cái nhà lầu kiến trúc kiểu Tây. Trước mặt là cái vườn hoa trồng đủ các thứ hoa quý và lạ. Trên giàn thì treo đủ các thứ phong lan đi kiếm từ các miền Thượng du đem về. Còn Bà lớn thì tính rất tốt rất rộng lượng, để mặc quan lớn muốn yêu ai thì yêu. Một mình bà lớn trông coi mấy trăm mẫu ruộng thượng đẳng điền, người ăn người làm tấp nập quanh năm, nên không rảnh rang mà lên tham quan được. Nào đã hết đâu, quan lại còn có một người em trai đã đậu tú tài tây và đương theo học trường Luật và một người em gái nhan sắc tuyệt trần hiện còn đương kén chồng. Tóm lại nhà quan lớn là một nhà danh giá và sung sướng vào bực nhất ở Bắc Hà.
Một buổi sáng người ta thấy đến phố chợ Trào một ông già râu
tóc hoa râm và một người đàn bà vào trạc ngoài ba mươi tuổi. Cả hai đều y phục
quê mùa, ông lão mặc cái áo cánh đũi nhuộm vỏ xó và một cái quần nâu sắn cao đến
đầu gối. Người đàn bà mặc áo tứ thân màu nâu bã với miếng đổi vai bằng lụa
thâm, một cái váy chồi nhuộm bùn và một cái yếm trắng cổ xẻ với hai giải màu
hoa hiên đã cũ.
Họ hỏi đường sang đồn, xuống phà qua sông, khó khăn nặng nhọc
leo cái dốc cao, ghồ ghề. Được một quãng ông già lại đặt cái tay nải nâu xuống
ngồi hổn hển và thì thầm nói chuyện với người kia. Đứng trên vòm canh, người
lính gác nhìn theo họ và nghĩ thầm: «Lại một ông già và một mẹ đi lên thăm con
thăm chồng».
Đương gò lưng leo nốt đoạn cuối cùng của cái dốc dài tưởng
không bao giờ đến đỉnh, thì hai người bỗng giựt mình vì một tiếng hô lớn từ trên
vòm chòi ném xuống. Họ ngửng đầu sợ hãi nhìn lên.
- Hai người nhà quê hỏi ai?
Không phải vì hai người kia ăn mặc quê mùa mà người lính gọi
họ là «nhà quê». Đối với quân đội, vì thói quen bắt chước người Pháp, chỉ
có ba hạng người Việt Nam: nhà binh, nhà pha, và nhà quê. Những người không phải
nhà binh và nhà pha đều là nhà quê. Vì thế, một thìếu nữ y phục tân thời,
nếu nghe một chủ lính canh kêu là «nhà quê» thì đừng nên lấy làm lạ và phật
lòng.
- Thưa thầy, chúng tôi vào thăm ông quản.
Người lính hỏi lại để chữa câu nói hỗn của bọn nhà quê:
- Vào hầu quan có việc gì?
- Bẩm chúng tôi là người nhà.
Chú lính canh cho người vào trình quan. Một lát sau người này
ra cổng hách dịch quát:
- Người nhà thế nào mới được chứ?
- Bẩm bẩm tôi là... tôi là..., Người đàn bà thấy ông lão ấp
úng lúng túng liền đỡ lời:
- Thầy vào trình hộ rằng có ông cụ và người đàn bà ở nhà quê
ra thăm.
Người lính gắt:
- Ông cụ! Nhưng ông cụ có họ hàng thế nào với
quan?
- Thưa ông cụ... sinh ra quan, còn tôi là vợ... quan,
Người lính hơi có vẻ sợ hãi vội vàng quay vào đồn, thì vừa gặp
ông quản đứng trong sân ngó nhìn ra hỏi ;
- Hai bố con lão nhà quê đến xin gì thế chú?
- Bẩm, bẩm quan...
Người lính không dám nói dứt câu.
- Đuổi cổ chúng nó ra!
Câu quát tháo to quá khiến ông già và người đàn bà cũng nghe
thấy. Và nhân lúc cổng đồn mở, họ xông vào trong sân. Thấy thế viên quản liền
thét:
- Bọn nhà quê kia đi đâu? Có biết nơi này là gì không mà dám
xông xáo hử? Mất đầu như chơi, biết chưa? Tổng cổ chúng nó ra!
- Tăng! Anh Tăng!
Ông già và người đàn bà chỉ kêu được một tiếng thì đã bị hai
người lính ấy bừa ra khỏi cổng đóng sập cánh cửa lại.
Ông lão già và người đàn bà lại lủi thủi xuống dốc. Họ cùng uất
ức đến cực điểm nên không ai nói với ai một câu, cả hai cùng chôn sâu nỗi căm hận
trong lòng.
Ở chân đồi, ngay bên sông, có một ngôi đền thờ Mẫu. Người đàn
bà mua vàng hương vào lễ, quỳ khấn rất lâu, thì thầm kể lể hết nỗi niềm tâm sự
với Mẫu. Khi ra đường, nàng thấy bố chồng vẫn ngồi y nguyên một chỗ, mắt đỏ ngầu
đăm đăm nhìn dòng sông chảy mạnh, quay nhanh cái guồng nước sừng sững in lên nền
trời trong.
- Thôi đi về, thày!
Ông già thong thả đứng dậy. Nhưng ông đi rẽ xuống ruộng chứ
không qua phà. Ông bảo con dâu:
- Tao không muốn gặp người lái phà, vì tao đã trót bảo cho nó
biết rằng tao là bố thằng Tăng.
Người đàn bà cũng lẳng lặng đi theo ông. Hai cha con, men bờ
ruộng sang một khu rừng lao xao, qua một cái cầu tre bắc trên suối, rồi đến ngồi
nghỉ ở một bãi cát sỏi bên sông. Sau trận mưa to đêm hôm trước nước nguồn kéo về
chảy ào ào như thác. Những thân cây từ rừng đổ về nổi lềnh bềnh, và bị dòng nước
phăng phăng cuốn đi.
- Dẫu sao thì cũng ăn nắm cơm cho đỡ đói đã thầy ạ..
- Mày cứ ăn trước đi. Tao không đói.
Ông già đứng lên, ra sát bờ sông đứng vịn vào mộr thân cây
lao xao. Bỗng ông nghiêm nét mặt dữ tợn nhìn giòng sông, thốt lời nguyền độc:
«Từ nay đứa nào còn lên đây thăm chồng thăm con thì chết như
thế này».
Dứt lời ông gieo mình xuống sông tự tử. Và thân ông cùng với
các thân cây, bị nước nguồn vô tình cuốn đi...
Từ đó lời nguyền vẫn thiêng. Những người cha, người vợ lên
đây thăm con, thăm chồng, khi trở về đều ốm nặng rồi chết.
Và những binh lính trên đồn, những dân Kinh bên phố đều sống
dưới sự đe dọa và sự thực hiện của lời nguyền.
BÓNG GIAI NHÂN
Dĩ úy phù hiền nhi nhục ư thử
LIỄU TÔN NGUYÊN
Chiếc xe ô tô thùng lớn nuốt đường giải bọn tù chính trị phạm
lên trại giam Vụ Bản. Đó là một cái hòm sơn màu đen, ba mặt kín mít, chỉ hở một
cửa ở phía sau. Qua lỗ hổng ấy bụi cát ùa vào trong xe, quét một lượt trắng lên
tóc, lên mặt, lên kính, lên quần áo, chân tay ba mươi tội nhân và bốn người
lính khố xanh áp giải chen chúc chồng chất lên nhau. Trên bực bước lên xe, đứng
hai người lính nữa, mà Khanh một tù nhân, ví với hai pho tượng đá canh cổng một
nơi đền thiêng, trong một ngày gió lớn.
Khanh có cảm tưởng ấy vì phía sau xe, cát bụi tung lên xoáy
cuồn cuộn chạy theo như trong một cơn gió lốc. Đường từ ga Đồng Giao đi phủ Nho
Quan ngoắt ngoéo lượn quanh các đồi, nhưngkhông vì thế mà xe chậm đà. Từ lúc bắt
đầu mở máy cho tới lúc dừng lại, trong khoảng ba bốn giờ đồng hồ, tốc lực của
nó không thay đổi, và ở những chỗ ngoặt, người ngồi ngổn ngang trong xe lại xô
đập vào nhau.
Khanh để ý tò mò quan sát sự biến hình đổi dạng của an hem đồng
chí mà y không nhận được ra ai nữa, mà y thấy già thêm lên hàng chục tuổi, với
mái tóc và bộ ria bạc phơ. Và y ghé tai bảo người ngồi bên cạnh:
«Chúng ta đều là Ngũ Tử Tư, qua một đêm tư lự».
Về sau Khanh cũng quen mắt đi, và y ngồi yên không nhìn xét nữa.
Cái cảnh ra đi buổi sáng vụt diễn lại trong ký ức: Sáng nay y vui vẻ sửa
soạn hành lý để cùng an hem lên đường. Luôn ba tháng nay sống chật chội tù hãm
trong bốn bức tường sàn lim, trong một nơi không khí nặng nề hôi hám lúc nhúc
những người, y chỉ ao ước được mau chóng thoát ly cái địa ngục ấy, dù phải giải
đi đâu cũng cam, đi Côn đảo hay Tân thế giới cũng không phàn nàn. Thì nay y đã
được như ý nguyện. Y còn nhớ cái lúc bị xích tay hai người vào một đứng xếp
hàng ở cổng trại giam Liêm phóng. Y tưởng tượng ra một khoảng trời trong sáng,
một khu đồi lành sạch đương chờ đợi đón tiếp y ở một nơi xa xôi nào đó. Y không
tin những lời dọa dẫm về nước độc ma thiêng. Được rời nơi tối tăm, tanh tưởi đầy
những tiếng oan khốc của người chịu cực hình này, thì đâu đâu cũng sẽ là thiên
đường, đâu đâu cũng sẽ là đất khoáng đạt của lòng người. Và y thấy trong lòng y
reo lên những âm hưởng của tự do, tuy tay y đang bị xích khóa. Y càng ngây ngất
trong hy vọng của đời sống ngày mai, khi nhớ có lời can thiệp của một viên
thanh tra mật thám Tây lai xưa nay vẫn có chút cảm tình với bọn y, khóa xích được
tháo bỏ hết.
Rồi kế đến cảnh đi bộ từ sở Liêm phóng tới nhà ga giữa hai
hàng lính khố xanh và lính mật thám, dưới ánh đèn điện mờ nhạt trong cái chụp
đèn thời chiến tranh. Lời kêu khóc của những gia nhân đi tiễn. Y thấy buồn cười
hơn là thảm thiết. Và y nghĩ: «Khóc cái nỗi gì? Không mừng
cho người ta được thoát khỏi địa ngục thì chớ, lại còn khóc
lóc!»
Ra đến sân ga, thì cảnh tiễn đưa thành một cảnh khôi hài với
cái vẻ mặt tươi tắn của người đi và dáng bộ tang tóc của người ở. Cảnh khôi hài
ấy trở nên hoàn toàn khi thấy mấy bà vợ và bà mẹ mon men lại gần chồng gần con,
người cai lính khố xanh quát tháo mắng ầm lên. Khanh chỉ mỉm cười vui thú, vì
được nhận thêm bao kinh nghiệm trong cái đời văn chương, lúc nào cũng tò mò
quan sát tâm lý loài người.
Bây giờ nhớ lại tấn bi hài kịch ấy, Khanh còn thấy tức
cười... Bổng y nghiêm nét mặt lại buồn rầu. Một bóng giai nhân vừa lóe ra trong
thâm tâm y: một bạn gái bị giam ở sàn lim bên cạnh sàn lim y trong một thời
gian vừa đúng hăm bốn tiếng đồng hồ. «Sàn lim 18», đó là tên giai nhân,
mà cả trại giam đều ghi nhớ, nhắc nhỏm sau khi nàng bị giải đi đâu không ai biết.
Sáng hôm ấy giữa giờ anh em ở các sàn lim và nhà câu lưu được thả ra sân thì cổng
trại giam bỗng nặng nề mở để dẫn vào một giây người vừa bị bắt về. Trong đó có
một thiếu nữ ăn mặc quê mùa, cũ kỹ và rách rưới. Ai nấy chạy lại gần xem tuy bị
lính mật thám xua đuổi. Trong khi mọi người đàn ông còn bị giữ ở ngoài sân thì
người ta đưa thiếu nữ vào hiên dẫy sàn lim và ở đấy người canh ngục chào nàng bằng
một dịp cười và một câu nói mỉa mai: «Thế nào, cô lại trở về đây ư?»
Lại trở về đây? Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Hỏi «cụ Quỳnh», tên người «gác» thì người ấy vẫn cười và đáp: «Lần này là lần thứ ba cô ta
đến đây. Lần thứ nhất cô ta là một nữ học sinh mặc tân thời, lần thứ hai cô ta
giả trai. Lần này, thì đó, anh em coi, có nhà quê đặc không? Lại răng nhuộm mầu
cánh kiến cẩn thận nữa cơ đấy! Thôi lần này thì phát vãng, phát vãng cô ạ.»
Một người thì thầm hỏi:
«Vậy cô ta phạm tội gì thế?»
«Lại còn tội gì nữa» người «gác» tiếp với một gịọng
nói khinh bạc, tội làm Cách mệnh chứ còn tội gì nữa». Thế là bắt đầu ngay từ
phút ấy, thiếu nữ chiếm lấy hết cả lòng sùng kính của toàn thể trại giam.
«Sàn lim mười tám» là một người bé nhỏ, xinh xắn. Đôi mắt sáng với cặp môi tươi trong khuôn mặt trái soan, nước da nhỏ mịn
tuy rám nắng vì công việc đồng áng mà thiếu nữ tạm theo trong khi đi trốn
tránh. Một luồng gió lạ như vừa thổi tới nơi giam cầm u tối. Anh em chạy đi chạy
lại nhộn nhịp tới tấp qua cái lỗ cửa con con của gian sàn lim só 18 để ngó mắt
nhòm vào trong và để hỏi thăm tin tức, nhưng thiếu nữ chỉ giữ một vẻ mặt tươi
cười và một thái độ lặng thinh. Thấy thế người gác phải can thiệp nhiều lần: «Anh em lảng xa ra, không Tây nó xuống thì bị cùm cả lũ bây giờ, mà tôi cũng sẽ
bị khiển trách mất».
Khanh ra chỗ ghế ngựa riêng của Quỳnh và tò mò hỏi chuyện thì
biết rằng lần bị bắt trước, thiếu nữ đã dùng mưu để ra khỏi nơi này: nhân một
người thanh tra mật thám vào trại giam, lúc y trở về bàn giấy, thiếu nữ đã lẳng
lặng đi theo. Người canh càng tưởng viên mật thám lấy nàng ra hỏi cung, nên
không giữ lại. Thế là nàng đã trốn thoát. Câu chuyện ấy lan truyền khắp mọi nơi
trong giây phút càng làm tăng giá trị «sàn lim số 18» lên bội phần. Và chiều hôm
ấy cảm tấm lòng săn sóc của anh em Cách mệnh, nàng đã chịu nhận quà bánh đem đến
tặng nàng và đã ôn tồn đáp lại những câu hỏi của mọi người.
Trong số anh em luôn luôn đến thăm nàng, Khanh là người chăm
chỉ nhất, và tưởng được nàng lưu ý đến nhất. Cái tuổi dưới ba mươi ấy bao giờ
cũng sẵn lòng tin tưởng, và hy vọng mênh mông.
Nhưng bổng giai nhân chỉ thoáng qua nơi giam cầm như chút ánh
nắng tươi hé ra giửa khoảng trời mây đen đặc, Sáng sớm hôm sau người ta đã xích
tay giải nàng không biết đi đâu, giữa nỗi ngây ngất bâng khuâng của bọn thiếu
niên cách mệnh.
Khanh thốt ra một tiếng thở dài, và đau đớn và lãng mạn nghĩ thầm: «Ước gì ta được gặp mặt nàng một lần nữa rồi có bị đày chung thân
cũng cam lòng!»
Y bỗng tỉnh choàng giấc mộng! Xe vừa dừng lại, và ai nấy
sửa soạn để xuổng.
- Đến nơi rồi ư, các anh?
- Ngủ đấy à? Một người hỏi lại.
Khanh mỉm cười:
- Ngủ thì không ngủ, nhưng mà chiêm bao, chiêm bao thức.
Ra khỏi cái hòm kín, y thấy mình đứng trong một nơi phố nhỏ,
bên cạnh một giòng sông con.
- Chợ Trào đây phải không, người ta hỏi nhau?
Nhưng viên đồn già, chủ trại giam, đương rảo bước trên con đường
giốc, ở bên kia sông. Chạy quanh lão là một con chó, lông dài và đen. Tay lão cầm
cái hèo lớn chỉ trỏ sang bên này và ra lệnh cho người lính đi theo sau. Chỉ cái
hình thủ lão hiện ra đủ làm mất hết vui trong bọn anh em và ai nấy lẳng lặng đứng
chờ, như chờ một sự bất trắc gì sắp xảy tới, nhất ai nấy khi ở trại Liêm phóng
lại đã được nghe huyên truyền cái tiếng hung tợn của lão ta.
Thời giờ lại êm đềm chảy trong khu trại giam Vụ bản. Một nhịp
sống đều đều khác- đã đến kế tiếp nhịp sống đều đều trước. Những giờ dài đằng đẵng
đi bách bộ trong sân trại giam Liêm phóng đã đổi ra những giờ mệt nhọc, làm việc
trên đồi cỏ, trong rừng rậm, bên giòng nước, dưới sương lạnh hay dưới nắng hè.
Nhưng chiều chiều, sau bữa cơm gạo đỏ, Khanh lại ngồi im lìm
trên thành bể nhìn dãy núi Hoành sơn mà tưởng nhớ mà mơ mộng tới người gặp gỡ
trong hăm bốn giờ, giữa một hoàn cảnh đau thương. Và y có cảm tưởng rằng y sẽ
mãn kiếp sống ở nơi núi đồi trùng điệp bao bọc một làn không khí âm u này với
hình ảnh bất diệt của giai nhân không bao giờ trở lại.
Nhưng một buổi chiều trong lúc y gửi lòng yêu đi phương xa lạ,
thì cửa trại giam bỗng mở ra, và người ta thấy bước vào một thiếu nữ chừng mười
bảy tuổi với một gánh hàng nặng trĩu trên vai. Anh em hấp tấp chạy ùa cả ra sân
để nhận hàng vì đó là cô hàng tạp hóa bên phố mà lần đầu tiên lão chủ đồn chuẩn
lời xin của anh «trật tự» cho phép đem hàng đặt vào thẳng trong trại để
anh em khỏi phải thân sang tận bên kia sông mang về.
Khanh lại gần đăm đăm ngắm nghía cô hàng, và thấy nàng mơn mởn
trong tuổi xuân đương dậy thì. Thiếu nữ chợt ngẩng lên và gặp cái nhìn ao ước của
thanh niên, nàng cúi đầu bẽn lẽn, giả vờ điểm lại hàng hóa trong quang thúng.
Từ đó trong những buổi chiều tà. Khanh ngồi rao mộng, bóng
giai nhân xưa lại hiện ra bên một bóng giai nhân mới. Và mỗi tuần lễ một lần,
cô hàng tạp hóa bên kia sông lại đem tới cho y một nụ cười kín đáo lặng lẽ và một
chút ánh tươi rọi nơi giam cầm ủ rũ.
Rồi đây, những lúc cách mệnh tha thiết gắt gao lên tiếng gọi,
y sẽ cảm thấy lòng tự tin, lên đường xông pha trong gian khổ với bóng giai nhân
huyền ảo gặp gỡ giữa cảnh lao tù.
Co ro trong chiếc áo tơi dài, mũ nhọn trùm đầu. Bảy hai đứng
canh trên chòi cao, nép mình sau cái cột bương để cố tránh luồng gió bấc thổi đến
từng cơn. Y vừa ở trong chăn ra thay phiên gác một giờ. Mắt y ngủ còn dở giấc
chỉ muốn nhíu lại. Đêm hôm trước, y đã thức suốt sáng đánh bạc ở bên phố Trào.
Cả ngày hôm nay, ông đội Giới lại cắt y vào việc cưa củi ở trong đồn, nên y chỉ
chợp được có nửa tiếng đồng hồ vào khoảng giữa trưa, «Giá nó để mình
coi tù đi làm cỏ như mọi hôm thì làm gì mình không đánh được hai giấc ngon
lành!» Y nghĩ đến cái ổ kín đáo, khuất gió, ấm áp, ở giữa khóm xim dại mà
y lại oán lão đội. «Hừ! thằng cha nó thù mình vì cái tiếng bạc ngửa từ tối
hôm nọ!» và Bảy hai vui thú cười lên tiếng. Y như còn trông thấy cái cảnh
tượng mở bát chạy làng hôm ấy của đội Giới, mà y đã làm mất thể diện trước mặt
dân phố. «Hèn chi mà nó chẳng để tâm thù vặt!»
Đã hai lần Bảy hai đánh mõ tre đáp lại tiếng khánh sắt cầm
canh bên đồn. Y chỉ muốn nằm xuống mộc lát cho đỡ mỏi mệt, nhưng y lại sợ ngủ
thìếp đi mắt. Y tự nhủ: «Đêm hôm nay mà mình bỏ một tiếng mõ thì cứ là chết với
nó. Thế nào nó chả thức ngồi chờ kết quả! Không, nhất định không chịu để
nó phạt!» Y can đảm lấy gân, cứng bắp thịt lại, thò đầu ra hẳn ngoài bức
phên nứa vây che bốn mặt chòi và chỉ cao tới ngực người lính gác. Luồng gió lạnh
làm cho y đỡ buồn ngủ. Nhưng chỉ được dăm phút, rồi mắt y lại nhắm nghiền, và y
như nghe thấy tiếng ngáy của mình. Cái thói ngủ đứng đã quen thuộc với y lắm;
nhiều khi đưa tù xuống đồi làm việc, y cũng vừa đi vừa chập chờn được.
Chợt nhớ đến cái mưu vẫn thì thố, y hướng vào trại cất tiếng
gọi:
- «Tài! Tài!» Mọi lần khi biết chắc không sao tránh được
cái giấc ngủ có tội, y đã nhờ Tài giúp việc này; là hễ không nghe thấy tiếng
mõ của y đáp lại tiếng khánh thứ hai thì nhặt một viên gạch mà ném lên chòi để
đánh thức y dậy. Như thế, y có thể bình tĩnh mà ngủ được để cứ mười lăm phút lại
thức giấc đánh mõ. Nhưng lần này y gọi mãi mà vẫn không thấy có tiếng Tài trả lời.
- «Rét thế này, anh chàng nằm ngủ chăn trùm kín đầu thì còn
biết giời đất gì nữa!» Gọi một tên khác, lại một tên khác, vẫn không ai
thưa.
«Liều! Y nghĩ thầm, có bị phạt nữa thì đã chết đâu.
Hãy làm một giấc cho thỏa vong linh đã!» Và y định ngả lưng xuống cái ổ
rơm mà y đã ngầm giải từ lâu. Nhưng lòng tự ái của y phản kháng lại liền: «Không! không thể thế được. Bị phạt vẫn biết chẳng sao, nhưng bị lão đội
Giới phạt để trả thù thì nhục lắm. Đã có được nửa giờ rồi làm gì không có nốt
được một giờ rưỡi nữa!» Y quả quyết trong ý chí, và lại đưa cả nửa người
ra phía ngoài để tắm thể chất và tinh thần trong sương đêm giá buốt.
Bổng y rùng rợn quay lại, một tia sáng lạnh vừa chiếu xiên
qua vai. Đó là trăng hạ tuần mời mọc, lơ lửng trên nóc đồi bình phong, và nhợt
nhạt, ủ rũ, mệt mỏi như tâm hồn mệt mỏi của y. Dưới làn ánh sáng lờ mờ, con
sông Vành lấp lánh hiện ra từng khúc, và những lùm cây trên sườn đồi in rõ hình
đen. Y lưu ý ngắm cảnh vật để cố quên cái giấc ngủ vẫn luôn luôn ám ảnh.
Một lần chợp đi trong vài phút, y giật mình choàng thức dậy.
Tâm linh y như vừa báo cho trực giác y biết sắp xảy ra một sự gì kinh dị huyền
bí. Và y chú ý nhìn xuống chân đồi. «Ta mê ngủ à?» Y nghĩ thầm đưa tay
lên dụi mắt, và nhìn kỹ lại. Không, y không mê ngủ, quả thực một lùm cây đương
từ phía ruộng thắp theo giốc đồi thong thả tiến đến phía y. Y nghĩ tiếp liên:
«Không, không phải cây. Một con vật... con bò...Cũng không phải bò... Hay
là ma?» Cái ý ma làm y mềm cả chân tay, và ngừng cả tư tưởng. Vùng này đã nổi
tiếng là xứ ma thiêng nước độc và những chuyện ma hiện hồn trêu lính canh đêm
không phải là ít.
Cái vật đen vẫn thong thả, êm lặng tiến.Thỉnh thoảng một tiếng
răng rắc cành khô gẫy lại báo cho Bảy hai biết rằng đó không phải là một cái
bóng mà đó là một vật có hình có chất.
Đến lưng chừng đồi, nó dừng lại một phút rồi rẽ sang phía
Nam, khuất sau hàng giậu nứa. Tự nhiên Bảy hai thấy vững dạ và như thoát khỏi một
tai nạn, tuy vẫn chưa biết rõ đó là con vật gì hay là ma quỷ. Bỗng một lát sau,
tiếng lao xao se sẽ trên con đường cát sỏi vòng quanh trại giam khiến y cứ nhìn
xuống. Y toan kêu thét lên. Nhưng tiếng kêu mắc lại ở cổ họng và miệng y há hốc,
mắt y mở to, chân tay y không nhúc nhích: Chỉ cách chòi y chừng vài chục thước,
một con hổ to lớn, lực lưỡng đương ung dung nhẹ nhàng đặt từng bước và tiến về
phía y. Mặt nó cúi xuống nhìn đất và luôn luôn nó hướng vào trại hít mạnh đánh
hơi. Có lúc nó tò mò ghé gần mắt vào hàng dây thép gai chắn ở hai bên lối đi
và dừng lại vài giây như để mưu tính một kế hoạch gì.
Bảy hai im thin thít và không cử động. Hồn vía y như đã tán
loạn hay trốn biệt nơi nào và y chỉ còn như cái xác với những trực giác quan thụ
động. Nhưng dần dần y hoàn hồn và cảm thấy lo lắng sợ hãi. Y nghe rõ tiếng thở
mạnh của y, mà y cố kìm lại, nhìn hắn. Và vì thế y thấy đêm khuya, càng mênh
mông, tiếng gió khô khan càng rít mạnh, và âm nhạc hàng sáo nứa càng thê thảm,
rùng rợn.
Con mãnh thú vẫn chậm rải bước lại gần, dáng bộ suy nghĩ,
nghe ngóng, tìm tòi. Khi tới chân thang chòi, nó dừng lại một lát rồi uể oải nằm
xuống, mũi không rời phía trại giam, Bảy-hai đã bắt đầu luận lý có trật tự. Y hết
sức giữ gìn, không cựa cạy, yên trí rằng chỉ một tiếng cạch, cũng đủ vang lên
trong đêm vắng và làm cho con hổ giật
mình vùng dậy, chồm lên đạp đổ mấy cái cột bương chân chòi cao
ngất nghểu. Vì quá lưu ý, y tưởng tượng cái chòi lảo đảo, lắc lư, mỗi khi có luồng
gió mạnh.
Nhưng một lát sau, y thấy mắt quen đi, tim trấn tĩnh lại và
trí sáng suốt hơn. Và y nhớ đến cây súng cầm trong tay, nghĩ đến bắn vào đầu
con vật một phát. Y dương súng ngắm, ngón tay đặt vào cò, run run, do dự không
dám bấm tuy đã chợt nhận ra rằng chưa kéo «qui-lát» để đẩy đạn lên nòng. Rồi
y lại rón rén chống súng xuống, mắt gián vào cái khối đen ở ngay dưới chân và
cách y không đầy mười thước. Câu chuyện huyền bí về hổ mà một người lính Thổ đã
kể cho y nghe như vụt hiện ra và lần lần tự bày ra trước mắt y. Y tưởng trông
thấy người đi săn tự buộc thân vào cành cây cao, chĩa súng bắn xuống con vật thần,
rồi nước ở đâu té vọt lên như mưa làm cho kẻ xúc phạm mờ cả mắt không nhìn thấy
gì nữa trong khi ấy thì con hổ nói thành tiếng người mà mắng nhiếc ầm ỹ: «Mày
định giết ông mày, mày định giết cha mày à?» Câu chuyện đã làm cho Bảy-hai và
anh em trong hàng đội cười lăn cười lóc. Nhưng lần này ôn lại, y không dám cười
nữa dù chỉ mỉm cười thầm. Ngắm nghía cái hàm oai nghiêm, hai chân trước duỗi ra
bệ vệ, cái đuôi hách dịch đập bên sườn, y cảm thấy tôn kính, khiếp sợ tràn ngập
trong lòng và không còn ngờ vực một sự hoang đường gì về cái sức mạnh phi thường
ấy.
Bây giờ y đã hoàn hồn hẳn, và mũi y đã ngửi thấy mùi hôi nồng
như mùi phân bò ú. Hắn lợn giọng và chỉ chực nhổ bọt nhưng vẫn cố giữ lại được.
Y tự nhủ: «Nó mà nghe thấy tiếng nhổ tất sẽ ngửng đầu nhìn lên. Và nếu nó biết
trên này có người thì nó rất có thể rung chuyển cái chòi ọp ẹp này để mình rơi
xuống mà ăn thịt. Các ngài mà bụng đói thì phải biết các ngài liều » Ý nghĩ ấy
lại càng làm cho Bảy-hai lo lắng, mắt bình tĩnh. Nhưng chỉ trong vài phút. Rồi
những câu chuyện hiền lành về hổ dần dần nhớ lại khiến y trở nên vững tâm và
can đảm nữa. Theo lời nhiều người Mường y quen biết thì con hổ chỉ là một con
chó lớn nhút nhát và không dám gần người: Nó cũng giống như loài chó, hễ chạy
thì đuổi, hễ sấn lại thì nó lùi. Điều nhận xét ấy đã được chứng thực: cách đây
mới chừng một tháng, một con hổ - có lẽ chính con này cũng chưa biết chừng- đến
rình ở sân nhà ông giáo Quý bên phố. Nửa đêm bà giáo thức giấc, dậy ra hiên
trông thấy nó và sợ hãi chết ngất đi. Nhưng con hổ cũng sợ hãi chạy trốn.
«Phải, cái giống này chỉ chống lại người khi nào người định
giết nó» Bảy hai nghĩ thế và lấy làm mừng rằng ban nãy đã không lên đạn bắn
nó. Bắn mà trượt hoặc làm nó bị thương thì cứ mà chết với nó thôi. Trong lúc hồi
hộp mình có thể run tay bắn chệch đích. Có phải bắn bia đâu mà bình tĩnh ngắm kỹ
được !» Ý nghĩ bắn bia làm y mỉm cười quên bẵng con hổ để nhờ đến anh Mười
- bốn kỳ vừa rồi, bắn tám phát không những không trúng đích mà không trúng cả
cái liếp mang đích...
Y giật mình như chợt tỉnh một giấc chiêm bao: Tiếng khánh sắt
bên đồn và tiếng mõ tre các chòi canh vừa đánh thức y dậy, kéo y về với thực tế,
với nhiệm vụ, với bổn phận. Thì ra mới qua chưa đầy mười lăm phút thế mà y
tưởng đã sống trong hàng giờ dài đằng đẵng. Y vội cằm dùi dơ lên nhưng lại rón
rén đặt xuống không dám đánh. Tiếng khánh và tiếng mõ nhắc lại một lần nữa. Y vẫn
im lìm không đáp lại.
«Được, mai ta sẽ trình vì sao thiếu tiếng mõ ở chòi
này. Mà có bị phạt nữa thì đã sao!»
Một lát sau, ở trước cổng đồn, một tia ánh sáng thoáng rạch
một vệt dài lên tấm sương đêm. Bảy hai mỉm cười nghĩ thầm:«Đích đèn pin của
lão đội rồi! Được cứ đến đây mà bắt... hổ!» Thực vậy, đội Giới vẫn thức để
rình. Khi thấy thiếu tiếng mõ ở chòi gác Đông Bắc trại giam, y đoán ngay rằng Bảy hai
đã ngủ. Y liền sang đi «rông» để bắt quả tang kẻ thù phạm tội.
Ánh sáng kín đáo lập lòe, khi chúc xuống đất, khi vọt lên trời,
thong thả tiến lại gần trại giam. Bảy-hai cúi xuống nhìn. Con hổ vẫn nằm yên một
chỗ, không nhúc nhích. Y bắt đầu lo sợ cho tính mạng người kia. Mối thù, y vụt
quên để chỉ nghĩ tới tai nạn xảy đến cho kẻ đồng loại do một loài khác, một
loài tàn ác gây nên. Lòng trắc ẩn, tình nhân đạo đến với y một cách tự nhiên, một
cách ngẫu nhiên. Y không luận lý nữa, không cân nhắc nữa, chỉ tìm cách cứu sống
một con người, thoát khỏi nanh vuốt một con vật. Ánh sáng đã xuống hết giốc và
sắp rẽ vào con đường vòng quanh trại, để đi thẳng tới chòi canh của y. Ở chân
thang, con hổ vẫn nằm im, đuôi se sẽ đập sườn như báo cho biết rằng nó không ngủ
vì có lẽ đã sửa soạn để vồ cái mồi ngon lành đương tiến lại gần. Bị hàng giậu nứa
cao che khuất. Bảy-hai không nhìn thấy lửa sáng đèn bấm nữa, nhưng y đã thoáng
nghe rõ tiếng lạo xạo xa xa của bước chân trên sỏi và cát. Chỉ vài phút nữa… Y
hoảng hốt vội thét:
- Đứng lại! có hổ đấy!
Rồi vừa rướn mình nhìn qua ngọn hàng rào nứa, y vừa tiếp
luôn:
- Có Hổ! Hổ! Hổ!
Lúc cúi nhìn xuống thì con hổ đã biến đâu mất. Đằng xa tiếng
chân chạy mau và nặng. Ngay lúc ấy, cả trại giam xôn xao huyên náo.
- Cái gl thế!
- Hổ ! lời đáp của Bảy hai từ trên chòi ném xuống,
- Hổ à! Hổ các anh ạ!
- Hổ đâu? - Nó đâu!
Anh em nhốn nháo chạy cả ra sân, lại gần chỗ canh góc Đông Bắc.
- Có hổ thực à Bảy hai? Tài hỏi, vì đã nhận được tiếng
người lính quen. -
- Lại chà thực!
- Nó đâu?
- Nó đi rồi! Nó nằm gần nửa tiếng đồng hồ ở ngay chân thang
- Nó rình bắt lợn của căng rồi, vì chổ ấy sát ngay bên chuồng
lợn.
- Thế sao không bắn? Súng không có đạn à?
- Có nhưng không dám bắn vì sợ tiếng nổ làm náo động cả trại
bị tù thì có mà bỏ mẹ!
- Bị gì thì bị chứ mấy khi gặp mồi ngon thế, mà đi bỏ lỡ.
Rõ đáng tiếc!
- Tiếc àI Cu cậu sợ co rúm cả chân tay lại rồi còn bắn
với biếc gì,
Câu khôi hài của Hải làm ai nấy phá lên cười và Bảy hai đáp
lại tức tối:
- Xừ nào sỏ siên moa thế hử?
- Không phải tôi sỏ siên anh đâu, anh Bảy hai ạ. Nhưng sự thực
là thế. Tôi đi bắn đã nhiều, giết có tới vài chục hươu nai mà tôi cũng xin thú
thực rằng giá có gặp hổ vị tất tôi đã dám bắn. Nói vụng các ngài chứ các ngài
oai linh lắm! Đến rào vườn Bách thú nhìn các ngài đi đi. lại lại trong chuồng,
cũng đã thấy rờn rợn rồi còn nói chi bắn ngài nữa.
Ai nấy lại cất tiếng cười, và lần này cả Bảy hai cũng góp
vui.
- Thực thế đấy, các anh ạ, Hải kể tiếp. Tôi có người bạn ngồi
rình hổ ở trong một gian nhà, qua cái cửa sổ có chắn song sắt kiên cố. Lúc hổ đến
anh ta giương súng ngắm bắn, nhưng thấy nó đi đi lại lại oai nghiêm dưới ánh
trăng mờ, anh ta sợ hãi mướt mồ hôi, rồi ngất đi, đái cả ra quần.Tỉnh dậy thì
con hổ đã đi mất. Các anh thấy chưa, ở trong một nơi vững chắc như thế, và dù
có bắn hụt cũng không nguy đến tính mạng thế mà còn không đủ can đảm mổ cò đấy,
huống hồ là đứng trên cái chòi mỏng mảnh, ọp ẹp kia.
Cười lại nối, làm ầm ỹ cả đêm khuya thanh vắng và giá lạnh.
- Ông đội có vào trong căng không, các anh?
- Không. Sao? Anh em ngơ ngác không hiểu vì sao Bảy hai lại hỏi
một câu lạ lùng như thế.
Nhưng Bảy Hai chỉ đáp lại sự ngơ ngác của anh em bằng một nụ
cười bất tuyệt.
TÂY XÔNG NHÀ
Tết năm 1930 ở Ninh Giang, tôi đã được Tây xông nhà.
Người Tây đó tên là Heineshilk- ấy là tôi theo vần đọc mà viết
ra, chứ tôi cũng chưa trông thấy tên hắn trên giấy bao giờ. Theo lời đồn, hắn
là một người Áo can án tử hình bỏ trốn sang nước Pháp xin đăng lính «Lê dương» đi Maroc dự chiến. Mãn hạn hắn nhập Pháp tịch và được bổ đi có một đòn lính
khố xanh.
Nếu muốn tìm một kiểu mẫu tiểu nhân, thì hắn thực là một người
hoàn toàn. Đối với dân gian, hắn hống hách, đàn áp, bóc lột, chuyên chế như một
ông vua chuyên chế. Trái lại, đối với ông Sứ hay ông Giám binh thì hắn quỵ lụy,
nịnh nọt, đút lót, trung thành như một tên mọi trung thành với chủ. Nhờ đó mà hắn
thăng chức rất nhanh chóng và được đổi về đòn quan trọng này, kiêm chức quyền đại
lý Ninh giang.
Quan đại! Hắn sung sướng khi nghe người ta chào mình bằng
hai tiếng Việt Nam ấy. Có việc gì vào tòa mà kêu hắn là Monsieur le Délégué thì
thế nào cũng xong tuy nếu việc phải mất tiền thì vẫn mất tiền như thường.
Vô phúc cho ai không biết, đi kêu đúng chức hắn “Monsieur le
chef de poste’’ hay tôn hắn lên «Monsieur L’lnspecteur» nữa !Một
là hắn im lặng không đáp, rồi sau này tìm cơ hội báo thù. Hai là hắn hét đinh
lên làm mình mất thể diện trước mặt mấy viên thư ký của hắn.
Về chữ Đức hắn học đến bực nào tôi không rõ. Nhưng về chữ
Pháp thì tôi đã may mắn được đọc văn của hắn.
Vào dịp khánh thành nhà thương mới, ông Y sĩ ở Ninh giang chẳng
hiểu vì lười hay vì cớ gì, có nhờ tôi thảo hộ bài diễn văn. Bài diễn văn ấy phải
đem trình «quan đại» để ngài kiểm duyệt. Vì thế mà tôi đã được đọc một đoạn
hắn thêm vào. Đó là những lời tán tụng quan chánh sứ, quan phó sứ, quan lục lộ
v.v...mà tôi đã vô tình bỏ rơi. Tôi đây tôi lại vô tình mỉm cười khi xem thấy
văn pháp lính tây của quan đại. Nói chi những chữ viết sai, đến những mẹo mực
thông thường sơ cấp nhất quan cũng «măng phú»,
Cái mỉm cười ấy và lời khen kín đáo của tôi được hân hạnh lọt
tai quan. Và phải biết! Cái tức giận, cái căm thù của quân dốt, nhất quân
dốt ấy lại là một quan «cai trị», một quan đại lý hách dịch, oai quyền
như một vua con. Cái căm thù ấy càng cố nén lâu bao nhiêu thì khi bừng ra càng
mãnh liệt bấy nhiêu.
Ai đã đọc tập truyện ngắn của Daudet hẳn thấy cái móng bò của
con La dữ dội đến bực nào, sau bảy năm sửa soạn để chờ ngày thi hành.
Viên đại lý của tôi không kiên gan bằng con La. Hắn chỉ chờ đến
hôm mồng một Tết nguyên đán để đem ra thi hành cái móng bò của hắn. Nhưng dù thế
cái móng bò của hắn vẫn chẳng kém cái móng bò của con La về phần mãnh liệt cũng
như về phần hiểm hóc.
Tối hôm mồng một Tết ấy, giữa lúc chúng tôi đương xum họp vui
cười xung quanh bàn bất gia đình thì một người lính cảnh sát lên gác nói cho
chúng tôi biết có «quan đại» đến.
Quan đại đến? Tôi kinh ngạc tự hỏi: «Đến chúc Tết mình chăng?» Tôi thừa biết hắn ta chẳng ưa gì tôi, tôi lại nhớ vẻ mặt hằn học của hắn khi
hắn liếc nhìn tôi. Nhưng gặp nhau ngoài đường đôi bên vẫn tươi cười chào nhau
như hai người bạn sơ «Bonjour monsieur le délégué!» «Bonjouur
monsieur G!» Vậy thì hắn có thể nhân dịp Tết Nguyên Đán đến chúc mừng
mình lắm, cũng như vào dịp Tết Tây dân phố đến chúc mừng hắn vậy.
«Mà hắn đến chơi mình vào giờ này (9 giờ tối) có lẽ để
đôi bên hàng phố khỏi thấy sự hạ mình của hắn đi chúc Tết một người Việt Nam?»
Tôi chưa kịp nghĩ dài thêm đã bừng tỉnh ngộ. Vì người lính chờ
mãi không thấy tôi trả lời liền tiếp :
- Thưa ông, quan nói nếu ông không bằng lòng để quan khám
ngay tối hôm nay thì sáng mai quan đến sớm cũng được.
Chết chưa! Thì ra quan đến khám nhà! Mà lại khám
nhà vào giữa hôm mồng một Tết! Các bạn của tôi đã thấy cái móng bò của
«quan đại tôi» hiểm độc thế nào chưa? Chừng ngài biết - hoặc
có kẻ xui ngài điều ấy - ngày đầu năm người Việt Nam mình sợ rông, không muốn một
sự không may gì xảy ra. Mà sự khám nhà thì cố nhiên là một sự không may rồi!
Các bạn hẳn cho rằng tôi tức uất lên phải không? Không, tôi chỉ tức cười thôi,
và quả nhiên tôi phá lên cười vui vẻ mà trả lời người lính cảnh sát:
- Ai lại đi làm phiền quan phải trở lại một lần nữa như thế.
Ông xuống mời quan lên cho, để tôi ở trên nầy sửa soạn đón tiếp ngài.
Trong khi người lính bước xuống thang gác, các em gái tôi cuống
quít, toan thu xếp bài lại. Tôi vội ngăn cản :
- Không! Cứ để y nguyên! Thu dọn đi, nó sẽ cho rằng mình sợ
cái oai nó. Thế nào người lính cảnh sát chẳng báo cho nó biết chúng mình đương
rút bất.
Một lát sau, lão đại lý, trong bộ trào phục đầy kim tuyến,
cao lớn, sừng sững hiện ra trước ánh đèn măng xông. Theo sau hắn là viên tri phủ
Ninh Giang với cái bài ngà chức tước vừa tô son lại lủng lẳng trước ngực. Theo
sau viên tri phủ là viên thông ngôn tòa đại lý, cặp mắt hấp háy chớp trong đôi
mục kính cận thị. Theo sau viên thông ngôn, Ià hai viên cảnh sát với cái bao
súng lục oai nghiêm đeo bên sườn.
Lão đại lý tươi cười đáp lại cái chào của tôi và hỏi:
- Tôi đến khám nhà ông vào giờ này là trái pháp luật, vì thế
tôi đã cho hỏi xem ông có bằng lòng không đã rồi mới lên. Nhưng ông nên hiểu
cho rằng tôi làm thế là vì có lòng tốt đối với ông. Vào giờ này dân phố đều đã
ngủ cả không ai biết nhà ông bị khám. Chứ giữa ban ngày thì người ta xúm lại
bàn tán và như thế ông sẽ mất thể diện nhiều lắm.
Tôi mỉm cười cảm ơn cái nhã ý của quan đại... và quan phủ,
tôi nói thêm và quay lại nhìn cái ông quan có vẻ mặt lạnh lùng, bình thản như
không từng quen biết tôi dù chủ nhật nào ông ta cũng mời tôi vào phủ đánh tổ
tôm với «cụ cố».
- Chà các người đánh bạc! Ông đại bắt đầu.
- Phải, đó là một bàn bạc gia đình để mua vui trong dịp Tết.
Đây xin giới thiệu ông T. em giai tôi, ông M. cũng em giai tôi, ông B. em rể
tôi.Còn đây bà T. bà M. bà B. và vợ tôi.
Tôi gắng hết sức để giữ bình tĩnh nhưng tôi vẫn tự thấy tôi
làm sao ấy. Các bạn cũng hiểu cho rằng khi người ta cố nén lòng căm tức thì người
ta khó mà tự chủ được cử chỉ ngôn ngữ của mình.
- Thôi cũng được, ông đại tiếp, nhưng bắt đầu từ ngày kia mà
đánh bạc thì sẽ bị bắt giam.
Rứt lời, hắn quay sang hất hàm hỏi ông phủ:
- Có phải thế không quan phủ?
- Bẩm chính thế, thưa quan đại.
- Bây giờ thì chúng ta đi làm bổn phận của chúng ta.
Việc bổn phận của họ là rút hết ngăn kéo ra, mở hết các tủ
ra, lục tung hết các sách vở, quần áo vứt tung ra đầy sàn gác. Khi vớ được mấy
tập ảnh của tôi, mặt lão đại lý sáng rực lên sau đôi kính cặp mũi:
- À! tôi biết, ông là một nghệ sĩ về nhiếp ảnh. Hẳn ông có đủ
các ảnh kỷ niệm gia đình.
Vừa nói, hắn vừa mở, vừa chăm chú tìm tòi. Rồi hắn thì thầm hỏi
ông phủ:
- Ông có biết mặt nó không?
- Thưa không.
Lão đại lý lắ đầu chán nản. Bổng hắn quay phắt về phía tôi sừng
sộ:
- Ông biết tôi tìm ảnh ai không ?
- Không, tôi biết sao được.
- Thôi ông đừng vờ. Ảnh tên C... đâu, ông phải trở ngay cho
tôi biết nếu không tôi sẽ có cách.
Tôi thừa hiểu bọn thực dân đương đi lùng kiếm ảnh của C... một
nhà cách mạng quan trọng, người vùng này. Nhưng tôi cũng hỏi:
- C…nào? Ông muốn biết C. nào à? C... trưởng ban ám sát của
cái đảng mà ông rất quen thuộc. Không những tôi biết ông có ảnh của C... mà tôi
còn mới được tin hắn trốn về đây ăn tết với ông nữa kia.
- Vậy xin ông cứ lục lọi khám xét thực kỹ có hay không thì
ông sẽ rõ.
- Ông nói lý với tôi, phải không? Ông nên biết những ý tưởng
bài pháp, chống quan lại của ông chỉ sẻ đưa tai hại đến cho ông. Rồi ông sẽ thấy.
Tôi đã thấy. Tôi đã thấy rằng trả lời hắn chỉ là một việc mất
thì giờ vô ích, mà lại thêm khó chịu cho mình và cả cho hắn. Từ đấy tôi chỉ lạnh
lùng im lặng đứng chứng kiến việc lục lọi khám xét hoặc mở khóa rương nọ, ngăn
kia. Trong khi ấy thì M. miệng ngậm cái «pipe» thuốc lá to tướng,
thản nhiên đi đi lại lại trong căn phòng như con hổ trong cũi sắt trên vườn
bách thảo.
Mãi đến 12 giờ khuya việc khám nhà mới xong. Bọn «nhà nước»
ra đi, để lại cho chúng tôi mấy gian phòng tung tóe, bừa bộn như vừa bị giặc cướp
đến phá phách.
Mấy anh em chị em lặng lẽ nhìn nhau. Bỗng tôi phá lên cười bảo
vợ tôi:
- Thôi năm nay thì tha hồ mà rông! Và ai nấy đều
vui vẻ cười theo. Em gái tôi trách tôi:
- Ai bảo anh cứ trêu tức nó, khiêu khích nó vào.
Có chăng từ hôm ấy mới bắt đầu một chương trình khiêu khích của
tôi. Tự nhiên tôi trở nên một nhà viết báo để thỉnh thoảng gởi bài đăng chơi
trên báo Annam Nouveau hay Trung Bắc Tân Văn. Trong những bài vớ vẩn ấy tôi
không hề đá động tới lão đại, nhưng mỗi lần thân ra nhà Bưu chính gửi
thư, tôi lại vui sướng và hóm hỉnh nhìn đùa lão chủ sự để nghĩ thầm: «Thế nào
chốc nữa thầy trò chúng mày chẳng mở thư của tao ra xem trước!»
Và cũng từ hôm ấy dân phố Ninh Giang nghiễm nhiên thấy tôi trở
nên tay kình địch ghê gớm của «quan đại». Cuối năm ấy tôi bỏ nghề luôn để
theo nghề văn. Các bạn đã thấy sự khám nhà đầu năm rông đến bực nào và cái móng
bò của một con La thuộc địa có công hiệu phá hoại đến bực nào chưa?.
QUAN CÔNG SỨ
Ngày vui nhất ở trại giam Vụ bản là ngày phát thư, mỗi tuần lễ
một lần. Cái vui âm ỹ, huyên náo, công cộng chứ không phải cái vui kín đáo âm
thầm, riêng biệt của những kẻ xa nhà nhận được tin tức những người thân thích.
Người lính trạm, lưng đeo cái túi vàng bao giờ cũng được anh
em chào mừng bằng một tiếng hoan hô, trong khi y leo con đường giốc lên đồn,
qua hai quả đồi cỏ tranh có anh em làm việc. Mấy người mắc bệnh tê, lưu lại
trong trại ngồi phơi nắng trên mặt bể, vội đứng dậy rướn nhìn qua ngọn rào nứa
nhọn, mỉm cười, Bắt đầu từ giờ ấy, hơn trăm trái tim hồi hộp mong chờ …
Tiếp đến giờ nghỉ, anh em về trại giam, quên cả rửa mặt, rửa
tay, ai nấy đăm đăm nhìn sang phía cổng đồn.
- À! Kia rồi !
Đó là lão đồn già và ông quản sang điểm lại số tù nhân,
và cố nhiên mang cả thư sang phát. Ông già cao lớn lực lưỡng tóc bạc và tơ dựng
lên trước gió, mỉm cười ranh mãnh nhìn khắp mọi người, trong khi ông quản thân
hình lủn mủn, giơ ngón tay trỏ lẩm nhẩm đếm.
- Com-bờ-lê, me-sừ sếp-đờ-pôt.
Tức thì «Me-sừ sếp-đờ-pôt » mở cái cặp bìa ra gọi tên hay gọi
sẽ từng người có thư, để đưa cho một hoặc hai cái phong bì đã mở. Mỗi khi gặp
có lời chú thích phê trên phong bì, y đều không quên bình lên cho anh em cùng
nghe để mà cùng cười: «Kiểm duyệt một trang, vì gia nhân đã đụng chạm tới tình
hình Hà nội». «Số... sẽ phải bảo người nhà không được viết dài quá». «Vợ số...
làm gì mà gửi cho chồng những ba cái thư một lúc. Đi gửi trả lại một
cái..v..v»
Những lời phê ấy toàn là thủ bút của ông Công sứ Hoa - bình tự
kiểm duyệt lấy tất cả thư tín vãng lai giữa, bọn tù chính trị Vụ-bản và những
thân thích bạn bè của họ. Ở ngoài phong bì, lời văn còn bình thường, chứ ở ngay
trong thư thì mới thực là những công trình văn chương kiệt tác về phương diện
triết lý nghiêm trang cũng như về phương diện khôi hài trào phúng. Người ta cho
biết rằng bao giờ «quan» cũng kiểm duyệt thư từ vì đêm trong khi quan nằm mơ mộng
bên cạnh cái khay đèn thuốc phiện. Thực vậy, phải có tinh thần sáng suốt của một
đồ đệ ả Phù dung mới nghĩ ra được những lời cẩm tú.
Chính vì thế mà cái vai nhận thư nhà bao giờ cũng ầm ỹ, huyên
náo; Anh em đem những lời «quan» phê ra phô nhau để mà cùng cười.
- Nghe đâu hắn là một người Tây lai.
- Không, hắn lai có một phần ba Việt Nam, vì, bố hắn là «Pháp chính tống» chỉ mẹ hắn lại thôi.
- Thế thì một phần tư chứ một phần ba Việt Nam thế nào được.
- Một nửa, một phần ba, hay một phần tư thì cũng là lai, chứ
còn là gì nữa.
- Tôi muốn gặp thằng cha ấy quá, để xem mặt mũi nó thế nào mà
nó láu cá láu tôm, nghịch ngợm đến thế.
Anh em đến Vụ bản được hơn một tháng rồi mà y vẫn chưa về,
tuy đã ba lần lão đồn già báo cáo cái tin quan công - sứ sắp tới thăm trại
giam, khiến lá đơn thảo ra để yêu sách điều nọ điều kia nằm ẹp mãi trong cái cặp
da của anh trật tự. Sự mong mỏi đã làm sốt ruột nhiều người, và họ đã thốt những
lời nguyền rủa, oán trách. Nhưng trong khi ấy thì thư tín vẫn đều đều tới đúng
kỳ hạn và vẫn kèm thêm những lời phê phán, soi mói, có duyên.
- Thằng cha ý chừng là một văn sĩ trào phúng các anh ạ.
Tài cười ngặt nghẹo, đưa ra phô một cuốn tiểu thuyết chữ Pháp
mà y vừa nhận được với một câu Pháp văn an ủi để trên đầu sách của người bạn Hà
thành gửi tặng. Câu văn cầu kỳ và kém cõi ấy được tăng giá trị và khiến người
ta lưu ý do một chữ «lu» vắn tắt, dưới ký tên người phê, với dòng chức
tước «công sứ nước Pháp tại Hòa-bình» Và Tài, giải thích, Tài, mà lão đồn
già mệnh danh là «nhà triết học số một», và yên trí rằng trong đầu
óc chứa đầy những tư tưởng nguy hiểm cho nền thống trị thực dân:
- Nó chửi chữ đấy, các anh ạ. Nó để thế là nó muốn bảo thầm
ông bạn tôi rằng nó đã đọc kỹ cái dốt và cái ngông của người tặng sách. Thằng
cha này bất trị!
Tiếng cười thét lên ồn ào. Ở cái nơi thiếu tự do ấy, người ta
rất thích có những ngôn ngữ cử chỉ tự do. Và người ta xúm nhau lại đem cái anh
chàng tặng sách ra làm thịt:
- Thì sao không dùng ngay chữ Việt mà lại đi viết chữ Pháp để
nó chế diễu vào mặt cho.
- Rõ sính chữ mà lại sinh chữ không ra hồn!
- Đọc xong tiểu thuyết, gửi trả về cho nó xem!
Ai nấy lồng lên để nói một câu ác nghiệt cho hạ đôi chút cái
khổ bị giam cầm. Họ như lúc nào cũng chỉ chờ dịp để được trút cái giận, cái tức
lên một cái gì.
Từ đó người ta lại càng nóng lòng muốn gặp mặt nhà kiểm duyệt
phê bình thư tín,
Rồi khi không ai nghĩ đến y nữa thì bỗng một hôm y về, về bất
thình lình không báo trước, mà cũng không một ai ở trại giam biết y về lúc nào,
vì không thấy cờ ô tô lên dốc đồn.
Buổi chiều, trước giờ kèn nghĩ việc, anh em đã được về trại để
đón tiếp quan Công sứ. Có người ngơ ngác hỏi :
- Ông ta về lúc nào?
Một người lính đáp:
- Cụ lớn về lúc mười một giờ nhưng ô tô phóng thẳng tới dinh
quan Châu,
- Sao lại không đến đón trước nhỉ?
- Đến Châu để còn hút chứ!
- Nghe đâu ông ta cũng không ưa gì lão đồn già.
Lại được một dịp cho dân trại giam bàn tán. Nhưng họ cũng sửa
soạn cuộc đón tiếp cho được long trọng: Quét qua cái nhà, xếp lại đống củi, vất
gọn cái màn. Rồi sau khi thay mặc những bộ quần áo sạch sẽ, tươm tất, họ
ra đứng xếp hàng ở sân.
Một nửa giờ mong đợi. Một tiếng hô ở cổng. Tiếng rít hãm máy
xe. Rồi cổng trại mở. Im lặng, mặt đỏ gay miệng mỉm cười, quan công sứ tiến
vào, theo sau là lão đồn già, ông Tri châu, ông bác sĩ và ông thương tá
Hòa bình. Đó là một người trung bình đối với dân bản xứ nhưng bé nhỏ đối với
các quý quan. Đôi mắt lờ lờ xanh, cặp môi mỏng dính và cái mũi rất lõ thuộc dòng cha, nhưng mớ tóc đẹp hung hung đen thì không thể không Việt Nam được.
Sau mấy lời giới thiệu của lão đồn già, anh trật tự tay cầm
lá đơn tiến lên, đi lại gần ông chủ tỉnh. Bổng toàn thể anh em trong trại như bị
một gáo nước lạnh dội vào gáy. Cái cử chỉ và lời nói thứ nhất của người Pháp
lai đã cắt phứt ngay mối cảm tình gây ra bởi những Iời phê có duyên trong các
lá thư. Y xòe bàn tay xua anh trật tự ra và vẻ mặt nghiêm khắc y nói:
- Anh nên biết rằng anh đương đứng trước mặt quan công sứ.
Câu nói trịnh trọng, Khanh thấy ngụ một ý nghĩa khôi hài, và
y bấm người đứng bên cạnh mỉm cười thầm: «Hay hắn lại diễu cợt đùa bỡn bọn
mình như hắn vẫn làm trong công việc kiểm duyệt phê bình thư?»
Nhưng không, hắn không bỡn cợt, vì hắn đã cất cao lời diễn
thuyết:
- Hỡi các phu, các anh có biết không, các anh nhỏ mọn
quá! Tôi là người thông minh hơn các anh, nhiều học vấn hơn các anh, lại con
nhà quý phái hơn các anh nửa, tôi bảo cho các anh biết rằng các anh chỉ là những
đứa trẻ nhỏ mọn..» Bài diễn văn, trong nửa tiếng đồng hồ, kéo dài một giọng
gay gắt mỉa mai như thế để kết luận rằng:
«Toàn trại sẽ bị phạt nửa tháng không được gửi thư về nhà,
vì trong khi quan công sứ đi dưới đường thấp có mấy kẻ đã dám ngồi vắt vẻo trên
ngọn thang leo vô lễ nhìn xuống».
Đọc xong bài diễn văn, ném xong cái lệnh phạt, viên cai trị
quên cả bản yêu sách của trại giam, hầm hầm bỏ sang đồn, đem theo đoàn quan chức
rầm rộ kéo đi.
Thoạt đầu, trại giam như thốt nhiên bị một làn không khí độc
là xuống bao phủ. Ai nấy thẫn thờ ngồi im. Có người như lên cơn điên xé nát bức
thư vừa viết ra: «Nó không cho phép gửi thì để làm gì. Chó thật! ngày mai
là ngày thư!» Chính cái cử chỉ cáu kỉnh ấy đã làm anh em hết buồn và đồng thanh
phá lên cười vui thú. Họ cười to quá, khiến chú canh cổng phải vào can
thìệp: «Se sẽ chứ các ông, cụ lớn mà nghe thấy thì chết cả nút bây giờ». Anh em đáp lại bằng dịp cười nửa. Và một người giọng như say rượu nhè
nhè:
- Cụ lớn à? Cụ lớn anh lớn lắm đấy! Chúng tôi bé nhỏ bì
sao kịp!
Lịnh lên giọng tây nhại đoạn diễn văn: «Các anh nhỏ mọn
quá! Tôi thông minh hơn, nhiều học vấn hơn, lại con nhà quý phái hơn».
Lại một dịp cười nữa. Trại giam trở nên tấp nập, ồn ào như một
ngày hội. Và trong lúc người ta vui thú, người ta quên khuấy cái thất vọng chưa
đạt được một yêu sách nào. Nhưng cuộc vui nào cũng có giới hạn và rồi người ta
cũng nghĩ đến cái điều thắc mắc. Ý cái anh chàng đa nghi và nhát gan bao giờ
cũng tìm ra một nguyên nhân tưởng tượng cho bất cứ một việc gì.
- Tôi đã bảo các anh rằng phải đem bản yêu sách trình ông đồn
đã, các anh không nghe, quả nhiên nó xui xiểm lão sứ trị mình.
- Trị thế quái nào được mình!
- Rồi gửi thẳng bản yêu sách ấy cho sứ.
- Nếu không ăn thua thì hôm nào người nhà lên nhớ đem về Hà Nội
gửi cho thằng sứ. Cho toàn quyền nữa ấyl
Một người thốt ra một câu trách móc:
- Chỉ tại mấy anh đi leo lên ngọn thang ngồi nhìn xuống nó.
- Ai đấy? Ai mà vô lý thế nhỉ?
Lịnh gắt:
- Ai thì việc cũng qua rồi. Nó đã muốn tìm cớ để ra oai với
chúng mình thì chẳng có cớ ấy nó cũng có một cớ khác, Nguyên nhân việc này
không phải ở cái thang mà ở chỗ khác, các anh có biết không: nó ngờ bọn mình
tuyên truyền rủ rê đội, cai và binh lính ở đây.
Câu chuyện lại xoay chiều tới viên đội trẻ và những bữa rượu
thơ trong rừng củi để rồi lại quay về cái thang leo.
- Anh Năm chuyến này thì đi Sơn La! Nó hỏi ai làm cái
thang ấy, tưởng nó khen nhận ngay lấy công thôi. Để nó mỉa mai cho.
Một người không hiểu tiếng Pháp hỏi:
- Nó mỉa thế nào đấy?
- Nó bảo anh này thích những cái cao rồi sẽ làm đến thượng
thư đấy.
Anh em lại cười:
- Sao không trả lời nó rằng chỉ ao ước một chức be bé thôi.
Chức Công sứ Hòa Bình chẳng hạn.
Đêm hôm ấy, sau khi bị nhốt trong ba gian phòng chật hẹp, anh
em dong nến tụ họp từng nhóm nói chuyện rất khuya về ông Công sứ Hòa bình, mặc
kèn tắt lửa và mặc những Iời đe dọa của người cai trại đi «rông».
Theo Tài, người được toàn thể lính đồn quý mến và luôn luôn
cho biết những tin quan trọng thì sở dĩ hôm nay lão Sứ bắn tính là vì hắn ta
đương khó chịu với ông có đạo
về một chuyện kiện cáo thuốc sái gì đó. Anh em có ngay cảm
tình với nhà tu hành ấy vì thấy là địch thủ đáng sợ của ông Sứ, Ai biết một bí
mật gì về hai cừu nhân đều đem ra kể cho mọi người nghe. Rồi chẳng thèm giữ gìn
như mọi tối khác, họ phá lên cười từng cơn.
- Một đoản thiên của Maugham, các anh ạ, Tài tuyên bố.
Và Khanh tiếp:
- Nhan đề là ông Công sứ và ông Cố đạo.
- Không, nhan đề là «Tôn giáo và Cai Trị.»
Lịnh chữa:
- Không, là ảnh hưởng khói thuốc phiện!
- Cũng chưa ổn, phải là một nhà cai trị khôi hài... Y lại
gần thì thầm:
- Thằng cai gác là mật thám của Sứ đấy, các anh nên be bé cái
mồm chứ.
Ai nấy giận dữ cự lại cái anh chẳng nhát như cáy ấy:
- Im ngay! Anh sợ nó thì đi ngủ!
- Nhưng các anh làm liên lụy đến cả trại…
Tiên, người chỉ hùng hổ những khi biết mình mạnh cánh, đe dọa
một câu làm Y lảng ngay:
- Câm cái mồm ! Không tao đánh bây giờl
Câu chuyện tiếp tục đến quá nửa đêm trong làn không khí nặng
nề đầy khói, vì để phản đối lại bọn cai trị bất công, anh trật tự tháo khoán một
đêm nay và cho phép anh em hút thuốc lá thả cửa.
Sự xảy ra đặc biệt ấy làm hoạt động trại giam được
mười hôm. Rồi người ta cũng quên nó đi, nhất cái lệnh phạt gửi thư lại được thu
ngắn từ nửa tháng tới một tuần. Nhưng hình ảnh ông Công sứ thì không thể phai
nhạt được trong ký ức mọi người, mỗi khi họ ngâm nga những lời phê trong thư vẫn
đều đều và hóm hĩnh như trước,
Cách đó it lâu, trong khi không ai mong đợi, viên Công sứ lại
về thăm trại, lần này cùng đi với vợ, một người đàn bà lai, bé nhỏ xinh sắn, vẻ
mặt rất thông minh, và một thằng con bảy tám tuổi, đầu tóc chải mượt và quần áo
bảnh bao. Cũng như lần trước, Y đi thẳng tới Châu để ăn cơm sáng ở đấy. Rồi mặt
đỏ gay sắc rượu, Y cùng vợ con, và tùy tòng rầm rộ kéo sang trại giam. Một sự lạ!
Y thay đổi hẳn tính nết, rất nhũn nhặn chứ không kiêu căng nữa,
lẩn thẩn thân mật nói chuyện với người nọ người kia và thốt ra những câu khôi
hài vui vẻ làm ai nấy không nhịn cười được.
Tài ghé tai người đứng bên thì thầm: «Có lẽ nó điên!
Hay vi ngài vừa chén say, hút no, nên ngài khoái»
Điều đoán phỏng ấy bị cải chính ngay bằng sự trao thư từ và
các gói quà kèm thêm một lời ân cần của viên công sứ:
- Nhân tiện tôi mang về cho các anh các thư này; tuy
hôm nay chưa phải là ngày phát thư.
Thì ra hắn có lòng tốt từ trước khi say.
Nhưng đã hết đâu: Bất cứ một yêu sách gì vừa nêu ra là được
chuẩn y ngay, khiến lão đồn già phải can thiệp phản đối nhiều lần.
Sau khi đoàn công chức ra đi, anh em reo mừng. Một anh lắc lư
cái đầu, đọc câu sắm Trạng Trình «Bất chiến tự nhiên thành, các anh ạ!»
Đêm hôm ấy là đêm đầu tiên dân trại được ngủ mở cửa theo lời
yêu sách và người ta dắt tay nhau đi chơi quanh sân rất khuya dưới ánh trăng
thượng tuần để tán dương cái tính ngộ nghĩnh khó hiểu của một viên cai trị thuộc
địa.
- Đó là kết quả của ảnh hưởng nước độc và thuốc phiện!
Câu phê bình ấy của Lịnh vẫn không giảng giải được sự thay đổi
bất thình lình kia.
Cho tới một ngày gần đây, một tin dữ dội bay về với trại
giam: Viên công sứ bị giáng, và đổi đi nhậm chức phó công sứ ở một tỉnh Trung
châu. Tin ấy cho biết thêm
rằng trong một lúc nóng tiết và mất hẳn trấn tĩnh y đã thẳng
tay tát một ông chủ đồn điền người Pháp giàu có và mạnh thế lực ở trước mặt ông
Thanh tra chính trị lên Hòa
bình điều tra về việc tranh ruộng giữa người Pháp ấy và dân
Mường. Thì ra có lẽ y mắc bệnh thần kinh, cái bệnh truyền nhiễm rất thông thường
trong giới cai trị thực dân.
Ông Thanh tra tức giận bỏ ra đi, và ngày hôm sau ông công sứ
bị gọi về Hà nội. Từ đó dân trại giam Vụ bản mất hẳn cái thứ đọc những câu phê
hóm hỉnh và khôi hài của người Pháp lai, vụt trở nên, sau vụ giáng chức một người
«dễ thương» của anh em chính trị phạm.
NHUNG
Từ ngày được vô can trong vụ cướp nhà ông thượng Nguyễn
nhờ có những lời làm chứng công bằng của Nhung, con gái khổ chủ, thì Sinh bỗng
đổi hẳn tính nết. Trước hắn hay nói hay cười, hay đi chơi khắp các xóm để bới
chuyện nhà này nhà khác nhất là chuyện nhà ông thượng Nguyễn mà hắn ghét cay
ghét độc. Nay thì không mấy khi người ta gặp mặt hắn nữa. Hình như hắn xấu hổ
vì đã bị dính líu vào cái việc nhơ nhớp kia, nên tuy vô tội, hắn vẫn thấy cần
phải sống ẩn thân trong ít lâu. Bây giờ, người làng Bắc còn thì thào bàn tán
nhiều quá, đi đây đi đó nhờ thoáng nghe thấy chỉ thêm bực mình! Ấy là người
ta đoán thế thôi chứ chính Sinh cũng không từng ngỏ tâm sự với một ai. Hắn hầu
như một người câm và cả ngày chui rúc trong gian buồng cửa đóng kín mít. Đến bữa,
mẹ và các em có gọi đi ăn cơm thì một là hắn lẳng lặng bước ra, ngồi xuống phản
và lùa luôn mấy bát rồi đứng dậy lại trở vào buồng. Buổi đầu Sinh mới được tha
về, mẹ hắn thấy vậy chỉ lắc đầu thương hại con hay thốt lời tục tằn nguyền rủa
bọn cướp đã khai man để làm khổ con bà. Nhưng sau thấy Sinh cứ kéo dài mãi cái
trạng thái buồn phiền chán nản, bà sinh ra cáu kỉnh.
Một hôm trong bữa cơm chiều bà gọi chuyện bảo con:
- Mày lại bảo học đi thôi, cứ ăn không ngồi rồi mãi như thế
thì đến chết đói mất.
Sinh dằn mạnh cái bát xuống mâm, yên lặng đứng dậy. Bà kia liền
thét:
- Mày làm như vì tao mà mày bị bắt, bị tù, bị tội không bằng!
Nếu mày không đi lại chơi bời với quân du thủ du thực thì chúng nó biết mày là
ai mà đi tố cáo mày với quan nha để đến nổi mày khổ sở, nhục nhằn. May mà chị
Nhung chị ấy tốt bụng, chị ấy không thèm thù hằn mày, chứ nếu chị ấy cứ nhận diện
bừa đi thì mày ngồi tù đã đành, đến cái thanh danh nhà mày cũng chả còn ra gì.
Thấy mày ngày xưa đã làm gì nên tội, tao ngày nay đã làm gì nên tội mà để mày
bêu xấu bêu hổ, bêu nhục, bêu nhuốc?
Hà thấy anh vùng vằng đi vào buồng đóng sập cửa lại liền gắt
sẽ với mẹ:
- Anh ấy đã bị oan uổng khổ sở, bu lại còn không để cho anh ấy
yên thân.
Người đàn bà vẫn chưa thôi:
- Ừ thì việc đã nhỡ ra như thế, nó cũng phải chịu nhẫn nhục
mà quên đi, chứ có đâu cứ như ăn vạ tao thì mày bảo tao biết làm thế nào.
Bà ngừng lại nghĩ vơ nghĩ vẩn một lát rồi bưng mặt ngồi khóc
thút thít.
Bà lấy làm tủi nhục cho cái đời sống túng bẩn vất vả của bà.
Là con một ông cử, bà lấy chồng con nhà nho, cũng như chị bà. Nhưng hai người
anh em đồng hao ấy đã bỏ xa nhau trên con đường tiến thủ: một người đỗ đạt ra
làm quan, một người suốt đời là một ông Đồ nghèo kiết. Chị bà cũng có giúp đỡ
bà nhiều phen và lại nhận nuôi cả Sinh cho cùng đi học với con mình. Rồi chồng
bà chết, rồi chị bà chết. Bà thấy đời bà bơ vơ không nơi nương tựa, với một cái
gia sản hèn mọn không đủ nuôi sống một gia đình bốn mẹ con, nhất từ khi Sinh
không chịu nổi sự bạc đãi của nhà ông Thượng, bỏ về ở với bà.
Bấy giờ Sinh đã hai mươi tuổi nhưng vì ham thích chơi bời lêu
lổng nên chỉ mới đậu được cái bằng Tốt nghiệp. Không một nghề trong tay, lại
đam mê rượu chè cờ bạc, chẳng bao lâu hắn trở nên cái mầm nguy vong cho gia
đình. Bà Đồ và Hà đội vải đi bán chợ xa chợ gần vẫn không sao đánh thăng bằng
được cái quỹ chi thu thường nhật, Vì thế số nợ một ngày một chồng chất thêm mãi
lên.
Bà Đồ chỉ biết than thân trách phận, và đổ tại số mình không
ra gì. Nhưng Sinh thì hắn quy hết oán thù vào cả cái gia đình ông Thượng. Hắn
không thể quên được cái thời kỳ sung sướng, vô tư vô lự của hắn khi chị mẹ hắn
còn tại thế. Những người anh họ hắn có thứ gì hắn đều có thứ ấy. Hắn thấy đời sống
dễ dàng và đẹp đẽ bên những người thân thích đáng yêu, bên những người chị họ
xinh tươi và âu yếm.
Ngày nay tình thế đã đổi thay, và sự đổi thay chỉ do hai mẹ
con Nhung đã gây nên. Nhung mà xưa kia hắn cho là một lẽ sống của đời hắn, là
nguồn ánh sáng chiếu rọi vào tâm hồn hắn, nay hắn chỉ thấy là một kẻ thù đã phá
hoại hạnh phúc của hắn. Từ hai người đàn bà, lòng oán ghét của hắn lan rộng ra
tới toàn thể cái gia đình ông Thượng rồi tới tất cả cái xã hội cao quý của bọn
quan lại và phú hào, một xã hội trưởng giả mà hắn tìm ra đủ các tội lỗi, đủ các
điều đê tiện xấu xa.
Hắn bắt đầu có một quan niệm về xã hội, về loài người. Loài
người chỉ chia ra làm hai giai cấp: giai cấp được hưởng đủ các quyền lợi và
giai cấp không được hưởng một chút quyền lợi gì. «Sao lại có mãi sự bất công ấy
được?». Sinh hằn học tự hỏi thế. Rồi câu hỏi dần dần mất cái tính cách hằn
học, mà chỉ còn là một vấn đề nhân sinh. Sinh thấy một ngày một rõ rệt rằng vấn
đề ấy cần phải được giải quyết ngay do những người ở cái giai cấp bị thua thiệt,
và giải quyết bằng đủ mọi cách với đủ mọi phương pháp. Hắn vốn nhu nhược và lười
biếng, thế mà chỉ vì sốt sắng muốn cải tạo xã hội, hắn bỗng trở nên cương quyết
và mẫn cán trong công việc theo đuổi để phá hoại phe địch. Hắn không ở đảng
phái nào, và cũng chẳng đọc qua một lý thuyết xã hội nào.
Nhưng hắn cần gì phải có lý thuyết vững vàng mới đánh đổ được
đối phương: Hắn sẽ đi tuyên truyền nói xấu bọn phú hào. Họ không thiếu gì hành
vi nhơ nhớp. Mà có bịa đặt thêm ra cũng chẳng sao! Bắt đầu, hắn hãy thu hẹp
phạm vi công kích của hắn vào trong một làng, làng hắn, và đứng đầu cái bảng
đen là nhà ông Thượng, cái gia đình đã nuôi hắn, cho hắn biết mùi phú quý để rồi
ném hắn xuống đất đen cho hắn thấy thấm thía cái chênh lệch bất công giữa hai
giai cấp.
Trong khi việc tuyên truyền có phương pháp đương tiến hành để
hạ cái gia đình cao quý kia xuống, để gây lòng phẫn uất của người làng đối với
bọn đã xây hạnh phúc trên mồ hôi xương máu của quần chúng, thì xảy ra vụ cướp
nhà ông thượng Nguyễn. Vì thế người ta đoán chắc Sinh có dính líu vào việc ấy.
Người ta đồ rằng cái dinh cơ rộng rãi, và kiên cố kia nếu không có một người
thông thuộc đường đi, lối lại như Sinh làm dẫn đạo thì cướp khó lòng vào lọt được.
Tới khi Sinh bị bắt, hết thảy người làng cùng vui cười. Họ vui cười không phải
vì ghét gì hắn, hay thương hại gì ông Thượng, nhưng vì họ thấy họ đoán đúng: thủ
phạm vụ cướp không thể là ai được, mà chỉ là kẻ thù ghê gớm của cái gia đình
quý phái ấy.
Vận mệnh của sinh hoàn toàn ở trong tay người đến huyện nhận
diện các tên hung đồ. Người ấy là Nhung, vì hôm mất cướp, ông Thượng bà Thượng
đi Hà nội vắng, và người nhà đều chạy trốn thoát cả, duy có Nhung là bị bắt. Và
nàng đã nhận diện hết mọi tên; trừ một mình sinh ra.
Thế là dư luận dân làng Bắc lại xoay chiều. Người ta bảo
nhau: «Dầu sao thì nó cũng là cháu chẳng lẽ cháu lại dắt cướp vào nhà bác?».
«Chẳng gì nó cũng là con nhà gia giáo, đâu nó có thể trụy lạc quá đến thế!»
Nhưng vẫn có người còn ngờ vực và nói: «Cô Nhung, cô ấy thương hại một
người em họ nên cô ấy không nhận diện đấy, chứ chính cướp nó đã cung khai ra
thì có mà chệch đi đằng giời!».
Vụ cướp rồi cũng bị người ta quên đi. Khi nó không còn làm đầu
để cho câu chuyện mua vui trong các xóm nữa thì bỗng xảy ra một việc khiến người
ta lại quay trở lại bàn tán đến nó. Đó là cái chết của Sinh: Sinh tự thắt cổ ở
trong buồng kín, dưới chân hắn có bức thư sau này gửi cho Nhung:
B..... ngày …. 1940.
Em Nhung,
Chị cho phép tôi, một lần cuối cùng, kêu chị bằng em. Kể tôi
hơn chị những ba tuổi thì tôi có xưng hô như thế cũng không đến nổi quá đáng.
Còn bảo tôi là em họ chị thì điều đó có đâu, mẹ tôi là em ruột bà thượng cả, chứ
có là dì chị đâu. Tóm lại chị vớì tôi không có dính họ hàng gì cả và ví như tôi
lấy chị làm vợ cũng không có tội kia mà.
Chị thấy lời lẽ tôi bình tĩnh lắm phải không? Từ hôm tôi được
tha về bao giờ trí tôi cũng rối ren, loạn xạ, mà vì sao hẵn chị cũng hiểu.
Nhưng nay thì lòng tôi tự nhiên dẹp hẳn xuống: Tôi đã quả quyết chết, mà khi
người ta đã quả quyết chết thì người ta tiếc gì ở đời nữa mà còn phải băn
khoăn. Vậy khi Nhung đọc bức thư này thì Sinh đã là cái xác không hồn.
Chắc chị muốn an ủi tôi, chị muốn khuyên tôi không nên tự hủy
hoại thân thể phải không? Nhưng chị thì thử bình tĩnh lại mà xem, chỉ sợ thấy
tôi đã bị xô đẩy tới con đường cùng rồi.
Vậy lời thứ nhứt và lời cuối cùng của người sắp vĩnh biệt đời
này là một lời tạ tội. Em xin lỗi chị, anh xin lỗi em, vì đã xúc phạm tới em
trong cái đêm lịch sử ấy.
Sau nữa, và đó là điều độc nhất đáng kể, em sẽ lợi dụng cái
chết của em để thú tội với chị, như kẻ mộ đạo Thiên Chúa thú tội với nhà giáo
sĩ để mong trút được gánh nặng trong lòng trước khi thênh thang lên đường giải
thoát.
Chị đừng tưởng là cái tội đã dắt cướp vào nhà chị, hay cái tội
đã dám có dã tâm định làm điếm nhục một người thiếu nử. Hai tội ấy có đáng kể
chi bên cái tội tầy trời mà em đã phạm. Nhưng xin hãy nghe em đây:
Ngay từ thuở nhỏ em được hai bác nuôi nâng dạy dỗ, coi chẳng
khác gì con đẻ. Lớn lên trong cảnh giàu sang đầy đủ em có bao giờ nghĩ đến
thương hại những người lăn lóc trong đám bình dân nghèo nàn thiếu thốn đâu. Cả
mẹ em làm ăn tần tảo để kiếm tiền nuôi gia dinh, em cũng không hề để ý đến một
cách thiết tha. Mẹ em thì chịu nhịn đủ thứ, chỉ nuôi trong lòng cái hy vọng mai
sau em học thành tài làm nên vẻ vang cho nhà cho họ.
Đời tôi, lọ là tôi phải thuật lại với chị. Như anh em trong một
nhà, còn một điều gì về tôi mà chị không biết! Nhưng có một điều mà chị
không ngờ, mà chị không thể ngờ được, là tôi yêu chị, là anh yêu em.
Em Nhung, bao tội lỗi gây nên bởi mỗi ái tình ngăn cấm. Trong
bao lâu anh yêu trộm thương thầm... Rồi có ngày anh trông rõ rằng em chỉ đáp lại
anh bằng sự lãnh đạm và mẹ em chỉ đối đãi anh bằng sự khinh nhờn, thì anh không
chịu nổi vì anh bỏ đi cho khuất mắt cái gia đình mà anh thù ghét thấy đáng thù
ghét. Anh tìm ra, cố moi ra đủ các lý do để mà thù ghét, những lý do chính đáng
nữa. Rồi lòng thù ghét cá nhân đối với cá nhân, lòng tư thù biến đi để nhường
chỗ cho lòng thù chung của một xã hội bị bóc lột, lòng công phẫn của đại chúng.
Anh thấy bác Thượng là một người đáng bị, và anh lấy làm thẹn rằng anh là cháu
bác.
Lòng uất ức của anh một ngày một lớn dần, cho tới khi anh thấy
cần phải trả thù bằng việc làm. Hình ảnh em cũng đã bị xóa hẳn trong ký ức anh
rồi. Một dục vọng mãnh liệt hơn đã đến chiếm hẳn chỗ tình yêu: Đó là sự trả
thù, trả thù cho anh bị hất hủi, và anh rất thành thực ít ra cũng thành thực
trong thời ấy, anh rất thành thực mà thêm rằng: trả thù cho cái giai cấp bị hất
hủi trong đó có anh.
Thế rồi như em đã biết đó, anh dắt cướp vào nhà em. Chủ ý anh
là định giết hai bác, và làm ô nhục em mà anh đã thù ghét đến cực điểm rồi. Vì
thế anh cũng chẳng thèm giữ gìn giấu diếm nữa, anh đã đến trước mặt em, ngạo
nghễ tỏ cho em biết rằng anh có đủ sức mạnh để chiếm đoạt được em, rằng em đủ tự
phụ cao quý đến đâu cũng có thể bị bôi nhọ đi như trở bàn tay được.
Nhưng có một điều anh không ngờ là ái tình mà anh tưởng đã chết
hẳn, sự thực nó vẫn còn sống dù đó chỉ sống âm ỉ trong tiềm giác anh. Hình ảnh
em trong một giây đã đánh thức nó dậy và đã khiến anh trở nên «hèn nhát» (xin
tha thứ cho chữ ấy) và không dám đụng chạm tới em. Anh đã dám hối hận điều ấy ở
trong nhà giam trước khi gặp mặt em đến nhận diện.
Em Nhung, sao em không để anh yên thân với tội lỗi của anh,
sao em không để anh yên thân với những hình phạt đương chờ đợi anh, sao em lại
đến cứu vớt anh ra khỏi ngục thất và tù đầy? Trời ơi! nay đối với mọi người,
anh đã vô tội. Nhưng anh cần gì điều ấy. Riêng đối với em, anh vẫn đời đời kiếp
kiếp là một thằng khốn nạn, mà vì điều ấy, anh đã quả quyết tự khép anh vào tử
hình.
Thôi chào em ở lại.
SINH
Bức thư ấy đến tay Nhung, và nàng đọc từ đầu đến cuối với một
tâm hồn bình thản. Nhưng từ đó nàng trở nên ngẩn ngơ trong ít lâu..
CÂU CHUYỆN VĂN CHƯƠNG
KỊCH MỘT HỒI
Nhân vật: Quang, Khanh
Phòng riêng của Khanh.
KHANH ngồi đánh cờ một mình. Trên bàn, sách, giấy bề
bộn. Bàn cờ để trên một cái ghế đẩu.
KHANH, cặm cụi suy tính nước cờ - Hừ! Nhảy
con mã thấp quá chừng... Bỗng dưng làm ngòi cho pháo của nó...
NHỎ vào - Báo đây ạ.
Để bảo lên bàn rồi ra.
KHANH xóa bàn cờ, - Thôi chịu thua. Chốc gỡ! (cầm báo mở tìm)
Đây rồi! (cúi đầu lẩm nhẩm đọc, nói) Một con vật vừa ở nước vừa ở cạn dài
mười một chữ!.. Thế là con gì?.. À phải rồi. (Cầm bút húy hoáy viết, bỏ
bút nghĩ ngợi... tra tự điển.,.)
Quang vào đứng ngắm mỉm cười, trong khi ấy Khanh vẫn cặm
cụi làm việc.
QUANG - Làm gì thế?
KHANH ngửng lên bẽn lẽn và thu xếp báo, giấy bút lại.
- Mời anh ngồi chơi.
QUANG.- Đương viết văn đấy à?
K- Viết lách gì đâu. Đương tìm chữ ở đây.
Q cười - Giời đất này mà đi tìm chữ ô?
K cũng cười, - Giời đất này mới đi tìm chữ ô, chứ giời đất
khác đã chả đi tìm chữ ô. À này ! báo người mình xoàng quá, có mỗi một tờ
Chính Nghĩa ra được vài kỳ chữ ô rồi tịt. Làm tôi cứ phải mua báo Pháp về tìm
chữ ô Pháp vậy. Mấy tờ tuần báo Pháp đấy, anh coi, tôi có thèm rọc đâu, tôi chỉ
xem có mỗi một mục chữ ô. Làm xong bằng chữ ô, là tôi xếp lại. Anh tính còn có
cái gì đáng xem nữa. Mà xem để làm gì !
Q - Xem để biết.
K - Biết để làm gì?
Q - Biết vì tò mò.
K - Thiếu gì cái tò mò muốn biết. Chẳng hạn chữ đồng nghĩa
vài ménagera và dài mười một ô mà mình lại chả tò mò muốn biết là chữ gì à?
Q cười - Không ngờ nay anh lẩn thẩn, được đến thế. (Nhìn thấy
cái bàn cờ). Anh vừa đánh cờ với ai thế?
K. - Tôi đánh cờ với tôi.
Q - Đánh cờ một mình?
K - Đánh cờ một mình thế mà nhiều khi gặp nước bí cũng tức uất
lên đấy.
Q - Nhưng đánh cờ và tìm chữ ô thì làm gì hết được ngày giờ.
Cũng phải làm việc gì nữa chứ.
K - Đánh Belote nữa.
Q - Cũng đánh một mình?
K - Chà đánh một mình thì đánh với ai! Cờ thì một giữ địa
vị hai địch thủ thôi, chứ Belote thì một giữ những bốn cửa, hai phe, hai mặt trận...
Lắm khi phe nọ cứ là vỡ mặt ra với phe kia!
Q lắc đầu - Anh buồn nản lắm phải không?
K - Việc gì mà buồn nản, vui chứ. Trước kia vui vẻ viết văn,
ngày nay vui vì không viết văn. Một nghệ sĩ thì bao giờ mà không vui, không sướng,
bao giờ mà không tận hưởng. Tận hưởng cái thú làm việc cũng như tận hưởng cái
thú chẳng làm gì, cũng như tận hưởng cái thú tìm chữ ô và đánh cờ một mình.
Q- Không được! Không thể thế được! Ngày nay ta đương ở
vào thời kỳ kiến thiết quốc gia. Ai ai cũng phải làm việc tận kỳ lực. Không thể
coi công việc của mình như một lạc thú ở đời...
K - Cả công việc xúc tiến tới sự sinh sản tăng nhân số?
Q - Anh không đứng đắn một tý nào. Anh dám coi thường cái nhiệm
vụ thiêng liêng của anh, trong thời kỳ kiến thiết triệt để này. Trong khi hết
thảy mọi người đều phải nhúng tay vào công cuộc xây dựng cái lâu đài Việt Nam,
mới bắt đầu thì một mình anh, anh khoanh tay đứng …cũng không đứng nhìn nữa.
K - Nhưng tôi có khoanh tay đứng nhìn hay không nhìn đâu. Tôi
cũng vẫn bận bịu như xưa. Xưa tôi viết văn thì nay tôi tìm chữ ô, đánh cờ một
mình. Hai công việc ấy phỏng có khác gì nhau?
Q - Tôi nhận xét thấy một điều, là ít lâu nay trong làng văn
chúng ta có nhiều người trở nên nhẹ dạ, khinh bạc. Tôi không hiểu đó có phải là
kết quả của một cuộc đổi đời không? Bước chân vào một cuộc đời mới mẻ, các anh
bỡ ngỡ, hoang mang, rồi các anh dần dần để tiêu tán mất cả chí hoạt động phấn đấu,
các anh chán nản...
K cười - Chúng tôi? Còn anh thì anh không bỡ ngỡ không
hoang mang, không để tiêu tán dần dần mất chí hoạt động phấn đấu? Có phải thế
không? Nếu đúng thế thì điều nhận xét của anh hãy còn thiếu sót, hoặc giả anh
không muốn nói hết ý nghĩ của anh. Quả có nhiều người bỡ ngỡ, hoang mang, mỗi
khi xảy ra một cuộc biến cải, một cuộc Cách mệnh. Nhưng vì sao mà họ bỡ ngỡ
hoang mang? Há chẳng phải vì họ xông vào trong cuộc đời mới ấy.
Họ như những người lính chưa tập đi bỗng lăn sả nhập ngay vào
hàng ngũ một đội quân tinh nhuệ. Thử hỏi làm gì mà họ không bở ngỡ hoang mang?
Còn anh, và một số ít người như anh đã có sẵn thiên tư đồng hóa, nên chẳng bao
giờ bỡ ngỡ hoang mang hay có bỡ ngỡ hoang mang cũng chỉ bỡ ngỡ hoang mang trong
giây phút, rồi chỉ «một hai» vài bước là đi thẳng hàng, đồng nhịp
ngay với giây người đời trên con đường đời thẳng tắp. Đối với những người siêu
việt ấy thì biến một quan niệm cũ thành một quan niệm mới chỉ giản dị như bỏ một
bộ quần áo mỏng để mặc một bộ quần áo dày cho ấm. Phỏng có khó gì.
Q cười - Anh mỉa mai tôi, tôi biết lắm. Dẫu
sao sự nhận xét của anh cũng đúng đấy. Nhưng nếu anh cho rằng tôi thay đổi quan
niệm dễ dàng như thay đổi một bộ y phục thì có lẽ anh nhầm. Thay đổi được quan
niệm, tôi cho cũng là một việc khó khăn. Nói chi phường a dua xu thời và tôi chắc
anh không nỡ đặt bạn anh vào bọn đó, còn những người thành thực muốn theo một
quan niệm mới mà họ tin chắc là hợp lý hơn, hợp lẽ sống hơn cái quan niệm cũ của
họ, thiết tưởng những người ấy đã không thể không qua một thời kỳ suy nghĩ, do
dự, nhút nhát, sợ hãi. Mà, nói câu này anh đừng vội giận, chính anh, biết đâu
anh hiện giờ không ở trong thời kỳ đó. Biết đâu không phải vì suy nghĩ tìm tòi
mãi mà không thấy lối ra, biết đâu không phải vì do dự nhút nhát, sợ hãi mà anh
lẫn thẫn đi đánh cờ một mình, và mất hàng giờ đi tìm một chữ dài mười một ô
dòng nghĩa với chữ ménagera?
K - Anh nói đúng, nhưng cũng chỉ đúng một phần nào đó.
Sự thực thì tôi có do dự, nhút nhát, song không phải do dự, nhút nhát trước khi
bước vào hàng ngũ của các anh. Không, không khi nào tôi sẽ gia nhập hàng ngũ
các anh, cũng như không khi nào tôi bỏ được cái lý tưởng mà tôi thờ phụng trong
thâm tâm một khi tôi đã nhận nó là lý tưởng duy nhất của tôi. Sở dĩ tôi do dự,
nhút nhát là chỉ do dự nhút nhát về một phương diện theo đuổi cái quan niệm của
tôi, cái quan niệm văn chương, nghệ thuật mà bao giờ tôi cũng vững chắc tin tưởng.Luôn
luôn tôi tự bảo tôi: «Xưa nay mình chỉ viết cho mình, chỉ viết để thỏa mãn lòng
sốt sắng muốn viết, để thỏa mãn những nhu cầu của một tâm hồn bứt rứt, trong một
xã hội dưới một chính thể không thích hợp với nó...»
Q cười - Và nay anh không viết là vì tâm hồn anh
không đòi hỏi một nhu cầu nào nữa, là vì cái xã hội hiện thời, cái chính thể hiện
thời thích hợp với tâm hồn anh, Có phải thế không?
K - Không hẳn thế. Và tôi nghĩ viết, tạm nghỉ viết, không phải
là không viết nữa. Tôi đã bảo anh rằng tôi do dự, nhút nhát. Nào có phải tôi sợ
hãi gì đâu, sợ hãi ai đâu. Nhưng tâm hồn tôi muốn lắng lại để mà chờ đợi một
cái gì, tôi cũng chưa biết là cái gì, nhưng chắc là một cái mới mẻ, lạ lùng, đẹp
đẽ lắm, tâm linh tôi như báo cho tôi biết thế...
Q cười - Vì thế mà anh tạm tiêu phí thời giờ bằng
cách tìm chữ ô và đánh cờ một mình. Về phần tôi, thì tôi không thể bình tĩnh được.
Tâm hồn tôi không bao giờ chịu lắng xuống để chờ đợi. Lúc nào nó cũng dương
lên, réo lên như nước thủy triều. Hoạt động! Hoạt động! Chỉ có hoạt động
là đáng kể! Hoạt động là sống, đợi chờ là chết. Lại điều này nữa, bao giờ tôi
cũng muốn gõ cùng một nhịp với mọi người, hơn thế bao giờ tôi cũng muốn có liên
lạc giữa tôi và đại quần chúng. Trái ngược với người chơi đồ cổ đi tìm giữ những
cái hiếm không một ai có, tôi, tôi chỉ thích có những cái mà ai ai cũng có, làm
những việc mà ai ai cũng làm. Anh đã thấy đấy, tôi rất ghét sách quý, và dù nhà
xuất bản có dành cho tôi một ít sách quý, tôi chỉ sung sướng khi đọc những cuốn
sách thường, vì tôi tưởng tượng trong lúc tôi đọc, có biết bao nhiêu người cùng
đọc với tôi, và có lẽ cũng có những cảm tưởng như tôi.
K mỉm cười, đột ngột - Anh có đặt tin tưởng
vào ba cái tính cách đại chúng, dân tộc và khoa học của nền văn chương mới không?
Chắc có?
Q - Có mà không.
K - Sao lại có mà không?
Q - Có, là vì, dù tôi không tin, văn chương vẫn cứ phải đi
vào ba con đường ấy. Không, là vì tôi cho văn chương trước hết phải là văn
chương. Nếu cứ câu nệ với ba điều kiện dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa
thì rồi có khi văn chương sẽ không là văn chương nữa...
K cười to nói tiếp luôn - Mà sẽ chỉ là những thí dụ,
những trình bày của sự dân tộc hóa, sự khoa học hóa và sự đại chúng hóa. Tôi
không thể nhịn cười được khi nghe một... không phải một văn sĩ mà một nhà Cách
mạng dạy tôi ba cái hóa ấy ngay mấy hôm sau ngày khởi nghĩa, ông ấy lại xui tôi
đăng báo để tuyên cáo với quốc dân cái quan niệm mới ấy của tôi về văn chương
nghệ thuật nữa. Thì ra những lời sám hối, những bản tuyên ngôn đổi hẳn quan niệm
về văn chương mà chúng ta thường được đọc trên báo có lẽ cũng chỉ dò lời khuyên
bảo, thúc dục của một ông bạn cách mệnh mà có, chứ vị tất đó đã là kết quả của
suy xét, và tin tưởng.
Q. - Nhưng anh có tin rằng thế nào cũng phải dân tộc hóa,
khoa học hóa và đại chúng hóa văn chương không?
K - Tôi không cần tin hay không tin. Mà văn chương cũng không
cần đến tôi tin hay không tin những điều đó. Tôi chỉ nhận thấy rằng nhà tiểu
thuyết đã đưa nghệ thuật tiểu thuyết lên tới bực cao nhất là Dostoievski. Mà đại
chúng thì chả thể nào hiểu được Dos vì muốn nói sao mặc lòng, chúng ta có viết
cho ai đâu, chúng ta chỉ viết cho chúng ta. Bao giờ một nhà văn cũng chỉ ích kỷ,
và chính nhờ về lòng ích kỷ ấy mà họ đã giúp ích cho nhân loại bằng cách đem
phô diễn những cái sâu kín, âm thầm, băn khoăn, uất ức mà người ta chỉ thành thực
viết ra khi nào người ta viết cho người ta, viết để được trút cái gánh, nặng đè
trĩu tâm hồn. Những cái sâu kín, âm thầm, băn khoăn, uất ức của nhà văn ấy cũng
là những cái sâu kín âm thầm, băn khoăn, uất ức của nhân loại, hay nói giọng
người đời nay, của đại chúng. Văn chương chỉ có tính cách đại chúng hiểu theo
nghĩa ấy. Nhưng người ta lại cứ muốn hiểu theo nghĩa: «Văn chương phải giản dị,
thẳng như ruột ngựa để cho đại chúng hiểu nổi!». Thực là tai hại! Còn
khoa học hóa là thế nào? Thực tôi cũng không hiểu rõ đấy.
Q - Là bất cứ việc gì xảy ra cũng phải hợp khoa học không thể
tả một vật nặng rơi lên giời được chẳng hạn.
K - Nghĩa là không được tả ma quỷ, hồ, tinh? Như thế thì bộ
Liêu trai sẽ bị đốt mất. Tôi thì tôi hiểu khác. Là nhà văn phải áp dụng các
phương pháp khoa học trong cách kết cấu và sự hành văn. Nếu thế thì văn chương
được khoa học hóa đã từ lâu rồi. Và khoa học đây chỉ là kỹ thuật trong sáng
tác, có chi lạ. Một tác giả ít học rất có thể thiếu kỹ thuật, và sự thành công
của y, nếu y thành công chỉ là một sự may mắn, một sự hú họa.
Q. - Anh nói đến Dos, khiến tôi lại nghĩ đến cái hộ
Dostoievskiens của người mình.
K. - Người mình mà cùng có cái hội ấy như ở bên Pháp, bên Âu?
Điều ấy kể cũng hơi ngộ, nhưng nó chứng tỏ rằng cái mộng dân tộc hóa văn chương
của anh là một ảo mộng. Trái lại, theo ý tôi, muốn nâng cao trình độ giá trị
văn chương nước mình, mình phải nhân loại hóa nó đi. Mình tả người, nhân vật của
mình trước khi là người Việt Nam phải là người. Mà khi nó là người, nghĩa là nó
sống chứ không ngọ ngoạy như thằng lật đật thì nó sẽ gần được hết mọi hạng người
và hết mọi giống người. Dân tộc hóa? Pearl Buck, có dân tộc hóa những tác phẩm
của bã không? Mà nếu bà dân tộc hóa chúng nó thì trong bản khai sinh chúng nó sẽ
khai là Trung hoa hay là Hoa kỳ? Dân tộc hóa? Trời ơi, các anh định đặt luật lệ
khuôn mẫu cho nhà văn? Các anh định trói chúng tôi lại, rồi khi chúng tôi lấy
tư cách là người, người của nhân loại, chúng tôi phản đối lại bằng cách tìm chữ
ô và đánh cờ một mình thì các anh bảo chúng tôi là bọn lạc hậu. Các anh thì
không lạc hậu, nhưng các anh cứ ồn ào lên, bắng nhắng lên, rồi các anh sẽ lạc
lõng cho mà xem,
K - Dân tộc hóa? Ừ tôi hãy hỏi anh, những nhân vật tả trong
những tác phẩm của Pearl Buck có hoàn toàn Tàu không? Có thể so sánh được với
những nhân vật trong Thủy Hử hay Hồng Lâu Mộng không? Không kém, không
hơn, anh có thấy thế không? Thế thì khi người ta đã tới nghệ thuật, khi người
ta đã có một kỹ thuật vững chắc, thì người ta bất chắp cái «dân tộc hóa»
của các anh. Bây giờ, ví thử Bồ tùng Linh của tôi sống lại, và ví thử ta đem
ném ông sang Paris thì rồi ông sẽ viết những truyện Liêu trai, Paris một trăm
phần trăm cho mà xem. Các anh, các anh chỉ nói «hóa» suông chứ một «nghệ sĩ»,
thì bao giờ cũng thực hành «hóa», mà hóa của người ta có muôn hình vạn trạng,
trăm màu nghìn sắc của con người sống giữa vạn vật.
Q cười - Bạn tôi hôm nay mới thực thổ lộ can
trường. Mà như thế bạn càng có tội với sự kiến thiết quốc gia, hay ít ra cũng với
nền văn chương nước nhà. Là vì nếu cái. «hóa» của anh đã theo muôn hình vạn
trạng, trăm màu nghìn sắc của người và vật, thì vì có gì anh được phép bỏ qua
cái hình trạng và những màu sắc rất rực rỡ của cái giờ phút, anh đương sống?
K mở tự vị tìm chữ - Tôi có bỏ qua đâu, tôi đương sống,
sống triệt để.
Q. cười - Bằng cách tìm chữ ô?
K - Và đánh cờ một mình. Trong khi ấy thì tâm hồn tôi
đương lắng xuống, như tôi đã nói với anh... Các anh nhộn lắm kia!
Q cười đứng dậy - Thôi tôi xin về để anh tìm chữ ô.
Và tôi mong...
K. cũng đứng dậy cười tiếp -...Đọc bản tuyên ngôn thay
quan niệm văn chương của tôi chứ gì.
Q. bắt tay Khanh - Nhưng dầu sao tôi cũng rất lạc
quan vì anh. Anh chưa chết được.
K bắt tay - Cảm ơn anh. Nhưng tôi cũng nhất định
không sống để mà chỉ đi theo một cái gì.
Q - Thôi chào anh.
K. - Chào anh.
Quang ra
Khanh đứng sững suy nghĩ một phút rồi ngồi xuống cúi đọc bản
chữ ô.
MÀN HẠ
DƯỚI ÁNH TRĂNG
Bi kịch rnột hồi
NHÂN VẬT:
KHOA: Quốc dân quân 30 tuổi
THỨC: Vệ quốc quân 20 tuổi
Cảnh trên đồi sau một trận kịch chiến. Một xác chết
bận nhung phục bên một bụi cây. Rải rác vài cây súng trường, bao đạn, mũ sắt.
Đằng xa tiếng súng còn nổ, gần đấy tiếng cú còn thưa nhịp.
Lúc màn kéo lên trăng khuất trong đám mây dày. Cảnh mờ mờ tối. Khán giả
không trông rõ người mà chỉ nghe thấy tiếng rền rĩ. - Hai ba phút -
trăng tỏ dần.
Khoa như vừa thức một giấc ngủ, thong thả ngồi dậy ngơ ngác
nhìn chung quanh, ngửa mặt nhìn trời rồi lắng tai nghe ngóng. Bỗng giữa những
tiếng gió, tiếng sâu kéo dài, y thoáng nhận rõ có tiếng người rền rĩ. Y cúi xuống
tìm tòi và tìm thấy cách chỗ y ngồi độ một thước một người vận nhung phục nằm
úp mặt bên cạnh khe một tảng đá lớn. Y lại gần gượng nhẹ lật ngửa người ấy lại
thấy máu ướt đẫm một bên sườn. Bất giác y rùng mình đưa tay sờ đầu, thân
thể và tay chân mình.
KHOA mỉm cười sung sướng: Hơ! (cúi xuống nói với Thức) -
Anh bị thương?
THỨC gật.
KHOA nắn se sẽ - Ở sườn bên phải?
THỨC gật.
K.- Để tôi băng bó tạm cho nhé? (tháo thắt lưng da, cởi
áo ngoài, áo lót mình cho Thức) Đích rồi, bên phải, ngay dưới xương sườn,
may ra thì không trúng thận. Không nặng lắm đâu, chỉ trúng mạng mỡ... Anh mệt
và ngất đi chỉ vì máu ra nhiều quá.
T.- mỉm cười vơ vẩn - Em chết mất anh ạ.
K.- Không, không chết! Cứ yên tâm để tôi băng bó cho (mở túi lấy
ra một cuộn băng).
T.- Quân ta thắng?... Phải không?
K.- ngắm nghía dấu hiệu đính trên mũ chào mào của Thức
rơi bên cạnh, y yên lặng nâng Thức đặt ngồi dựa vào tảng đá rồi bắt đầu
bôi thuốc và quấn băng cho Thức.
T.- Thắng... Phải không anh?
K.- Thắng! (vẫn quấn băng cho Thức).
T.- Anh không bị thương ư?
K.- Không (mỉm cười sung sướng). Không, (vừa quấn băng cho Thức)
T.- Anh ở đội... quân cứu thương?
K.- Ừ (suy nghĩ như nói một mình), Tôi vẫn tưởng tôi bị
thương, nhưng hình như không thì phải. Tôi nhớ ra rồi, bên địch tấn công dữ dội,
bên mình phản công, tất cả ra mặt trận. Cả đội cứu thương, lúc ấy tôi bắt đầu
lên cơn sốt kịch liệt nhưng cũng xin ra tiền tuyến. Với khẩu súng lục tôi xông
bừa lên đồi. Chừng đến đây thì tôi ngất đi nằm vật ra bất tỉnh sau khi đã bắn hết
cả một sác-dơ. (nhìn quanh mình) Mà súng của tôi cũng rơi đâu mất.
T.- (ngẫm nghĩ) - Anh tấn công... lên đồi?
K.- (quấn băng xong cho Thức) - Anh đau lắm phải không?
T.- Anh còn sốt không?
K.- (đưa tay sờ trán) - Còn hơi thôi. Chỉ nhức đầu.
T.- Em khát quá... Ước gì được ngụm nước.
K.- Vì ra máu nhiều quá đấy! Ở đây thì làm gì có nước, phiền
quá nhỉ! Cái khát này không phải cái khát nóng mà bảo bịa ra câu chuyện rừng mơ
để đánh lừa như Tào Tháo được. (Cười, Thức cũng mỉm cười) Để tôi xoay (đứng dậy
nhìn xuống phía dưới). Khá rồi, dưới chân đồi lấp lánh có giòng suối chảy
(giữa lúc ấy có tiếng súng nổ xa xa).
T. - Anh ngồi xuống... không chết… bây giờ... vẫn còn đánh
nhau kia à?
K.- Ối chà! Cần quái gì! có cái gì múc nước không nhỉ?...
A đây cái ca khổng lồ này thì tha hồ mà uống (cầm cái mũ sắt soi lên ánh trăng)
May không thủng.
T.- Anh nên bò... mà xuống... đừng đi, nó.. bắn... chết...
sáng trăng tỏ lắm.
K.- Được, không sợ! (xuống đồi).
T.- Yên lặng lắng tai nghe tiếng cú và thỉnh thoảng tiếng
súng nổđằng xa. Trăng bị bóng mây che khuất trong một phút khiến cho cảnh đồi tối
lại.
Khoa bưng cái mũ nước lên.
T.- Anh về đấy à?... Em chỉ sợ... anh trúng đạn.
K.- cười - Thì anh chết khát phải không? Tôi chưa chết được
đâu anh ạ. Còn phải sống để đánh nhau chứ nhỉ?
T.- thở dài - Không biết... bao giờ mới yên?
K.- Nhưng uống nước đã! Mát hơn nước suối Chapa cơ.
(tiếng súng nổ).
T.- Anh ngồi xuống!... đứng thế... nguy hiểm lắm.
K.- quỳ xuống ghé mũ nước vào miệng Thức.
T. – (uống một hơi nước rồi thở ra khoan khoái mỉm cười) Mát
ruột, dễ chịu quá! Cám ơn anh.
K.- Nếu tôi là Quốc dân quân thì anh có cám ơn tôi không: (Thức
im lặng mỉm cười) Nếu bây giờ tôi bảo anh rằng tôi là Quốc dân quân thì anh nghĩ
ra sao nhỉ? (Thức vẫn im lặng mỉm cười) Hơn thế, tôi bảo anh, anh bị
thương là do một phát súng tôi bắn thì anh nghĩ sao?
T.- mỉm cười im lặng nhìn Khoa.
K. - Anh không tin? Anh không tin tôi là Quốc dân quân? Đây
anh coi ! (ghé sát vai áo có dấu hiệu Quôc dân đảng vào mặt Thức)
T.- im lặng ngồi suy nghĩ - Tôi chắc thế
nào... cũng chết, vậy... thiết tưởng... anh chả cần... bắt tôi làm tù binh… làm
gì?
K.- cười - Tôi bắt anh làm gì! Nhưng anh thấy
không, ngôn ngữ anh đã thay đổi rồi đấy ! Anh đương anh anh em em vui vẻ với
tôi, chợt biết tôi là Quốc dân quân anh đổi giọng ngay! Xưng em với một đảng
viên của một địch đảng, anh ngượng mồm phải không?
T.- im lặng một lát trong khi Khoa ngửng mặt ngắm trăng -
Nhưng sao anh lại băng bó cho tôi? …Sao…anh … lại…
K - Sao tôi lại cứu anh! Vì nhiều lẽ. Trước hết vì...vì anh bị
thương... mà anh bị thương thì phải băng bó. Tôi băng bó cho anh không phải vì
anh là hay không là V.M (Việt Minh). mà chỉ vì anh bị thương. Trong đời tôi,
tôi đã băng bó biết bao nhiêu người mà chưa một ai hỏi tôi vì sao tôi băng bó
cho người ta.
T.- Anh làm khán hộ?
K.- Tôi học trường thuốc, sắp thi ra thì bị bắt giải đi
căng. Ở đấy người ta giao cho tôi coi nhà phát thuốc, và tôi đã chữa cho hàng
trăm người mắc bệnh, cả lão đồn coi trại giam và gia đình lão ta, thế mà chưa
bao giờ lão ta hỏi tôi vì sao tôi lại trông nom cho lão ta và vợ con lão ta...
Đau đớn không, lần này là lần đầu tiên tôi được nghe một người đồng bào hỏi tôi
cái câu thắc mắc ấy!
T.- ngẩn ngơ - Tôi…
K. - Anh thử cố gắng xưng em với tôi như ban nãy xem nào? Tôi
cũng có một người em suýt soát tuổi anh, nhưng nó chết rồi, chết trong trận
Phong thô cùng với ngót trăm anh em Quốc dân quân.
T. - nức lên khóc.
K.— Em tôi đã chết. Cái chết của nó rất hợp lý, rất đáng
kính. Đến như chúng ta mà chết…thực mỉa mai! Thực đau đớn! Thì cái
chết ấy chỉ là một sự may mắn: chết để khỏi phải giết người đồng chủng... Mỗi
khi một đảng viên đảng tôi bị một đảng viên đảng anh bắt được lại bị người ta
thuyết lý, bị người ta tuyên truyền. Và bao giờ người ta cũng bắt đầu bằng câu
nầy: «Các anh đi nhầm đường».Thiết tưởng phải nói chúng ta đi nhầm đường
mới đúng... Phải, chúng ta đi nhầm đường cả. Say sưa cái chủ nghĩa viễn vông,
cái lý tưởng mơ hồ, chúng ta quên bẵng rằng chúng ta là anh em trong một nhà...
T. mỉm cười - Biết thế, sao anh lại còn đi vào..,
con đường ấy?... Tôi thì tôi chẳng cần biết... con đường nào. Tôi chỉ biết nhà
tôi là một nhà... cách mạng,.. Cha tôi bị đầy ra Côn đảo... rồi chết ở đấy. Tôi
chỉ nối chí cha tôi và theo đuổi cách mạng, thế thôi.
K. - Thì tôi cũng thế. Tôi vào đảng chỉ mong được hy sinh
tính mạng cho Tổ quốc. Nhưng nói anh và tôi, chúng ta đều không có trách nhiệm
trong sự đi nhầm đường của cả đoàn thì cũng không được. Đáng lẽ chúng ta phải
can đảm, cương quyết, cực lực phản kháng sự chém giết lẫn nhau. Đằng này trái lại,
chúng ta đã để họ dắt đi như dắt một đàn bò ra lò sát sinh. Chúng ta đã dại dột
ngu ngốc nghe những lời tuyên truyền xảo trá của họ... để đến nổi... bạo lực lượng
chống ngoại xâm chúng ta đem va đập vào nhau cho tan nát ra như cám... nhưng...
cũng chưa quá muộn đâu anh ạ. (Thấy Thức lim dim nhắm mắt) Anh sao thế? (Thức lờ
đờ mở mắt) Anh mệt lắm, phải không? Thôi anh nằm nghỉ. Nhắm mắt lại (lấy túi
đệm vào lưng rồi che áo lên người Thức.)
T. mỉm cười - Cám ơn anh, em chết mất!
K. - Không, anh không chết (nắm cổ tay xem mạch) mạch đều lắm.
Thôi tôi ngồi im để anh nghỉ nhé!
T. lắc đầu - Không, anh cứ nói đi.
K. - Nhưng nhất định không nói đến đảng phái nữa. Thế cũng là
một cách ta giả thù họ...
T. đăm đăm nhìn Khoa - Anh mất... tin tưởng rồi
sao?
K. - Bao giờ mất tin tưởng được... nhưng thôi nếu chúng ta lại
quay câu chuyện về ngả ấy thì nó lại miên man không bao giờ hết (nói lảng) À!
tên anh là gì nhỉ? (Thức ngần ngừ) tên thực ấy, chả cần dấu diếm nhau làm
gì. Tên tôi là Khoa. Còn anh?
T. - Tôi là Thức.
K. - Đã đến 20 chưa?
T, - Đúng 20.
K. - Anh trẻ lắm nhỉ? Còn đi học chứ?
T. - Tôi đang theo lớp nhất trường trung học thì bỏ...
K.- Để xin vào Vệ quốc đoàn?
T. - gật.
K. - Cũng phải, đương lúc quốc gia hửu sự mà còn cắp sách đi
học thì cũng sốt ruột (cất tiếng ngâm) ;
Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành tiền mong tiến bệ rồng.
Thước gươm thề quyết chẳng dong giặc giời,
Trí làm trai dậm ngoài da ngựa,
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào...
(ngừng bặt)
T. - Anh ngâm nữa đi... giọng anh tốt lắm.,. Anh ngâm,
đi!
K. - Chỉ nhớ có ngần ấy câu. Anh có thấy hay không? Hay nhưng
mà có tính cách phong kiến, phải không? Bây giờ làm gì có bệ rồng nữa để mà đem
tiến thành tiền. Tiến cho ai?
T. - Cho tổ quốc.
K. - Nhưng chúng ta phải đau đớn mà tự thú rằng... chúng ta
chưa từng thử gươm vào một tên giặc giời nào. (cười).
T. - Anh vui tính quá.
K. - Vậy chúng ta nói chuyện vui đi! Cười đi! Ca hát
đi! Đọc thơ đi! Trăng sáng quá! Giời mát quá! Cảnh nên thơ
quá! Kìa! Sao lại khóc thế?
K. - Đã bảo không chết mà lại cứ buồn mãi. Người ta là bác sĩ
người ta lại không biết hơn anh hay sao? Bà ở Hà Nội phải không?
T. - gật - Phố Huế.
K. - Ở một mình?
T - Ở với em gái tôi, em Mùi còn nhỏ... mới 15 tuổi... nên me
tôi cứ ép tôi lấy vợ. Nhưng anh tính đời mình... có chắc chắn gì mà đã vội cưới
vợ.
K. - Anh có vị hôn thê rồi?
T. - Chưa... anh ạ... Kể thì có hai ba cô đấy… nhưng em
phân vân... chưa biết chọn cô nào...
K. - Vì cả ba đều xinh như mộng phải không?
T. - Không hẳn thế... nhưng cả ba cùng...yêu em lắm …nến chọn
cô nọ em sợ mất lòng hai cô kia,
K. - Nghĩa là anh cùng yêu cả ba cô chứ gì?
T. Sau một phút im lặng - Mộng vàng tan!
Em Tuyết, em Đào, em Lan!
Từ đây vĩnh biệt!
K. - Anh làm thơ đấy à?
T. - Không! Ối giời! Ối giời!
K- Anh vẫn đau?
T. - Nó cứ đau nhói lên từng cơn...mà mệt hết cả hơi... em tưởng
tượng nếu... không có anh... ngồi nói chuyện… thì em sẽ không gượng được... em
sẽ ngủ thiếp đi... rồi… không dậy nữa.
K. - Chỉ nói nhảm ! Việc gì mà chết!... Tên ba cô ấy là
Tuyết, Đào và Lan?
T. - Phải... có lẽ Tuyết đẹp nhất… nhưng Đào lại ngoan nhất…
còn Lan thì ngây thơ nhất.
K. - Nếu ba cái đức tính đẹp, ngoan và ngây thơ chung đúc vào
một cô thì có lẽ cô ấy đã có diễm phúc được anh kén chọn làm vị hôn thê rồi, phải
không?
T thở dài - Diễm phúc hay vô phúc?... Anh đã có vợ
chưa?
K. - Đã. Và hai con, một gái một giai.
T. - Sung sướng nhỉ!
K. - Sung sướng hay khổ sở! Thằng con giai tôi năm nay mới 18
tháng. Nó hay quá anh ạ, bất cứ việc gì cứ làm qua một lượt là nó bắtchớc liền.
Nghe thấy tôi hát nó cũng hát mà hát thì chẳng còn ai hiểu là bài gì, trừ mẹ nó
với vú em ra. Anh mà nghe nó hát bài Tiến quân ca thì anh phải cười nôn ruột.
Chẳng còn một tí gì là tiến quân ca nữa.
T. - Anh …dạy nó hát bài Tiến quân ca... cơ à?
K. - Nào tôi có dạy! mà cũng chẳng biết ai dạy nó nữa.
Chả bên láng giềng là một gia đình đông trẻ, chúng nó cứ cả ngày «đoàn quân Việt
Minh» với «Hồ chí Minh muôn năm»… Chừng những bài hát ấy đã lọt vào tai cháu.
T. - Chắc anh tức lắm đấy nhỉ?
K. -Tức cái gì? Anh bảo tôi tức cái gì?
T. - Vì luôn luôn những bài hát kia lọt vào tai anh…
K.- Tức thì không tức nhưng nghe mãi cũng nhàm tai. Nếu
tức thì câu chuyện này còn đáng tức hơn: Cái Mùi con gái tôi ấy tên nó cũng là
Mùi như tên em gái anh. Năm nay nó lên sáu. Suốt ngày nó sang chơi bên láng giềng
mà nhà ấy lại là một nhà Việt Minh, thành ra nó bị Việt Minh hóa. Chào Việt
Minh, ủng hộ Hồ chủ tịch. Diệt phát xít, rồi kể chuyện bắt Việt gian, bắt quân
phản động, nghe chuyện nó thì cứ tức cười chảy nước mắt được.
T.mỉm cười - Cười chảy nước mắt,.. hay khóc chảy
nước mắt đấy?
K- Anh rõ lẩn thẩn! Việc gì mà phải khóc. Trẻ con nó
chơi đùa ấy mà! Với lại nói câu này chắc anh không tin: Tôi muốn gây tự
do tín ngưỡng; tự do tư tưởng cho con tôi ngay từ thuở nó còn non nớt. Bây giờ
thì cố nhiên nó không biết gì về đảng phái, về lý tưởng, về chủ nghĩa, nhưng nó
sẽ lớn lên với lòng nhân từ, khoan thứ, nó sẽ thấy rằng cha nó là người rộng lượng,
biết trọng tự do cá nhân của kẻ khác dù kẻ ấy là con mình, là một đứa con gái
nhỏ... Có phải không anh, vì sao cha là đảng viên V.N.Q.D.Đ. mà con lại không
là Việt Minh được? Điều quan trọng là chúng ta nên dạy cho con chúng ta hiểu rằng
không được a dua vào một đảng nào, không được vì cha mẹ tin tưởng một chủ
nghĩa, lý thuyết nào là cứ nhắm mắt tin theo không cần suy xét gì hết, Ta lại
nên dạy con cái chúng ta điều này nữa; là lập nên đảng nọ đảng kia không
phải đi tranh giành địa vị, hay để thỏa lòng thù ghét, chém giết. Chúng ta, Việt
Minh cũng như Việt Quốc, chỉ có một mục đích cứu quốc, đưa nước nhà tới chỗ tự
do độc lập.
T. cười - Chắc anh không... ở trong bộ tuyên truyền
Việt Nam Quốc Dân Đảng?
K.- Anh đoán đúng.
(KIỂM DUYỆT 11 DÒNG (I)
Nếu tinh thần đoàn kết có từ lâu thì hiện giờ, chúng ta đã
sát cánh nhau trong một chiến tuyến chống xâm lăng rồi... Mà... mà cái cảnh đau
đớn chúng ta đương sống, cái giờ phút đau đớn chúng ta đương qua, kẻ bị thương,
người ngồi nói chuyện trên một đỉnh đồi, dưới ánh trăng, bên tiếng cú, làm gì
đã xảy ra ? Anh và tôi, anh mơn mởn tuổi xuân, và tôi đầy lòng yêu nước,
chúng ta là hai kẻ cừu địch ư?
T. cúi xuống thở dài - Chán!...
Nhưng may... cũng chả còn sống được...bao lâu!
K. - Rõ tôi cũng vô lý! Tôi đã bảo không quay trở lại câu
chuyện buồn ấy nữa, rồi tôi vẫn cứ quay lại như thường. Vậy thôi đấy, chỉ nói
chuyện vui thôi đấy! Ừ phải! Tôi hát cho anh nghe nhé? Năm sáu năm
về trước tôi có một cô bạn Huế, chiều chiều chúng tôi đi chơi mát với nhau ở
trên núi Sầm- sơn và cô ta... cô Liên… tên cô là Liên, cô ta hát cho nghe nhiều
điệu Huế hay quá. Tôi thích nhất cái điệu hát du, để tôi hát cho anh nghe nhé.
(Ca):
Trăm năm dầu lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa
Cây đa bến cũ còn lưa
Con đò sớm thác thuở xưa qua rồi.
T.- Điệu hát buồn chết người... mà anh thích được!
K.- Ừ kể buồn thì buồn thực! Tôi chắc đó là dấu vết điệu ca Hời,
một điệu ca vong quốc.
KIỂM DUYỆT 14 DÒNG
- T. mơ mộng - Tôi đọc Nam sử... tới đoạn Chế Bồng
Nga đem đại đội thủy binh... đến vây thành Thăng Long ta... mà tôi không khỏi
thán phục. Thế rồi Bồng Nga trúng tên chết ngay trên thuyền Thống tướng... Biết
đâu...
K. - Biết đâu sao, anh?
T. - Biết đâu... ông vua anh hùng ấy... lại không bị giết...
vì một mũi tên Hời...trong lúc hỗn chiến...(thở dài).
K. cười - Cũng có thể lắm. Cái bại của mình thường
là ở trong phát ra hơn là ở ngoài xảy tới. Về đời Trần, ta thắng được quân Mông
cổ oai hùng là nhờ ở sự đoàn kết của toàn thể dân tộc Việt Nam. Và có lẽ quân Hời
thua ta một phần lớn là do sự cạnh tranh của các họ Hời thời bấy giờ (cười).Tôi
không thuộc Nam sử như anh nhưng tôi đoán thế. Một dân tộc yếu hơn dân tộc địch
mà lại thiếu đoàn kết, thì làm gì mà không bị tiêu diệt!
T. thở dài - Đoàn kết! (thở hổn hển). Tôi
khó... thở quá... mà lại khát.., nhưng thôi… Phiền anh quá.
K:- Có gì mà phiền! Anh em giúp đỡ nhau trong khi hoạn
nạn thì phỏng có gì mà phiền. Có anh làm phiền lòng tôi thì có, anh không chịu
thẳng thắn với tôi. Hay anh cứ nhất định coi tôi là kẻ thù đấy?
KIỂM DUYỆT 4 DÒNG
...Nhưng thôi để tôi đi lấy nước cho anh đã (cầm cái mũ sắt).
T. - Sao cú nó cứ kéo... dài... mãi cái điệu âm nhạc buồn thế
nhỉ?... Anh có tin nó đem... tin buồn… nó báo tin chết không?
K. cười - Bậy! Đó chỉ là một dị đoan. Nó kêu thế là
chỉ để thôi miên chuột, chuột nghe thấy tiếng rùng rợn ấy, bủn rủn ra không chạy
được, chỉ việc đứng im cho nó bắt. Thôi anh ngồi chờ tôi một lát nhé? (cầm mũ sắt
đi xuống đồi)
KHOA ra
T. yên lặng ngắm trăng. Bỗng đăm đăm nhìn cái xác chết. Tiếng
cú trở nên rùng rợn - Ối giời,. Không... Lui... Được... Tôi theo đây!
Không! Giời ôi !Giời ôi!... (Thở hổn hển, mắt trợn to) Anh
Khoa !... Anh Khoa l mau cứu em!...(ngất đi).
MỘT LÁT
K.- Bưng mũ nước lên - Uống cạn mũ nước này nữa thì
cứ mà vỡ bụng. Thức! Thức! Ngủ à?... (lo lắng đứng nhìn Thức, rồi quỳ xuống
vừa lay vừa gọi) Thức!
T.- từ từ mở mắt - Ôi giời ơi! Không!...
Không!... cứu tôi với!
K. - Tôi đây mà! Sao thế? Anh chiêm bao?
T. - thở hổn hển - Không... tôi thức... giời ơi! Nó
đâu rồi?
Bắt đầu từ đây, tiếng Thức yếu dần.
K.- Ai?
T.- Ma!
K.- cười - Làm gì có Ma!
T.- Rõ ràng... nó vừa... hiện lên. Cái xác chết kia kìa!...
Nó ngồi dậy... Nó đứng dậy - Nó vẫy em đi theo nó... về âm phủ... Giời ơi! em sợ
quá, anh ạ!...Lúc anh lay... em dậy... thì em đương đi theo nó đấy!
K. - cười - Thôi bây giờ có tôi đây thì nó không
dám trở lại nữa đâu. Anh uống nước đi!
T.- Cảm ơn anh... Anh để cho em... hoàn hồn đã.„.
K.-cười - Nó vẫy mặc nó, sao anh lại cứ đi theo nó?
T.- Không theo không được... Cứ thiếp... dần rồi tự nhiên…lẳng
lặng đi theo nó.
K.- Đó là một giấc chiêm bao. Khi mình không thức hẳn, không
ngủ hẳn thì mình mơ màng tưởng tượng cái gì, thành ra cái ấy liền. Đã uống nước
được chưa?
T.- gật.
K.- Ghé mũ nước vào miệng Thức.
T.- Uống một hơi -thở ra- Dễ chịu!... Mát ruột!..
Cảm ơn anh!.. Sao em uống nhiều nước thế nhỉ?
K.- Vì thiếu máu ! Máu ra nhiều quá.
T. lắc đầu - Em chết mất anh ạ!
K - Việc gì mà chết: Mai về nhà thương tiêm vài phát là lại
người liền. Mà sang máu được có thể khỏe ngay là khác. (Mơ mộng) ước gì
tôi sang máu tôi cho anh! Để kỷ niệm cái đêm gặp gỡ lịch sử này. Nhưng
không thể được anh ạ!
T.- Vì sao? (mỉm cười) Anh sợ... máu Việt Minh… và máu Việt
Quốc sẽ... đánh lộn trong tim tôi chăng.
K.- cười - Không phải thế! Vì máu Việt Minh và máu Việt
Quốc cũng là máu Việt Nam, hay nói giọng văn hùng, cũng là máu Trần Quốc Toản,
Lê Lợi, Lý Thường Kiệt cả. Nhưng tôi chợt nớ ra, tôi mắc bệnh sốt rét kinh
niên! Tôi mang cái bệnh sốt ấy từ trên «căng» về đấy. Sang máu cho
anh, tôi sẽ sang cả vi trùng bệnh sốt rét ngã nước cho anh luôn thể, vì thế nên
tôi nói không thể được. (Cười vui thú). Nhưng, anh lo gì, trong ba nàng
yêu anh thế nào chả có một nàng sẽ bằng lòng sang máu cho anh!
T. - Mỉm cười mơ mộng - Lan mơ mộng lắm anh ạ...
Lan chỉ ước ao được cùng em… làm cái nhà nhỏ... ở bên sườn đồi… có suối chảy
qua... ngày ngày ra suối... câu cá... thả thuyền đi chơi.
K.- Tuởng cảnh gì, chứ cảnh ấy thì làm gì chẳng thực hiện được,
Chúng ta, gia đình anh và gia đình tôi, chúng ta sẽ chung nhau mua một cái đồn
điền nhỏ, hay một cái ấp nhỏ. Hay chúng ta chẳng cần mua cũng được. Hiện tôi có
một cái ấp nhỏ ở Phú thọ, vào khoảng sáu mươi mẫu đồi mà tôi đã trồng chè được
hơn một nửa. Tôi sẽ nhường cho anh vài chục mẫu. RồI chúng ta cũng lên đấy ở với
nhau. Cảnh thì tuyệt đẹp. Một cái suối khuất khúc lượn quanh đồi, bên những
khóm trúc, khóm mai, rồi chạy ra một cái đầm rộng bằng khoảng hai Hồ Tây. Chiều
chiều thả thuyền chơi suối thì có thể quên cả Hà thành với các nàng tiên của
nó. Khi nào thái bình hẳn, nước nhà hoàn toàn độc lập, chúng ta hoàn toàn tự
do, tôi sẽ đón anh lên đấy ở với tôi.
T. - Mỉm cười ngờ vực - Sợ còn lâu lắm... anh ạ! Vì …có
lẽ... muộn quá rồi!
K- Vị tất đã lâu, như anh tưởng.
T.- Vả lại... xa Hà thành…thì buồn chết... (Thở ra) Tôi mệt lắm...
rồi... anh ạ... có lẽ tôi chết... đến nơi mất!
K.- Không, không thể chết được! (bắt mạch) Mạch này thì chết
sao được!
T.- mắt đầy hy vọng - Nhưng sao... tôi mệt lả… đi
thế này!...
K. - Mất nhiều máu quá nên thế đấy. không sao đâu Nhưng anh
cũng không nên nói nhiều! Nên nằm yên mà nghỉ.
T.- Nằm yên... không nói gì... tôi chỉ sợ chết lịm đi... lúc
nào… không biết thôi... Tôi cứ muốn nói chuyện để tỏ... với tôi rằng… tôi còn sống.
K.- Anh phải tĩnh tâm mà nằm nghỉ. Không nên rối trí như thế.
Nếu anh chết thì tôi bảo cho anh biết rằng anh chết, chứ tôi giấu anh làm gì.
Chúng ta có phải là những người sợ chết đâu, anh cũng vậy mà tôi cũng vậy. Nếu
sợ chết, chúng ta đã chẳng làm cách mệnh. Làm cách mệnh là chúng ta quả quyết
đi đón lấy cái chết. Còn sống thì ta sẽ dự vào công cuộc kiến thiết Tổ quốc,
sau khi cách mệnh thành công, mà chết thì ta cũng tự an ủi trước khi nhắm mắt rằng
ta đã đến mục đich, cái mục đích hiến thân cho Tổ quốc. Vậy nếu anh chết thì
tôi không sợ bảo cho anh biết rằng anh chết. Nhưng nhất định anh không chết. Có
phải ai bị thương cũng chết đâu!.
T.- mỉm cười đau đớn - Hiến thân! (Một
phút im lặng) Anh rút hộ em... cái ví ở túi quần… (Khoa làm theo) Anh mở
ra…trong đó có… hai cái ảnh... Anh giữ lấy một cái…để kỷ niệm...cái đêm rùng rợn
này... Còn một cái…em nhờ anh... đem về đưa cho me em (yên lặng) Anh liệu lời...
mà nói... với me em... Em là con một... me em đấy! (khóc)
K.- Anh lạ quá, sao cứ nghĩ quẩn mãi! Được, ảnh tôi cứ
giữ đây (bỏ ảnh vào túi) Cái ảnh tặng tôi thì tôi sẽ lưu lại cho con cháu ngày
sau với hàng chữ này: «Đây là một người bạn thân của ta, tuy không cùng ta ở
trong một chính đảng, nhưng vẫn cùng ta phụng sự một lý tưởng duy nhất: «Tổ quốc» Còn cái kia thì tôi sẽ có dịp cũng đi với anh tới nhà anh để đưa nộp cụ.
T.- mắt như đeo đuổi một ý nghĩ ám ảnh - Anh có tin
rằng… linh hồn... bất diệt không?
K- đăm đăm nhìn Thức, rồi như chợt hiểu - Tin! Tôi rất tin. Thác là thể phách còn là tinh anh. Tinh anh sẽ còn mãi
mãi...
T.- Sống trong thời khoa học... mà anh còn tin được điều
đó?
K.- Thì khoa học cũng không cãi được điều đó. Trong một buổi
thí nghiệm, một nhà thần linh học đã gọi những linh hồn hiện về trước mặt các
nhà khoa học trứ danh trên thế giới như Flammarion chẳng hạn. Còn không tin sao
được ỉ
T. - mỉm cười - Đó cũng là... một sự an ủi… cho những
kẻ... sắp từ trần... Nếu quả sau khi... chết… mà linh hồn còn... sống mãi...
mãi... thì chết có đáng kể chi, phải không anh?
K.- Nhưng anh và tôi, chúng ta chưa chết thì chúng ta nói
chuyện chi đến cái chết cho mất cả vui. Vẫn biết cái chết không đáng sợ, nhưng
Tổ quốc đang còn cần đến chúng ta, thì chúng ta vẫn chưa chết được.
T.- Em nghĩ đến…cái chết… của những chiến sĩ... trong Nam bộ...
mà em thèm!
K.- cười - Anh dưỡng bệnh cho khỏe hẳn, rồi hai chúng ta cùng
vào Nam một chuyến. Nghe nói ở trong ấy nhiều nơi cũng vẫn còn chiến tranh. Phải
đấy chúng ta sẽ vào trong ấy để... để chết. Chứ chết ở ngoài này có chi tủi mạng,
anh ạ.
T.- Tủi mạng?
K. - Tôi được nghe anh em chiến sĩ ở trong Nam ra thuật lại
cho nghe những cái chết đẹp đẽ quá chừng! Một chiến sĩ nằm chờ ba ngày
đêm trong một cái hố bên đường, với một túi lương khô, với một cây súng và ba
viên đạn… ba viên đạn thôi, tội nghiệp! Anh đón đoàn quân địch đi qua đó
để bắn. Quả nhiên quân địch đi qua đó. Chờ cho họ đến gần anh bắn luôn hai phát
giết chết hai tên. Phát thứ ba, đạn điếc. Rồi anh mỉm cười chết một cách lặng lẽ
và thỏa mãn vì đã đổi được một mạng lấy hai rồi. Lại một chuyện này nữa, Một
chiến sĩ bị thương được đoàn cứu thương băng bó cho. Nhưng anh có cảm tưởng anh
khó sống được. Tức thì anh cầm súng xông bừa ra trận tiền để bắn trúng một quân
địch rồi chết... (Thức mắt lim dim người muốn lả đi) Anh mệt lắm?
T.- gật.
K. - Vậy nằm nghỉ một lát... Đừng nói gì nữa,
T.- Thôi... anh lui về... hậu tuyến đi... để mặc em...
K.- Được, anh cứ để mặc tôi. Để sáng rõ rồi tôi dìu anh về hậu
tuyến bên anh đã.
T.- lắc đầu - Không được đâu!...
KIỂM DUYỆT 14 DÒNG
Thôi anh cứ về... phố đi... là hơn. Bây giờ về... thì được...
chứ sáng ra thì sẽ không có... cách nào... thoát được... Tiếng súng nghe như...
đã im hẳn rồi đấy..,.Anh về đi!
K.- Không, tôi không thể bỏ anh đây mà về được. Anh cứ để mặc
tôi. Hơn hết là anh cố ngủ đi một lát.
T.- mỉm cười - Tôi sợ ngủ đi thì... sẽ không...dậy
nữa.
K.- Quái ! anh đến lạ, cứ bị cái chết nó ám ảnh
hoài!. Hay anh sự chết chăng!
T.- nói lảng - Anh hát đi mà nghe vậy,
K- Ừ phải đấy, tôi hát cho anh nghe một câu chèo nhé... Anh
có biết câu «Trấn thủ lưu đồn» không? Chắc không? Đó là một câu hát của vai hề.
Bao giờ hát, người ta cũng vác một cái giáo trên vai và một tay cầm cái mồi lửa,
Như thế này này (một tay cầm súng vác ngang qua hai vai, một tay cầm nắm cỏ
giả làm mồi, rồi vừa múa vừa hát):
Đất ngài đây thanh lịch, đất hữu tình.
Có đường vô sảnh tới dinh quan lưu đồn
Ba năm bác con đương chấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm, sớm tới đồn việc quan.
Anh chém tre ngả gỗ trên ngàn
Than thân rằng khổ, anh biết phàn nàn cùng ai
Anh phàn nàn cùng trúc cùng mai
Cùng cây măng mía, cùng cây ngô đồng
Sót sa như muối đổ trong lòng (2)
Trong khi Khoa hát thì Thức cười lên tiếng, cười rất nhiều.
Bỗng y ngất đi và lịm dần. Khoa thấy đầu Thức gục xuống ngực vội ngừng lại, cúi
xuống lay gọi.
K. - Anh Thức! Thức ! Em Thức! (lắc đầu). Chết!
Vô lý! Thức! (cầm tay bắt mạch) Chết thực rồi, khổ tôi chưa! (Im lặng
quỳ trước mặt Thức).
Trời bắt đầu sáng, Bỗng một loạt súng nổ, tiếng ồn ào từ phía
chân đồi đưa lên. Một phát đạn trúng ngực Khoa, khiến y gục xuống ôm lấy Thức,
và se sẽ kêu: Mùi! Lập!
HẠ MÀN
Chú thích:
(I) Bộ Tuyên truyền V.N.Q.D.Đ. kiểm duyệt.
(2) Bản ghi âm nhạc của Nguyễn Xuân Khoát.
TIẾNG NGƯỜI XA
Đã đến giờ chưa mẹ?
Phương từ ngoài hiên chạy vào phòng ngủ, đột ngột hỏi mẹ. Nga
rời giường và cái bông phấn cầm tay, quay ra cười với con:
- Chưa con ạ. Nhưng, con đi ngủ thôi, khuya rồi, tám giờ rưỡi
rồi.
Phương nũng nịu:
- Không, hôm nay con chưa buồn ngủ, mẹ cho con nghe cơ.
Nga chau mày:
- Thế thì Phương không ngoan rồi. Hôm nay mới là thứ ba. Ngày
kia mới đến phiên con được nghe kia mà.
Dứt lời nàng đứng lên, ẵm đặt con lên giường. Rồi ra ngồi sửa
sang lại mái tóc, chấm lại bông phấn cuối cùng. Ngửng lên nhìn đồng hồ báo thức
đặt trên bàn giấy, nàng tưởng thấy hai cái kim vẫn đứng im một chỗ, và nếu
không có tiếng tích tắc thì có lẽ nàng yên trí rằng đồng hồ không chạy. Nàng thở
dài nói: «Còn những hăm nhăm phút nữa!»
Nhưng nàng cũng bỏ cái áo bọc máy truyền thanh ra, ngồi cầm
khăn táy máy lau cái mặt kính hình lục lăng, trên «đó những chữ, những số, những
chấm màu đen, màu đỏ, màu xanh đối với nàng không có một ý nghĩa gì, ngoài con
số 25 ra. Mà con số 25 cũng chỉ được nàng lưu ý tới, vào giờ này, giờ phát
thanh của đài Cựu kim sơn. Lơ đãng nàng vặn núm tiếp xúc. Cái mặt Radio sáng bật
lên. Và cái kim đen trỏ bên con số 25 như thu lấy hết cả tâm hồn nàng. Và nàng
mơ mộng đăm đăm nhìn nó, đắm đuối đợi chờ cái phút được gặp người xưa hiện về...
Hiện về... Bất giác nàng đưa mắt nhìn vào gương, và thấy mình vẫn còn trẻ và thấy
mình trẻ lại nhiều từ khi mua được cái máy radio này.
Kể thì nàng cũng chưa già, năm nay mới hai mươi sáu tuổi.
Nhưng bao năm mong đợi, bao năm nhớ nhung khổ sở đã làm cho nàng tiều tụy hồng
nhan.
Đã năm năm nay, Thanh, chồng nàng bỏ ra đi. Nàng còn nhớ, còn
như thấy hiện ra cái buổi chiều hôm ấy. Một buổi chiều cuối năm 1939, một buổi
chiều mưa phùn gió lạnh. Thanh đi Hải phòng về trước ngày hẹn, lại thêm có vẻ mặt
lo âu, có dáng bộ vội vàng khiến Nga áy náy không yên. Ăn cơm xong, Thanh lên
gác thay quần áo và sửa soạn xếp lại va li. Nga ngây người đứng nhìn chồng chưa
dám hỏi. Mãi lúc Thanh dặn hễ có ai đến tìm thì nói chàng còn ở Hải phòng, Nga
mới ngập ngừng:
- Vậy anh lại đi?
Thanh gật.
- Anh lại đi Hải phòng?
Không thấy chồng đáp nàng hỏi tiếp luôn:
- Nhưng dẫu sao cũng mai mới đi chứ?
Thanh mỉm cười bảo vợ:
- Anh phải đi ngay, Nga ạ, việc cần lắm.
Đứng suy nghĩ một phút chàng hỏi vợ:
- Phương ngủ rồi, phải không em?
Dứt lời chàng ra nôi vén màn cúi nhìn con, một đứa con tám
tháng. Và chàng quay lại bảo vợ:
- Sung sướng quá cái tuổi vô tư lự. Thấy con nó ngủ bình tĩnh
mà thèm! Em trông trán nó dãn ra, môi nó như mỉm cười với mộng.
- Anh làm thơ đấy à? Nga âu yếm bảo chồng, Nhưng khéo để muỗi
đốt con
Thanh vội giắt màn lại, rồi lẵng lặng xách va ly.
- Anh đi ngay bây giờ?
- Phải đi ngay bây giờ em ạ..
Hai người thoáng nhìn nhau rồi cùng vội quay đi như hiểu thấu
ý nghĩ thầm kín của nhau.
- Em chả cần bật đèn nữa. Thôi anh đi đây.
Vừa nói, Thanh nắm chặt lấy tay vợ như thầm trao cho nàng tất
cả mọi điều bí mật không dám thú. Rồi chàng se sẽ vặn khóa, nhẹ nhàng mở cửa lớn
ra ngoài biến vào bóng tối.
Ngồi nhớ tới buổi biệt ly, Nga còn có lại cái cảm giác rùng
rợn hôm ấy. Chồng nàng đi rồi, nàng hoảng hốt chán nản lên gác nằm vật ra giường
nức nở khóc. Nàng đã nhìn thấy rõ: chồng nàng đi trốn. Vì đã có lần Thanh ngỏ
cho nàng biết rằng chính phủ thực dân vừa đặt ra chế độ trại giam để khâu lưu ở
đó tất cả những cựu chính trị phạm bị tình nghi làm rối cuộc trị an. Vậy Thanh,
một cựu chính trị phạm rất có thể bị liệt vào hạng người nguy hiểm ấy.
Quả nhiên ngay trưa hôm sau, nhân viên ty mật thám đến
nhà nàng để khám bắt Thanh. Và từ đó nàng bặt luôn tin chồng.
- Sắp nói rồi đấy à mẹ? Phương trỗi dậy hỏi, vì nó vừa nghe
thấy bắt đầu tiếng rào rạo của máy radio.
- Chưa con ạ, nhưng con phải ngủ đi, con có ngoan có dễ bảo
thì máy nó mới nói.
- Thì ba mới nói chứ!
- Ừ thì ba mới nói. Vậy nếu con không vâng lời me thì rồi ba
không nói nữa đâu, không bao giờ ba nói nữa đâu.
- Vậy con ngủ thì mẹ bảo ba nói nhé?
- Ừ con phải ngủ ngay cơ.
Phương lại ngoan ngoãn nằm xuống. Và Nga, tuy đương buồn cũng
phải mỉm cười sung sướng. Phương là tất cả sự an ủi của nàng trong năm năm nay,
cái hình ảnh linh hoạt của người chồng thương mến.
- Mẹ tắt đèn để khỏi chói mắt con nhé?
Không thấy Phương trả lời nàng biết con đã ngủ yên rồi, nhưng
nàng cũng vẫn tắt ngọn đèn dưới cái chao vải tự tay nàng làm ra từ thời chồng
còn ở nhà, và nay màu hồng đã bạc phếch và loang lổ. Trong gian phòng tối, cái
mặt lục lăng của máy radio sáng rực rỡ thêm lên. Nghĩ đến cái máy radio Nga
không khỏi tự phục lòng quả quyết đã dám bỏ ra gần hai nghìn bạc, đã không ngần
ngại bán hết tư trang để mua cho bằng được, mặc những lời mắng nhiếc của cha mẹ
chồng. Nàng có nó đã ba tháng nay rồi và không một phút nào nàng tiếc cái món
tiền to gần bằng nửa tài sản của nàng. Còn muốn gì hơn nữa, cái máy vuông xinh
xinh chẳng chứa tất cả hạnh phúc của nàng hay sao? Chẳng là tất cả lẽ sống của
đời nàng sao?
Nàng có nhớ tối hôm ấy, cái buổi đã làm cho nàng hầu như phát
điên vì sửng sốt vì một sự lạ lùng mà cho tới ngày nay nàng vẫn không dám tin hẳn
cũng không dám ngờ vực. «Ngờ vực thì chết mất!» luôn luôn nàng nghĩ
thầm. Hôm ấy nàng đến chơi một người bạn học cũ cũng không thân lắm. Chẳng qua
nàng chỉ đáp lại một buổi đến thăm của người ấy. Người bạn giữ nàng ở lại nghe
radio, nói có rất nhiều tin tức quan trọng liên quan tới Việt Nam*
Vừa nghe câu đầu, nàng giật mình hoảng hốt. Nàng không thể nhầm
được, tiếng người phát thanh chính là tiếng chồng nàng. Nàng cố cho đó là điều
vô lý để bỏ qua đi, nhưng không thể được. Ở trên đời này không khi nào lại có
hai người nói giọng giống nhau như thế, giống từng giọng, giống từng tiếng. Và
trong lúc mơ mộng nàng tưởng tượng Thanh hiện lên ngồi nói chuyện với nàng, ngồi
đọc báo cho nàng nghe như thuở xưa, trước giờ đi ngủ nàng thường nũng nịu bắt
chồng đảm đương công việc ấy. Nàng ngồi lịm người đi, chú hết tinh thần vào cái
giọng đều đều trầm trầm. Và nàng như uống từng lời của người mà nàng nhất định
cho là người yêu, mà nàng như cảm thấy có hơi thở làm rung động làn tóc sõa bên
tai nàng. Tại sao người ấy lại không là Thanh được? Thanh rất có thì làm công
trên một chiếc tàu hàng hải vượt Thái bình Dương rồi nhờ có sự vận động của một
người Mỹ nào đó được đổ bộ lên Cựu kim sơn và sau đó xin được vào làm ở đài
phát thanh. Câu chuyện lập thành như thế rất là hợp lý và có gì là viển vông?
«Đích thực rồi!». Nàng bỗng đột ngột kêu to lên. Nàng
vừa nhận được mấy tiếng đọc theo một giọng mà ngoài Thanh ra, nàng cho không một
ai có.
- Cái gì thế chị? Người bạn ngơ ngác hỏi nàng.
- Không, nàng bẽn lẽn đáp. Và nàng chống chế nói khôi hài để
chữa thẹn: «Tôi phê bình lại lời phê bình của người phát thanh đấy”. Đoạn nàng
cất tiếng cười ngượng nghịu.
Hôm sau và mấy hôm liền nàng đến nhà bạn; người bạn trước
kia rất sợ nay đã trở nên người tâm giao của nàng. Chỉ còn thiếu chút nữa là
nàng đem hết bí mật câu chuyện ra thuật tường tận với bạn.
Nhưng tối nào cũng đến chơi dù lấy cớ là nói nghe tin tức thế
giới đi nữa, dầu sao cũng là một điều suồng sã trong tình bằng hữu. Nhất bạn lại
còn có gia đình mà mình lại là một thiếu phụ xa chồng. Chẳng dừng được, nàng phải
thưa đến chơi. Những đêm ấy nàng thấy băn khoăn, sốt ruột trằn trọc không sao
ngủ được. Động chợp mắt, nàng lại tưởng nghe thấy tiếng chồng trong máy phát
thanh, và nàng vụt tỉnh giấc. Trái lại những buổi ở nhà bạn về, thần kinh nàng
dãn ra, máu nàng chảy đều hơn, tim nàng đập chậm lại. Và nàng vừa đặt mình là
khoan khoái ngủ yên, không mộng, không mị. không mê không sảng gì cả.
Một hôm trong câu chuyện xã giao, khi ngồi đợi giờ phát
thanh, người bạn phàn nàn rằng bất cứ vật gì giá cũng cứ một ngày một cao vọt
mãi lên. Và để nêu ra một thí dụ nàng nói một cái máy radio trước kia giá có ba
bốn trăm, bây giờ đắt tới nghìn rưởi, hai nghìn. Những lời không đâu ấy bỗng
làm nảy ra trong lòng Nga, một ý muốn một dục vọng ngày càng thêm mãnh liệt: Có
một cái máy radio, để rồi tối tối được nghe tiếng chồng mà không phải đi
đâu!
Ba hôm sau, nàng nhờ được người mua hộ một cái máy sáu đèn bằng
món tiền ngót hai nghìn, giá các đồ tư trang của nàng mà nàng đã đem đi bán.
Và từ đó tới nay, thấm thoát đã ba tháng. Đã ba tháng …chiều
chiều nàng trang điểm phấn sáp, mặc vào người bộ áo cưới năm xưa rồi ngồi chờ
nghe những lời yêu dấu.
Một hôm, Phương ấm đầu và quấy không chịu rời mẹ ra. Đến giờ,
Nga đành phải ẵm con ngồi nghe. Phượng có vẻ kinh ngạc, trố mắt tò mò nhìn cái
khoan sáng và thỏ thẻ hỏi mẹ:
- Ai nói thế mẹ?
Nga sung sướng cúi hôn con, và âu yếm, bí mật thì thầm :
- Ba con nói đấy,
- Thế sao ba không ra đây với con, lại nấp ở trong ấy nói ra
hử mẹ?
Nga chưa kịp nghĩ được câu ổn thỏa trả lời con, thì Phương đã
hỏi tiếp luôn:
- Hay ba bị nhốt ở trong ấy?
Cách đó ít ngày Phương khoe với bà:
- Bà ơi, cháu biết ba cháu ở đâu rồi cơ?
- Thế ba cháu ở đâu?
- Ở trong cái máy nói của mẹ ấy. Cháu đã được nghe ba nói rồi
cơ.
Bà lão và cả nhà cùng cất tiếng cười, cho đó là một câu chuyện
bịa đặt để dỗ trẻ:
- Phương bảo mẹ có bán lại cái máy ấy đi thì ba mới chịu chui
ra mà về với Phương.
- Nhưng cái máy bé quá, ba ở trong ấy thế nào được?
Bà mẹ chồng quay sang bảo Nga:
- Cứ kể giọng cái người trong máy mà tôi nghe tối hôm nọ cũng
na ná giống giọng anh Thanh đấy. Chỉ khác một điều chậm rải hơn, mà trầm hơn.
Nga buột miệng đáp:
- Thưa mẹ, phát thanh thì phải nói chậm rãi chứ! Còn giọng
trầm là vì máy.
Dứt lời nàng hối hận liền, vì sợ lộ mất bí mật mà nàng không
muốn để một ai khám phá ra. Và nàng tự trách: «Rõ mình cũng lẩn thẩn đem chuyện
ấy ra nói với con!». Bà mẹ chồng nhìn con dâu, mỉm cười;
- Hay chị tin đó là tiếng anh nên chị đã bán tư trang đi để
mua máy ra đi ô đấy?
Câu nói đùa làm cả nhà phá lên cười. Ông bố chồng nói:
- Nếu quả thực người phát thanh ấy là anh Thanh thì cũng lạ lắm
nhỉ! Mà đã biết đâu không phải anh Thanh. Để hôm nay thầy nghe xem.
Tối hôm ấy quả nhiên cha mẹ chồng nàng vào phòng nàng để nhận
tiếng con. Trong khi ông cụ lắng tai nghe, Nga đăm đăm nhìn ông để chờ một lời
phán đoán. Nàng lo lắng khi nghe cha chồng thốt ra một tiếng: «Ừ!» Và
nàng không dám hỏi thêm sợ bị thất vọng. Thì ông cụ lại nói tiếp:
- Ừ cũng giống đấy… Nhưng không phải tiếng Thanh đâu.
Mầm ngờ vực đã nhú trong lòng nàng vụt bồng bột nẩy nở. Nàng
hoảng hốt lo lắng, cảm thấy mặt mình hơi tái đi. Và nàng lặng thinh đứng nhìn
hoang mang không dám suy nghĩ liên miên. Sau khi tắt máy và cha mẹ chồng nàng mỉm
cười vơ vẩn ra khỏi phòng, nàng tắt đèn lên giường đi ngủ liền. Nhưng cả đêm
nàng không chợp mắt. Sáng dậy nàng nãy ra một ý nghĩ mà mấy giờ sau nàng lại thấy
không thực hành được, là gửi thư cho người phát thanh đài Cựu kim sơn. Nàng tự
nhủ: «Không những khó lòng thư tới đích, mà nhỡ người ấy không phải là chồng
mình thực thì xấu hổ chết. Không, không cần viết thư gì hết, và sao một sự nhận
xét cẩu thả của ông bố chồng lại trong giây phút đánh đổ tin tưởng của mình được.
Người cha thuộc giọng con sao bằng được người vợ thuộc giọng chồng! Không thể
nhầm được. Giọng ấy chỉ có thể là giọng Thanh. Nhất mẩu câu «bởi vì rằng» của Thanh thì không trộn đâu cho lẫn được.
Rồi mỗi ngày khi giờ phát thanh tiếng Việt của đài Cựu kim
Sơn nàng lại thấy lòng tin thêm vững chắc.
Sung sướng, rạng rỡ, chiều chiều, nàng sống bên người chồng
xa.
NGƯỜI ANH HÙNG
Nơi ba nhân vật ấy tụ họp để sống với nhau cũng đã là một cảnh
quái đản, một cảnh ma ám rồi. Một khu đất rộng tới bốn, năm mẫu, bao vây trong
một lũy tre dày kín, và một lần tường cao trên cắm mảnh chai vỡ. Hai cái cổng
vòm kiên cố, nối liền nhau bằng một con đường nhỏ hẹp, hai bên có tường và ăn
thông với ngõ xóm, một cái ngõ sâu hẹp giữa hai hàng dậu tre cao vút.
Trong khu đất bao la ấy, cây cối um tùm như rừng, một cái rừng hoang đối với con mắt người thường. Nhưng kỳ thực cái rừng ấy đã được
chăm nom, bài trí theo ý muốn của chủ nó. Ta có thể nói không thiếu một loài
cây gì, từ cây to như cây sến, cây lim, cây trò, cho chí những cây nhỏ như cây
lan, cây lưỡi hổ, cây tóc tiên, từ những cây tầm thường như cây khế, cây sung,
cây ổi cho chí những cây rất hiếm như cây hà lan, cây bạch mộc, cây bách tán,
cây giồng đất, cây trồng chậu, cây leo, cây gửi, cây chơi hoa, cây chơi lá, một
nhà thảo mộc học cũng khó lòng tìm ra được một loại nào không có trong cái vườn
bách thảo ấy.
Nhà ở làm xế vì phía Bắc khu vườn và mặt quay về đằng Đông,
nghĩa là xây lưng ra cổng. Đó là một kiểu nhà cổ quái chẳng ra Tây, chẳng ra
Tàu cũng chẳng ra Việt Nam. Hai từng trên một nền cao, về gốc phía Tây nhô lên
một cái chòi «lô cốt».Cửa sổ cuốn, cái cao cái thấp không theo hàng. Toàn
thể, cái nhà ấy giống như một tòa lâu đài cổ bỏ hoang, nhất nó lại rêu phong tứ
phía và bị lá cây luôn luôn che khuất ánh mặt trời.
Đó là nơi ba người lạ lùng chung sống không rõ từ bao giờ, ba
người mà ngay buổi đầu gặp gỡ, tôi cho là ba người điên, nhất ngắm tòa lâu đài
hình thù cổ quái, tôi càng yên trí rằng nó phải là công trình của bọn người loạn
óc. Mà hiện giờ sau mười mấy năm chơi bời với nhau, tôi vẫn chưa rõ hẳn rằng
cái ông kiến trúc sư kỳ dị ấy là một người điên hay là một người phi thường.
Thời tôi mới quen biết ông ta thì Tiên vào chạc ngoài ba
mươi. Một cái trán cao rộng, hai con mắt sắc ném tia sáng, cặp môi đỏ và tươi
dưới bộ ria cụp, và trên bộ râu thưa, dài, màu hung hung. Tóc cắt ngắn nhưng đầu
chỉ cao ở phía gáy, còn tóc mai để nguyên vẹn, khiến đứng đằng trước mặt mà ngắm
y, ai cũng tưởng y búi tóc. Quần áo thì rất là lôi thôi lốc thốc, một cái quần
cháo lòng, một cái áo cánh nâu, một cái áo lương bã, một đôi guốc gỗ mũ da lợn.
Và Tiên cũng không có thời giờ mà nghĩ tới sự trang sức. Bà
Tiên lại là một người nhà quê, chỉ nghĩ tới việc đồng áng làm ăn và như không
ngắm nghía chồng bao giờ. Mà có lẽ hai người cũng ít khi gặp nhau, Tiên có mấy
khi rời cái phòng sách và phòng thí nghiệm đâu. Trong phòng sách rộng chừng hai
mươi thước vuông, chỉ bày có một cái bàn, hai cái ghế gỗ, và một bộ ghế ngựa
quang dầu. Còn bao nhiêu chỗ thừa bị các tủ và giá sách chiếm hết. Đó là một kho
toàn một thứ sách chữ Hán. Sách khảo cứu các ngành khoa học Âu Mỹ, các tôn
giáo, triết học Đông Tây. Những tự điển, đủ các loại, cũng đã chứa chật một cái
tủ lớn rồi. Còn gian phòng thí nghiệm của Tiên thì ngoài y và nhà «kỹ sư», cái
danh từ y đặt cho người thư ký của y, ngoài hai người ấy ra thì không một ai được
bước chân vào. Chính tôi cũng chỉ thoáng nhìn thấy một lần, khi Tiên ở trong đó
mở cửa đi ra phòng sách. Đại khái nó cũng như những phòng thí nghiệm ở các trường
trung học, với những lọ, những phẫu, những ống thủy tinh bày la liệt trên những
cái bàn sơn màu xanh xám.
Trong buổi mới quen biết con người lạ lùng ấy tôi khỏi tức cười
sao được! Một nhà nho khoa học! Một nhà nho bác học! Tôi
không sao tin được điều ấy! Nhưng ông «kỹ sư» thì phục y lắm, và thân mật
bảo cho tôi biết rằng về khoa học, trình độ y ít ra cũng ngang trình độ một bực
tiến sĩ. «Kỹ sư» cũng biết tôi không tin lời ca tụng ấy nhưng y thấy đó là chuyện
không đáng kể. Và y vốn ít lời lại không thích tranh luận với ai về một vấn đề
gì bao giờ.
«Kỹ sư» vào khoảng hăm nhăm tuổi, đã đậu bằng thành
chung và tốt nghiệp trường canh nông Tuyên Quang. Tuy vào trường này người ta chỉ
cần có bằng cơ thủy, nhưng vì thích khoa canh nông thực hành, y cũng cứ đệ đơn
xin học. Vừa ở trường ra y gặp ông cả Tiên và nhận lời đến trông coi cái vườn
bách thảo cho ông ta, dù phải hoàn lại cho Chính phủ bảo hộ Pháp số tiền túc
phí trong mấy năm tòng học.
Lương, tên người thiếu niên ấy, rất hiền lành và khiêm tốn.
Không bao giờ y nói chuyện đến công việc của y, một công việc vĩ đại mà không
ai ngờ tới. Đó là việc khảo cứu tên và tính chất các cây cối trong vườn ở những
pho sách Tàu mà y cho ngoài ông Tiên ra không một người Việt Nam nào có thể có
được: những pho sách ấy cũng như phần nhiều các sách khác, ông Tiên đã gửi mua
tận Thượng hải Bắc bình.
Thực là giời sinh hai người ấy để mà kết bạn với nhau, để mà
sống gần nhau. Họ giống nhau về đủ mọi phương diện. Cùng ít nói, cùng làm việc
nhiều mà cũng làm những việc vô hại nhưng rất vô ích cho đời. Tôi đã được theo
đuổi một cuộc tra cứu của hai người trong các sách toán pháp đông tây ròng rã
ba bốn tháng trời để tìm ra «cái luật vạn nhất» của sự may rủi về cờ bạc, về
cái số chẵn lẻ của sóc đĩa chẳng hạn. Họ hỳ hục trong bao lâu như thế mục đích
không phải là để lợi dụng cuộc khảo cứu mà làm giàu về đổ bác. Họ rất ghét cờ bạc
và bận bịu như họ thì còn thời gì ở đâu mà đánh bạc?
Việc thiết thực, họ không cần để bận lòng. Đã có bà Tiên nghĩ
đến cho họ. Một mình bà trông coi gia sản của tiền nhân để lại, chừng vài ba
trăm mẫu ruộng rải rác trong khắp một vùng. Quý hồ, họ có tiền mua sách và các
dụng cụ, nguyên liệu khảo cứu khoa học là được rồi. Người đàn bà ấy rất có tính
phục tòng, thế mà một lần đã phải kêu van hai người tiêu pha vừa vừa chứ, không
thì đến sạc nghiệp mất. Hồi ấy hai người khảo cứu phân chất các thứ hoàng đồng
thời Hạ, thời Chu, thời Hán và công việc ấy đã làm hại cho quỹ của bà Tiên một
món chừng bốn năm vạn, tiền mua lò, máy móc đúc đồng và các dụng cụ, các chất
hóa học. Kết quả cuộc thí nghiệm khoa học ấy là một cái đỉnh đời Chu, một đôi ống
hương đời Hạ, một con ngựa đời Hán giống hình và giống chất. Hai người sung sướng
ngắm nghía cái công trình của mình trong ít lâu, rời bỏ lò, bỏ máy để quay sang
một việc khảo cứu khác, cũng vĩ đại và vô ích như việc trước.
Thế giới, hai người ấy sống sẽ là một thế giới im lìm, một thế
giới chết, nếu không có một nhân vật thứ ba. Đó là một người bếp khố đỏ mãn
khóa về xin vào làm vệ sĩ cho nhà Tiên. Chính vì thế mà người ta gọi bác là bác
Vệ, tuy tên bác là Quýnh. Tiên và Lương yên lặng bao nhiêu thì bác Vệ ồn ào bấy
nhiêu, nhất khi bác đã chuếnh choáng vài ba chén rượu. Nhưng sự ồn ào của bác
cũng không làm ngăn trở gì cho công việc khoa học của hai người kia, vì bác sống
riêng biệt hẳn trong cái chòi và ba gian «trại» phía trước, cách cái lâu
đài khảo cứu có tới hơn trăm thước. Bác ở đấy với hai người lực điền và thường
hay giao thiệp với bà chủ hơn là với ông chủ và ông «kỹ sư».
Đó là một người chạc ngoại tứ tuần, cao lớn, lực lưỡng ngực nở
bắp tay to, tiếng nói sang sảng. Ngoài công việc ban đêm giữ nhà, bác còn đi tuần
trông coi cả mấy cánh đồng lúa khi sắp tới vụ gặt. Vì cái trách nhiệm nặng nề ấy
mà bác rất siêng năng tập tành võ nghệ, và dạy hai tay điền tốt của bác học đủ
các lối công, thủ bằng súng, một cây súng bắn chim, bằng gậy, bằng dáo và bằng
đao.
Nhưng thực ra, bác dạy thì ít mà bác khoe khoang và nói chuyện
về bác thì nhiều. Cứ lời bác thì nhờ về môn bắn tài, bác đã mấy lần lên cai rồi
lại bị lột lon xuống làm lính vì cái tính bướng bỉnh cãi lại quan trên của bác.
Kể cái tài bắn của bác quả thực đáng sợ nếu cứ tin ở lời bác: Đặt đồng xu lên đầu
cây mút cư tông, mổ cò, đồng xu nhầy lên ở nguyên chỗ mà không rơi xuống đất. Lại
một hôm ở một đồn binh, viên quan ba đương ngủ trưa, thì một con quạ đến đậu
trên cây soan bên đầu nhà kêu um lên và đánh thức y dậy. Y cáu kĩnh gọi:
«Quynh»! giết chết nó đi cho tao! » Quynh cầm súng ra và hỏi:» Ông muốn tôi bắn
chết nó hay chỉ bắn què thôi?» «Bắn què». Viên quan ba đáp. «Què chân trái, hay
chân phải» «Chân phải» - «Được». Tức thì phát súng nổ và con quạ từ
từ trên cây lộn cổ xuống què chân phải và dẫy đành đạch.
Câu chuyện ấy Lương cũng được nghe. Và y tin lắm, vì y không
bao giờ ngờ vực một lời nói của một người nào dù Iời nói ấy vô lý đến đâu. Thế
là y thấy thích khảo cứu về khoa bắn, rồi từ khoa bắn đến các thế trận, mưu lược
trong các sách binh thư của cổ nhân Trung Quốc. Cái việc khảo cứu quân sự ấy đã
làm cho y mất đến hai ba tháng, cặm cụi và đã gây một trò cười trong cái «trại
lính» bên cổng chòi. Hôm nào cũng vậy, chưa cạn chén rượu thứ nhất, bác Vệ đã
đem ông «kỹ sư vườn» ra làm đầu đề câu chuyện vui! Bác kéo dài giọng,
mỉa mai nói với hai người điền tốt:
- Ô chào! Tưởng việc binh cũng như việc tìm tên cho những
cây lạ hoa kỳ chăng?
Tưởng đâm chết tên cướp cũng dễ như chiết cành, chắp cây
chăng? Ngữ ấy thì cầm cây dáo không nổi, còn bắn với biếc gì!
Câu khôi hài ấy thốt ra trước mặt bà Tiên làm bà ta thích chí
cười rú lên. Rồi vì cũng chẳng ưa gì ông kỹ sư, bà ta đem thuật lại với ông ta.
Bà tưởng trêu tức y, nhưng trái lại, y thấy câu bình phẩm ấy rất hợp lý. Bắt đầu
ngay từ hôm sau y khảo cứu về khoa thể thao; và sáng sáng dậy sớm ra vườn vận động
thân thể. Quả nhiên người y nở nang ra trông thấy,
Trong cái thế giới ly kỳ của những nhân vật ly kỳ ấy, một lần
đã xảy ra một việc bất thường, làm ngừng trệ công việc đều đều của họ trong ít
lâu, chỉ trong ít lâu thôi: Một hôm một bọn cướp nhờ có một trong hai tên điền
tốt làm nội ứng đã vào lọt trong cái vườn Bách thảo và cái lâu đài khoa học ấy,
Thấy động bác Vệ vội lấy súng chống cự, nhưng các thứ khí giới lợi hại của bác
đều đã bị tên đầy tớ bất lương giấu đi một nơi. Bác không vì thế mà chịu đầu
hàng, hăng hái kháng chiến với bọn cướp bằng gạch, bằng gậy, bằng bất kỳ thứ
khí giới gì vớ được. Và bác chống cự mãi cho đến khi bị thương và bị bắt. Sự
can đảm của bác đi giúp được bà Tiên và hai con, một giai, một gái sống
riêng biệt trong bảy gian nhà ngang, trốn thoát được ra ngoài do một cái cửa bí
mật ở sau vườn. Còn ông «kỹ sư» thì vừa nghe có động y đã biến mất: Người ta
cũng không rõ y chạy đằng nào hay ẩn núp ở đâu. Duy có Tiên thì vẫn bình thản như thường và nhất định không chịu rời hai cái phòng sách và thí nghiệm ra, y ở
đó chờ cho bọn cướp đến để kính cẩn nói với họ:
- Thưa, các ngài, các ngài muốn lấy vật quý gì cứ việc,
chỉ xin các ngài đừng động chạm, phá phách hai cái phòng này mà thôi. Những thứ
này các ngài không dùng làm gì được đâu: Toàn sách với chai với ống với lọ cả.
Y có ngờ đâu rằng chính câu nói của y đã gợi lòng tò mò và
nghi hoặc của quân cướp ; sau khi đã trói y lại chúng lục lọi, vất tung tóe hết
các sách, đập vở bừa bãi một số chai lọ, để tìm vàng bạc châu báu mà chúng chắc
y dấu giếm trong hai gian phòng. Mãi khi không thấy gì chúng mới chịu phá rương
phá tủ ra vơ vét của cải quần áo.
Một giờ sau, bọn cướp kẻ vác, người gánh theo tên tướng dẫn
đường ung dung kéo đi. Bổng có tiếng kêu ồn ào con đườmg ngõ xóm. Đuốc vội dập
tắt, rồi mạnh ai nấy chạy, bọn cướp vứt đồ đạc lại nhốn nháo tẩu tán. Khi tuần
làng kéo đến thì chúng đã đi xa. Trong ngõ xóm còn lại một tên bị tử thương ở bụng
và còn quằn quại trên vũng máu. Nồi, mâm, xanh, chảo, quần áo thì rải rác suốt
từ đầu cho tới cuối xóm. Sau khổ chủ ra thu nhặt về, nhận thấy rằng bốn phần của
bị cướp, quân cường đạo bỏ lại tới hơn ba phần.
«Nhưng ai đã đâm chết tên tướng cướp, khiến bọn quân mất đầu
tan rã bỏ chạy như thế?» Người ta kinh ngạc hỏi nhau. Giữa lúc ấy ông «kỹ sư»
vác cây dáo dài từ trong vườn bên đi ra và ôn tồn giảng giải:
- Trong khi khảo cứu về chiến lược của Tôn Vũ, tôi đã chú ý đến
câu «đánh bất thình lình». Đánh bất thình lình thì một người có thể hạ nổi trăm
người, nhất khi mình lại chiếm được địa lợi. Khảo cứu về địa lợi tôi đã ra đấy
xem xét kỹ lưỡng cái ngõ hẹp này, và thấy nó rất có lợi cho trận đánh mai phục
mà ngày nay người ta gọi là du kích. Đấy, các ông coi, Tôn Vũ đi thẳng một cách
dễ dàng.
Mọi người phá lên cười. Và từ đấy ông «kỹ sư» lại có
thêm được hai tên mới: Tôn Vũ và Người Anh Hùng.
KHÓI HƯƠNG
Đi cỏ là một công việc ao ước trong trại giam Vụ bản. Riêng
có hai anh người Thổ phụ trách công việc ấy nhưng thỉnh thoảng họ lại nhường
cho bạn bè được nếm qua cái thú nên thơ.
Sáng hôm nay, lão đồn già đã phải mỉm cười nhìn Linh và
Khanh, trong bộ quần áo «gôn» màu cỏ, nhẹ nhàng vác trên vai đôi lẵng tre lồng
một, trong đựng hai cái liềm và một cuộn giây Iạt. Và lão nháy hỏi đùa một câu
tiếng Việt:
- Đi cỏ?
Rồi lão tiếp liền một câu tiếng Pháp, như để tỏ rằng đã bằng
lòng ban cho hai người cái ơn huệ ấy:
- Được! Chơi cho thỏa thích đi nhé!
Lần này là lần đầu Khanh đi cỏ, nhưng vì được anh em tả cho
biết mọi chi tiết của công việc ấy nên y đã đem theo một điều kiện cần thiết: tiền
mà y cẩn thận giấu vào trong tất để phòng sự lục khám bất thần của lão đồn già.
Sương còn dày đặc khi Linh và Khanh ra đi với người lính Mường.
Dãy núi Hoành sơn như nổi trôi trên biển tuyết.
Bị cỏ đồi dài và sắc nhuốm ướt tất và ống quần, hai chàng đến
ngồi nghỉ ở một gốc đa bên cái giếng nước suối, để hong gió cho khô. Trong khi ấy
người lính Mường đến góp chuyện với mấy hàng gánh gà vịt ra chợ Trào bán.
- Hắn có nhà đấy, các thầy ạ.
Y quay ra bảo hai chàng.
- Thế à? May quá nhỉ!
Hắn là người mà chú lính «Sáu ba», sắp Cưa hai chàng đến nhà
và người đàn bà báo tin kia là vợ hắn.
Vượt một cánh đồng rộng, theo ven một khu rừng rậm, leo hai
quả đồi cỏ nữa, ba người mới tới làng Nghĩa. Linh thật thà hỏi:
- Phải đi xa thế này mới cắt được cỏ cho trâu ăn?
Khanh cười:
- Việc chính có là việc cắt cỏ đâu.
Và «Sáu ba» nghiêm trang tiếp, y như không cười không đùa bao
giờ:
- Các thầy không phải cắt cỏ. Cả tôi cũng vậy, chỉ việc chén
say rồi ngủ một giấc, chiều về thế thôi.
Làng Nghĩa, một làng chết. Lũy tre sơ sác, lèo tèo vài chục
nóc nhà. Người ở lưa thưa, không một móng trẻ con nào ra đường. Khanh buồn rầu
hỏi «Sáu ba»:
- Ở đây làng nào cũng tiêu điều như thế này à?
- Không đâu, thầy ạ, đây là một xóm nghèo nhất vùng này.
Linh cười:
- Tôi có cảm tưởng đến một nơi vừa có bọn cướp đi qua. Chúng
vét sạch của cải và nhân dân bỏ trốn hết.
Người lính thật thà đáp.
- Không đâu, thầy ạ, trên chúng tôi không có cướp bao giờ.
Còn thầy thấy vắng như thế này là vì hôm nay là ngày phiên chợ Trào, cả làng đi
chợ, chiều mới về cơ mà.. Nhưng đây rồi, đến nhà hắn rồi.
Nhà hắn là một căn nhà sàn bằng gỗ, làm trên một miếng đất nhỏ
hẹp; lũy tre lụi từng đám, khiến người ta có thể qua đó mà vào chứ không
cần phải đi lối cổng. Cái cổng chỉ là một công trình mỹ thuật mà nhà nào hình
như cũng chăm chú đến. Nó cao, d* bằng tre hay bằng gổ, và phần trên là một cái
miễu con xinh xắn.
Một con chó vàng, lông dài, đuôi vòng lên lưng như cái dấu hỏi,
uể oải lên tiếng sủa, có lẽ không phải để sua đuổi mà để báo cho chủ biết có
khách đến chơi. Quả nhiên chủ nhân thò đầu qua cửa sổ và khi nhìn thấy ba người,
y vội vả chạy ra cầu thang đón tiếp:
- Mời hai quan với bác lên chơi. Hôm nay hai quan mới đến
đây?
Thì ra nơi này là nơi tụ họp hằng ngày của anh em đi cỏ.
- Hai ông lên trước đi, tôi cất các thức rồi tôi lên sau..
Các thức là ba đôi lẵng tre bé xíu và hai cái liềm đem theo để
có vẻ đi cắt cỏ.
Linh và Khanh tấm tắc khen cái nhà sàn đẹp và sạch sẽ. Nó
khác nhà sàn Thổ ở chổ gian bếp và gian đàn bà cách biệt, có phên liếp ngăn ra.
Và nó sáng sủa hơn, vì mặt cái cửa sổ hình chữ nhật đặt ngang mở rộng ra phía
Đông Nam để đón ánh mặt trời và không khí.
Trên cửa sổ, một cái chiếu hoa cạp xanh giải xuống sàn, gổ
ghép xít. Trên chiếu là một cái khay thuốc phiện, với ngọn đèn dầu le lói trong
cái chụp pha lê sáng bóng. Khanh thì thầm bảo Linh: «Cái anh chàng này chừng là
tay ăn chơi»
Chủ nhân cười hỏi:
- Hai quan muốn làm cái này? Nhà cháu xin tiêm hầu hai quan
xơi?
Linh mỉm cười:
- Cảm ơn ông. Chúng tôi xin vô phép.
Khanh tưởng nên khen một câu làm thân:
- Cái nhà của ông đẹp lắm l Bức sàn ghép toàn bằng gỗ quí.
Sáu-ba vừa lên nói vọng vào:
- Ấy từ ngày ông ta ra làm lý trưởng đấy.
Linh nói:
- Ở dưới chúng tôi cũng vậy, ai ra làm lý trưởng là cũng tốn
kém hao hụt.
Chủ nhân cười;
- Bẩm hai quan, chúng tôi ở nơi sơn cước, bì thì nào được
với quê quan.
Nhưng phải nghĩ đến việc chính đã. Việc chính là đưa tiền cho
chủ nhà nhờ sửa soạn một bữa ăn. Khanh tháo giầy tất lấy đưa cho Sáu ba một tờ
giấy năm đồng. Y giao ngay cho chủ nhà và nói:
- Này, ông làm giúp hai thầy bữa chén nhá.
- Ấy! ai lại thế! Nhà cháu đã có gà, chả phải mua
gì đâu mà hai thầy đưa tiền.
Cả ba người phải nói khéo mãi, y mới chịu cầm tờ giấy bạc gập
nhỏ bỏ túi. Rồi chủ và khách ngồi nói chuvện chung quanh bàn đèn. «Sáu ba» yên
lặng nằm tiêm thuốc, và xong mỗi điếu y lại quay mồi Linh, Khanh và người Mường.
Nhưng lần nào ba người này cũng từ chối và mời lại. Như thế y kéo luôn một lúc
đến năm sáu điếu. Giữa câu chuyện gia thế của người Mường, Linh quay sang
Sáu ba hỏi chen một câu:
- Thì ra bác bếp cũng hương khói phụng thờ thần Phù dung đấy
à?
Y không hiểu. Linh phải giảng nghĩa:
- Bác nghiện thuốc phiện à?
Y cười nhạt nhẽo:
- Không, hút chơi đấy thôi, thầy ạ, ở đây cần phải hút. Anh
em chúng tôi hễ ai
không hút là thế nào rồi cũng đi tiểu ra máu mà chết.
Chủ nhà gật gù
- Bác ấy nói đúng...!..Mà lại hút nhiều cơ chứ! Với
lại làm cái nghề của chúng tôi, không ăn không được cơ!
Cái nghề ấy là nghề nấu thuốc phiện lậu, một nghề không nguy
hiểm như người ta tưởng tượng vì, - lời người Mường - «đã có quan Châu và các
quan Lang che chở!» Y cho biết rằng quan Châu đã kịch liệt phản đối việc
xông xáo vào làng bắt thuốc phiện của bọn lính thương chánh, và yêu cầu quan
Tây mỗi khi đi bắt đâu phải báo cho quan Châu biết.
- Hai quan đã thấy chưa? Tây nó phải chịu nghe theo. Thế rồi
mỗi khi nó định đi bắt đâu thì quan Châu lại báo cho quan Lang biết, rồi quan
Lang báo ngay cho mình biết để mình giấu hàng đi. Vì thế mà sở thương chánh lập
ra ở Vụ Bản phải bãi đi vì chả có việc gì nữa. Bắt đâu ra thuốc phiện mà ở mãi
đấy, ăn tốn tiền lương của Tây phải không thầy?
Bốn người cùng cất tiếng cười thích chí. Rồi đến lượt Sáu ba
thuật chuyện buôn bán thuốc phiện của y thưở xưa, cái nghề mà y yêu mến nhất
trên đời.
- Thế sao lại ra lính?
- Ấy, vì thế này. Tây nó bắt quan Lang tuyển lính. Nhưng trên
tôi chả ai muốn đi lính cả. Quan Lang liền lập mưu, làm một bữa tiệc mời những
người danh vọng đến ăn. Thế rồi nó ép chúng tôi phải ra.
Chủ nhân sau một điếu thuốc phiện, nằm ngửa nhìn khói tỏa bồng
bồng trước mặt, vẻ nghĩ ngợi. Bỗng y ngồi nhỏm dậy hỏi:
- À ban nãy hai quan nói cái gì khói hương phụng thờ thế nhỉ?
Phụng thờ thần gì thế?
Khanh cười đáp:
- Ở Trung Châu, nghiện thuốc phiện người ta nói hoa mỹ
là :khói hương phụng thờ ả Phù dung. Phù dung là thuốc phiện……(1)
- Ừ! mà mình phụng thờ có thật, hai quan ạ. Nói đến khói
hương, tôi lại nhớ một lần đã khổ sở, mất ăn mất ngủ vì nó.
Và y thuật lại câu chuyện cho Linh và Khanh nghe:
Người Mường trọng sự thờ phụng tổ tiên. Và tuy mấy năm nay
giá dầu quá cao, người vợ chủ nhà này cũng cố mua được thứ dầu tốt, trong trẻo,
thơm tho về thấp đèn thờ. Chai dầu ấy nàng cất vào trong một rương khóa kỹ, sợ
chồng lấy dùng vào ngọn đèn thuốc phiện.
Sự lo ngại của nàng quả một hôm thành sự thật. Hôm ấy, nàng
đi chợ vắng, người chồng ở nhà đến cơn nghiện mà hết dầu. Hắn biết vợ có một
chai dầu còn gần đầy mà nàng cất trong rương. Nhưng rương khóa, biết làm thế
nào? Hắn cáu kỉnh toan lấy rìu phá rương ra để tìm chai dầu. Về sau vớì cái
giây thép hắn cũng mở được khóa.
Thế là bắt đầu từ hôm ấy, hắn dùng toàn dầu cúng tổ tiên vào
việc cúng ả Phù dung. Rồi hôm chai dầu gần cạn hắn đâm lo sợ nghĩ thầm: «Con mụ
mà nó biết thì khổ với nó». Hắn liền nhờ người đàn bà hàng xóm mua hộ một chai
dầu cá với một giá rất rẻ, để thế vào chỗ dầu đã dùng vào đèn thuốc phiện: «dầu
gì thì cũng đến đốt có ngọn là được! Can chi lại đi dùng dầu ăn thuốc để
mà thắp đèn, phí quá! Đàn bà rõ lẩn thẩn quá!»
Nhưng hôm dùng đến dầu để cúng, người vợ mở nút chai, bỗng
chun mũi lại kêu:
- Sao mà dầu hôi thế này?
- Hôi à? Người chồng vờ hỏi. Sao lại hôi?
- Hôi quá. Ngửi xem đây này!
Người chồng ra ngửi thử cũng chun mũi lại như vợ.
- Hôi mà lại còn tanh nữa.
- Tại sao thế nhỉ?
- Ai mà biết. Chắc mình mua phải thứ dầu xấu, nó lên men nên
nó ra thế.
- Để rồi phải mắng cho lão hàng dầu mới được. Nó lại cậy nó
là người Kinh nó đánh lừa dân Mường à. Để chai dầu đây, phiên chợ sau đem ra phố
bắt nó đổi.
Người chồng mỉm cười giàn xếp:
- Thôi, sinh chuyện với người Kinh làm gì? Với lại dầu nào mà
chả thắp được, quý hồ cháy thì thôi. Có ăn đâu mà cần thơm tho.
Người vợ chau mày, giận dỗi:
- Thế thì mất nhiều tiền mua dầu tốt làm gì. Việc thờ cúng mà
hôi tanh thế này, sao được.
Người chồng cố tìm lý để tránh cho vợ một cuộc đôi co bất
công với người Kinh.
- Dẫu sao cũng lỗi tại mình. Ai bảo mình nhầm. Người ta có thể
đổ cho mình đem về thay dầu khác vào để bắt đền người ta cơ mà.
Nói dứt câu ấy và nghĩ đến sự thực hắn cười vui vẻ đổ dầu ra
đĩa:
- Ở chai thì nó hôi, chứ rót ra đĩa cũng không đến nỗi mình ạ.
Đến đây, người Mường ngừng lại kéo hơi thuốc phiện, rồi hắn
nhớn nhác nói:
- Chính cái việc ấy đã làm cho tôi khốn khổ đấy.
Khanh ngơ ngác hỏi:
- Sao vậy? Bà ấy làm ông khổ, phải không?
- Không, đâu có thế. Nhưng mà cũng được vài lần thì các Ngài
không về nữa.
- Ai kia? Ai không về?
- Các Ngài. Tổ tiên ấy mà!
- Tổ tiên !Sao ông biết các Ngài không về?
- Sao lại không biết!
Hắn nhắc đi nhắc lại mãi một câu như còn đang ở dưới sức đe dọa
của Tổ tiên:
- Thế mới chết chứ! Các Ngài bỏ đi biệt, thế mới chết chứ.
Các Ngài không về nữa thế mới chết chứ!
Khanh và Linh cố giữ để khỏi bật cười, vì hai chàng cũng
không thể tưởng tượng được người Mường kia làm thế nào mà biết rằng các Ngài
không về. Muốn hỏi để biết nhưng lại sợ làm phật lòng con người tín ngưỡng.
- Thế rồi sau các Ngài có về không?
Khanh có giữ vẻ trang nghiêm hỏi lại một câu.
- Ôi giời ôi, tôi khổ sở mất một tháng, kêu cầu van lạy các
Ngài mới lại chịu về. Vợ tôi thì khóc lóc mãi.
- Thế bây giờ các Ngài đi về rồi, thì hẳn ông kệch đến già
không dám dùng mỡ hôi thắp đèn thờ nữa chứ?
- Vâng. Cái chỗ dầu hôi tôi đem vứt xuống suối cho chảy đi mất
tích. Nhưng một đêm nguy quá hai quan ạ, tôi lại bị con ma thuốc phiện xúi dục
làm càn. Các quan có tin rằng có ma thuốc phiện không? Đêm hôm ấy tôi hút mới
được hai điếu thì hết dầu. Mua dầu ư? Mua ở đâu. Chẳng lẽ đương đêm mò ra phố…
Mà khuya khoắt ai người ta bán cho! Tôi đương mơ màng nằm nghĩ cách làm
thế nào để hút được cho đủ cơn nghiện, thì bỗng tôi chập chờn ngủ thiếp đi. Ấy
chính lúc bấy giờ con ma thuốc phiện nó hiện về đấy, hai quan ạ.
- Nó hiện về? Thế hình thù nó thế nào? Khanh hỏi.
Người nghiện mắt mở to như còn đương bị ma nạt. Và hắn kể tiếp:
- Nó cao lênh khênh, đầu nó to như cái dành mà hốc hác giơ
xương ra. Mắt nó sâu như hai cái hang, răng nó nhe ra. Nó giơ tay trỏ mãi vào
cái rương để xui tôi đến mở mà lấy dầu. Thấy tôi làm thình nó lay tôi dậy. Tôi
mở mắt ra thì nó đã biến mất. Ánh giăng chiếu xiên qua cửa sổ, gian nhà sáng rõ
và tôi đăm đăm nhìn cái rương kê làm bàn thờ tổ tiên. Đã hai ba lần tôi lần ra
ngắm nghía cái khóa rồi nghĩ đến các cụ tôi lại sợ hãi quay về chiếu nằm bên
khay đèn tắt lửa. Nhưng động chợp mắt thì con ma lại hiện lên. Lần này nó ghé hẳn
vào tai tôi nó thì thầm: «Mày sợ ông vải mày hơn sợ tao à? Mày mà để lửa
thờ tao tắt lụi, thì tao bóp cổ, tao vật chết tươi bây giờ ».
Chẳng đừng được tôi phải đánh liều đi lấy cái chìa khóa giây
thép mở rương lôi chai dầu ra, chiết vào phẩu đèn, đánh diêm thắp lửa. Ngọn đèn
lúc bấy giờ sao mà đẹp thế, cứ sáng tươi mà trong vắt lên thôi. Tôi cằm chai dầu
giơ lên xem. Còn những già một nửa. Và tôi vui vẻ nghỉ thầm: «Thế mà mình cứ
lo sợ vẩn vơ. Cứ dùng rồi mai kia ra phố mua bù vào, đã sao» Hút luôn một lúc
năm, sáu điếu tôi lại ngủ thiếp đi. Thì nó lại đến.
- Con Ma?
- Vâng con ma, nó lại đến. Lần này nó reo mừng nhảy múa. Rồi
con nữa, rồi con nữa, một lát sau đến gần một chục con ma hiện về nắm tay nhau
mà nhảy chung quanh cái bàn đèn mà hát những bài ca thuốc phiện và cười khanh
khách. Mãi gà gáy sáng chúng nó mới đi và tôi mới thức dậy.
Rồi tối sau cũng thế hai quan ạ, ma nó lại về nó xúi tôi lấy
dầu cúng để thắp đèn thuốc phiện. Tôi sợ hãi quá phải đánh thức vợ tôi dậy kể
cho nghe câu chuyện. Vợ tôi giận tôi phát khóc lên. Và sáng hôm sau đi phố sớm
mua chai dầu khác cất kỹ không cho tôi biết chỗ. Nó không biết cái ám ảnh ghê gớm
của con ma thuốc phiên nên nó chỉ sợ ông vải thôi. Nó bảo lần sau mà còn đem dầu
hôi rẻ tiền ra cúng các Ngài thì các Ngài đi hẳn đấy không về nữa đâu. Các Ngài
đã báo cho nó biết thế.
Sợ quá! hai quan ạ! Các quan tính ông vải thì còn
thương con cháu. Các Ngài giận thì các Ngài bảo thế thôi. Chứ con ma thuốc phiện
thì nó thương gì mình phải không, hai quan? Không vâng theo mệnh lệnh của nó
thì nó bóp chết thật đấy, hai quan ạ. Ở dây chán người làm trái ý nó, nó đưa đường
cho lính đoan bắt giam, chết khô ở trong nhà pha vì không có thuốc hút cơ đấy.
Rồi hắn ta nhắc đi nhắc lại mãi một câu:
- Gớm thật con ma thuốc phiện!
Trong khi hắn kể câu chuyện thuốc phiện cho Linh và Khanh
nghe thì Sáu-ba nằm ngủ kéo một giấc ngon lành. Mãi lúc con gái hắn bưng mâm
lên hắn mới lay dậy. Khanh mỉm cười hỏi :
- Thế nào Sáu ba có thấy con ma thuốc phiện hiện về
không?
Hình như Sáu ba đã nhiều lần được nghe câu chuyện vừa kể nên
y mỉm cười hỏi chủ nhân:
- Lại chuyện con ma thuốc phiện và chai dầu hôi, phải không?
- Vâng, nó ghê gớm lắm đấy, cái con ma thuốc phiện, trêu vào
nó thì cứ là chết!
Buổi chiều khi mặt trời đã khuất núi, ba người gánh ba gánh cỏ
nhẹ thênh thang trở về trại giam, Khanh hỏi Sáu ba:
- Này ông Sáu ba, làm thế nào mà cái ông chủ nhà ấy biết rằng
các Ngài không về?
Sáu ba ngơ ngác hỏi lại:
- Các Ngài nào thế?
- Tổ tiên ấy mà! Ông vải ấy mà!
- À! lại chuyện chai dầu hôi. Biết chứ! Xin âm
dương thì biết các Ngài về hay không về chứ!
- À ra thế.
Khanh và Linh cùng cất tiếng cười vui thú.
- Thế mà mình nghĩ mãi không ra.
Từ đó thỉnh thoảng Linh và Khanh lại xin đi cắt cỏ để ăn cháo
gà và nghe những câu chuyện thật thà của người bạn Mường trong làng Nghĩa.
Chú thích:
(1) Những chỗ có ghi dấu chấm chấm là do bản thảo bị mối
xông mất một dòng. Truyện này mấy năm trước, tôi đã có cho in đầy đủ trong một
tờ báo mà chưa tìm lại được.
(Chú thích của Nguyễn Thạch Kiên)
(Chú thích của Nguyễn Thạch Kiên)
ĐỢI TẾT TRONG TÙ
Những ngày cuối cùng của nhà văn Khái Hưng
Nhà văn Khái Hưng
Cuối năm 1946 tại Hà Nội… Mùa đông đã tới trên đất Bắc mang
theo gió bấc lạnh buốt thấu xương. Lúc đó, tình hình căng thẳng giữa Việt Minh
và Pháp đã chín mùi và chiến tranh Việt - Pháp bùng nổ vào buổi tối ngày 19/12.
Chúng tôi đã tản cư khỏi Hà Nội từ hai tuần trước và trở
về quê ở gần làng Cố Lễ (huyện Nam Trực, Nam Định), mặc dầu biết rằng vẫn bị
trinh sát theo dõi từng bước. Ngay khi bộ đội đột kích quân đội Pháp ở Thủ đô,
thì tại Nam Định lực lượng của thực dân cũng bị bao vây và đồng thời Tổng bộ
Việt Minh hạ lệnh «quét» hết các chiến sĩ Quốc Gia. Bởi vậy ngay tối
hôm sau (20-12), chúng tôi ba người đều bị công an đang đêm xông vào nhà từng
người bị bắt trói giam tại quận lỵ. Nhưng số phận chúng tôi còn
«hên»: chín ngày sau, đúng lúc chúng tôi bị trói thành
«xâu» và sửa soạn dẫn đi «trôi sông» thì một công điện
của Trung Ương tới chỉ thị cho Công an không được bắn chết bừa bãi, phải lập hồ
sơ tội trạng để đưa chúng tôi ra tòa án. Thế là ngay đêm ấy, chúng tôi bị áp giải
lên trại giam của Công an tỉnh đặt tại chiến khu Lạc Quần (huyện Xuân Trường - Nam Định). Lúc đó đã sang tháng chạp âm lịch. Thiên hạ bắt đầu sửa soạn Tết.
Chợ Lạc Quần trở nên tấp nập hơn những ngày thường và đã điểm màu chợ Tết,
với bánh, mứt, cam, bưởi, tỏa mùi thơm tới trại giam chúng tôi cách chợ chừng
200 thước.
Ở đây toàn thể đều là chính trị phạm. Từ các huyện dồn về, số
anh em càng ngày càng tăng… nhưng cũng chưa đến nỗi phải chen chúc nghẹt thở;
sàn gỗ chiếu manh và cơm nắm muối vừng vẫn còn đủ chia nhau. Bị kiểm soát và
theo dõi liên tục chúng tôi chẳng ai dám nói gì về chính trị và kinh tế. Trái lại
nhân cảnh chợ Tết nầy bên chúng tôi đưa ra những đề tài «Tết» đã có chuyện mà
nói với nhau … và cũng rục rịch để trong ít ngày nữa cùng nhau ăn một cái Tết
thuần túy «tinh thần», vì dĩ nhiên chúng tôi sẽ phải tiếp tục sống trên sàn gỗ
chiếu manh và ăn cơm nắm muối vừng trong ba ngày Nguyên Đán …
Ngày hôm sau khi ba chúng tôi - Lụy, Thành, Văn - bị di chuyển
về trại Lạc Quần, và trong khi anh em chính trị phạm đang bàn tán về chuyện Tết
…thì một buổi chiều mọi người được tin lát nữa sẽ có hai ông bạn mới, hình như
do Công an quận Trực Ninh bắt rồi cũng đưa lên giam giữ lại đây như trường hợp
chúng tôi. Hai người hiện còn ở ngoài văn phòng chi trưởng Công an (tên Thịnh,
con ông Hoàn Thành, tiệm mũ có tiếng ở Nam Thành).
Tới 5 giờ chiều (giờ cũ), chúng tôi tập hợp ăn cơm. Vừa ngồi
xệp xuống đất và bẻ đôi nắm cơm thì một công an viên dẫn hai người vào cho nhập
bọn với chúng tôi. Một người chừng trên bốn chục tuổi có vẻ hào hoa phong nhã
nhưng hơi gầy yếu. Âu phục chỉnh tề: Complet và cà vạt, mũ «phớt»,
ngoài khoát pardessus de ville, tay xách một cặp da cũ đựng quần áo và đồ dùng
vặt.
Người thứ hai trẻ hơn cũng mặc âu phục nhưng đơn giản:
quần đen, sơ mi và áo len nâu dài tay với một bọc vải gói ghém áo quần và vật dụng.
Trong gian phòng ẩm thấp và thiếu ánh sáng tất cả chúng tôi
cùng đứng lên hân hoan đón hai bạn mới. Bỗng anh Văn trố mắt nhìn kỹ hai người
rồi thốt lên:
- Tưởng ai xa lạ … hóa ra anh em nhà cả!
Rồi anh ghé tai Lụy nói thầm:
- Anh Khái Hưng đấy! chắc anh đã đọc những tác phẩm của
anh rồi. Còn anh giáo Dưỡng vẫn thường đi lại hoạt động với chúng ta … ».
Lụy gật đầu mỉm cười. Bộ ba chúng tôi tới bắt tay anh rồi cùng ngồi ăn ngấu
nghiến cho xong bữa. Chiều hôm ấy may mắn có thêm chút rau muống sống do anh
Văn hái trộm trong thửa ruộng sau nhà. Chúng tôi gọi những món ngoài lề như vậy
là những món «siêu vô sản».
Sau bữa ăn, chúng tôi ra bờ sông (cũng thuộc phạm vi trại
giam) rửa bát đũa chân tay rồi về quây quần xung quanh một ngọn đèn dầu hỏa tù
mù. Anh Văn với tư cách là người đã quen biết anh Khái Hưng từ lâu (1) ngồi ở
bên anh. Cuộc họp bắt đầu ngay bằng câu chuyện của anh K.H. Về trường hợp anh bị
bắt:
«Tôi tản cư ở Hà Nội về Nam Định, ít lâu trước ngày Tác Chiến,
qua tỉnh lỵ, mặt trận Liên Việt cấp chứng minh thư cho tôi về quê tạm trú tức
là quê vợ tôi tại làng Lịch Diệp, quân Trực Ninh (2). Trước ngày Tác Chiến, họ
không đá động gì đến tôi cả, tôi vẫn được tự do đi lại. Buổi chiều gần tối tôi
thường đi chơi ở ngoài làng, đi hóng gió và ngắm cảnh đồng ruộng. Có khi đứng
nói chuyện với dân quân du kích tới khuya trong điếm gác... Thế rồi xảy ra Tác
chiến ở Hà nội. Ngày hôm sau tôi bị gọi ra Ủy Ban Xã, giấy tờ bị thu hết rồi họ
bắt tôi đưa lên Công An huyện. Tôi bị giam giữ ở đó cho tới trưa nay cùng với
anh Dưõng và nhiều người khác rồi họ đưa hai chúng tôi về đầy ở cùng với các
anh. Dĩ nhiên họ coi tôi là một người nguy hiểm...Lệnh từ trung ương xuống, cấp
dưới chỉ biết thi hành.
«Tuy rất nhiều người có cảm tình với tôi, nhưng họ không dám
đi ngược lại chỉ thị cấp trên. Dù sao tôi cũng chưa bị đánh đập tra khảo gì cả».
Nói tới đó, bỗng anh ngước mắt nhìn chằm chặp vào mặt Thành:
- Hình như trước tôi đã gặp anh nhiều lần, không nhớ ở đâu?
- Thầy quên rồi à !Mấy năm trước tôi học trường Thăng
Long…thầy dạy Việt văn mà! (3)
Do đấy chúng tôi mới biết K.H. là thầy cũ của Thành.
Nhưng anh nói chặn ngay:
- Thôi chú cứ gọi tôi bằng «anh». Bây giờ chúng mình đều
là anh em cả! Lúc đó. Nhóm chúng tôi lại được thêm một người nhập bọn: anh
Xuân Bách, bạn thân của anh Lụy, vừa ở tốp khác nhảy sang góp chuyện. (4).
Mấy phút sau, ba tiếng cồng báo hiệu đã tới giờ ngủ. Đội nhân
viên «trực» tới dồn chúng tôi sang ngôi nhà hai tầng dùng làm phòng ngủ phạm
nhân. Cùng với nhiều anh em khác. Nhóm chúng tôi ngủ trên gác - một sàn gỗ
không giường màn không chăn gối, ngoài đống chiếu tạm đủ cho mỗi người vừa trải
vừa đắp. Nhưng may mắn là ở đây rất ít muỗi. Hơn nữa, căn phòng họp và kín đủ
giữ hơi thở của chúng tôi lại để sưởi ấm lẫn nhau đỡ lạnh được phần nào.
Đêm ấy, vì anh giáo Dưỡng không mang chăn theo, nên phải đắp
chung với một bạn khác sẵn có một tấm chăn len khá rộng. Còn anh K.H. dùng áo
choàng thay chăn, khăn len bọc cổ và gối đầu trên cặp da phủ khăn bông.
Hồi ấy Lạc Quần là một chiến khu quan trọng của miền Nam
Trung Châu Bắc Việt (thuộc Liên khu 3). Trại lính «khố xanh» cũ
lúc đó đã biến thành Bộ Tư lệnh của đại tá Việt Minh Hà Kế Tấn. Công an tỉnh
Nam Định đặt trại giam gần sát đó để có thể nhờ bộ đội can thiệp tức khắc nếu xảy
ra những trường hợp bất ngờ (các chính trị phạm nổi loạn hoặc các nhóm quốc
gia đánh úp để giải phóng đảng viên). Anh em chúng tôi thuộc nhiều đoàn thể
khác nhau Việt Quốc, Việt Cách, Duy Tân, Dân Tộc, Công giáo không thiếu
một đảng phái chống Cộng nào. Đến trung tuần tháng chạp âm lịch, tổng số lên tới
gần 50 người.
Đời sống tại đây tương đối dễ chịu vì lúc đó Việt Minh còn bận
tổ chức kháng chiến chống Pháp, chưa nghĩ tới việc hành hạ chúng tôi. Ngoài điểm
ăn ngủ kham khổ, chúng tôi không hề bị gông cùm xiềng xích và cũng không phải
làm việc gì cực nhọc, chỉ có một lần chúng tôi được đi vác gạch cho bộ đội xây
đồn, riêng vì anh K.H yếu đuối nên bị chúng loại ra. Tuy nhiên không phải không
có những cuộc tra tấn.
Đêm nào cũng có vài ba người bị gọi lên phòng đồn trưởng để hỏi
cung đúng vào lúc ba tiếng cồng «ngủ» dóng lên. Đánh đập, kìm kẹp, quay điện,
tra tấn đủ kiểu cho tới khuya mới thả cho về.
Và mỗi buổi sáng chúng tôi lại thay phiên đấm bóp và săn sóc
những nạn nhân đêm trước.
Bởi vậy, ngay buổi sáng ngày thứ nhì, anh K.H. đã nhìn thấy
rõ «nếp sống và thủ tục trại giam. Và cũng từ buổi đó, chẳng bao
giờ chúng tôi được nghe anh nói một mảy may gì liên quan tới chính trị hay là
tình thế. Mặc dầu trông đợi phiên mình, nhưng trong suốt thời gian(vào khoảng
(15 - 20 ngày) chung sống với chúng tôi, anh chẳng hề bị gọi lên «chịu trận»
một lần nào cả. Trái lại, có một số công an viên kể cả đồn trưởng Thịnh tỏ ra rất
hâm mộ và kính nể anh. Có lẽ không gì khổ tâm hơn cho một nhà văn khi phải sống
trong cảnh hoàn toàn không giất bút và không sách vở. Lúc ra đi, bọn Công an
không cho anh mang theo một chút gì để đọc và viết; Tới đây anh đành bó
tay, và luôn ngỏ ý thèm đọc, bất cứ sách gì. Một hôm, có một công an viên - anh
Thân - vì cảm mến K.H. đã mang tặng anh một tập giấy trắng với một cây bút chì
trong lúc chúng tôi đang ngồi quay lại để anh xem tướng cho từng người. Anh
K.H. xem tướng rất giỏi - cả tướng tay lẫn tướng mặt. Coi tay anh Lụy, anh bảo
là người dễ tính và rộng rãi - anh Thành sẽ vất vả một đời vì bộ tóc rễ tre - anh Văn khó lòng sống tới 50 tuổi …Đến nay tôi thấy những lời anh tiên đoán về
số mệnh đều rất đúng.
Từ lúc có giấy bút, chiều nào Khái Hưng cũng ra bờ sông ngồi
viết nhật ký, Công an viên Thân thường lui tới để nhờ anh sửa văn. Và bọn anh
em chúng tôi cũng bắt đầu gác bỏ đề tài Tết để nhảy sang địa hạt văn nghệ.
Từ bữa đó, anh K.H. đã nói khá nhiều với chúng tôi về các vấn
đề văn chương, thi ca, tiểu thuyết vì đây là sở trường của anh. Lâu ngày quá rồi
anh, chúng tôi không còn nhớ được nhiều. Riêng anh Lụy còn nhớ được một điểm
khi hỏi anh về vai trò của VỌI trong cuốn TRỐNG MÁI. Khái Hưng nói:
«Trong tác phẩm này, phong cảnh Sầm Sơn là chính, còn
vai trò của VỌI chỉ là phụ, tức là để tả người Sầm Sơn và cảnh Sầm Sơn».
Lúc nào Khái Hưng cũng tỏ ra bình thản và vui tính. Ngoài những
cuộc đàm luận văn chương anh còn thích đánh cờ và rất ham nói chuyện và trong bất
cứ chuyện gì anh cũng cài xen vào những câu khôi hài rất dí dỏm và đầy lý thú.
Buổi tối, sau bữa ăn, anh thường kể chuyện cho chúng tôi
nghe. Tài kể chuyện của anh ít người sánh kịp; dù chỉ là những mẫu việc rất
thường anh cũng có thể biến thành một câu chuyện đầy hứng thú, vì óc sáng tạo
tuyệt diệu và giọng nói quyến rũ của anh.
Tối nào anh cũng kể cho nghe một chuyện, hoặc Liêu Trai hoặc
những kỷ niệm làm báo, viết văn và ở tù. Mẩu chuyện của anh mà cả hai chúng tôi
nói mãi tới nay là chuyện anh tập hút thuốc lào trên trại giam Vụ Bản (Hòa Bình): Tuy không biết hút nhưng tôi đã gắng tập hút để có thể nhập bọn và
gây tình thân thiết với các chú lính Mường. Sau đó, đêm nào tôi cũng tụ họp với
họ chung quanh một chiếc điếu cầy «gộc» luân phiên liên hồi hút thuốc lào và kể
chuyện. Tôi đã được nghe nhiều chuyện đường rừng rất ly kỳ, tôi cũng kể nhiều
chuyện lịch sử và thần tiên. Chỉ một tuần sau tất cả đám lính Mường canh giữ trại
đều trở nên «ghiền» nghe chuyện, mỗi khi hơi rảnh rỗi là họ tìm tới
và đòi kể chuyện như đòi nợ».
Ngoài ra, anh K.H. còn là một người rất giàu tình cảm. Mỗi lần
nói chuyện hoặc kể chuyện, không bao giờ anh quên nhắc tới một vài bạn cũ - và
gặp ai anh cũng tùy trường hợp hỏi thăm tin tức về những người anh đã từng quen
biết. Trong thời gian bị giam với chúng tôi, một hôm có cậu con nuôi tới thăm
anh (5). Và đêm hôm đó anh lại có dịp kể cho chúng tôi nghe những mẩu chuyện về
tình bạn giữa anh và văn sĩ Nhất Linh… nhưng không hề đá động gì tới cuộc đời
chính trị và cách mạng của hai người.
Rồi một buổi chiều. Hôm đó đã quá rằm - có lẽ 16, 17, 18,
tháng chạp âm lịch, một ngày cận Tết - vào khoảng 4/5 giờ trong khi chúng tôi sắp
ăn cơm tối, tên Thoại (công an xung phong) tới báo cho Khái Hưng biết rằng có lệnh
mời anh lên «Trung ương» vì cấp Tỉnh không có quyền thẩm vấn và tra
xét xử anh - Hắn giục anh thu xếp đồ đạc để cũng đi ngay với hắn - đi lúc
chiều tối để tránh máy bay địch.
Mười phút sau, anh đã sẵn sàng trong bộ Âu phục với áo
choàng, mũ ‘phớt’ và chiếc cặp da cũ trong tay như khi anh mới bước chân tới trại
Lạc Quần - Bùi ngùi cảm động..anh đi bắt tay từ biệt từng anh em phạm nhân...
Anh Văn rơi lệ. Mọi người buồn xỉu...
- «Chào anh em ở lại!»
Đó là lời cuối cùng của Khái Hưng. Câu đó tới hôm nay vẫn còn
in sâu trong tâm khảm hai chúng tôi. Dù anh không nói thêm lời nào nữa, nhưng
chúng tôi đều nhìn thấy trên vẻ mặt anh một nỗi ưu tư vô hạn... Có lẽ vì cảm thấy
rằng chuyến đi này sẽ kết liễu đời anh...
Từ hôm đó, nhóm chúng tôi - Văn, Lụy, Thành, Xuân - chẳng ai
buồn để ý đến cái Tết sắp tới, mà chỉ suốt ngày nhắc tới kẻ ra đi không
có ngày về …
MAI CHI
(XUÂN 1964)
Chú thích:
1) Anh Lưu ngọc Văn là tác giả hai tập sách hát trẻ em do nhà
Đời Nay xuất bản trong loại «Sách Hồng» vào khoảng 1940 - 1941
2) Bà Khái Hưng là con của cụ Thượng Đính ở làng Lịch Diệp
3) Một trường Trung Học (tư thục) nằm ở góc chợ Hàng Da, Hà Nội.
trường này nổi tiếng tại Bắc Việt hồi tiền chiến; đa số giáo sư là các nhà cách
mạng.
4) Chính tên là Vũ mạnh Xuân; hiện là Đại úy thuộc ngành vận
tải ở Nha Trang.
5) Anh Nguyễn Tuờng Triệu, con đẻ của nhà văn Nguyễn Tường
Tam được trao cho làm con nuôi anh Khái Hưng vì tình bạn cố giao giữa hai nhà
văn.
Khái Hưng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét