Thầy Chung trúng số
LỜI MỞ ĐẦU - CHUYỆN TRÁI ĐỜI
Năm 1944, đầu tháng 5, trời tối một lát thì có tiếng còi báo động
thổi rang tất cả vùng Sài-Gòn, Chợ-Lớn, Gia-Định. Tuân theo luật phòng-thủ thụ-động,
ai cũng lo đóng cửa tắt đèn đặng xuống hầm.
Tiếng còi dứt rồi thì quang cảnh im-lìm, châu thành vắng hoe
chẳng khác nào bãi sa-mạc.
Cách chẳng bao lâu, mấy đoàn phi-cơ tiếp nhau bay ù-ù trên
không-phận Sài-Gòn thả bom xuống nổ tưng-bừng từ Xóm-Chiếu qua phía chợ Bến-Thành
làm cho nhơn-dân đều kinh hồn khiếp vía.
Đến sáng người ta đồn vang có nhiều nhà tang hoang, có nhiều
người vong mạng. Tôi tò-mò đi xem. Ôi thôi ! Tôi rất đau đớn mà nhận thấy tai-nạn
chiến-tranh tàn khốc của thiên-hạ gây ra cho lương-dân Việt-Nam phải gánh chịu.
Vừa đau lòng, vừa tức trí, tôi thả bước đi cho giải khuây,
không cần tính đi đâu. Tình-cờ vô tới khúc đường Frère Louis, tôi chợt thấy một
dãy phố cũ-kỹ, thấp thỏi, tôi dừng bước và ngó vào. Đây là chỗ tôi ở một thời
gian, cách 34 năm về trước.
Những kỷ-niệm xưa phát hiện rõ-ràng trước mắt tôi. Dãy phố 10
căn tuy cũ song vẫn còn nguyên như xưa. Căn bìa đây là căn nhà của bà Phán Lý ở.
Bà là một sương phụ tuổi lối 50, bà ở với cô Thiên-Hương, con gái của bà chừng
20 tuổi, tuấn-tú dung-nhan, đoan-trang hạnh-kiểm. Bà Phán Lý luôn luôn mặc y-phục
trắng bằng lụa trắng. Bà ít khi ra đường, lại cũng ít tới nhà ai mà chơi. Còn
cô Thiên-Hương thì ngày như đêm cô cứ cặm-cụi thêu khăn lụa và thêu mặt giầy để
gởi cho mấy tiệm bán.
Căn kế đó là căn của thầy Chung ở. Thầy trẻ tuổi, đẹp trai, học
đã có bằng Thành-chung mà chưa có vợ, lại mồ-côi cha mẹ, cũng không có anh em.
Thầy ở đây một mình, thầy làm việc trong một nhà in lớn ở đường Kinh-Lấp, lương
mỗi tháng 25 đồng. Thầy nói thầy ăn cơm tháng tại quán dì hai ở đường hẻm
d’Ormay, không ai biết dì tên chi, thấy dì mập-mạp nên gọi tên dì là «Dì Hai phì
lủ ». Ăn cơm hai bữa, trưa được nghỉ trên lầu, phải trả cho dì mỗi tháng
10 đồng.
Căn kế nữa thì vợ chồng chú thợ Tư ở. Chú làm thợ mộc trong một
nhà thuốc tây ngoài đường Catinat, chú chuyên đóng thùng để gởi thuốc xuống lục
tỉnh.
Tôi ở căn khít với chú thợ Tư đây, ở gần hai năm êm ấm vô
cùng.
Còn 6 căn kế thì thầy giáo, thầy ký, thầy thông thuộc các sở ở,
ai cũng có vợ như tôi, có thầy lại được mụn con nhỏ ban đêm khóc chói-lói.
Hồi đó số lương của mấy thầy chỉ có vài ba chục, mỗi tháng phải
trả tiền phố hết 5 đồng. May nhờ giá sanh-hoạt rẻ, lại cũng nhờ biết tiện-tặn.
không coi hát bóng, không ngồi nhà hàng, nên ai cũng sống được.
Lần bước về nhà, những cảnh trông thấy hôm nay, với những tưởng
nhớ ngày xưa cứ trạo-trực trong trí tôi hoài, làm cho tôi ngẩn-ngơ lơ-lửng.
Tối lại, ngoài sân nước mưa hè rỉ-rả không dứt. Trên án thắp
đèn dầu phộng bủa yến sáng tuy không tỏ, song cũng đủ đọc sách viết văn được.
Ngồi bên bóng đèn leo-lét, tôi hồi tưởng đến mấy người quen
năm xưa cùng tôi chung sống trong dãy phố đường Frère Louis. Tôi nhớ chuyện thầy
Chung với mẹ con bà Phán Lý, tôi bắt tức cười. Tôi cười là vì ba người nầy mường-tượng
như nhơn-vật trong chuyện « La Cure de Misère“ của nhà văn-hào Pháp là
François Coppé.
Tôi liền lấy giấy ra viết chuyện thầy Chung, viết đặng quên
thảm-họa của lương-dân vô tội mà bị sát hại rất đau, rất ức.
CHƯƠNG 1 - KHI BẦN TIỆN
N
ăm ấy cũng như năm nay, lúc hết hạ qua thu, trời mưa dầm-dề,
có bữa mưa luôn cả ngày cả đêm.
Hôm nay 29 tây, lại nhằm thứ 2, ở Sài-Gòn thầy thợ đi làm mà
mặt mày buồn hiu, vì ngày nghỉ còn xa, lại bóp tiền đã nhẹ. Thế mà trời cứ mưa
hoài, mưa xối-xả trọn một buổi chiều, đến 6 giờ, nhà in đóng cửa, thầy thợ ra về,
mà mưa vẫn còn lâm-râm chưa chịu dứt hột.
Thầy Chung trong nhà in theo bạn bước ra lề đường, nơi cánh
tay trái có móc một cây dù cán tre uốn cong vòng, bởi vì thuở ấy mấy thầy chưa
biết dùng áo mưa, mà dầu có thầy nào biết dùng đi nữa, thì bị tiền bạc eo hẹp,
nên không thể mua nổi.
Chung ngó đường Kinh-Lấp[1], thấy mặt
đường ướt mem, ngó lên từng không, thấy bầu trời xám-xám. Chung chau mày dụ-dự
dòm bộ đồ tây trắng, dòm đôi giầy da láng rồi dường như quyết-định nên giương
cây dù lên và mạnh-mẽ xông ra đi.
Vừa quẹo đường d’Ormay, có một đứa nhỏ, quần áo lang-thang,
nách cặp một bó giấy, mặt ngó Chung trân-trân, miệng la vang rân: « Mua giấy dò
số thầy. Năm xu một tờ, rẻ lắm. Số độc-đắc trúng 40 ngàn thầy. »
Chung nhớ hôm tháng trước mình có mua một tấm vé số phước-thiện
để thử thời-vận nhưng không chắc gì trúng mà phải tốn thêm 5 xu, đợi mai kiếm
mượn nhựt-trình mà dò cũng được, nghĩ như vậy nên làm lơ đi luôn, đi riết lại
dì hai Phì-Lủ ăn cơm rồi về sớm mà hong áo quần, nhờ có dù che chắn khỏi ướt,
song cũng ướt âm ỉ.
Qua tới đường Catinat, Chung gặp hai bạn học hồi còn ở nhà
trường, là Điểu với Lợi, đương ngồi uống rượu trước nhà hàng, hai người đều thấy
Chung nhưng làm lơ không chào hỏi, có lẽ tại Điểu bây giờ xưng hiệu là Đằng-Vân,
làm chủ bút nhựt-báo, còn Lợi có sẵn tủ bạc ốc-nốc của cha, là Mái-Chín[2] Sen, không cần biết ai nữa, nên cả hai tự tôn tự mãn
không thèm nhìn bạn cũ, không muốn nhớ tình xưa.
Chung sập dù vào quán dì Hai, trí chán-ngán, lòng nao-nao phiền
thế tình, buồn số phận, rồi lại buồn trong túi còn 8 cắc bạc, đến chiều mai mới
được lãnh lương, mà trời cứ mưa hoài, rồi đây phải về nhà, đi bộ thì chắc ướt
áo quần, ngồi xe thì hao hết vài cắc. Trong quán đã có nhiều người đương ăn
cơm, tiếng cười chen tiếng nói. Chung đi ngay lại cái bàn chỗ thường ngồi mỗi bữa,
gật đầu chào dì Hai đứng dựa tủ tiền, móc cây dù ướt trên vách, rồi kéo ghế phủi
bụi mà ngồi. Con Én dọn bàn, chắc nó mới bị chủ rầy nên sắc mặt buồn hiu, nó dọn-dẹp
lăng-xăng, nhưng Chung biết lệ trong quán, mình phải đợi một người khách nữa đến,
đặng hai người chung một mâm thì mới ăn được.
Chung lấy tay chống càm ngồi suy nghĩ, đương tính thầm coi phải
làm sao mà ra khỏi đời sống lù-mù lũn-đũn, khổ nhục, cô-đơn nầy thì thầy Phước
làm việc trong một hãng rượu sau nhà hát, cũng là người ăn cơm tháng ở đây,
tánh vui, tuổi trọng, bước vô với bộ râu mép chỉ địa và bộ quần áo ka-ki[3] ì-òm, mà sắc mặt vẫn vui tươi, chào chủ quán, nắm tay
Chung, lấy khăn mu-soa ra lau đầu, lau mặt, ngó khách trong quán mà cười, rồi
ngồi trước mặt Chung mà nói: « Bữa nay trời mưa lạnh nên đói bụng. Én, dọn cơm
cho mau em » .
Thầy Chung lơ-lửng, Phước hỏi: « Thầy chờ tôi lâu dữ hả. Xin
lỗi, bị thầy Lũy níu lại nói chuyện cù-nhầy nên xuống trễ. Thầy mạnh hôn ? Trời
mưa uống rượu ít xu cho ấm ? !! »
Chung lắc đầu.
Phước cười hịch hạc nói: « Hồi 5 giờ, tôi xuống kho chiết rượu,
tôi ực một cốc rượu chát ngon, khỏe quá mà bây giờ bụng nghe lành-lạnh. Én,
đong cho qua 5 xu rượu công-xy[4] nghe hôn em. »
Con Én đem rượu cho thầy Phước, rồi bưng mâm cơm để trên bàn,
Chung cầm đũa ăn liền, Phước còn ngâm-nga uống rượu.
Thình-lình Phước hỏi Chung: « Thầy muốn làm giàu hôn ? »
Chung cười mà không đáp.
Ở bàn gần đó có một thầy nói lớn: « Ê mô-xừ Phước, tôi trúng
số độc-đắc 40 ngàn rồi thầy hay chưa? »
Phước gật đầu lia-lịa mà đáp: « Hay, hay rồi. Tôi mừng cho thầy.
Mai phải đãi anh em một tiệc đa » .
Phước tiếp nói với Chung: “Tôi hỏi thiệt, chớ không phải nói
chơi đâu. Nếu thầy muốn làm giàu, thầy đưa tôi chừng 2 ngàn đồng, tôi làm trong
vài năm thầy sẽ có tới 10 ngàn”.
Chung chúm-chím cười, trong túi chỉ có 8 cắc, làm sao mà đưa
2 ngàn đồng cho được. Phước ực hết ly rượu rồi cầm đũa ăn cơm mà nói: “Tức quá!
có dịp làm giàu, nhưng vì mình không có sẵn vốn, nên tối ngày phải chăm-chú cạo
giấy. Thầy nghĩ coi, ông chủ hãng tôi tử-tế lắm. Hồi xế ổng biểu mấy thầy ai có
bạc đóng thế-chưn cho hãng một ngàn, thì ổng cho lấy rượu đem về bán, lấy thứ
nào và lấy bao nhiêu cũng được. Nếu mình có chừng 2 ngàn, một ngàn để thế chưn,
còn một ngàn mình mướn phố dọn tiêm, buôn bán ít năm thấy giàu lớn. Tôi biết rượu
bán sĩ giá rẻ lắm. Mình bán lẻ một lời một. Lại tôi biết mấy hãng rượu bên Tây
hết thảy. Mình lấy đỡ rượu của hãng tôi mà bán ít tháng kiếm vốn, rồi sau mình
mua thẳng bên Tây mà bán, còn lời nhiều hơn nữa. Hồi chiều mấy thầy trong hãng
nghe ông chủ hỏi thì nín khe hết, để một mình mái-chín[5]
Sen xin đóng thế chưn 5 ngàn đặng lấy rượu bán. Mất cơ-hội tốt, thiệt là uổng!”.
Chung cứ cười, không nói chi hết, để cho Phước thong-thả giảng-giải
cách khôn-khéo trong nghề bán rượu. Chung ăn rồi trước, uống nước và lấy dù mà
đi về. Phước níu lại nói: “Khoan, đợi tôi một chút rồi tôi đi với. Để tôi ăn rồi,
hai anh em mình qua chợ Cũ ăn trứng gà chưng, hoặc uống một tách cà-phê cho ấm
rồi sẽ về. Bữa nay tôi bao mà. Tuy cuối tháng, song cũng còn uống cà-phê được
chớ”. Chung lắc đầu đáp: “Cám ơn thầy. Xin để bữa khác. Bữa nay trời ướt át
không vui. Tôi tính đi bộ mà về, đi cho mau tự-nhiên ấm không cần uống cà-phê”.
Chung ra đường, mưa đã dứt hột, Chung máng cây dù vào cánh
tay, lầm-lũi đi về.
Vợ chồng anh thợ Tư đương ngồi chơi trên cái chõng tre trước
hàng ba, thấy thầy Chung bước vô thì anh thợ nói: “Thầy Hai về trễ khỏi bị mưa.
Tôi về hồi chiều mắc mưa loi-ngoi”.
Chung cười mà đáp: “Hồi nãy đi ăn cơm tôi cũng bị mưa vậy chớ,
song mưa lâm-râm, nhờ có dù nên khỏi ướt”. Chung ngó qua nhà bà Phán, thấy một
cánh cửa mở hé thì hỏi: “Bà Phán thường thức khuya, sao bữa nay khép cửa sớm dữ”.
Chị Tư đáp:
- Bà Phán bịnh.
- Bịnh sao đó?
- Bị trời mưa ướt-át nên bà nhức tay nhức chưn. Hồi chiều bà
nhức nên bà rên dữ quá. Cô hai đánh dầu, nãy giờ bà mới nắm êm dược.
- Vậy để tôi qua thăm bà một chút. Bà con chòm-xóm, mình nghe
đau không lẽ làm lơ.
Chung móc cây dù trên cửa rồi bước qua căn bà Phán, đứng
ngoài gõ cửa cộp cộp.
Cô Thiên-Hương bước ra mở bét cánh cửa. Cô thấy Chung thì cô
biến sắc, nhưng trên nét mặt hiền-từ của cô nảy một nụ cười hữu duyên và chói một
cặp mắt thành thiệt. Chung cúi đầu thi lễ và nói: “Chào cô, tôi đi làm mới về,
nghe nói bà Phán ể mình, nên lật đật qua thăm bà”.
Thiên-Hương đáp: “Cám ơn thầy, mời thầy vô”. Cô đứng nép một
bên cho Chung vô. Nhờ ánh đèn tọa-đăng để trên bàn chói sáng, Chung thấy bà
Phán mặc áo quần trắng tươi, đương nằm trên một bộ ván nhỏ có trải nệm gòn lại
có cái mền nỉ đỏ xếp để ngang qua bụng, thì thầy bước lại cúi đầu chào và nói:
“Thưa bà, nghe nói bà bữa nay khó ở, vậy mà đã khỏe hay chưa? Cháu mới về nên
qua thăm bà”.
Bà Phán chỉ gật đầu chớ không cám ơn, dường như bà định phận-sự
của thầy Chung là phải thăm bà, cũng như vợ chồng thợ Tư thăm hồi chiều vậy. Bà
thủng-thẳng đưa tay chỉ cái ghế biểu Chung ngồi và chậm-rãi nói: “Tôi không có
bịnh chi lạ, chỉ có bịnh nhức mỏi thuở nay. Tôi mang chứng bịnh ấy từ ngày tôi
sanh con Thiên-Hương. Hồi ông Phán tôi còn sanh tiền, ổng ép tôi phải đi đốc-tơ,
tiền thầy tiền thuốc mỗi năm tốn năm bảy trăm đồng. Chớ chi tốn tiền mà hết bịnh
thì tôi cũng chịu. Ngặt uống thuốc mười mấy năm trường, uống đủ thầy hết mà bịnh
vẫn trơ-trơ. Lúc sau nầy tôi ghét tôi không thèm uống nữa, tôi mua dầu chổi, dầu
dạo, rồi biểu con Thiên-Hương nó đánh cho tôi cũng xong. Bịnh nhức mỏi nó kỵ trời
ướt át. Hổm nay mưa dầm-dề, phần thì nhà cũ lại thấp, gạch trơn nước ĩ-òm, tại
vậy nên bịnh mới phát lại.
Từ năm ngoái tôi đã tính mướn một căn phố lầu mà ở cho
cao-ráo sạch-sẽ. Con Thiên-Hương nó cứ cãi tôi, nó nói ở đây thanh-tịnh, đi ở
chỗ khác rầy-rà sợ tôi nghỉ không được. Thiên-Hương, con đừng có cãi má nữa.
Sáng mai kiếm mướn một căn phố lầu đi, mà phố lầu cũng phải lựa phố mới chớ đừng
mướn phố cũ, nghe hôn con”.
Thiên-Hương ngồi bên đèn mà thêu mặt giầy, cô nghe dặn thì cô
dạ, cô dạ nhưng cô ngước mắt ngó mẹ rồi ngó Chung, cặp mắt lộ vẻ ưu-phiền lo-ngại,
làm cho Chung hiểu cô bối-rối trong tâm-trí nhiều.
Chung ở gần bà Phán hơn năm nay rồi, thầy dư thấy bà không có
huê-lợi chi hết, chỉ nhờ công-lao của cô Thiên-Hương, mẹ con mới sống được.
Tiền nhà, tiền chợ, cơm gạo, áo quần, thảy đều do cái bàn tay
thêu với cái máy may ngày đêm chuyển động dưới mười ngón tay dịu nhỉu của
Thiên-Hương mà sản-xuất, trong lúc bà Phán nằm êm trên nệm trắng hay dựa ngửa
trên gối bông, xăm-soi móng tay, vỗ-về bàn cẳng, rồi hút thuốc điếu, xức dầu
măn[6]. Nếu phải dọn ở phố lầu, tiền mướn mỗi tháng đến
mấy chục đồng bạc, thì chắc cô Thiên-Hương phải ngồi tối ngày, phải thức sáng
đêm, khòm lưng trõm[7] mắt. Chung nghĩ như vậy thì tội
nghiệp cho cô Thiên-Hương nên nói với bà Phán:
- Thưa bà, ở phố lầu thì cao-ráo sạch-sẽ thiệt, nhưng tiền mướn
mắc quá, bằng năm bằng bảy phố nầy.
- Mắc hay rẻ có nghĩa gì? Ở phố rẻ rồi tốn tiền thuốc, thì
cũng như mắc. Ăn ở cần phải hạp vệ-sinh. Ông Phán tôi hồi sanh-tiền ổng trọng vệ-sinh
lung lắm, bởi vậy ổng ở phố ba bốn chục một tháng, không bao giờ ổng chịu ở phố
rẻ. Ăn uống cũng vậy, ổng không chịu ăn cực, ổng nói phải ăn thức mắc tiền mới
có chất bổ giúp cho mình sống lâu.
Chung muốn đáp tại ông Phán cần giữ vệ-sinh quá nên ông chết
sớm, nhưng sợ cãi rồi mích lòng, bởi vậy thầy chúm-chím cười rồi đứng dậy nói:
“Thưa bà, được thấy bà khỏe-khoắn, nói chuyện vui vẻ thiệt cháu rất mừng. Thôi
cháu xin phép về để bà nghỉ. Cháu kính chào bà và chúc bà khỏe mạnh”.
Bà Phán gật đầu, chớ không chịu cám ơn.
Chung cúi đầu chào bà rồi chào luôn cô Thiên-Hương và lui bước
lại cửa. Cô Thiên-Hương đứng dậy đi theo Chung đặng khép cửa. Chung bước ra
ngoài rồi day lại chào cô Thiên-Hương một lần nữa, hai người nhìn nhau, tuy
không nói một tiếng chi hết, song Thiên-Hương hiểu Chung thương xót tấm thân cực-nhọc
của cô, mà Chung cũng hiểu Thiên-Hương yêu cầu chứng-nhận dùm lòng thảo của cô
tận-tụy cùng mẹ già nhà khó.
Chung trở về nhà mở cửa đốt đèn, rồi thay bộ đồ tây mà hong
cho khô đặng sáng mai bận nữa. Một mình hiu-quạnh, Chung đi bách bộ trong nhà,
óc trống trơn, lòng lơ-lửng. Một lát Chung nghe bên vách ván có tiếng
Thiên-Hương nói: “Để con thoa dầu cho má”. Rồi một lát lại nghe: “Má muốn uống
sữa hay chưa? Con đi nấu nước nóng đặng khuấy sữa cho má uống rồi má ngủ”.
Tiếng Thiên-Hương trong ngần lại ngọt sớt, làm cho Chung cảm
súc bồi-hồi nhứt là mấy tiếng “má” khêu gợi trí Chung nhớ lại khoảng đời thơ-ấu
của mình, khoảng đời đây yêu-thương, mà cũng đầy bi-lụy. Chung khó chịu nên
đóng cửa rồi lên giường mà nằm, mắt nhìn ngọn đèn dầu leo lét trên bàn, trí nhớ
lại những chuyện buồn vui dĩ-vãng. Cha mình hồi trước là một giáo viên dạy trường
Gò-Vấp, mỗi bữa đi dạy thì dắt mình theo đặng cho mình học tập. Lúc mình được
10 tuổi, học lớp 3, thì cha mất. Mẹ mình phải cực khổ, phải ra ngồi giữa chợ
bán bánh, bán trái để kiếm tiền nuôi sống mẹ con.
Mẹ mình thường khuyên: “Con ráng học cho giỏi đặng chừng má
già con làm mà nuôi má, nghe hôn con”. Mình ráng học, học đặng nuôi mẹ. Mình
thi đậu vào trường Chasseloup, mẹ mừng rỡ vô cùng, để tất cả vào mình các hạnh-phước
tương-lai. Rủi thay! Còn không mấy tháng nữa mình thi bằng thành-chung, thì mẹ
lại nhuốm bịnh mà mất, không đợi mình làm nuôi. Mất chí-hướng, mình khủng-hoảng
tinh-thần. Nhờ có vài ông bạn thân của cha an-ủi giúp dùm nên mình mới học được
thành công. Mà thành công để làm chi đây? Cha mẹ đâu mà nuôi? Chớ chi mẹ còn,
ví dầu với số lương 25 đồng mình phải cực khổ như cô Thiên-Hương, mình cũng vui
với sự tận-tụy cùng mẹ già nhà khó. Bây giờ mình không được hưởng cái vui thảo-thuận,
mà với số-phận nghèo-hèn mình cũng không nếm được chút mùi cao-quí, thế thì đời
mình vô mục-đích, sự sống của mình là để nuôi dì Hai quán cơm, nuôi bà chủ phố,
nuôi tiệm may áo, nuôi thợ đóng giầy. À! … Vậy mà người ta nói loài người khôn
hơn cả muôn loài chớ! Khôn đặng cực-khổ, khôn đặng làm mọi!
Bên vách, Thiên-Hương nói : “Sáng mai con mua hột gà để mỗi bữa
má ăn cho bổ”. Tiếng nói trong ngần và ngọt xớt ấy làm rung-động tâm-hồn Chung
nữa. Chung suy nghĩ : cô Thiên-Hương còn cực-khổ hơn mình nhiều mà cô không phiền,
cô vui-vẻ như thường. Mình buồn nỗi gì? Hay là mình cậy mai xin cưới cô
Thiên-Hương rồi mình hiệp với cô lo nuôi bà Phán? Cô Thiên-Hương đẹp-đẽ, dễ
thương được lắm. Ngặt bà Phán nghèo mà bà ưa lên giọng cao-kỳ.
Có bà mẹ vợ như vậy chịu sao nổi. Thôi thôi, ở một mình cho
yên thân.
Nghèo mà cưới vợ làm chi? Kéo một người con gái vào vòng cực-khổ
với mình, làm như thế không phải là quảng-đại. Để mình lo lập thân đã, lo cho
có tiền bạc nhiều, lo leo lên địa-vị cao sang rồi sẽ hay.
Không nên cưới vợ gấp. Được giàu sang rồi thì thiếu gì vợ
khôn-ngoan, đức-hạnh, vui-vẻ, diễm-kiều. Chung tuổi còn trẻ, trí còn mạnh, tự
nhiên lo ít vui nhiều, bở vậy suy nghĩ một hồi rồi buồn ngủ, tắt đèn bỏ mùng mà
ngủ liền.
CHƯƠNG 2 - LÚC HIỂN-VINH
C
hung ngủ một giấc đến sáng bét mới thức dậy. Nhớ bữa nay là
ngày lãnh lương, lại thấy mặt trời mọc chói nắng trên ngọn cây sáng lòa, thì
trong lòng vui vui. Chung rửa mặt, chải đầu, rờ thử bộ đồ tây hong hồi hôm thì
tay áo ống quần đều khô, thầy mới bận vô, rồi khóa cửa xách dù mà đi làm việc,
đi bộ như mỗi bữa, mặc dầu trong túi còn tới 8 cắc bạc.
Và cũng như mỗi bữa, Chung ghé tiệm cà-phê kêu một tô phở tiếu
3 xu, một dĩa thịt bò kho 2 xu, một tách cà-phê lớn 2 xu với một xu bánh mì. Ngồi
đợi đồ ăn, Chung nghe mấy thầy ăn chung quanh bàn-luận việc xổ số hôm qua, bèn
móc bóp mở ra coi, thì thấy tấm giấy số của mình mua vẫn còn trong bóp, xếp nhỏ
để chung một ngăn với giấy thuế thân, tính để vô nhà in rồi sẽ kiếm nhựt-trình
mà dò, vái thầm cho trúng chừng 100 đặng sắm quần áo thêm mà mặc.
Lót lòng xong rồi, bụng no cành, trí thơ-thới, Chung mới chống
dù đếm bước đi xuống nhà in. Chung bước vô cửa thì đồng hồ chỉ 7 giờ rưỡi, mấy
thầy đã tới trước rồi, ông chủ ở trong phòng riêng rồi nữa. Chung cất dù và kéo
ghế ngồi theo bàn viết của mình. Thầy Đề ngồi đối-diện với Chung, người trộng
tuổi, tóc bạc hoa râm, thầy kêu mà hỏi :
- Thầy Chung, hôm trước tôi thấy thầy có mua giấy số, vậy mà
thầy có trúng được số nào hay không?
- Thưa chưa dò.
- Thầy tỉnh quá! Hồi chiều hôm qua tôi mua giấy dò số của sắp
nhỏ bán, đem về dò liền. Tôi mua tới 5 số mà dò trật hết. Tôi sợ giấy dò số của
sắp nhỏ bán đó họ in không đúng. Sớm mai nầy tôi đi sớm đặng mua nhựt-trình mà
dò lại. Té ra trật thiệt. 5 số mà không dính được số nào hết. Xui-xẻo quá! Nếu
không cho trúng độc-đắc, thì cho trúng vớt chừng 5 ngàn hay một ngàn cũng còn dễ
chịu … Đâu, thầy lấy số thầy mà dò thử coi. Tôi có nhựt trình đây.
Chung đứng dậy mở bóp lấy giấy số ra, rồi đi vòng lại bàn thầy
Đề, và đi và đọc số trong giấy : 35.862.
Thầy Đề la lớn : “Hử? 35 ngàn mấy? Đọc lại thử coi?”
Chung đọc lại : “35.862”
Thầy Đề la nữa : “Trời ơi! Thầy trúng số độc-đắc rồi! Đưa đây
coi”.
Chung biến sắc, run tay, cầm chặt tấm giấy số mà để trên tờ
nhựt-trình đặng dò. Thiệt quả Chung trúng số độc đắc 40.000 đồng.
Thầy Đề nói lớn: “Anh em ơi! Thiệt thầy Chung trúng rồi! Có
phước lớn quá!”
Mấy thầy trong nhà in đều xúm lại coi. Ông chủ cũng xô cửa
phòng bước ra. Chung đứng chần-ngần, mặt tái xanh, tay run-rẩy.
Ông chủ lấy tấm giấy số đọ với số trong nhựt trình, ông gật đầu
và nói: “Phải rồi! Tôi sẵn có tờ nhựt-trình tây trong phòng tôi đây. M. Chung
theo tôi vô dò nữa cho chắc ý”. Ông chủ đi trước, mấy thầy kéo Chung đi theo.
Rõ-ràng nhựt trình tây cũng ghi số độc-đắc là 35.862, y như số của Chung.
Ông chủ bắt tay mừng cho Chung, kéo ghế biểu Chung ngồi, rồi
ông nói: “Trúng số độc-đắc tới 40 ngàn, không phải lãnh liền số bạc lớn ấy được.
Mà thầy để giấy số trong túi, tôi sợ có chỗ bất tiện. Vậy thầy để tôi cất dùm
trong tủ sắt cho thầy, rồi bữa nào lãnh, tôi sẽ dắt thầy đi lãnh.
“Tôi làm biên-lai nhận lãnh giữ dùm giấy số, còn tôi đưa cho
thầy cất biên-lai mà làm tin. Cả nhà in ai cũng hay thầy trúng số độc-đắc, tôi
không đoạt được đâu mà ngại. Tôi làm như vậy là có ý muốn giữ gìn cho thầy là
em út trong nhà đó thôi. Thầy chịu hôn?”
Chung chịu liền và cám ơn. Ông chủ mở tủ sắt mà cất giấy số,
làm biên-lai giao cho Chung rồi nói tiếp: “Thầy gặp phước lớn tôi muốn cho thầy
hưởng liền bây giờ. Để tôi biểu người giữ tiền phát lương cho thầy và cho mượn
trước 500 đồng, bữa nào lãnh giấy số rồi sẽ trả lại. Thầy lấy tiền rồi về đi
chơi. Thầy thong-thả muốn nghỉ chơi tới chừng nào cũng được. Thầy chơi chừng
nào đã thèm muốn làm việc, thì trở lại đây. Còn cách dùng số tiền 40 ngàn, nếu
thầy có điều chi bối-rối, thì cứ hỏi tôi. Tôi sẵn lòng chỉ dẫn cho”.
Chung cám ơn ông chủ rồi đi theo thầy giữ tiền ra ngoài mà
lãnh bạc. Thầy thợ trong nhà in vây theo Chung mà mừng. Phóng-sự viên các tờ
báo hay tin cũng đến mà chụp hình và tra-cứu tánh-tình lai-lịch của Chung.
Chung lấy làm khó chịu, nên lãnh lương và mượn 500 đồng bạc rồi thì xách dù nhảy
lên xe kéo mà đi, hứa chừng lãnh bạc rồi sẽ đãi anh em trong sở một tiệc.
Chung ngồi cho xe kéo chạy, nhưng không biết đi đâu. Chú
xa-phu cũng bất nhơn, chú không thèm hỏi trước hỏi sau, cứ cong lưng chạy riết
xuống mé sông, rồi quanh qua phía tay mặt, bộ muốn qua Khánh-Hội hoặc vô Ông
Lãnh. Chung thấy sông rộng, thấy khói tàu thì chưng-hửng, bèn kêu hỏi: “Ê! Chú
kéo tôi đi đâu đây?” Xa-phu ngừng xe day lại mà hỏi: “Vậy chớ thầy muốn đi
đâu?” Chung ngẫm nghĩ thiệt cũng không biết đi đâu mà nói. Thầy nhớ thầy mới
lãnh tiền, vậy trước hết phải lo trả tiền cơm cho dì Hai Phì-Lũ nên biểu xa-phu
trở lên đường d’Ormay.
Dì Hai Phì-Lũ đi chợ mới về, đương ngồi tính tiền, dì thấy
Chung bước vô thì chưng-hửng hỏi: “Ủa! Giờ nầy sao thầy bỏ sở mà đi chơi?”
Chung cười mà đáp:
- Đi trả tiền cơm.
- Gấp dữ hôn! Trưa hay chiều lại ăn cơm rồi sẽ trả cũng được
mà. Thuở nay lại sao?
Chung móc bóp lấy đưa 10 đồng bạc và nói: “Mới lãnh lương nên
đem trả phứt cho dì … Luôn dịp tôi cho dì hay, tôi không ăn cơm nữa”.
Dì Hai chau mày ngó Chung mà hỏi:
- Thế khí có chuyện gì làm cho thầy phiền hay sao?
- Không, không … Tôi không có phiền việc chi hết. Tôi ăn ở
đây hơn một năm nay, dì tử tế, tôi mang ơn dì lắm chớ. Tôi không ăn cơm nữa, là
vì tôi thôi làm việc, tôi nghỉ.
- Hứ! Sao lại thôi? Thầy tính về Lục-tỉnh hay sao?
- Có lẽ … Không biết chừng … Hoặc tôi ở Sài-Gòn, hoặc đi chỗ
khác chưa nhứt định.
- Như thôi làm nhà in thì kiếm sở khác mà làm.
- Để thủng-thẳng coi …
Chung thấy con Én ở trong đi ra, bèn lấy một đồng bạc mà cho
nó, rồi từ-giã dì Hai mà đi kẻo xe chờ. Dì Hai đi theo và kêu và nói nho nhỏ: “Thầy
Hai, dầu thầy mất sở làm, thầy cũng cứ lại đây ăn cơm. Chừng nào kiếm được chỗ
làm khác rồi sẽ trả tiền cơm cũng được, thầy đừng ngại chi hết. Tôi không phải
như người ta đâu”.
Lòng tử-tế của dì Hai làm Chung cảm-động, cảm-động nhiều.
Chung đứng ngó dì Hai rồi thủng-thẳng đáp: “Ở đời khi biến mới thấy ai tốt xấu.
Cháu cám ơn dì lung lắm. Mấy lời dì nói đó, chẳng bao giờ cháu quên. Nhưng cháu
thôi làm không phải tại chủ đuổi, thiệt tại cháu có việc riêng, có lẽ sau rồi
dì sẽ biết. Cháu xin chào dì. Có lẽ lâu lâu cháu lại thăm dì”.
Chung cuối đầu từ-giã rồi bước lên xe kéo, biểu chạy vô đường
Lagrandière, lối mả Thánh Gẩm. Chung tính về nhà, về mà tránh những lời chúc mừng
hay phỏng-vấn, lại cũng về nằm suy nghĩ tương-lai, vì tình cờ mà có tới 40 ngàn
đồng, tài sản ấy nhiều quá, làm cho Chung cứ phập-phồng hồi-hộp. Chẳng dè xe ngừng,
Chung leo xuống trả tiền xe, rồi day lại thì thấy người bạn học là M. Điểu tự Đằng-Vân,
chủ bút nhựt báo, ở trong hàng ba căn nhà mình bươn-bả đi ra, rồi ôm cứng Chung
và cười và nói:
“Bạn chí thân của tôi! Tôi hay bạn trúng số độc-đắc tôi mừng
quá. Tôi lật-đật lại nhà in mà mừng bạn thì người ta nói bạn đã về rồi và chỉ
nhà cho tôi biết. Tôi bắt xe chạy lên đây hỏi thăm, thì bạn chưa về. Nãy giờ
tôi ở chờ bạn đây. Bạn có phước thiệt lớn. Tôi mừng lắm”.
Chung đứng nghe Đằng-Vân nói dứt rồi Chung đáp: “Tôi rất cám
ơn bạn. Anh em phân cách nhau mấy năm, bạn được cao quí mà bạn không quên tình
đồng song. Tôi mời bạn vào nhà, vào cho biết bề ăn ở của một thầy ký lương mỗi
tháng 25 đồng”.
Đằng-Vân theo Chung đi vô cửa. Vì Đằng-Vân hồi nãy lại kiếm,
đã có nói Chung mới trúng số 40 ngàn, bởi vậy đàn-bà ở dãy phố nầy áp lại hỏi
thăm mà mừng, vợ thợ Tư, bà chủ phố đều có mặt.
Cô Thiên-Hương cũng lấp-ló trong cửa mà dòm, duy bà Phán nằm
êm bà không cho thấy. Chung vui-vẻ cám ơn mấy người chúc mừng, rồi mở cửa mời Đằng-Vân
vô nhà.
Chung nói với khách:
- Bạn thấy nhà của tôi là vậy đó. Một cái giường để ngủ, một
cái bàn với hai cái ghế để ngồi viết hay đọc sách, một cái đèn dầu, một bầu nước
lạnh, một cái ly với một cái rương đựng quần áo, rương sắm hồi đi học.
- Đó là bề ăn ở của bực hiền-nhơn quân-tử. Thầy Nha-Uyên hồi
xưa với một gói cơm và một bầu nước mà thầy cũng vui, bởi vậy người ta mới tôn
thầy lên bực Á-thánh. Bạn vui sống trong căn nhà như vầy, bởi vậy ngày nay mới
bạn mới trúng số độc đắc. Thôi, tôi biết nhà bạn rồi, bây giờ tôi mời bạn đi ra
nhà hàng uống rượu và ăn cơm luôn với tôi. Vì tình anh em, tôi nhứt định đãi bạn
mà mừng cho bạn được trúng số. Đi, đi với tôi, không được từ chối.
- Xin lỗi tôi mệt quá …
- Không được. Phải đi với tôi. Tôi có cách làm cho bạn hết mệt.
Trúng số độc-đắc phải vui chơi một bữa chớ. Nằm một mình trong nhà là nghĩa gì?
Tôi đãi bạn mà. Có sao đâu mà ái-ngại.
Đằng-Vân ép mãi mời riết, Chung không thể từ được, lại cũng
muốn dọ thử nhơn-tình, nên lấy nón đội lên mà đi với bạn, trên tay còn mắc cây
dù cán tre là bạn đồng ưu cộng lạc trót mấy năm trời, mặc dầu bữa nay ánh nắng
chói lòa, nhưng Chung cũng như Tống-Hoàng hồi xưa, không quên “bần tiện chi
giao” đem theo cho biết nhà hàng, cho thấy yến tiệc. Lúc Chung khóa cửa, Đằng-Vân
hỏi:
- Trời nắng mà bạn đem dù theo làm chi?
- Trời đất không chừng. Sợ bây giờ nắng rồi lúc nữa mưa.
- Ô! Mưa thì có xe kéo lo gì. Ở Sài-Gòn đi chơi mà xách dù
theo lòn-tòn, coi không được.
- Sao mà coi không được?
- Thành nhà quê đi chợ chớ sao.
- Ngoài quê trong khôn mới quí. Để tôi làm nhà quê đi chợ
chơi.
Cô Thiên-Hương đứng dựa cửa cô nghe lời qua tiếng lại như vậy
thì cô cười, còn mấy chị đàn bà dụm nhàu xầm-xì trong lúc Chung với Đằng-Vân ra
đường kêu xe mà đi.
“Phú quí đa nhơn hội, bần cùng thanh thích ly”.
Câu nầy không phải là lời dạy của bực thánh hay bực hiền, có
lẽ là lời than của một nhà nho chán ngán, phiền nhơn tình buồn thế tục. Nhưng
mà câu nầy hạp với tình cảnh của thầy Chung trúng số. Lúc thầy nghèo, lương mỗi
tháng 25 đồng, ở phố hèn, ăn cơm quán, thì không ai thèm đoái tưởng, bạn thân
cũng ngó lơ. Nay thầy giàu, ai cũng thân, ai cũng trọng.
Đằng-Vân đem Chung ra nhà hàng lớn ở đường Catinat tính đãi
cho long-trọng, đi ngang nhà Lợi ghé cho Lợi hay và bắt Lợi đi theo. Từ tiệc rượu
khai-vị cho đến bữa cơm ban trưa, Điểu và Lợi đấu nhau làm cho Chung vui luôn,
nhắc lại những chuyện thơ ngây trong trường, rồi bày cách ăn ở sung-sướng cao
sang cho Chung hiểu.
Tuy Điểu mời, song ăn uống rồi Lợi lại trả tiền. Điểu làm bộ
dành, làm mặt giận cũng móc bóp ra, song chậm-chạp để cho Lợi trả tiền rồi rùn
vai mà nói: “Thôi mầy dành tiệc nầy thì tao đãi cách khác”.
Điểu và Lợi không muốn rời Chung, nên ra khỏi nhà hàng thì kềm
mời Chung lại một khách lầu ba từng ở đường Kinh-Lấp[1], mướn một căn phòng thượng
hạng rồi sai bồi đi mời cô Bảy Bồn-kèn, là một ca-nhi tiếng du-dương, sắc kiều-diễm,
đặng ca nam, lý huế cho Chung giải khuây.
Thuở nay ăn uống cực khổ, chưa nếm thú vui, chưa gần sắc đẹp,
Chung chẳng khỏi chóa mắt phỉ lòng, lại hơi rượu ngon phừng-phừng, nụ cười mơn
khêu-ghẹo, làm cho Chung mê-mẩn, quên cách làm lơ của bạn hôm qua, mà cũng quên
phần nghèo cực của mình từ nhỏ. Chung xụi lơ, để hai bạn thân yêu đẩy xô bưng-bợ
sắp-đặt dùm đời mới cho mình.
Hai bạn hay Chung đã có sẵn 500 đồng bạc trong túi, thì chiều
mát dắt Chung đi đặt may áo quần, mua giầy nón, rồi mời vô Chợ-Lớn ăn cơm.
Hai bạn khuyên Chung nên trả phứt căn phố xấu-xa cũ thấp đó
đi, mướn phòng nơi khách-lầu mà ở đỡ ít bữa, đặng mướn hoặc mua một tòa nhà vui
tươi mát-mẻ rồi sắm bàn, tủ ghế giường dọn mà ở cho khỏe-khoắn tấm thân được phật
trời phò-hộ nên giúp cho sung sướng.
Chung nhận lời khuyên ấy không phải là lời xúi bậy, thầm nghĩ
lúc nghèo nàn thì ráng chịu cực đã đành, nay có tiền nhiều thì dại gì mà bo bo
không dám ăn xài, phải vui chơi cho sung-sướng tấm thân, phải lên mặt cho họ hết
khinh rẻ. Của trời cho thì ta phải hưởng, hưởng cho ngỏa-nguê mà trừ cái cực hồi
bần hàn, dầu xài cách nào cũng không hết 40 ngàn đồng bạc đâu mà sợ.
Đêm ấy Chung theo hai bạn ở khách-lầu mà giỡn hoa thưởng nguyệt,
nhậu rượu, nghe ca, vui say cho đến sáng, rồi Chung cậy Lợi đi kiếm nhà mua dùm
và cậy Điểu đi đặt giường, đặt tủ. Chung lấy chìa khóa mà giữ cái phòng thượng-hạng
mình đã mướn, rồi từ giã hai bạn đặng về lo trả phố dọn đồ.
Chung ở trên xe kéo bước xuống, biểu xa-phu ở chờ, rồi xách
cây dù cán tre xăm-xăm đi vô phố. Chung thấy bà chủ với chị Tư đang đứng nói
chuyện thì thầy giở nón chào. Chị Tư nói: “Thầy Hai trúng số, chắc thầy bỏ bà
con xóm nầy mà đi ở chỗ khác. Tánh thầy vui-vẻ bãi buôi ở đây bà con lớn nhỏ ai
cũng mến. Thầy đi thì bà con buồn lắm”.
Mấy lời ấy làm cho Chung động lòng. Thầy đứng khựng lại suy
nghĩ rồi đáp: “Phải. Có lẽ tôi sẽ mua nhà mà ở cho rộng-rãi. Nhưng tôi cũng mến
bà con xóm nầy, là những người biết tôi trong lúc tôi nghèo hèn, bởi vậy tôi
không nỡ bỏ đứt. Vậy tôi xin bà chủ phố vui lòng để tôi mướn luôn căn phố, đặng
lâu lâu tôi về chơi với bà con”.
Bà chủ phố nói: “Thầy Hai muốn thì cứ ở đó. Tôi có cớ chi đâu
mà đuổi thầy được”.
Chung mở bóp lấy 5 đồng bạc mà trả tiền phố tháng vừa qua. Thầy
lại đưa thêm 60 nữa mà nói: “Đây, tôi xin phép trả trước cho bà một năm tiền phố
nữa. Tôi trả trước là vì tôi sợ cuối tháng mắc việc, hoặc đi khỏi, để trễ tiền
phố mích lòng bà”.
Bà chủ phố đáp: “Có sao đâu mà thầy ngại. Tháng nầy về không
được thì tháng sau thầy về thầy trả, mất mát đâu mà sợ”. Tuy là nói như vậy
song bà cũng lấy bạc mà về, nói để rồi biểu trẻ ở cầm biên lai lại.
Chung mở cửa vô nhà. Thầy đứng ngắm-nghía một hồi, rôi mở
rương lấy một bộ áo quần còn tốt hơn hết thảy mà mặc. Thầy mở mùng xếp để vô
rương với mền gối cùng áo quần cũ. Thầy cuốn chiếc chiếu lại rồi bưng cái rương
để lên giường. Thầy chồng mấy cuốn sách có thứ tự trên bàn và để đèn, ly với bầu[2]
nước dựa bên đó. Còn cây dù, Chung nghĩ không cần đem theo nữa, nên móc dựa
vách tính để lại, móc rồi đứng ngó mà cười.
Đứa ở của bà chủ phố đem biên lai lại. Chung lấy bỏ vô bóp rồi
đội nón bước ra ngoài mà khóa cửa. Chung thấy chị Tư đương ngồi trước nhà thì
bước vô nói: “Chị thợ, tôi gởi nhà cho anh chị coi chừng dùm. Tôi gởi luôn chìa
khóa lại cho chị, sợ đem theo rồi mất. Thôi tôi chúc anh chị mạnh giỏi. Chừng
anh thợ về, xin chị nói dùm tôi có lời thăm anh”.
Chị thợ lãnh chìa khóa và đáp: “Tôi cũng chúc thầy Hai mạnh
giỏi. Hễ ít bữa về chơi một lần nghe hôn thầy Hai”.
Chung gật đầu rồi bước qua căn nhà bà Phán.
Thầy thấy cửa đóng thầy trở lại nói với chị thợ Tư:
- Tôi muốn từ giã bà Phán, nhưng cửa đóng chắc bà nghỉ.
- Không. Bà Phán với cô Hai ở phía sau. Thầy kêu cửa thì cô
Hai ra chớ gì.
- Thôi, không nên làm rộn cô Hai. Tôi cậy chị nói dùm tôi
kính lời thăm bà Phán với cô Hai.
- Thầy ngại, chớ thầy ghé thì cô Hai vui lắm.
- Sao mà vui?
Chị thợ bước lại gần nói nhỏ: “Tôi coi ý cô Hai có tình với
thầy lắm, có tình lâu rồi, chớ không phải mới bây giờ. Thầy không để ý hay sao?
Cô được lắm đa thầy Hai”.
Chung chúm-chím cười và đáp: “Bà Phán khó quá chị ơi! Bà cao
kỳ tôi thấy bà tôi sợ lắm. Thiệt tôi không dám”. Chung nói dứt lời rồi từ giã
ra xe mà đi, bên tai còn văng-vẳng mấy tiếng “Cô Hai có tình với thầy lắm” của
chị thợ Tư thỏ-thẻ mới nói đó.
Từ đây Chung gởi thân vào cảnh đời mới. Không cần phải nói
dài, các bạn đọc đã tưởng tượng mà biết trước cảnh đời ấy rồi. Ấy là cảnh đời rực-rỡ,
xa-xỉ của một thanh-niên 25 tuổi, không cha mẹ, không vợ con, thình-lình được
hưởng một số bạc 4 muôn, hăng-hái vui chơi cho sung-sướng, lại có sẵn hai người
bạn lịch-lãm nghề chơi, xu-hướng tận tâm xô đẩy bày biểu, xô đẩy vào đường
xa-hoa, bày biểu gây cuộc dâm-dật.
Nhờ sức xô-đẩy với trí bày-biểu đó mà chưa đầy một tháng thì
chúng ta thấy Chung ở trong một tòa nhà bánh ếch[3] tại đường Bạc-hà, chung
quanh có cây sum-sê phía trước có sân rộng-rãi, trong nhà tủ bàn hực-hỡ, bồi bếp
đông đầy, lại có chiếc xe my-lo[4] bóng ngời với một cặp ngựa lai cao lớn.
Ngày như đêm khách vào ra nườm-nượp, có nam-thanh, có nữ-tú,
mà phần nhiều là những cô Đào, cô Lý, cô Cẩm, cô Nhung, cô nào dung-nhan cũng
yêu-kiều, y-phục cũng mỹ-lệ.
Trót hơn 10 tháng, Chung say-sưa mê-mẩn với cảnh đời hoan-lạc
ấy, tai nghe những chuyện vui, mắt thấy những sắc đẹp chung quanh, ai cũng ngợi
khen lòng anh đầy nhơn-nghĩa, trí anh thông-minh, chẳng hề có một tiếng chê-bai
hay can-gián.
Một buổi chiều, Đằng-Vân ghé rủ Chung lấy xe đi vòng Bà Chiểu
hứng mát. Chung vui vẻ thay đồ đi liền. Xe vô tới ngã ba Cây Quéo, Đằng-Vân lại
xúi đi thẳng vô Gò-Vấp chơi, chẳng dè đó là chỗ chôn nhao rún của bạn, Chung gật
đầu chịu và biểu người đánh xe đi vô Gò-Vấp.
Quá 5 giờ rồi, xe đi ngang qua trường học Gò-Vấp thì đã tan học,
học trò về hết, nhà trường đóng cửa vắng hoe. Nhưng mà thấy lại chỗ mình học tập
từ lúc thơ-ngây, trong trí Chung chẳng khỏi nhớ tới những việc quá vãng, rồi
tâm-hồn lửng-lơ, dường như người say mới tỉnh hoặc người ngủ mới thức. Tới chợ,
Đằng-Vân biểu xe ngừng đặng vô tiệm uống la-ve giải khát.
Hai anh em vừa mới ngồi thì thầy giáo Thanh đứng trong tiệm
day lại nhìn Chung. Thầy giáo Thanh là bạn thiết của ông thân-sanh Chung hồi
trước và lúc mẹ Chung mất, thầy cũng lo việc an-táng, rồi giúp-đỡ cho Chung học
thành-công.
Thầy giáo Thanh thủng-thẳng bước ra vỗ vai Chung mà hỏi:
“Chung, nghe năm ngoái cháu trúng số 40 ngàn phải hôn?”
Chung ngó lên thấy người ơn thì lật-đật đứng dậy xá và đáp:
- Dạ, bẩm phải. Bẩm thầy mạnh giỏi?
- Mạnh luôn. Cám ơn. Bây giờ cháu làm việc gì ở đâu?
- Dạ … Cháu ở Sài-Gòn.
- Cháu vô thăm mả anh giáo chị giáo phải hôn?
- Dạ …
- Cháu trúng số thì xuất ít trăm làm mả phứt cho rồi. Hôm trước
thầy đi ngang thầy thấy cỏ rác um-sùm, coi buồn quá.
- Dạ, cháu đương tính làm. Mời thầy uống rượu.
- Cám ơn, để thầy về kẻo sắp nhỏ chờ ăn cơm. Cháu có rảnh ghé
nhà thầy chơi.
- Dạ, mai thứ năm thầy nghỉ, cháu sẽ vô thăm thầy thím.
Thầy giáo Thanh đi rồi, Đằng-Vân liếc thấy Chung buồn hiu.
Chung biểu bạn uống riết rồi về, vì trong mình nghe khó chịu. Xe về khỏi Đất-Hộ,
Đằng-Vân rủ Chung đi thẳng vô cột cờ Thủ-ngữ ăn cơm. Chung cáo bịnh nên đưa bạn
xuống đó rồi ngồi xe về một mình.
Về tới nhà thì đã đỏ đèn. Chung kêu bồi dạy đóng hết cửa trước
lại, đóng luôn cửa rào nữa, lại dặn ai có tới hỏi thì nói mình đi ăn cơm ngoài
nhà hàng rồi đi coi hát. Chung thay đồ mát mà mặc, biểu người bếp nấu cho một
tô cháo trắng rồi nằm trên ghế xích-đu mà suy nghĩ.
Sự tình-cờ gặp-gỡ thầy giáo Thanh, nhứt là những lời hỏi hoặc
hữu tâm, hoặc vô ý của Thầy làm rúng động lòng Chung, làm cho Chung ngó thấy lại
tất cả quá-vãng buồn khổ; cha chết, trong nhà không tiền, mẹ phải mua đầu trên
bán đầu dưới mà nuôi mình ăn học; học chưa rồi mẹ lại chết nữa, may nhờ có mấy
bạn thân của cha giúp sức đỡ đầu nên mình mới lập thân được. Đã được giàu sang
hơn 10 tháng rồi, mình cứ lo ăn chơi, không nhớ tới mồ-mả cha mẹ, không nhớ tới
ơn xưa nghĩa cũ.
Thói xa mê hoan-lạc của mình mỗi ngày làm cho mình hao-tốn
không biết bao nhiêu, mà sự hao-tốn ấy chỉ làm cho bạn xa-hoa dâm-dật hưởng nhờ,
chớ không giúp ích cho mình chút nào, mà cũng không giúp ích cho hạng cơ-hàn
cùng-khổ. Bạn xa-hoa dâm-dật ấy ăn của mình, mà có lẽ họ còn cười mình ngu, chê
mình dại.
Chung ăn cháo rồi một mình lấy sổ gởi bạc cho ngân-hàng ra mà
coi, thì trong số 40 ngàn thầy đã lấy ra hết 12 ngàn, còn gởi có 28 ngàn. Mà hiện
giờ trong tủ thầy còn gần 2000 bạc mặt, thế thì 10 tháng nay mỗi tháng thầy
tiêu xài tới 1000.
Chung nghĩ may nhờ có ông chủ nhà in dắt mình đi lãnh bạc, rồi
khuyên mình gởi hết vào ngân-hàng, lại dặn mình phải dè-dặt đừng tin bọn
kên-kên[5] đem mối cho mình mua nhà mua đất mua phố mua xe đặng chúng hưởng
huê-hồng. Bởi vậy Điểu xúi mua xe hơi 8 ngàn, mình không chịu, chỉ mua my-lo với
cặp ngựa có 700; Lợi biểu mua nhà lầu 12 ngàn mình làm lơ để mướn nhà mỗi tháng
50 mà ở đỡ. Thế mà mình đã hao hết 10 ngàn. Nếu mình nghe lời dụ-dỗ của hai anh
bạn chí thân đó thì có lẽ ngày nay mình đã hết tiền mà lại còn mang tới một chục
cô vợ toàn là gái mua son bán phấn. Hứ! Không được, mình đã đi sái đường rồi,
phải mau mau trở lại, tìm nẻo chơn chánh mà đi. Mình còn 30000 đồng, số bạc ấy
cũng đủ cho mình sắp đặt đời sống khác, đời sống thanh-cao, bình-tịnh, đạo-nghĩa,
an-nhàn.
Chung chúm-chím cười rồi vô mùng ôm gối mà ngủ.
CHƯƠNG 3 - TRỞ VỀ LỐI CŨ
V
ì hồi hôm ngủ sớm, bởi vậy bữa sau đồng-hồ gõ 5 giờ, trời còn
mờ-mờ mà Chung đã thức dậy rửa mặt chải đầu. Thầy mở tủ kiếm bộ đồ tây cũ, bộ đồ
bận hồi còn làm ở nhà in đó, mà mặc.
Thầy kêu bồi mà dặn: “Có ai tới hỏi tôi, thì em nói tôi có
chuyện đi Lục-tỉnh ít ngày. Dẫu ai hỏi em cũng nói như vậy. Em cũng dặn anh bếp
đừng đi chợ nấu ăn. Chừng nào tôi về rồi sẽ hay”. Bồi hỏi phải bắt kế xe hay
không. Chung lắc đầu, lấy bóp bạc bỏ vào túi, rồi đội nón cũ hồi trước mà đi,
đi bộ xuống ga Sài-Gòn mua giấy xe lửa mà vô Gò-Vấp.
Bữa nay nhằm thứ năm, bởi vậy thầy giáo Thanh có ở nhà. Thầy
thấy Chung vô, y như lời Chung nói hôm qua, thì thầy mừng rỡ, hối vợ đi chợ mua
bánh hỏi thịt quay về đãi khách. Chung từ chối hết sức cũng không được. Ăn uống
xong rồi, Thanh với Chung dắt nhau đi viếng mộ cha mẹ Chung, đặng bàn tính sự
mướn thợ xây mả. Thầy giáo Thanh hứa sẽ lo việc ấy. Chung mừng-rỡ, đưa trước
cho thầy 50 đồng bạc, chừng nào định chắc giá rồi Chung sẽ đưa thêm. Tính xong
việc làm mả rồi, Chung muốn về. Thầy giáo không cho, cầm Chung ở lại ăn cơm với
thầy rồi nằm nghỉ trưa đến 2 giờ rưỡi mới về được. Ngồi trên xe lửa trở về
Sài-Gòn, Chung thầm nghĩ xây mồ-mả cho cha mẹ tốn năm bảy trăm hoặc một ngàn,
mà tốn ấy là tốn về ân-nghĩa chớ không phải tốn về tửu sắc như mấy tháng nay vậy,
nên trong lòng thơ thới vô cùng.
Về tới Sài-Gòn đi lại nhà in thăm ông chủ và mấy thầy trong sở.
Ai cũng niềm-nở mừng Chung, nhứt là ông chủ ân-cần giảng dạy điều hơn sự thiệt
cho Chung hiểu thói đời đặng khỏi lầm-lạc mà sa-ngã. Chung ở chơi đến 6 giờ,
nhà in đóng cửa, Chung mới ra.
Chung muốn xem lại cảnh đời hồi trước, nên ra khỏi nhà in rồi,
Chung qua đường d’Ormay đặng lại dì hai Phì-Lũ mà ăn cơm tối. Dì thấy Chung bước
vô thì lật-đật đứng dậy mừng: “Thầy hai, cha chả, lâu gặp thầy quá! Trúng số độc
đắc mà thầy giấu tôi chớ! Có nhờ Phước nói tôi mới hay. Thầy có phước quá … ở
chơi thầy Hai. Tôi muốn mời thầy ăn cơm, mà giờ chắc thầy ăn nhà hàng chớ thầy
đâu thèm ăn cơm tôi, nên tôi không dám mời”.
Chung kéo ghế mà ngồi và đáp:
- Không. Tôi lại đây thăm dì và ở ăn cơm.
- Thiệt hôn?
- Thiệt chớ.
- Như vậy thì tôi mừng lắm.
- Thầy Phước còn ăn cơm ở đây hay không dì hai?
- Còn.
- Thầy còn uống rượu hay không?
- Làm sao mà bỏ được.
Hai người nói chuyện với nhau tới đó thì thầy Phước hâm-hở bước
vô. Thầy thấy Chung thì thầy la lớn: “Mơn-xừ Chung!” và đưa tay ôm Chung chặt cứng.
Chung nhẹ nhẹ gỡ ra mà nói:
- Tôi mới hỏi thăm thầy đây. Nghe dì Hai nói thầy cũng còn ăn
cơm tháng nên tôi chờ.
- Vây hả? Cám ơn thầy được giàu có sang trọng mà còn nhớ bạn
nghèo.
- Bộ râu của thầy sao cứ chỉ xuống hoài, vuốt cho nó ngoảnh
lên coi mới được
- Thây kệ nó! Mình nghèo thì nó phải xụi chớ sao. Để chừng
tôi khá rồi thầy sẽ coi mà. Nó cũng biết ngoảnh như người ta vậy chớ.
Phước cười ngất, kéo ghế ngồi ngay mặt Chung và nói tiếp:
- Nói phách đặng cười chơi, chớ Phước nầy cũng như Chung, dầu
giàu có mấy muôn đi nữa cũng không đổi tánh đâu. Giàu mà giữ nhơn-nghĩa người
ta mới kính phục chớ, phải hôn?
- Phải. Thầy còn uống rượu hôn?
- Còn chớ. Có rượu tôi mới vui, dại gì mà bỏ.
- Vậy biểu con Én lấy rượu đi, uống rồi ăn cơm.
- Thầy uống với tôi nghe.
- Không, không, tôi không biết uống. Để tôi ăn cơm mà thôi.
- Thầy ăn cơm ở đây?
- Ừ, tôi lại thăm dì hai với thầy và ở ăn cơm nói chuyện
chơi.
- Ồ! Mơ-xừ Chung! Tốt quá! Vậy thì bữa nay tôi uống bằng hai.
Tôi vui lắm. Én, đong cho qua một cắc rượu, một cắc nghe hôn, chớ không phải năm
xu như mọi bữa. Mơ-xừ Chung, thầy không quen uống rượu trắng, vậy để tôi đi mua
rượu chát hay la-ve cho thầy uống.
- Cám ơn, tôi đã nhứt định không uống rượu gì hết.
- Tửu, sắc, tài, khí là 4 cái hại người. Thầy bỏ bớt được một
cái cũng đỡ lắm.
Dì hai đi vô trong, có lẽ dạy đầu bếp mua đồ thêm đặng dọn
cho Chung một bữa cơm xứng đáng. Phước nhậu rồi ngó Chung mà nói nhỏ: “Anh em gặp
nhau lại, tôi mừng quá. Nhưng tôi nói thiệt, thầy trở về cái quán lao-động nầy
ăn cơm, tôi lấy làm lạ một chút. Xin lỗi thầy, tôi nghe người ta nói bọn thằng
Lợi, thằng Điểu đeo theo thầy thì tôi lo quá. Mèo-chó hay ăn uống tuy tốn hao
song chưa mấy hại, chớ bài-bạc chắc phải nguy mau. Họ nói bọn nó hay dắt thầy
vô Chợ-Lớn, vậy thầy có thua hôn?”
Chung cảm-động mà thấy Phước không nhờ-nhõi mình mà lại lo
cho mình, chớ không phải như các bạn chí thân kia, ngày đêm cứ bày cách cho
mình phá-sản. Chung càng thêm hối-hận, đưa tay ra nắm tay Phước mà đáp:
- Tôi cám ơn thầy có lòng lo cho tôi. Thiệt người ta thấy tôi
có tiền nhiều thì đeo theo bợ-đỡ, quyết xô tôi vô đường không tốt. Họ có rủ tôi
đánh bạc, song nhờ trời phật phò-hộ khiến cho tôi chống cự nên tôi khỏi nguy. Mấy
tháng nay tôi đi sái đường nên tốn-hao nhiều, lại tốn-hao vô-ích.
Nhưng hao tiền mà tôi được biết lòng người giả-dối, tình đời
thấp-hèn, thì tôi không tiếc chi hết. Tôi lấy làm vui mà được thấy cái rực-rỡ ở
ngoài thì chứa cái hôi-thúi ở trong, còn cái chơn-chánh lại ẩn nơi chỗ thầm tối.
- Phải lắm, phải lắm.
- Thôi, bỏ chuyện tôi đi. Thầy nói thử chuyện thầy cho tôi
nghe coi.
- Tôi có chuyện gì đâu mà nói.
- Thầy không tính lập tiệm bán rượu nữa sao?
- Phải có vốn mới tính được chớ.
- Ta kiếm người đàn-bà có vốn ta cưới, rồi lấy vốn ấy mà làm
công chuyện.
- Ồ “ Thực thê chi lộc”, người ta cười chết.
- Tôi nhớ in như là Mạnh-Tử có nói: “Sỉ phi vi bần nhi hữu thời
hồ vị dưỡng”. Không phải vì sự nuôi sống nên cưới vợ, nhưng có khi cũng phải vì
đó.
- Nếu vậy thì mấy ông “đào mỏ” là môn sanh của Mạnh-Tử sao? Hứ!
Tôi không dè!
Phước uống rượu rồi vuốt râu trợn mắt hỏi: “Thầy coi bộ tôi
đây làm học trò Mạnh-Tử được hôn?”
Chung cười ngất. Dì hai trở ra, con Én bưng một mâm cơm theo
sau, thịt cá dỉ-dèo, lại có canh, có nem nữa. Phước với Chung tỏ lời cảm tình
dì hai rồi cầm đũa mà ăn, câu chuyện bây giờ có dì hai xen vô nên càng thêm
thân-yêu vui-vẻ. Ăn cơm rồi, Chung móc bóp trả tiền mâm cơm. Dì hai nhảy dựng
và la lớn:
- Trời ơi! Thầy hai đừng làm vậy chớ. Tôi đãi thầy mà.
- Tôi còn trở lại đây ăn nữa. Dì đãi hoài sao?
- Không hại gì đâu. Đãi hoài cũng được.
Chung bỏ bóp vô túi mà nói: “Tôi biết bụng dì hai tử-tế, tử-tế
từ lúc tôi mất sở làm kia, chớ không phải đợi bây giờ. Lâu quá mà tôi không đến
thăm dì, thiệt tôi quấy lắm. Xin dì tha lỗi”.
Phước hỏi: “Thầy làm ở đâu mà mất sở?” Chung ngó dì hai mà cười
rồi đứng dậy nói: “Chuyện ấy duy có tôi và dì hai biết mà thôi. Chuyện bí-mật,
xin thầy đừng hỏi. Bây giờ tôi mời thầy qua Chợ Cũ ăn hột gà chưng rồi uống
cà-phê với tôi. Tôi đãi”. Phước đưa tay đáp: “Không được. Dì hai đãi cơm, thì
tôi phải đãi cà-phê chớ. Thầy đãi sao được”. Chung nói: “Tự ý, ai đãi cũng được.
Thôi đi”.
Hai thầy từ giã dì hai, dắt nhau qua Chợ Cũ. Câu chuyện vui-vẻ
kéo dài thêm gần một giờ nữa rồi Chung, Phước mới phân rẽ.
Xe kéo nghễu-nghện không thiếu gì, nhưng cũng như trước,
Chung thủng-thẳng đi bộ lên đường Lagrandière, tính về ngủ nơi căn phố cũ mình
mướn để dành đó, thử sống lại một vài ngày trong cảnh đời nghèo-hèn mà an-ổn, tại
lợi-danh làm cho mình xa-lánh mấy tháng nay.
Mới 8 giờ rưỡi tối, gió chướng lao-rao mát-mẻ, bầu trời sao gắn
tứ giăng, lại thêm mặt trăng 14 tháng 3 long-lanh chói ánh sáng xuống cỏ cây,
làm cho đêm ở Sài-Gòn giống như đêm xuân, không nóng hầm, không mệt nhọc.
Vợ chồng anh thợ Tư nhắc ghế ra để trước cái sân nhỏ ngồi xem
trăng hứng gió, trí thảnh-thơi, lòng vui-vẻ dường như người khỏi vương-vấn nợ
trần. Chung nhẹ bước vô sân, vợ chồng anh thợ không hay. Chung đứng xa-xa ngắm
cặp vợ chồng ti-tiện mà êm ấm, chồng làm nuôi vợ, vợ giúp sức chồng, vợ chồng
nương nhau, yêu nhau, tin nhau, chiều nhau. Đứng ngó một hồi, Chung cảm-xúc nên
bước tới và hỏi lớn: To nhỏ việc gì đó? Anh chị mạnh giỏi há?”
Vợ chồng thợ Tư day lại thấy Chung thì mừng-rỡ đứng dậy. Anh
thợ nói: “Dữ hôn! Thầy đi đâu lâu quá vậy thầy hai? Bà con lối xóm họ nhắc thầy
hoài”. Anh đẩy ghế mời Chung ngồi. Chung cứ đứng mà đáp:
- Tôi mắc công việc nên không về được.
- Vậy mà mướn phố bỏ trống cả năm, uổng tiền quá.
Chị thợ tiếp nói:
- Thầy nói lâu lâu thầy về ở, làm tôi không biết thầy về bữa
nào; hễ thứ bảy là tôi mở cửa quét dùm một lần, quét bụi trên giường, trên bàn,
tôi cũng phơi chiếu nữa. Hôm thứ bảy rồi tôi mắc về Bình-Chánh, tôi mới lên hôm
qua. Sớm mơi nầy tôi mới quét dọn được.
- Tôi làm nhọc chị thợ quá, xin chị tha lỗi.
- Có nhọc gì đâu. Thầy về chơi rồi đi hay là về ở?
- … Không biết chừng … Có lẽ ở ít bữa … Mà tôi định hôm nay
tôi ngủ ở đây.
- Vậy để tôi lấy chìa khóa đặng mở cửa. Sạch trơn, để vô rồi
thầy coi.
- Chị làm cho tôi phải mang ơn nặng quá.
Vợ chồng anh thợ vô nhà, chị lấy chìa khóa mở cửa, còn anh
thì đốt một cây đèn bưng qua.
Thiệt căn nhà đóng cửa đó gần mãn năm, nhưng mà trong ngoài đều
sạch-sẽ, bàn ghế không có một chút bụi. Chung bưng cái rương để dựa vách, lấy
chiếu trải trên giường rồi mở rương lấy mùng mền ra. Anh thợ biểu vợ về nấu nước,
chế trà uống chơi, để anh phụ giăng mùng cho thầy hai. Chung ngó qua căn nhà bà
Phán thì thấy có ánh đèn, lại nghe tiếng máy may đương chạy re-re.
Chung thay đồ mát mà mặc thì chị thợ chế trà rồi. Anh thợ mời
Chung ra sân uống trà chơi cho mát. Chung nhắc thêm một cái ghế đem ra, ba người
ngồi chung quanh cái bàn nhỏ, trên trăng dưới gió, thú-vị nồng-nàn.
Chung uống một hớp trà rồi hỏi chị thợ:
- Bà Phán đã mướn phố lầu mà dọn, hay là còn ở đây?
- Hứ! Dọn ở lầu làm chi? Trời ơi, làm sao trả tiền phố cho nổi.
Hai mẹ con ở đó. Tội nghiệp quá, mấy tháng nay bà Phán bịnh, một mình cô hai lo
tảo lo tần lớp thuốc men, lớp ăn uống, coi bộ cô mệt đuối.
- Bà Phán bịnh chi vậy? Phải nhức mỏi hôn?
- Không, bà đau con mắt, bây giờ mắt bà mờ, không thấy đường
mà đi.
- Tội nghiệp dữ hôn! Bây giờ khuya rồi, nhà đóng cửa, để sáng
mai tôi sẽ qua thăm bà một chút.
- Tội nghiệp thiệt. Nghèo mà lại đau, khổ hết sức. Coi thế
túng lắm. Cô hai ngồi thêu tối ngày sáng đêm, bây giờ lãnh tới đồ vải mà may nữa.
Cô cực quá, coi cô muốn bịnh.
- Để sáng mai thầy coi, cô ốm xanh. Cô lo hết sức mà không đủ
tiền cho mẹ uống thuốc. Đồ-đạc trong nhà bán lần hết bộn, lâu-lâu thấy bán một
món. Cô hai Thiên-Hương thiệt là gái gồm đủ hiếu-hạnh. Nghèo cực như vậy mà
không nghe cô than một tiếng.
Chung nghe chị thợ nói chuyện lòng thầy lạnh ngắt, mặt-mày buồn
hiu. Thầy thở dài mà nói: “Thiệt tôi không dè nhà bà Phán khổ đến thế”.
Ba người uống trà nói chuyện tới 10 giờ mới phân tay nhau mà
nghỉ.
Chung nằm trên giường nghe tiếng máy may re-re hoài, biết
Thiên-Hương đang khum lưng chằn mắt mà làm việc đặng có tiền nuôi mẹ già ương-yếu,
trong lúc những gái một trang với cô họ dồi phấn thoa son để chưng diện
hình-hài. Chung nghĩ mấy tháng nay mình vãi bạc trăm mà cho những gái thiếu
liêm-sỉ, mất nết-na, đặng mua một cuộc vui tạm thời hay một trận cười vô đạo,
chớ chi mình để tiền ấy mà giúp đỡ hạng người như vầy thì cái vui mới bền dai,
cái cười mới trong sạch. Mình phải giúp cô Thiên-Hương, mình phải cứu bà Phán,
mặc dầu tánh bà khó chịu, mặc dầu bà ưa nói cao-kỳ. Mà cứu-giúp bằng cách nào?
Với dì hai Phì-Lũ hay là thầy Phước thì dễ, mình hỏi ngay coi hai người cần
dùng bao nhiêu, rồi mình giúp tiền cho dì hai sắm đồ mở tiệm cơm ra lớn, cho thầy
Phước mướn phố bán đủ thứ rượu, chắc hai người chịu.
Còn cô Thiên-Hương với bà phán đây, mình phải nói thế nào mà
giúp. Cho tiền đặng bà Phán uống thuốc? Ai xin mà mình cho? Làm như vậy mình
khinh rẻ người ta quá. Người ta có thể mắng mình ỷ tiền làm phách. Không được.
Thôi để sáng mai mình qua thăm, rồi mình sẽ liệu, hoặc cậy chị Tư lập thế đưa
tiền dùm, bây giờ giúp liền chừng vài trăm rồi lâu-lâu sẽ giúp thêm nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét