Thì ra, sau cái ồn ào, tạp nham và vênh vang giả
tạo, nổi nênh bề ngoài kia, là một tâm hồn Nghiêm Đa Văn - nhà thơ vẫn còn trinh
nguyên. Tôi nhận thấy, anh vẫn giữ nguyên niềm thiêng liêng đền đài với thi ca.
Nếu kể bạn bè thân nhất với Nghiêm Đa Văn, thì tôi chưa có trong danh sách ấy.
Nhưng kỷ niệm về Nghiêm Đa Văn, trong tâm trí tôi lại không mờ nhạt.
Độ ấy, mùa hè 1976, chúng tôi đến ngôi nhà 330 phố Khâm Thiên (Hà Nội)
thăm anh. Cái ngôi nhà mặt phố nhưng lại tụt vào, không nhô chiếm vỉa hè như những
ngôi nhà khác, Nghiêm Đa Văn đang cởi trần trùng trục cúi mình gõ máy chữ. “Các
ông uống nước, tôi dở tay một chút!” anh nói, mặt vẫn cúi gằm vào táp giấy dở
dang trên cỗ máy. Tôi quan sát, không phải một cái máy chữ, mà trên bàn làm việc
của anh có những ba cái máy chữ. Cái máy chữ nào cũng đang gài giấy, đang đánh
dở dang. Cạch! Cạch! Cạch!... Đến mươi phút sau , anh mới thở phào và quay ra
bàn uống nước tào lào phào với chúng tôi. Độ ấy, tôi nhìn cách thức làm việc của
anh mà ghê quá! Thì ra ba cái máy chữ, để viết ba thể loại khác nhau. Cái viết
thơ. Cái viết văn. Cái viết phê bình. Nếu bí bài nào, cứ việc để nguyên trên
máy, quay ra gõ máy khác, bài khác. Hứng lên, lại quay trở lại, gõ tiếp bài
dang dở kia, không bị đứt đoạn cảm xúc.
Xem ra, cách thức làm việc của Nghiêm Đa Văn lúc đó đã quá hiện đại với con mắt
tôi. Khi mà tôi tập tọe viết lách bằng cái bút bi nhòe nhoẹt nét được nét
chăng, thì anh đã viết bằng máy chữ lâu rồi. Cái ghê gớm hơn, là một lúc anh tư
duy được mấy thể loại, với mấy luồng cảm xúc đan chéo. Năng lực sáng tạo của
anh phải dồi dào lắm mới làm việc theo kiểu đó được.
Nghiêm Đa Văn là người có vóc dáng to lớn, lại thuộc dạng ăn sấm nói sét. Bạn
bè gặp Văn thì không thể không vui được. Cái chất tếu táo của Văn, tôi ngỡ chẳng
bao giờ anh phải buồn.
Ấy trước đó, Văn từng làm nghề giáo viên. Anh là thầy giáo dạy cấp III. Học
xong đại học sư phạm, Văn xin vào dạy học tận Đức Thọ, Hà Tĩnh. Cái huyện miền
núi đang mù mịt khói đạn khói bom của cuộc chiến tranh chống Mỹ, đã cuốn hút
anh. Thầy giáo Nghiêm Đa Văn trẻ trai, mặc quần áo màu cỏ úa, cùng học trò lăn
lộn đào hầm, đắp tăng-xê trú ẩn và giảng rất hay những vần thơ Nguyễn Du, Nguyễn
trãi cho các em học trò ngồi ngẩn ngơ nghe. Sau những giờ lên lớp, thầy Văn lại
cùng học trò tăng gia trồng sắn trồng khoai. Đấy là giai đoạn chiến tranh chống
Mỹ vào thời kỳ căng thẳng nhất. Trước cái sống cái chết của bao người dân miền
khói lửa ấy, đã khơi gợi cho Văn bao nỗi niềm khát khao lăn xả vào cuộc sống.
Sau giờ phút giảng bài dưới tiếng máy bay thù gầm xé, đêm đêm, Văn lại ngồi
chong đèn dầu hạt đỗ ghi chép và lặng lẽ làm thơ. Văn viết nhiều. Bài thơ “Đàn
trâu Nghệ” là kết quả của một thời lăn xả vào cuộc sống gian nan, vất vả và mơ
mộng ấy. Đấy là thời đáng yêu của thầy giáo Văn. Có sáng tác mới nào, Văn lại
chép gửi ra cho bạn bè làm báo ngoài Hà Nội. Các bạn ngoài Hà Nội vui mừng chuyền
tay nhau đọc những sáng tác mới của Văn. Người xưa từng nói: văn là người, thời
điểm ấy, chúng tôi thấy câu nói ấy thật chí lý.
Không phải nói quá, mà phải thừa nhận Nghiêm Đa Văn là người tài hoa. Làm thơ,
viết văn, viết phê bình, soạn nhạc cảnh... cái gì anh cũng bắt tay vào làm được.
Tôi còn nhớ ngày ấy, nhà xuất bản Kim Đồng cho ra mắt bộ sách nhiều tập với tên
sách “Những đôi bàn tay khéo léo của cha ông” viết về các bậc tiền bối mở nghề,
dạy nghề làm ăn cho dân chúng, Nghiêm Đa Văn có tham gia trong nhóm biên soạn bộ
sách đó. Một người đồng tác giả, nhà nghiên cứu, nhà giáo Tạ Phong Châu người
cao tuổi hơn Văn, chân tình nói “Phải chịu cái anh này, viết nhanh, viết sâu mà
hóm hỉnh đáo để !” Tôi đem nhận định này, nói lại với Văn. Nghiêm Đa Văn to lớn,
ngang tàng ấy lại lễ phép nói “Ông Châu là thầy tôi đấy. Ông ấy mới là người
thông tuệ và sâu sắc!” Tôi hỏi: “Vậy lấy tài liệu từ đâu, mà anh hiểu và viết
được nhiều nghề thế?” Nghiêm Đa Văn lại vỗ đùi, cười khanh khách “Tớ đi học
mót. Phải học chứ. Đọc thiên kinh vạn quyển. Đống sách lù lù kia là tớ vừa kiếm
được đấy!” Nếu tôi nhớ không nhầm, thì đã có ba bốn nhạc cảnh phát trên Đài mà
anh viết lời và nhạc sỹ Nghiêm Bá Hồng làm nhạc. Có nhạc cảnh từng đi hội diễn
và được giải thưởng. Tôi đem việc này ra chúc mừng anh. Anh cười hề hề “Ồi dào,
trò ăn dỗ trẻ con đấy mà!”.
Phải nói cuốn truyện lịch sử “Nguyễn Đức Cảnh”, Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành,
do anh viết, thu hút được khá đông đảo độc giả tuổi thơ. Mà không chỉ riêng lớp
độc giả tuổi thơ, ngay chúng tôi có đọc cũng phải thán phục. Nhgiêm Đa Văn dàn
dựng những sự kiện trong đời hoạt động của nhà cách mạng ấy sao tài tình và hấp
dẫn thế?! Văn lại bông phèng nói với chúng tôi “Ông Cảnh người trong nhà tớ, tớ
mài ông ấy ra. Ông ấy phù hộ cho tớ đấy!” Nói tếu táo thế thôi, chứ người biên
tập cuốn sách đó, kể rằng anh Nghiêm Đa Văn làm bản thảo sách ấy cẩn thận và
trách nhiệm lắm. Viết đi viết lại dăm lần. Hễ có chi tiết nào chưa chính xác,
anh lại xin đi điều tra tìm hiểu cho đến đầu đến đũa.
Văn đã cho ra đời mấy tập truyện. “Ngã ba đất đỏ”, tập truyện ngắn. “Độ nóng mặt
trời”, truyện vừa. “Tầm cao năm tháng”, “Gió mặn”, tiểu thuyết.
Tập nào của Văn đọc cũng thấy được được. Tôi nhận thấy sức sống ngồn ngộn trong
từng trang sách của anh. Tập sách viết cho thiếu nhi “Sừng rượu thề” là cuốn
sách hay của anh. Năm 1987, tác phẩm này đã được giải thưởng văn học đề tài cho
thiếu nhi của Hội nhà văn Việt Nam trao tặng.
Nghêm Đa Văn còn viết tay trái (theo cách nói của bạn bè) ba, bốn kịch bản phim
truyện. Nào “Nhịp sống hài hòa”, “Chuyện đời không đơn giản”, “Trăng rằm”... Kịch
bản được dựng thành phim, nhiều người đi xem cũng xuýt xoa khen. Như để khẳng định
sự đam mê của mình, Nghiêm Đa Văn bô bô tuyên ngôn với bạn bè “Đây là thời kỳ của
xi-nê-ma. Chỉ có xi-nê-ma mới quảng bá rộng rãi với khán giả!”. Thế rồi thầy
giáo Nghiêm Đa Văn thôi không làm Báo “Người giáo viên nhân dân” nữa, anh chuyển
sang làm phò tá cho ông Giám đốc xưởng phim truyện. Những xung đột gay cấn, những
mối tình éo le, những nụ cười và những dòng nước mắt trong phim trường tưởng chừng
phù hợp lắm với tính cách ồn ào của anh. Nhưng thực ra, đâu có phải vậy. Sau những
tiệc tùng ồn ã của sân khấu, của phim trường, Văn trở về với bạn bè văn thơ vốn
ngơ ngác, yếu đuối và khờ khạo của mình. Trong tâm khảm Nghiêm Đa Văn vẫn thấy
cô đơn và trống vắng. Anh vốn mê thơ, từng lấy thơ làm sự nghiệp của mình, vậy
mà Nghiêm Đa Văn chưa dám in tập thơ riêng nào. Đấy là nỗi niềm đau đáu của
Văn, mà chỉ những bạn bè thân mới hiểu được. Trong một bữa trò chuyện vui bia bọt
với bạn bè, Văn bốc lên tuyên bố không làm thơ nữa, vì đọc thơ của Vũ thấy hay
quá. Vũ, đấy là Lưu Quang Vũ. Vũ qua thời vinh quang rực
rỡ của “Hương cây”, mà đang thời sống
chìm nổi vật vã và viết các bài thơ “Cuốn sách xếp lầm trang”, “Mây
trắng của đời tôi”, “Mặt trời trong nước lạnh”...bạn bè thân truyền tay nhau đọc.
Độ ấy, Văn phục, tôi cũng phục thơ của Vũ lắm.
Thì ra, sau cái ồn ào, tạp nham và vênh vang giả tạo, nổi nênh bề ngoài kia, là
một tâm hồn Nghiêm Đa Văn - nhà thơ vẫn còn trinh nguyên. Tôi nhận thấy, anh vẫn
giữ nguyên niềm thiêng liêng đền đài với thi ca. Và có lẽ, anh vẫn tôn thờ thi
ca, xếp nó vào vị trí, ngôi thứ quá cao sang, nên anh tự khó tính với mình
thôi; chứ tôi nghĩ anh cứ tập hợp bao nhiêu bài thơ đã in rải rác trên các báo,
thì làm gì anh chẳng có tập thơ dày dặn; mà có khi còn chững chạc hơn bao tập
thơ khác trong cái xã hội văn chương nhốn nháo và ồn ã này. Tôi chợt thấy nét
buồn trên khuôn mặt anh, cái khuôn mặt chợt nhìn tưởng luôn nghênh nghênh và
hơn hớn ấy.
Bây giờ nghĩ lại cuộc tay của Văn với Thúy, nữ họa sĩ, người vợ của Nghiêm Đa
Văn là có lý và tất yếu. Ngày ấy, tôi không thể lý giải nổi cái tổ ấm văn nghệ ấy
làm sao mà tan vỡ được. Thỉnh thoảng đến nhà Văn, đôi khi chúng tôi trùng phùng
được cả Văn và Thúy ngồi tiếp. Ngày đó, với chén nước chè nhạt, điếu thuốc lá
quèn, hoặc cao hơn là chén rượu tạp, đã là sang lắm rồi. Ngày đó, Văn đã là nhà
báo, còn Thúy là họa sĩ của báo Tiền Phong. Chúng tôi khi ấy kẻ thì chưa có vợ,
kẻ thì vợ còn đang làm y sĩ hoặc dạy học tận Bắc Ninh, Bắc Giang; hoặc làm kế
tóan, làm thủ kho tận Vĩnh Yên, Việt Trì... Đa phần sống độc thân, đến thăm bạn,
thấy vợ chồng bạn sống điền viên, lại cùng dân báo chí cả, thân mật thết nhau bữa
cơm tuyềnh toàng là thấy hạnh phúc và ấm cúng lắm.
Thế mà Văn và Thúy chia tay nhau thật. Chúng tôi thấy tiếc cho Văn và Thúy quá.
Tôi có may mắn là được tiếp xúc với cụ thân sinh ra Thúy. Chả là, dạo đó tôi
làm phóng viên Báo “Tiểu công nghiệp Thủ công nghiệp”, mà ông lại là người đứng
đầu, Chủ nhiệm phụ trách nghành thủ công tỉnh Hà Nam Ninh. Ông cụ biết
tôi có quan hệ với Văn Thúy, cụ xuýt xoa tiếc cho đôi lứa. Cụ chả trách gì người
con rể của cụ, mà chỉ thương cho nghiệp nghệ sĩ đã bám đuổi hành hạ đời Văn. Kiếp
nghệ sĩ, thôi thì lận đận là phải.
Sau những đổ vỡ mất mát, Nghiêm Đa Văn có dạo bị ma men rượu bia kéo đi. Anh to
lớn, uống chút bia vào là mặt mũi lại đỏ tưng bừng như Trương Phi. Nhưng Trương
Phi - Nghiêm Đa Văn mà tôi biết, thì chẳng hung dữ gì. Nhìn lại sự nghiệp chữ
nghĩa như tự thấy chưa tới đâu. Cái vũ trụ nhỏ bé gia đình lại tan vỡ, Nghiêm
Đa Văn trôi dạt theo mọi con sóng. Đời sống xã hội khi ấy đã âm thầm phân hóa.
Sự giầu nghèo, quyền chức đã len lỏi trong mỗi tế bào con người, tế bào xã hội.
Bẵng đi một dạo, gặp nhau, Nghiêm Đa Văn đưa tôi cái danh thiếp với mấy chức
danh giám đốc, trợ lý, cố vấn kinh tế cho một Công ty, một tập đoàn nào đó. Đấy
là thời tôi thất thểu cũng chẳng kém gì Văn. Gồng gánh vợ con từ Bắc Ninh ra Hà
Nội học hành sinh sống, tôi từng phải cắm mặt kiếm kế sinh nhai, niềm
khao khát chữ nghĩa đành tạm gác. Tâm trạng day dứt, dằn vặt của kẻ mộng mơ, phải
lao vào kiếm tiền sinh sống, nên tôi hiểu Nghiêm Đa Văn và thương Văn nhiều
hơn.
Văn lao vào thương trường. Các phi vụ kinh doanh cứ dền dứ cho anh tưởng béo bở.
Rốt cuộc mấy năm quăng quật lúc Nam lúc Bắc, chẳng cải thiện chút gì đời sống
kinh tế của văn. Bạn bè an ủi anh, không dính vòng lao lý tù tội là may rồi!
Tôi không tiện hỏi ngôi nhà 330 phố Khâm Thiên của Văn đã chuyển quyền sở hữu
cho chủ khác tự bao giờ. Văn một thưở sinh sống đàng hoàng và có phần vương giả
so với chúng tôi, vậy nay không nhà không cửa, không chốn nương thân. Anh lang
bang đó đây, lúc tỉnh Nam tỉnh Bắc, lúc xứ Đông xứ Đoài. Những nụ cười hềnh hệch
thấy giảm bớt, nhưng sự phớt đời như thấp thoáng xuất hiện ngày một nhiều hơn
trên nét mặt anh. Những bạn bè thân của anh, cũng chẳng rõ đầu cua tai nheo đời
sống thường nhật của anh. Văn ít gặp bạn bè. Bạn bè cũng dần không thấy Văn xuất
hiện văn thơ trên báo chí nữa. Họa hoằn gặp Văn túm tụm đi với mấy người nom rất
“ngầu” không phải cánh văn chương báo chí. Văn đang đeo đuổi việc gì? Văn sống
có khá hơn không? văn còn ôm ấp viết gì không? Không rõ. Chỉ rõ là Văn không
gian giảo, không lừa đảo, không ám hại ai. Trong cái sự xô bồ xộc xệch phơi ra
đấy, vẫn nhận thấy cái vẻ trong sáng, tư cách của Văn.
Ấy rồi Văn đổ
bệnh. Ngũ phủ lục tạng của Văn rệu rạo nhanh chóng. Anh bị mắc bệnh thận. Anh
phải chạy thận nhân tạo. Nhà cửa không còn, anh phải thuê nhà trọ trong ngõ xóm
tồi tàn đồng cảnh với những người bệnh thận như anh, ngày ngày lê lết đến bệnh
viện, nhờ máy lọc nước tiểu giúp để sống qua độ nhật.
Có lẽ những ngày tháng sống trôi nổi, làm sức khỏe Văn giảm sút khủng khiếp.
Cái vóc dáng to béo cao lớn của chàng thi sĩ phớt đời kia không còn nữa. Ai gặp
Văn đều choáng váng bất ngờ thấy anh gày guộc, võ vàng, thần sắc nát. Cái gì đến
đã đến với anh.
Bạn bè không cầm được nước mắt trong đám tang Nghiêm Đa Văn. Đấy là buổi chiều
hè nóng bức 1997, nhà tang lễ Phùng Hưng thưa thớt bóng người. Lúc khênh linh cữu
anh ra xe tang chỉ còn lại mấy người nhà và toán bạn chí cốt với Văn. Tôi theo
một người bạn vừa ở xa về, chạy tới kịp đặt thẻ hương trên cỗ quan tài anh.
Chúng tôi vái anh, vái một linh hồn xấu số.
Cái chết, như khép lại tất cả. Ấy vậy, nghĩ về anh tôi lại thấy day dứt rất nhiều.
Ừ, sao anh phải chết sớm thế? Thời trai trẻ, anh là người khỏe mạnh nhất trong
số bạn bè văn chương mà tôi quen biết. Ừ, sinh thời, anh sống nồng nhiệt tới mức
ồn ào với bạn bè, sao phút tiễn biệt anh lại xao xác quá?!
Theo cách nói của một người bạn Văn, giá Văn biết sống cầm chừng một chút, khôn
khéo một chút, thì làm gì đến nỗi. Có thể Văn sẽ là nhà thơ, một cán bộ có quyền
chức kha khá trong giới văn chương báo chí. Giá Văn biết sống dung hòa một tý,
thì gia đình riêng của Văn làm gì tan nát...Không! Tôi lại nghĩ ngược lại.
Nghiêm Đa Văn đã sống hết mình, thật mình, không cơ hội, không thớ lợ, không
gian dối. Có lẽ tại xã hội, tại cuộc sống chăng? Mà chắc tại cuộc sống thật.
Văn là bi kịch của lớp tri thức trẻ giai đoạn đầu cuộc chiến tranh chống Mỹ băm
bổ và lăn xả vào cuộc sống. Cái được và cái mất đã trần trụi đến với Văn. Văn
trả giá và Văn được hưởng. Nói hẹp lại, đấy là bi kịch của một con người. Một
toán bạn bè mê văn chương chữ nghĩ cùng học Sư phạm với anh thưở ấy, người trước
người sau một vài ba khóa; có anh nay là giám đốc, phó giám đốc sở nọ sở kia.
Có anh là nhà giáo ưu tú, ngày ngày vẫn thịnh soạn cắp cặp lên giảng đường. Lại
có anh đường đường là nhà báo nhà văn, sách vở in ra đến mấy chục đầu sách, đài
báo lăng xê ầm ĩ, đi Tây đi Tầu đủ cả. Lại có người từ văn chương chữ nghĩa đã
tiến thân thành cán bộ chính trị cao cấp, luôn đi truyền bá giảng giải giáo lý,
một bước có xe con đưa đón. Cũng không thiếu gì người vẫn đang sống nheo nhóc với
đời thường. Lại có anh vì mê văn chương, đã chết bỏ xác tại chiến trường khi tuổi
còn xanh. Thôi thì mỗi người một cảnh, biết thế nào mà so sánh được thua, hơn
kém?! Lại đổ cho số phận vậy. Mà đã là số phận, thì mọi tính toán được thua có
nghĩa lý gì lắm đâu!...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét