Thầy thông ngôn
CHƯƠNG 1
Lúc mặt trời chen lặn, tại nhà ga xe lửa Tân-an thiên hạ lao
nhao lố nhố, người đợi xe đi Mỹ-tho thì sắp soạn hành lý lăng xăng, kẻ chực rước
người ở Sài-gòn về thì đi tới đi lui lóng nhóng.
Đồng hồ vừa gõ sáu giờ, thì nghe tiếng síp-lê (1) vang rân. Mấy
người tới trễ, lật đật chạy vô nhà ga mua giấy đụng sắp nhỏ té lăn cù, mấy tên
đánh xe đón rước khách, dành nhau đứng trước, nên xô lấn chửi nhau inh ỏi.
Ông Hương sư Trần Văn Sắc, ở Tầm vu, có một đứa con trai tên
là Trần Văn Phong, tuổi vừa mới hai mươi mà đã thi dậu Đíp-lom, nên tuần trước
ông cho nó lên Sài-gòn mà thi vào ngạch Soái-phủ Nam-Việt. Bữa trước nó đánh
dây thép (2) về cho ông hay rằng nó thi đậu số 2, và hẹn chiều bữa nay nó về,
nên hồi trưa ông dạy gia-dịch đứa bắt heo làm thịt, đứa đi mời hương chức bà
con, rồi ông mướn một cái xe hai bánh, đi với Thôn trưởng Lê Văn Nuôi lên
Tân-an đón rước nó.
Ông thấy xe lửa qua cầu thì trong lòng ông khấp khởi, ngoài mặt
thời tươi cười, tay cặp cây dù cán tre mà vì mừng mà run run làm cho cán dù lúc
lắc hoài; chơn mang giày hàm ếch mà vì đi qua đi lại hồi chiều đến giờ nên bụi
cát đóng mốc thích (3).
Xe lửa ngừng trước nhà ga, hành khách chen lấn kẻ lên người
xuống coi rất náo nức.
Trần Văn Phong mình mặc một bộ đồ u học trắng, có thắt cà ra
hoách (4) xanh, chơn mang giày da vàng, đầu đội nón nĩ xám, tay xách va ly nhỏ,
ở trên xe bước xuống, mắt ngó dáo dác, mà mặt lại nghiêm chỉnh, dường như muốn
hỏi: "Tôi thi đậu rồi nên về đây, không ai thấy hay sao?"
Thiên hạ tuy đông, song ai mắc lo phận nấy, nên không ai ngó
thấy, duy có ông Hương sư Sắc với ông Thôn Nuôi dòm kiếm phía trước không có,
chừng day lại thấy Trần Văn Phong thì bươn-bả (5) đi lại, tay ngoắt miệng kêu,
chừng ấy mới có ít người hành khách dòm ngó.
Trần Văn Phong chào cha với ông Thôn Nuôi rồi hỏi rằng:
- Cha đi với ông Thôn hay còn ai nữa?
Hương sư Sắc đáp:
- Không, cha đi với ông Thôn mà thôi, đi rước đông chi cho tốn
xe. Tuy vậy mà cha có sai bầy trẻ mời hương chức với bà con tựu ở nhà đủ hết.
Hôm qua được dây thép, má mầy mừng quýnh, nên má mầy đốc cha làm heo mà tạ đất
nước ông bà. Có xe cha mướn nên chực sẵn mà rước đây, vậy thôi lên xe về riết kẻo
má mầy với hương chức ở nhà họ trông. Ba người dắt nhau lên xe. Xe hai bánh mà
chở được bốn người ngồi day mặt phía trước và hai người ngồi day mặt phía sau.
Ông Thôn ngồi sau mà cứ day mặt ra phía trước ngó Trần Văn Phong và nói rằng:
- Thầy hai thiệt là giỏi! Mới thi đậu bằng cấp tài năng đó rồi
thi thơ ký lại đậu luôn nữa, thuở nay trong làng chưa có ai giỏi như vậy. Thầy
về đó mà coi, từ hôm qua đến nay họ đồn rùm, ai cũng hay thầy thi đậu rồi hết.
Ông Hương sư đắc chí nên vuốt râu và nói rằng:
- Nó đậu, mà đậu thứ nhì mới hay chớ!
Trần Văn Phong châu mày trợn mắt nói rằng:
- Giám khảo sấp cho tôi đứng thứ 2 đó ức tôi lắm; thằng đậu số
1 có giỏi hơn tôi đâu, tại họ vị nó cho bon (6) nhiều hơn tôi chớ lấy lẽ công
bình thì tôi đứng số 1 mới đáng. Hôm qua tôi muốn kêu nài chớ.
Ông Hương sư lắc đầu đáp rằng:
- Ôi thôi, số 1 hay số 2 cũng vậy, mầy giỏi họ cũng biết, cần
gì phải kêu nài.
Trời tối lần lần. Ông Thôn cứ thôi thúc tên đánh xe giục ngựa
chạy riết về; còn ông Hương sư cứ chúm chím cười, một lát nghe ông nói:
"Nhà mình được như vậy mới có phước" chớ chẳng nghe câu nào khác.
Xe vừa ngừng trước cửa, thì sắp con nít trong xóm bu lại đứng
bao chung quanh. Trong nhà đèn đốt sáng loá, khách thấy xe, kẻ đứng dậy người
đi ra, ai cũng vui vẻ.
Trần Văn Phong bước vô trước, còn ông Hương sư với ông Thôn lục
thục theo sau. Bà con cùng hương chức xúm lại đứng bao Trần Văn Phong, kẻ hỏi
thăm, người mừng rỡ, mạnh ai nấy nói, không ai nghe ai hết.
Bà Hương sư mặc quần lãnh mới, áo xuyến mới, đương ở nhà sau
coi nấu nướng, nghe xe về bà cũng lật đật chạy mừng con. Ông Hương sư hối kẻ
gia dịch dọn cúng rồi mời đãi hương chức bà con. Vài ông kỳ lão với mấy ông
hương chức lớn thì ngồi bàn giữa, còn hương chức nhỏ thì ngồi dài hai bộ ván gỏ
(7) lót hai bên.
Trần Văn Phong nói đi mới về còn mệt nên không ngồi, nhưng vì
ông ép quá, cực chẳng đã phải nhắc ghế chen ngồi bàn giữa với mấy ông lớn.
Trong lúc ăn uống vui cười, ông hương quản nói rằng:
- Thầy hai nay đã lập công danh được rồi, vậy chú Hương sư
cũng nên coi trong làng mình, ông nào có con xứng đôi vừa lứa thì làm sui cho rồi,
đặng thầy hai có đôi bạn với người ta.
Ông Hương sư chua kịp trả lời, bỗng đâu bà Hương sư đương ngồi
tại bộ ván nhỏ ăn trầu nghe nói như vậy vùng đáp rằng:
- Thầy Hương quản lo chi việc đó! Thằng nhỏ tôi thi đậu thông
ngôn ký lục rồi, chừng nó đi làm việc đây thiếu gì Huyện, Phủ họ gả con cho nó
mà lo.
Ông Hương quản tay bưng ly rượu miệng nói rằng:
- Thưa thím, mình ở trong làng thì kiếm chỗ trong làng làm
sui cho dễ, kiếm chi chỗ xa làm chi.
- Làng mình quê mùa, có con ai xứng đáng đâu mà thầy Hương quản
biểu tôi nói cho nó?
Ông Hương quản ngó quanh quất rồi hỏi rằng:
- Thế khi bầy trẻ không có mời ông Chủ hay sao, mà sao không
thấy ổng xuống vậy kìa?
Có tên phó thôn đang đứng rót rượu, nghe Hương quản hỏi như vậy,
liền bước lại thưa rằng:
- Thưa thầy, tôi có lên mời ông Chủ, mà vì ông Chủ trặc chơn
đi không được nên xin kiếu. Ông Hương quản gặc đầu rồi ngó ông Hương sư mà nói
rằng:
- Thưa ông Hương sư, ông Chủ Tân có đứa con gái tên là con
hai Liền. Năm nay nó chừng mười sáu, mười bảy tuổi, coi ngộ quá. Vợ tôi có biết
con đó lắm; nó nói tánh nết hiền lương mà lại tướng mạo đẹp đẽ, may vá khéo,
bánh trái giỏi. Dưới nầy chú có một mình thầy hai, còn trên kia ông Chủ có một
mình con hai Liền, nếu hai ông làm sui với nhau thì xứng lắm. Trong làng mình
đây ông Chủ là giàu nhứt, có ai bằng đâu.
Trần văn Phong nghe nói tới con gái của ông Chủ Võ Thái Hạnh
thì biến sắc, song sợ người ta thấy mình sượng sùng, nên lật đật gắp thịt chấm
nước mắm mà ăn.
Ông Hương sư bưng uống cạn ly rượu rồi cười mà nói rằng:
- Tôi có thấy con gái ông Chủ, con nhỏ coi ngộ thiệt. Mà nó
ngộ thì ngộ theo trong làng mình đây, chớ bì với người ta sau được. Thằng nhỏ
tôi bây giờ nó làm thầy thông, thầy ký, thì nó phải có vợ cho xứng đáng, ví dầu
cưới con Huyện, Phủ cho nó không được, thì ít nữa cũng phải kiếm con Cai, Phó Tổng
hay Hội đồng, chớ lẽ nào mà nói con ông Chủ. Thiệt ông Chủ ổng giàu hơn tôi, mà
ổng cũng giàu hơn hương chức trong làng mình hết thảy. Tuy vậy mà ổng đứng bộ
có năm mẫu điền với mấy mươi cao thổ cư, chớ có bao nhiêu. Nếu muốn làm sui nhà
giàu, thì đợi thằng nhỏ tôi nó đi làm thông ngôn, rồi đây nhà giàu lớn trong Lục
tỉnh họ dành nhau mà gả con, chừng ấy mặc sức mà lựa, cần gì phải lo cho mệt.
Ông Hương quản đáp rằng:
- Thưa chú, chú nói tôi không dám cãi, chớ thiệt con gái ông
Chủ xứng đáng lắm, Ông chủ bà Chủ là người hiền đức, mà con hai Liền nó lại học
chữ nho bộn. Mình cưới vợ cho con thì kiếm chỗ phải, chớ tính lựa giàu sang làm
chi.
Bà Hương sư ngồi xỉa thuốc ngoài rạch, bà nghe nói như vậy,
bèn xen vô mà đáp rằng:
- Thầy Hương quản nói vậy sao phải! Tôi có một mình nó, nên
tôi phải kén dâu chớ! Chớ phải nó dốt nát như con họ hay sao, mà cưới vợ xập xụi
ở trong làng mình được.
Ông Hương quản cười rồi uống rượu, không nói chuyện đó nữa.
Tiệc mãn rồi, khách từ về hết, chỉ còn năm sáu ông hương chức
rủ nhau ở lại đánh bài tứ sắc cho đến sáng rồi mới xên (8) mà về.
Cách nữa tháng có trát Quan Chủ tỉnh Tân-an đòi Trần Văn
Phong lên hầu quan Chủ tỉnh cho hay rằng có giấy quan Nguyên soái cấp bằng cho
Trần Văn Phong làm thơ ký học tập và bổ đi tùng sự với quan Chủ tỉnh Bạc-liêu,
tại quận Cà-mau. Ngài lại dạy về sắm sửa hành lý rồi trở lên lấy giấy xe lửa và
giấy tàu mà đi Bạc-liêu lập tức.
Trần Văn Phong quày quả trở về cho cha mẹ hay thì cả nhà đều
mừng rỡ. Vợ chồng Hương sư Sắc đàm luận với nhau, ông nói làm thông ngôn ký lục
mà bổ đi được dưới mấy tỉnh mới khá, chớ ở Sài-gòn lãnh lương mà thôi, không có
huê lợi nào khác thêm cực thân mà không ích gì. Nay quan bổ con ông đi Cà-mau ấy
thiệt là may, ngặt vì nó mới ra khỏi trường, chưa thạo việc ở đời cho lắm, mà
đi xa quá nên ông có bụng lo.
Bà đáp rằng ở đời người ta sao thì mình cũng vậy, dầu tới
đâu, ban đầu lạ sau quen, có hại chi mà lo. Huống chi người ta đồn Cà-mau, Rạch
giá là xứ giàu có, ấy vậy con mình xuống đó có thể kiếm vợ xứng đáng, hoặc là
làm giàu mau được, chớ sợ xa rồi co đầu rút cổ ở trong xứ mình hoài thì làm
giàu sao mà nên danh.
Trần Văn Phong sắp quần áo giầy vớ vô rương, tính trưa bữa
sao sẽ lên Tân-an lãnh giấy mà đi. Ông Hương-sư thì theo căn dặn đến xứ người
phải ăn ở cẩn thận, chơi bời thì lựa người tử tế mà chơi, đặng khi có việc mình
nhờ cậy người ta, còn làm việc thì đừng hỗn ẩu xấc xược với làng với dân, song
phải nghiêm cho họ sợ, đặng họ lo lót mới có tiền.
Bà Hương sư thì lấy một ve dầu bạc-hà với môt ve dầu như-ý mà
bỏ vô rương, ngừa khi đi đường rủi nhức đầu đau bụng, có sẵn dầu mà dùng đỡ. Bà
lại căn dặn rằng: "Ở đời con phải giữa gìn tánh nết cho chặc chịa, thấy
con gái nhà nghèo dầu nó có đẹp mấy đi nữa con đừng thèm ngó làm chi. Xuống
Cà-mau con cứ làm quen chơi với hàng Phủ, Huyện hoặc Cai Phó Tổng; hễ con thấy
ông nào có con gái thì con phải ráng làm cho ổng thương đặng ổng gả con cho.
Con nay được làm thông ngôn thì đã vinh vang cho cha mẹ rồi, mà nếu con cưới được
con Phủ, Huyện, hoặc Cai Phó Tổng thì con nhờ, mà con lại làm cho cha mẹ đẹp
mày mở mặt nhiều hơn nữa. Con phải nhớ lời mẹ dặn đừng có quên nghe con."
Trần Văn Phong chúm chím cười và gặc đầu mà đáp rằng:
"Con không dại đâu, xin cha mẹ đừng có lo. Hễ quan yêu, tự nhiên con có
quyền thì làng tổng phải sợ con, rồi nhà giàu sang họ đem con gái họ dưng thiếu
gì".
Qua ngày sau, ăn cơm trưa rồi, Trần Văn Phong mướn một cái xe
chở rương lên Tân-an, tính lãnh giấy rồi đi xe lửa chiều qua Mỹ-tho ngủ một đêm
đặng sáng xuống tàu đi Bạc-liêu.
Bà Hương sư dành đưa con lên Tân-an, tính đưa nó lên xe lửa rồi
bà sẽ trở về.
Xe ngựa chạy chừng được một ngàn thước, bỗng thấy có một cô
thiếu nữ mình mặc áo xuyến tím, quần lãnh đen, đầu đội khăn lục soạn trắng,
trên che dù ửng hồng, chơn không có đi giày, mà mặt mày sáng rỡ, môi son má bầu,
tướng đi yểu điệu, ở đằng xa đi lại, chừng thấy xe, cô đứng nép bên đường mà
tránh song không xây lưng dấu mặt như cô gái thường, cô lại đưa cây dù lên cao,
rồi đứng chường mặt mà ngó Trần Văn Phong trân trân.
Xe chạy ngang, Trần Văn Phong mắt liếc cô ấy mà miệng chúm
chím cười. Bà Hương sư nói rằng: "Con nầy đi đâu xuống tới dưới nầy kìa?
Con ông chủ Hạnh đó đa."
Trần Văn Phong lặng thinh không nói chi hết, mà xe chạy qua rồi
anh ta cũng không thèm ngó lại. Tên đánh xe cắc cớ ngó ngoái lại sau, thì thấy
cô nọ đứng ngó sau xe, mà tay mặt thì che dù, còn tay trái thì lấy vạt áo lau
nước mắt.
Lên tới Tân-an, Trần Văn Phong vào Toà bố mà lãnh giấy rồi đi
với mẹ ra chợ mua đồ và ở chơi tới năm giờ chiều mới ra nhà ga xe lửa. Lúc chờ
xe, bà Hương sư cứ theo xe căn dặn con hoài, mà không nghe bà dặn điều chi
trúng luân lý đạo nghĩa, chỉ có dặn là dè dặt mà cưới cho được con nhà giàu
sang mà thôi.
Trần Văn Phong qua Mỹ-tho ở khách sạn nghỉ một đêm, rồi sáng
ngày mới xuống tàu Pélican mà đi.
Tàu khi chạy ngoài sông lớn, khi băng trong kinh nhỏ, cảnh vật
hai bên thay đổi ngó không nhàm, Trần Văn Phong thuở nay chưa du lịch miền Hậu
Giang, nên thấy cảnh lạ, sông dài kinh ngay, đồng rộng, thì trong lòng khấp khởi
vui vẻ cô cùng. Anh ta ngồi ngắm cảnh rồi động tình, mới nhớ chuyện quá vãng
(9) và tính tới chuyện tương lai. Anh nghĩ thầm trong trí rằng: "Cũng nhờ
hồi nhỏ mình ráng mà học nên bây giờ mới được sang trọng như vậy; đi tàu có nhà
nước chịu tiền, đi hạng nhì ăn cơm tây, mà lại được nằm phòng khỏe quá. Bây giờ
ai cũng kêu mình bằng thầy thông mà đi đường thiên hạ không biết mình nên họ
chưa kính trọng cho mấy, chừng mình tới Cà-mau, mình đứng thông ngôn, làng tổng
đều phải bẩm dạ hết thảy mới sang nữa. Bậy quá! Hồi năm ngoái mình thấy con gái
ông chủ Hạnh ngộ, nên mình theo chọc ghẹo cô. Mình có hứa với cô hễ mình thi đậu
làm thông ngôn ký lục rồi mình cưới cô.
Bây giờ mình coi lại thì cô quê mùa quá! Mình làm thông ngôn
mà có vợ như vậy coi sao được, tại trong làng mình họ nghèo hết thảy nên thấy
cha mẹ cô có ít mẫu đất họ kêu là nhà giàu, chớ có giàu gì đâu. Hôm qua cô đi
lơ thơ ngoài đường nên gặp mình đó kìa? Hay là cô thương mình nên nghe nói có
giấy bổ mình đi làm việc, cô ra đó đưa mình, bởi vì mình chọc ghẹo cô thì mình
có nói nhiều câu tình nghĩa thiệt, mà cô mắc cỡ nên ít nói lắm, không thấy cô tỏ
dấu chi yêu mến mình. Đã vậy mình có nắm tay cô và hun cô vài cái mà thôi, chớ
không có ân ái gì mà đến nỗi cô mê. Ối! Mà chuyện cũ nhắc lại làm chi! Bây giờ
mình lo phận sự mình cho xong. Xuống tới Cà-mau mình mướn một căn phố cho sạch
sẽ đặng dọn nhà ở. Chừng ở yên nơi rồi mình sẽ hỏi dọ coi có ông nào giàu sang,
mà có con gái, mình sẽ tới lui chơi rồi mình cậy mai mối mà cưới. Mình làm thầy
thông họ cần gả con cho mình, lo gì không có vợ. Con gái ông chủ Hạnh thì để
cho Hương chức trong làng cưới, chớ mình như vậy mà kết đôi với nó thì hư danh
giá của mình còn gì."
Trần Văn Phong nghĩ như vậy rồi chúm chím cười, coi bộ tự đắc,
chẳng ăn năn chút nào.
Chú thích:
1. còi xe lửa
2. đánh điện tín
3 mốc trắng
4 (cravate), cà vạt
5 gấp rút
6 (point), điểm
7. loại bàn ghế làm vằng bằng ván gỗ dày
8. chấm dứt sòng bài
9. quá vãng=qua đời; dĩ vãng thì đúng hơn.
CHƯƠNG 2
Lúc thầy Phong được cấp bằng làm thơ ký thì xứ Cà-mau điền địa
còn hoang nhăn, nhơn dân thưa thớt. Tại chợ thì cuộc buôn bán tuy thạnh vượng,
nhưng phố xá xịch-xạc, phố lá còn xen lộn với phố ngói, mà dầu ngói với lá căn
nào cũng cũ, dãy nào cũng thấp, nên coi không có vẽ sung túc như cái chợ ở tỉnh
thành.
Thầy thông Trần Văn Phong xuống tới Bạc-liêu vào trình diện với
Quan chủ Tỉnh rồi ngồi ghe mà đi Cà-mau. Quan phó tham biện, ngồi chủ quận Cà-
mau đã có được dây thép cho hay trước rằng sẽ có thầy thông Phong xuống giúp việc,
chừng thầy vào dinh thì ngài hỏi thăm sơ sài ít câu rồi cho phép thầy nghỉ hai
ngày đặng kiếm chỗ ở yên rồi sẽ đi làm việc.
Thầy thông Phong tới xứ lạ, không quen biết ai hết, nên lấy
làm bối rối không biết chỗ nào mà nương ngụ. Thầy muốn dọn một căn phố mà ở,
song thầy nghĩ tủ bàn ghế không có, nếu mướn phố lấy chi mà dọn. Đã biết mua đỡ
ít vật cần dùng rồi dọn nhà sơ sài cũng được, mà có nhà rồi ai đi chợ nấu cơm
cho mà ăn.
Thầy tính tới nghĩ lui rồi mới quyết kiếm nhà ở đỡ một ít
tháng rồi sẽ hay. Thầy tỏ ý ấy với thầy ký Của là người chơn chất ôn hòa, thầy
thấy thầy thông Phong bối rối thầy cũng muốn rước về nhà thầy, ngặt vì thầy ở một
căn phố chật hẹp mà tới bảy tám đứa con, lại vợ thầy mới sanh đẻ còn non ngày,
sợ bất tiện cho bạn, nên thầy chỉ nhà bà Phó Mỹ và khuyên thầy Phong lại đó hỏi
mà ở đậu, nói rằng nhà bà rộng rãi sạch sẽ, lại có hai mẹ con không có con nít
rộn ràng.
Thầy thông Phong nghe nói trong bụng mừng thầm, tưởng bà Phó
Mỹ nầy là vợ Phó Tổng, chồng chết. Thầy hỏi thăm lần lần đi đến nhà bà, bước vô
thì thấy nhà lá ba căn rộng rãi sạch sẽ, day cửa ra mé sông, còn phía sau thì
có một cái vườn tuy cỏ mộc rậm rạp, song có trồng năm ba cây ổi, vài chục cây
cau, với ít bụi chuối. Thầy thấy nhà không giàu, chẳng có một vật chi quí, thì
trong bụng không được vui, song thầy không biết chỗ nào khác, nên bất đắc dĩ phải
hỏi mà ở.
Bà Phó Mỹ nầy khi chồng còn sanh tiền thì làm chức Phó xã, chớ
không phải phó Tổng. Chồng mất đã gần mười năm rồi, để lại cho bà hai đứa con:
đứa Lớn là con trai, tên Hai Thu, đã có vợ nên về ở theo quê vợ trong
Cái-ngang, còn đứa nhỏ là con gái, tên Ba Điệp, khi ấy đã được 17 tuổi, chưa có
chồng, nên ở hủ hỉ với bà.
Bà tánh tình bãi buôi (10), tuy đã 55 tuổi rồi mà ăn nói nhặm
lẹ, bởi vậy nghe thầy thông Phong hỏi ở đậu thì bà vui lòng cho liền, và xin thầy
cho bà 8 đồng bạc cơm mà thôi.
Bà hối con gái bà quét dọn cái buồng đầu trên cho thầy ở, và
khuyên thầy đi lấy rương đem lại đặng sắp đồ ra mà thay đổi áo quần.
Thầy thông Phong thấy bà niềm nở, bãi buôi như vậy, thì thầy
hết bợ ngợ, mà cũng bớt buồn vì sự nhà bà nghèo và bà là vợ Phó xã chớ không phải
phó Tổng.
Thầy ở yên nơi rồi, chiều bữa sau thầy mới hỏi thăm nhà mấy
thầy làm việc nhà nước tại Cà-mau đặng viếng thăm người ta mà làm quen. Thầy đến
nhà thầy thông dây thép, nhà hai thầy giáo và nhà thầy ký làm một chỗ với thầy,
thì thấy nhà nào cũng chật hẹp, đồ đạc sơ sài, ghế bàn lạm xạm, bởi vậy thầy có
ý chê thầm. Chừng đến nhà thầy ký Trượng làm ở sở Thương chánh thì thầy ký
không có ở nhà, mà cô ký ra tiếp rước rất vui vẻ, nên thầy ngồi nói chuyện chơi
một hồi rồi mới đi.
Thầy thấy trời chiều mát mẻ, nên thừa dịp đi dọc theo đường
mé sông mà xem châu thành. Nhờ nước lớn đầy mà, nên dưới sông ghe xuồng qua lại
dập dìu, lại cũng nhờ trời mát nên trên bờ người đi đông đảo. Nhưng mà thầy dòm
coi phố xá leo heo, nhà cất thấp thỏi, chẳng giống như cảnh thầy tưởng tượng
lúc ở nhà mới ra đi, nên trong lòng thầy không vui; mà nhứt là thầy thấy thiên
hạ gặp thầy không ai chào, không ai xá, thầy làm chức thông ngôn mà đi chơi họ
không kiêng nể; không trọng gì hơn một người khách Triều-châu kia thì thầy lại
càng buồn hơn.
Thầy nghỉ đúng 2 ngày rồi mới đi làm việc, nghĩ thầm rằng họ
không xá mình ấy là mình mới đến họ chưa biết, để mình làm việc ít bữa rồi, nếu
họ còn khinh thị nữa thì họ sẽ coi mình.
Từ khi ở nhà ra đi, thầy cứ tưởng làm thông ngôn là sang trọng,
hễ mở miệng ra thì trên quan nghe dưới làng sợ, nào dè thầy mới đi làm ngày thứ
nhứt thì đã bị quan phó rầy hai lần, sớm mai thì nói thầy viết sai, buổi chiều
rầy thầy viết chậm, mà lần nào rầy cũng rầy trước mặt làng tổng và lính hầu, bởi
dầu họ không hiểu thầy bị quan rầy về lỗi chi, mà thầy cũng lấy làm thẹn thùa lắm.
Quan phó Cà-mau tánh nết nóng nảy, lời nói cộc cằn, còn thầy
thông Phong mới đi làm việc chưa thạo nghề, nên đứng thông ngôn còn bợ-ngợ, và
cầm đơn đọc chưa lẹ làng, bởi vậy thầy bị rầy hằng ngày, có khi quan mắng là
"đồ ngu" rồi đuổi thầy tránh chỗ cho thầy ký Của thông ngôn thế.
Nhiều bữa thầy ngồi viết mà ứa nước mắt, tưởng làm thông ngôn
ký lục sang trọng hơn người, nào dè bị mắng nhiếc tối ngày mà cũng không thấy
làng tổng kính trọng chi hết. Ngày trước thầy ao ước ham làm thông ngôn bao
nhiêu, bây giờ chán ngán muốn bỏ mà về bấy nhiêu.
Mãn giờ hầu rồi, về chỗ thầy ở đậu, thầy lại càng buồn nhiều
hơn nữa; tuy bà Phó Mỹ vui-vẻ, còn cô Ba Điệp săn sóc miếng ăn chỗ ngủ, giặt
dùm khăn vớ cho thầy, mẹ con lo lắng chẳng dám để cho thầy có chỗ phiền được,
nhưng mà thầy nghĩ tới sự ở đậu nhà tên Phó xã, nghĩ không có nhà nào sang trọng
đến làm quen, nghĩ không có ai xứng đáng đặng nói mà cưới và nhứt là nghĩ làm
việc thì lãnh lương, chớ tổng làng không ai cho tiền bạc mà cũng không ai cho lễ
vật chi hết, bởi vậy thầy thối chí nên dàu dàu không muốn đi chơi.
Cô Ba Điệp tuy con nhà nghèo mà nước da trắng, gò má ửng hồng,
hễ muốn nói thì miệng chúm-chím cười, tuy cô mặc quần áo vải bô song cô thường
giặt sạch-sẽ. Lời nói của cô thì quê mùa mà giọng nói nghe dịu ngọt. Có một điều
làm cho cô không ra người thanh nhã, là cô nhỏ tuổi mà mập quá, nên tay chân kịch
cợm mình mẩy ô-dề (11), bữa nào cô vén quần mà đi sau vườn, thì thấy bắp cẳng của
cô tuy trắng song lớn gần bằng bắp chuối hột.
Từ ngày thầy thông Phong đến ở đậu nhà cô, thì cô vui-vẻ lắm,
tối ngày đầu gỡ (12) láng nhuốt hoài, mà hễ chúa nhựt có thầy ở nhà thì cô lại
bận quần lãnh lưng màu đỏ lòm, chớ không chịu bận quần vải, chẳng những là cô
săn sóc miếng ăn, miếng uống cho thầy mà thôi, mà hễ thầy đi làm thì cô vô buồng
quét dọn sạch sẽ, thấy áo quần thay còn vắt đó thì cô xếp lại cho tử tế, thấy
đôi giày để giữa đường thì cô sắp lại cho ngay, thấy có cái khăn đôi vớ nào dơ,
thì cô lấy giặt liền, chẳng cần đợi thầy cậy mượn.
Bởi trong nhà không có mấy người nên bà Phó Mỹ xin phép cho mẹ
con ăn chung với thầy. Mỗi bữa ăn, hễ có món nào ngon thì cô Ba Điệp thường để
bên phía thầy ngồi, mà cô lại coi chừng hễ thầy ăn vừa hết chén cơm thì cô hờm
sẵn đặng lấy chén mà xúc nữa.
Một người trai nào khác, nếu thấy cử chỉ của Ba Điệp như vậy,
thì chắc biết cô có tình riêng với mình. Thầy thông Phong chẳng hiểu là tại mơ
ước cưới con Phủ, Huyện, Cai, Phó Tổng hoặc Hội đồng hoài, nên không ghé mắt
ngó con gái nhà nào khác, hay là tại thầy buồn về sự quan không trọng dụng,
làng tổng không kính nhường, mà cô Ba Điệp sốt sắng dường ấy thầy coi cũng như
không, chẳng hề để ý vào chút nào hết.
Một bữa chúa nhựt, bà Phó Mỹ bơi xuồng đi vô Cái-ngang mà
thăm con trai bà. Ba Điệp ở nhà coi nấu cơm dọn cho thầy ăn. Cô mặc áo vải đen
mới, quần lãnh lưng đỏ, cứ đi ra đi vô kiếm chuyện nói với thầy thông hoài.
Thầy nằm trên võng mà coi sách, hễ cô nói thì trả lời, mà hễ
trả lời thì ngó cô, ngó năm bảy lần rồi động tình, nên xếp sách để trên ngực
không đọc nữa.
Lúc dọn cơm rồi hai người ngồi ăn, thầy liếc ngó tay cô, tuy
bàn tay kịch cợm, tuy ngón tù vù, nhưng mà nước da trắng nõn. Thầy ngó mặt ngó
cổ, ngó mình cô một hồi rồi trong trí thầy không chê cô mập mà cũng không chê
cô hèn hạ quê mùa nữa, thầm nghĩ rằng nếu mình muốn tình tự với cô nầy thì bữa
nay cô ở nhà một mình, mình chọc dễ như chơi.
Thầy nghĩ như vậy, mà chừng ăn cơm rồi thầy lại thầm trách
lòng thầy không minh chánh; mình ở đậu nhà người ta, mình làm việc quấy không
nên. Đã biết như mình có ve cô là chơi qua buổi mà thôi, chớ không phải vợ chồng
gì, song làm bậy rủi ro cô có nghén rồi làm sao, mà dầu cô không có nghén đi nữa,
rủi thiên hạ hay, mình mang xấu, rồi làm sao mà cưới con nhà sang trọng cho được.
Thầy nằm nhắm mắt làm bộ ngủ, không thèm ngó cô, mà cũng
không tính đến việc quấy nữa. Cô Ba Điệp tưởng thầy ngủ thiệt nên dọn dẹp dưới
bếp rồi bưng thúng may ra để trước cửa ngồi mà vá áo.
Thầy nằm một hồi, gió phất mát mẻ thầy ngủ quên. Đến xế thầy
thức dậy rửa mặt rồi đi ra sau vườn, tính kiếm ổi hái ăn chơi. Thầy đương đứng
vác mặt ngó trên cây ổi, bỗng đâu cô Ba Điệp chạy ra hỏi rằng:
Thầy thông muốn ăn ổi hay sao? Để tôi leo tôi kiếm ổi chua
tôi hái cho. Cô vừa nói vừa tuốt lên cây ổi. Cô hái được một trái ổi chín rồi
kêu thầy biểu đưa tay đặng cô liệng xuống cho thầy bắt. Thầy bắt hụt, cô ở trên
cười ngất mà nói rằng:
- Thầy dở quá, đã tới tay rồi mà còn để cho rớt! Thầy lượm
trái ổi cắn ăn mà còn ngó nhánh ổi đặng kiếm nữa.
Cô hái được một trái khác, rồi bỏ vào túi mà leo xuống. Lúc
xuống gần tới đất, hai chơn thì đeo gốc ổi, hai tay thì níu nhánh, cái mình cô
gie13 ngang, vạt áo sau bùng ra lòng thòng bày lưng quần đỏ lòm, lại bày luôn một
khúc da trắng nõn, làm cho thầy đứng dưới ngó động tình dằn không đặng, nên đưa
tay ôm ngang bụng cô. Thầy vừa ôm cô, thì cô buông hết tay chơn, nên té ngửa
trong mình thầy, may thầy ôm chặt và đứng vững chớ không thì cái vóc lớn của cô
ắt phải đè thầy té ngửa.
Cô vừa đứng xuống đất thì thầy buông cô ra. Cô day lại ngó thầy
miệng cười chúm chím. Thầy mắc cỡ mà lại ăn năn, nên day mặt chỗ khác mà nói rằng:
- Tôi thấy cô níu nhánh ổi quằn quá, tôi sợ nhánh gãy cô té,
nên tôi đỡ cô. Đừng leo như vậy nữa, rủi té chết chớ phải chơi sao.
Thầy nói dứt lời rồi xây lưng bỏ đi vô nhà. Cô Ba Điệp nghe mấy
tiếng vô tình vô vị ấy thì cô không vui. Cô đứng dưới gốc ổi mà suy nghĩ một hồi
rồi thủng thÒ·ng đi vòng ngả sau mà theo vô. Chừng cô bước vô cửa sau, thì thầy
đã đội nón bước ra cửa trước mà đi chơi.
Đến chiều bà Phó Mỹ về, còn thầy thông đi chơi đến tối mò thầy
mới về ăn cơm. Từ ấy về sau thầy chÒ·ng hề ngó cô Ba Điệp nữa, mà dầu cô kiếm
chuyện hỏi, thì thầy cũng không muốn trả lời. Thầy thất chí nên phận thầy không
vui đã đành rồi, mà thầy lại làm cho cô thất vọng nên cô buồn luôn theo nữa.
---------------------------------
10 ngọt dịu, mau mắn vui vẻ
11 to lớn, thô tục
12 chảy
13 nghiêng
TẬP 3
T
hầy thông buồn quá, mà xứ Cà-mau quê mùa nên thầy không biết
chỗ nào mà đi chơi cho giải khuây. Một bữa chúa nhựt, nhằm rằm tháng mười, thầy
nghe nói tại chùa Phật, ở trên vàm kinh có làm chay, nên ăn cơm sớm rồi, thầy
mượn một chiếc xuồng bơi lên đó mà coi chơi.
Thầy vừa bước chơn lên tới cửa chùa thì thầy gặp vợ thầy ký
Trượng, làm Sở Thương chánh, đi với một cô trạc chừng 18, 19 tuổi, cổ đeo dây
chuyền vàng tây, tay mặt đeo một chiếc đồng, tay trái đeo một chiếc vàng, mình
mặc quần hàng trắng xuyến nu, chơn đi giày nhung đỏ thêu cườm, đầu choàng hầu
khăn màu trứng gà, bốn biên(14) đều kết tụi(15).
Cô ký Trượng ngó thấy thầy thì hớn hở nói rằng:
- Ủa thầy thông, thầy cũng đi coi làm chay nữa saỏ Riết vô
đây mà coi.
Họ đương sửa soạn cúng ngọ, một lát nữa lại có ông Yết ma giảng
kinh nữa. Thầy vô cắt nghĩa dùm mấy câu Thập điện cho hai chị em tôi nghe một
chút. Thầy biết hôn?
Cô nói nói cười cười và ngoắt thầy vô chùa. Hai cô đi trước,
thầy nối gót theo sau mà liếc ngó cô đội khăn tua đó hoài. Cô ký Trượng ngó
ngoái lại nói rằng: "Xứ nầy quê mùa buồn quá thầy há? Con em tôi ở trên
Sa-đéc xuống thăm tôi, may gặp dịp nầy cho nó coi, chớ không thì có chỗ nào vui
cho nó chơi đâu". Thầy thông liền hỏi rằng:
- Té ra cô đây là em của cô sao?
- Thưa phải, nó là em ruột tôi. Tôi thứ ba còn nó thứ sáu.
Thầy liếc mắt ngó cô nọ thấy cô da trắng mà còn dồi phấn nên
hai má ửng hồng, hàm răng khít rịt mà lại trắng trong, hai bàn tay ngón nhỏ mà
dài, đánh đòn xa (16) coi dịu nhỉu, gương mặt sáng rỡ, cặp mắt hữu tình, chơn
mày cong vòng, tướng đi yểu điệụ Thầy ngó cô, cô cũng ngó thầy, hai người nhìn
nhau, rồi bợ ngợ hết cả hai.
Đi tới chỗ treo mấy bức Thập điện, cô ký Trượng chỉ từ tấm
hình mà biểu thầy thông Phong cắt nghĩa cho cô nghe. Thầy làm thầy thông mà
không thông cho lắm, song không muốn để cô Sáu chê mình dở, nên ngó hình định dẹo
mà cắt nghĩa bướng, mà đứng cắt nghĩa cứ liếc ngó cô hoài. Cô Sáu cũng chăm chỉ
lắng nghe, thầy nói và cười, cô cũng cười với thầy, một lát rồi hết bợ ngợ, khi
thì đứng kề một bên thầy khi thì xen nói chuyện với thầy.
Thầy thông Phong vui vẻ vô cùng, nên hai cô đi đâu thầy cũng
đi đó; coi cúng ngọ rồi nghe thuyết kinh, chơi cho đến nửa chiều, hai cô xuống
ghe mà về, thầy cũng xuống xuồng bơi theo.
Về dọc đường cô ký Trượng mời thầy thông có rảnh xuống nhà
chơi. Thầy đã tính thầm rồi, mà có tiếng mời nữa thì càng tiện cho thầy, bởi vậy
ăn cơm chiều rồi thầy chải đầu rửa mặt, thay quần lãnh áo lục soạn mới, rồi đội
nón đi xuống nhà thầy ký Trượng.
Thầy vừa bước vô cửa thì thầy ký Trượng ở trong bước ra. Hai
thầy chào nhau rồi thầy ký Trượng mời thầy thông Phong vô nhà. Cô ký với cô Sáu
ra chào hỏi niềm nỡ lắm.
Thầy thông Phong thấy chủ nhà bù-xa bù-xích muốn đi, nên đứng
dậy nói:
- Thầy sửa soạn đi đâu đó, thôi để tôi về cho thầy đi chớ.
- Xin lỗi với thầy, tôi có chuyện phải đi gấp một chút, vì
tôi hẹn lỡ với anh em không lẽ để cho họ chờ.
- Vậy thôi để tôi về cho thầy đi.
- Thầy ghé chơi có việc gì?
- Tưởng thầy rảnh nên xuống nói chuyện chơi vậy chớ có việc
gì đâu.
- Bậy quá, tôi mắc chuyện một chút. Nầy, mà thôi thầy ở lại
nói chuyện chơi với ở nhà tôi, không hại gì đâu, anh em mình chớ phải xa lạ gì
đó hay sao mà ngại.
Cô ký tiếp mà cầm thầy, còn cô Sáu thì rót một tách nước trà
bưng lại mời thầy uống. Thầy thông Phong thiệt ý không muốn về, song thấy chủ
nhà muốn đi nên cực chẳng đã phải từ chối. Chừng nghe cô ký cầm lại, mà nhứt là
thấy cô Sáu bưng nước mời uống thì thầy nhứt định không về, nên thò tay bưng
tách nước và nói với thầy ký Trượng rằng:
- Thôi, thầy có việc gấp thì đi đi, kẻo người ta chờ. Để tôi
uống nước rồi tôi xuống nhà dây thép(17) chơi.
Thầy ký Trượng ra đi, thì thầy thông Phong kéo ghế ngồi liền.
Cô ký nhắc ghế ngồi ngang đó mà nói chuyện, còn cô Sáu mặc quần lụa trắng, áo
bà ba cũng bằng lụa trắng, tay đeo một chiếc đồng bát giác, cổ đeo một sợi dây
chuyền vàng tây, bưng rổ may ra ngồi bên ván mà may áo túi.
Thầy thông với cô ký hỏi thăm nhau việc cha mẹ, việc làm ăn,
nói hết chuyện nầy sang chuyện nọ, nói hoài không dứt. Cô Sáu ngồi may không nói
chi hết một lát cô liếc ngó thầy thông một cái, mà rủi thay lần nào cô ngó thầy
thì cũng gặp thầy ngó cô. Thầy thấy cô trong nhà, mặc đồ mát, để đầu trần, bới
tóc thả diều, bàn chơn trắng nõn, càng ngó càng mê mẩn tâm thần, nên ngồi hoài
đến 11 giờ thầy mới chịu từ mà về.
Mới nói chuyện một lần mà thầy đã biết cô Sáu tên là Sáu Lý,
cha mẹ khuất sớm, còn có hai chị em đó mà thôi. Lúc cô Sáu Lý còn nhỏ thì ở với
cô ký Trượng, chừng được 16 tuổi, người cậu ở Sa-đéc giàu lớn mà không con, nên
bắt về làm con nuôi. Mới đây cậu tính gả cô Lý cho con nhà giàu, thì cô chê thằng
đó dốt nát quê mùa, nên mới bỏ xuống Cà-mau mà ở với người chị.
Đêm đó thầy không ngủ được, cứ mơ màng tơ tưởng cô Sáu Lý
hoài. Thầy so sánh cô với cô Hai Liền là con gái của Hương chủ Võ Thái Hanh,
thì cô Lý nhan sắc đẹp đẽ mười phần cô Liền không được ba phần, còn cô Ba Điệp
thì còn thua nhiều nữa nên không sánh được.
Từ ấy về sau, đêm nào thầy cũng xuống nhà thầy ký Trượng mà
chơi. Thầy xuống thăm bảy lần mới gặp thầy ký trượng ở nhà một lần còn cô ký
thì có ở nhà luôn luôn. Mà xuống là xuống đặng nói chuyện chơi mà thôi chớ thầy
chẳng hề tỏ một lời nào chọc ghẹo cô Lý.
Cô Ba Điệp thường để ý bẹo thầy, tuy thầy không thuận tình,
song cô chẳng hề đem dạ phiền trách. Nay cô thấy thầy chà lết đến nhà cô Sáu Lý
hoài, chẳng những là cô buồn mà thôi, mà cô lại giận nữạ Chẳng hiểu ở nhà cô
nói ra nói vô với mẹ thế nào, mà một bữa nọ đương ngồi ăn cơm, bà Phó Mỹ nói với
thầy thông rằng:
- Hổm nay tôi thấy thầy xuống nhà thầy ký Trượng thầy chơi
hoài tôi nghi quá. Thầy mới lại đây thầy không rõ, chớ con mẹ ký Trượng nó quỷ
quyệt lắm, còn con em nó đó cũng không vừa gì đâu.
Bà vừa nói mấy lời thì thầy thông Phong nổi giận châu mày trợn
mắt mà nói:
- Tôi cấm không cho bà nói đến việc riêng của tôi. Tôi muốn
chơi nhà nào tự ý tôi, bà không phép cản.
Bà Phó Mỹ cười mà đáp rằng:
- Thưa thầy, tôi đâu dám cản thầy. Xin thầy đừng phiền, tôi sợ
thầy mới
lại đây thầy không rõ ai tốt ai xấu, nên tôi mới nói như vậy
chớ.
Thầy thông đáp rằng:
- Tôi không dại khờ gì đâu, bà đừng lo.
Bà Phó Mỹ cười và nói dã-lã cho thầy hết giận còn cô Ba Điệp
thì mặt buồn so mà ứa nước mắt.
Một đêm nọ mới tối mà mặt trăng đã mọc lên tới ngọn dừa bên
mé sông. Thầy thông Phong ra đứng trước nhà hứng mát một hồi, rồi xúc cảnh động
tình nên men men(18) lần đi xuống nhà thầy ký Trượng. Đi gần tới thì thầy thấy
trong nhà đèn đốt lu lu, cô Sáu Lý ngồi tại cái ghế để ngoài cửa, đầu bỏ tóc
xoã, gió thổi phất phơ.
Thầy thông thấy cảnh như vậy thì dụ dự, dừng chơn đứng trước
cửa, không dám ghé vô nhà. Cô Sáu Lý đứng dậy bới đầu và nói rằng:
- Mời thầy thông vô nhà chơi. Anh Ba với chị Ba tôi đi vô rạch
Rập, không có ở nhà.
Thầy thông nửa mừng nửa sợ, nên thùng thẳng vô nhà. Cô Sáu Lý
bước vô trước, vặn đèn lên cho tỏ, rồi nhắc ghế mời thầy ngồị Cô đi lại kéo hộc
tủ kiếm thuốc; thầy ngó theo, thấy cô đầu không chải gỡ tóc bới xà sau ót, coi
càng đẹp hơn nữa, thì thầy khoan khoái trong lòng, nên ngồi bợ ngợ, muốn nói
chuyện mà không biết làm sao khởi đầu cho được.
Cô đem gói thuốc ra mời thầy hút rồi đi lại cái ghế dựa vách
đứng têm trầu mà ăn. Thầy chúm chím cười một hồi lâu rồi hỏi rằng:
- Thầy ký và cô ký đi vô rạch Rập chi vậy?
- Thưa, không biết tôi không có hỏi.
- Nếu vậy thì đêm nay bỏ cô ở nhà một mình...cô không sợ ma
hay sao?
- Ở giữa chợ ma quỉ ở đâu mà sợ.
- Thiếu gì.
Cô Sáu Lý liếc thầy mà cười, rồi đáp rằng:
- Anh Ba với chị Ba tôi đi một lát, chừng chín, mười giờ thì
về. Thầy nghe mấy lời ngồi lo ra, nên không nói chi hết. Cô bèn kéo một cái ghế
để dựa vách mà ngồi, nhờ có cánh cửa mở che cô, nên người đi ngoài đường không
thấy cô được. Cô ngồi miệng nhai trầu mắt ngó sửng dưới đất, mặt lộ sắc buồn.
Thầy thấy như vậy bèn hỏi rằng:
- Bữa nay cô có việc chi phiền tôi hay sao mà coi bộ không được
vui? Cô tằng hắng nho nhỏ và cũng làm mặt buồn mà đáp rằng:
- Thầy có việc chi đâu mà tôi dám phiền thầy.
- Vậy chớ tại sao cô buồn?
- Tôi buồn là vì miệng thiên hạ trong xứ nầy họ xấu quá; tôi
trong sạch chớ không nhơ bợn chi hết, mà họ đồn bậy đồn bạ thấu tai anh Ba chị
Ba tôi, nên ảnh chỉ rầy tôi, thiệt tôi tức hết sức.
- Cô có chuyện chi mà họ đồn? Họ đồn sao đó?
- Họ thấy thầy hay xuống dưới nầy chơi, rồi họ đồn tôi trai
gái với thầy,
bởi vậy anh Ba tôi ảnh rầy tôi quá.
Thầy thông nghe nói biến sắc, tay cầm gói thuốc lăn qua lăn lại,
không biết dùng tiếng chi mà trả lờị Cô liếc ngó thầy rồi tiếp nói rằng:
- Thiệt hơn một tháng nay đêm nào thầy cũng xuống đây chơi.
Mà thầy xuống lần nào cũng có anh Ba chị Ba tôi ở nhà còn nói chuyện thì nói
chuyện thường chớ thầy có tỏ ý ve vãn hay là có tỏ lời chọc ghẹo tôi bao giờ
đâu mà họ nói bậy như vậy. Làm thân con gái khó quá! Họ không thương họ thêu dệt
ít tiếng thì đủ cho mình nhơ nhuốc cả đờị Từ hôm qua đến nay tôi buồn lắm. Tôi
thề thốt hết lời, mà coi bộ anh Ba tôi ảnh không tin, cứ nói: Có đâu chó sủa lỗ
không. Tức quá, mà biết làm sao cho ảnh hết nghi bây giờ. Vậy tôi xin thầy một
điều là thầy muốn cho tôi ở yên nơi thì đừng có xuống dưới nầy chơi nữa, chớ thầy
xuống chơi hoài, không biết chừng mai mốt họ đồn tôi có chửa càng hư danh giá
tôi nữa, mà dầu họ không đồn thì anh Ba chị Ba tôi nghi, chắc cũng đưa tôi về
Sa-đéc, càng khổ tôi nhiều.
Thầy thông bối rối nên ngồi lặng thinh hoài. Cô có ý trông thầy
trả lời mà trông không được, nên cô đứng dậy bước ra cửa xổ tóc rồi xè hai bàn
tay mà gỡ đầu và nói rằng:
- Đầu gội hồi chiều đến bây giờ mà chưa chịu khô. Cô đứng
ngay cửa, nên gió phất mùi dầu thơm bay vô nhà ngào ngạt. Thầy hửi mùi dầu ấy
tâm thần rối loạn như say như mê. Thầy ngồi châm bẩm ngó cô thấy cô xoã tóc, ngọn
tóc xuống tới nhượng, gió thổi phất phơ, còn mái tóc thì xấp xải dựa hai bên gò
má, coi thiệt là xinh đẹp. Thầy động tình không thể dằn được, nên kêu nói nho
nhỏ rằng:
- Cô Sáu, cô Sáu, cô vô ngồi trong nầy đặng tôi nói chuyện
riêng một chút.
Cô day lại ngó thầy và cười và nói chúng chứng rằng:
- Còn nói chuyện gì nữa đó? Anh Ba chị Ba tôi về gặp chết tôi
đa.
Thầy đáp rằng:
- Không hại gì đâu. Cô nói chín, mười giờ mới về, bây giờ
chưa đầy tám giờ mà về giống gì. Cô vô đây nói chuyện một chút mà.
Cô Sáu Lý để tóc dã dượi mà bước vô, rồi lần lại chỗ cũ cô ngồi
bới đầu. Thầy cầm gói thuốc trăn trở mà nói rằng:
- Chẳng còn giấu cô làm chi nữa, hơn một tháng nay đêm nào
tôi cũng xuống đây mà chơi, ấy là vì có cô tôi mới xuống. Tôi chẳng hiểu tại
sao ai xuôi khiến mà từ ngày tôi gặp cô trên chùa thì trong lòng tôi khoăn
khoái hoài vọng cô hoài, hễ ngày nào tôi không thấy mặt cô thì xốn xang bứt rứt
chịu không được. Hồi nãy cô xin tôi đừng tới nhà cô chơi nữa; cha chả, nếu tôi
không thấy mặt cô tôi chết, chớ sống sao được.
Cô nói rất buồn thảm rằng:
-Thầy thương tôi mà thầy sợ chết, nên thầy tính miễn là thầy
khỏi buồn thì thôi, còn tôi mang tiếng mặc kệ tôi, thầy thương như vậy thì tội
nghiệp cho thân tôi.
Thầy suy nghĩ một hồi rồi nói rằng:
-Cô nói như vậy té ra tôi hại cô, chớ có phải thương cô đâu!
-Phải, thầy thương như vậy là hại, chớ không phải thương.
-Xin cô để cho tôi nói cạn lời. Phận tôi đứng làm trai, ăn học
giỏi, làm tới thông ngôn ký lục, lẽ nào tôi không biết chỗ trong đục hay sao mà
nỡ đem lòng hại cô. Tôi thương cô thì tự nhiên phải tính cuộc trăm năm; tôi
thương cô là thương cách quân tử, thương cách trượng phu, chớ tôi như vầy mà
làm cho cô mang tiếng xấu rồi bỏ cô cho đành hay sao? Tôi xin hỏi cô một lời nầy:
nếu tôi cậy mai nói cô mà cưới, không biết cô có ưng tôi hay không?
Cô Sáu Lý thở dài mà đáp rằng:
- Thưa thầy, phận tôi là con mồ côi, nhưng mà từ nhỏ chí lớn
tôi không thèm ham giàu sang, tôi thầm ước có chồng học hành giỏi, biết ăn biết
nói với người ta, thì thôi. Cậu tôi ở trên Sa-đéc giàu lớn mà không có con, nên
nuôi tôi làm con nuôi, đặng sau để gia tài lại cho tôi ăn. Tôi thương cậu mợ
tôi lắm ngặt ép tôi gả cho chỗ giàu sang mà ngu quá, tôi phiền muộn nên trốn xuống
đây. Nói bao nhiêu đó thầy cũng đủ biết, tôi ham giàu hay ham người phải. Thầy
học hành giỏi, lại có chức phận nữa, nếu thầy không chê tôi côi cút quê mùa nên
nói mà cưới tôi, thì tôi phải lạy mà ưng thầy chớ còn đợi chỗ nào nữa. Ngặt vì
thầy thương tôi thầy nói bốc như vậy, mà bác ở nhà biết có lòng thương tôi như
thầy vậy hay không?
Thầy trợn mắt đưa tay mà nói rằng:
-Ồ! Việc vợ chồng là việc trăm năm của tôi, tôi đành chỗ nào
tự ý tôi, cha mẹ ép tôi sao được.
Cô suy nghĩ một hồi rồi đáp rằng:
-Thưa thầy, thầy nói như vậy sao phải? Áo mặc sao qua khỏi đầu,
làm con phải do cha mẹ, chớ thầy nói ngang quá sao được.
-Phải, làm con không nên thất kính với cha mẹ, nhưng mà tôi
biết ý cha mẹ tôi, hễ tôi muốn sao, thì được vậy, xin cô đừng lo.
-Nếu vậy thì thầy viết thơ lựa lời khéo léo mà phân trần cho
bác hay, rồi mời bác xuống chơi đặng đi nói luôn thể.
-Tôi tính việc cho thầy, còn tôi quên việc của tôi. Tôi biết
anh Ba chị Ba tôi thương thầy, nếu thầy đi nói chắc ảnh chỉ chịu gả. Ngặt còn
ông cậu tôi đây, không biết tính làm sao cho êm; ổng ép gả tôi lấy chồng tôi
không chịu, nay tôi xuống đây tôi ưng thầy chắc ổng giận ổng không để gia tài
cho tôi ăn.
- Ối! Có sao mà cô sợ? Nếu cô chê chỗ trên Sa-đéc, mà cô đụng
chỗ nào
hư hèn thì ông cậu giận, chớ cô ưng tôi thì có lẽ nào ổng phiền
mà lo. Cô Sáu liếc mắt ngó thầy mà cười rồi dòm ra ngoài đường và nói rằng:
- Bây giờ có lẽ anh Ba với chị Ba tôi về gần tới.
Thầy thông muốn ngồi nói chuyện nữa, mà sợ ngồi lâu vợ chồng
thầy ký Trượng về gặp rồi rầy cô nên trong lòng bâng khuâng, mới đứng dậy đi lại
chỗ cô ngồi, trong ngực nhảy thịch thịch song gượng làm dạn, một tay thì nắm
bàn tay cô, còn một tay thì vuốt tóc cô mà nói nhỏ rằng:
- Cô nói cô nhớ lời; từ nay tôi thề sống thác có nhau, nếu ai
phụ ai xin trời đất soi xét.
Cô Sáu Lý cuối đầu mà cười; chừng nghe thầy nói dứt lời rồi,
cô mới đưa tay xô nhè nhẹ và nói rằng:
- Thôi đi về đi, kẻo anh Ba chị Ba tôi về gặp chết tôi đa.
-------------------------------------------
14 cạnh
15 loại viền có những lọn chỉ lòng thòng
16 cử động tay để giữ thăng bằng lúc đi
17 bưu điện
18 từ từ đi
TẬP 4
T
hầy thông ra về, nửa tiếc, nửa mừng, đêm ấy nằm trăn trở
hoài, không ngủ được. Sáng bữa sau thầy viết một bức thơ gởi về cho cha mẹ mà
nói rằng tại Cà-mau có cô mười chín tuổi, nhan sắc đẹp đẽ tánh nết hiền hoà, thầy
thấy làm ưng bụng lắm. Cô ấy mồ côi, ở với anh rể làm ký lục ở sở Thương chánh.
Tuy cô không có của riêng, song người cậu ở Sa-đéc giàu lớn, đã nhận cô làm con
nuôi nên ngày sau cô ăn gia tài của cậu. Trong thơ thầy cũng không xin phép mà
cũng không mời cha mẹ xuống Cà-mau chơi rồi nói vợ cho thầy, mà khúc sau hết thầy
lại tỏ ý rằng thầy tính cậy mai đi nói mà cưới cô nọ.
Thầy gởi thơ đi rồi, trong lòng khoăn khoái, chắc rằng trong
năm bảy bữa nữa cha mẹ sẽ trả lời, mà trả lời chắc biểu thầy hễ coi vừa ý thì
nói vì nhà đơn chiếc, lại đường sá xa xôi không thể xuống được.
Tới bữa sau thầy không dám xuống nhà thầy ký Trượng mà chơi nữa.
Mà thầy nằm ở nhà thì xốn-xang, chịu không được, nên thầy đi nghểu-nghển ngoài
đường hoài, đi lần lần tới cửa thầy ký Trượng thầy lén dòm vô nhà thì thầy thấy
cô ký đương ngồi dựa đèn mà may, mà không thấy dạng cô Sáu Lý. Thầy không dám
vô, đi thẳng một khúc xa rồi trở lại, mà cũng không thấy cô Sáu Lý.
Thầy về nhà nằm một hồi rồi đi nữa. Lần nầy thầy xuống tới
thì nhà thầy ký Trượng đã đóng của tắt đèn ngủ im lìm.
Hai đêm sau thầy cũng đi ngang qua ngang lại hoài mà cô Sáu
Lý đi đâu mất, thầy chẳng thấy tăm dạng chi hết. Thầy xốn-xang ăn ngủ không được
tinh thần dã dượi(19) như người đau.
Chiều thầy đi làm về, thầy ghé tiệm mà mua một cái khăn lụa
trắng, bốn chéo có thêu bốn cái bông hường. Tối thầy viết một bức thơ mà tỏ nỗi
tương tư của thầy và thề thốt dầu chết cũng chẳng phụ nhau rồi thầy gói chung với
cái khăn tính đưa cho cô, song chưa biết dùng chước nào mà đưa cho tiện.
Sáng bữa sau thầy bỏ gói ấy vào túi mà đi làm việc. Thầy vừa
ra khỏi nhà thì thấy dạng cô Sáu Lý ở phía dưới đi lên. Cô thấy thầy rưng rưng
nước mắt mà nói:
- Đêm bữa hổm mình nói chuyện với nhau ai thấy họ học với chị
Ba tôi không biết mà chỉ đánh tôi dữ quá. Chỉ nói ít bữa đây chỉ đưa tôi về Sa-đéc.
Thầy có tính lẽ nào thầy tính, chớ nếu tôi xa thầy chắc tôi tự vận tôi chết.
Thầy thông nghe nói lấy làm bối rối lại thấy có người đi gần
tới, nên thầy lật đật nói rằng:
- Tôi gởi thơ về nhà chắc bữa nay tới rồi, xin cô chờ vài
ngày nữa coi cha mẹ tôi trả lời thế nào rồi sẽ hay.
Thầy vừa muốn đi thì cô nói rằng:
- Sao hổm nay thầy không xuống chơi nữa? Thầy làm như vậy chị
Ba tôi chỉ nghi. Tối nay thầy xuống nghe hôn?
Có người đi tới, nên thầy với cô dang ra mà đi một người một
ngả. Tối bữa ấy thầy làm dạn xuống chơi như khi trước. Cô ký Trượng tiếp rước
vui vẻ như thường, cô Sáu Lý cũng ra vô, song cô không cười, mà cũng không nói
chuyện với thầy.
Thầy trông thơ hoài mà không thấy cha mẹ hồi âm thì trong
lòng bứt rứt chịu không được. Thầy chờ tới tám bữa mà cũng chưa tiếp được thơ
nhà, ấy là vì ông Hương sư Trần Văn Sắc được thơ của con tỏ việc hôn nhơn thì vợ
chồng bàn tính với nhau rằng cô Sáu Lý là em vợ một thầy ký sở Thương chánh thì
không sang trọng gì, còn nói người cậu ở Sa-đéc giàu, mà con mình ở Cà-mau làm
sao biết chắc trên Sa-đéc được. Vợ chồng ông đều dụ dự không muốn cho con mình
cưới chỗ đó.
Ông Hương sư mắc lo việc làng nên biểu vợ tuốt xuống Cà-mau
trước thăm con sau coi tình cảnh thế nào.
Bà Hương sư đi tàu xuống Bạc-liêu rồi bà giang ghe mà đi
Cà-mau. Bà xuống tới hồi chín giờ sớm mai. Bà đã biết trước rằng con mình ở đậu
nhà bà Phó Mỹ, nên bà hỏi thăm mà tới đó.
Bà Phó Mỹ nghe bà Hương sư Sắc xưng là mẹ của thầy thông, thì
bà mừng rỡ tiếp rước ân cần lắm. Hai bà nói chuyện với nhau, tâm đầu ý hiệp,
nên mới nói một hồi thì đã thân thiết cũng như người có quen trước năm bảy năm
rồi.
Bà Hương sư hỏi thăm cô Sáu Lý và vợ chồng thầy ký Trượng là
người thế nào. Bà Phó Mỹ lấy thiệt tình mà nói rằng:
- Vợ chồng thầy ký Trượng ở đây mười mấy năm nay, tuy không
mích lòng ai, song thầy có tánh bài bạc nên làm có bao nhiêu thua hết bấy
nhiêu. Còn con Sáu Lý từ nhỏ chí lớn nó ở với anh rể nó. Hồi năm kia nó xằng xịu
với thằng biện của thầy Cai, bị vợ thằng biện bắt bớ rầy rà nên chị nó giận đưa
nó về trên Sa-đéc, nó mới trở xuống hơn một tháng nay. Lóng trước tôi thấy thầy
thông chà lết xuống đó mà chơi hoài, tôi sợ chúng dụ dỗ thầy mê sa mà mang hại,
nên tôi có dứt bẩn thầy, tôi bị thầy rầy nên tôi không nói nữa. Tụi đó quỉ quyệt
lắm, vậy sẵn có chị xuống đây, xin chị la dứt thầy thông đừng có cho thầy tới
lui thường lắm, không nên đâu.
Bà Hương sư vùng hỏi rằng:
- Nghe nói đó có một người cậu ở trên Sa-đéc giàu lắm mà.
- Tôi không biết người đó, song tôi có nghe nói đủ làm đủ ăn
vậy chớ giàu giống gì.
Bà Hương sư nghe thuật chuyện gia đạo của thầy ký Trượng và
tánh nết của cô Sáu Lý thì bà đã ngán rồi, mà chừng nghe nói người cậu ở Sa-đéc
không giàu thì bà nhứt định cản con, chẳng hề khi nào chịu cho nó cưới vợ chỗ
đó.
Đến mười một giờ thầy thông về nhà, thầy bước vô ngó thấy mẹ
thì chưng hửng. Thầy chưa kịp nói chi hết thì bà đã khởi chuyện hôn nhơn ra mà
rầy thầy. Bà trách thầy sao mê sa chi thứ gái hư, gái nghèo. Thầy nghe mẹ khinh
bỉ người của thầy yêu thì đau lòng xót dạ hết sức, song không dám thất kính với
mẹ, chỉ nói rằng:
- Má đừng nghe lời người ta, cô ấy xứng đáng lắm, má thấy mặt
chắc má thương liền.
Bà nổi giận nên nói lớn rằng:
- Trước khi đi tao với cha mầy dặn mầy những việc gì đâu, sao
mầy mau quên lắm vậy. Tao nói thiệt với mầy, nếu mầy cãi lời tao mầy cưới con
đó thì tao với cha mầy không biết mầy nữa, mầy muốn làm giống gì đó thì mầy làm
đi.
Thầy ngồi khóc nước mắt chảy ròng ròng. Thầy tức tửi mà nói rằng:
- Con thương nó lắm, nếu không cưới nó được chắc con phải chết.
Bà cười ngất mà nói rằng:
- Quí báu dữ hôn, con có ăn học mà sao khờ dữ vậy. Người ta dụ
dỗ con, con không biết hay sao.
Tối bữa đó bà Hương sư quá giang ghe thương hồ mà trở lên Bạc-liêu.
Bà vào Toà bố hầu quan chủ tỉnh mà khóc lạy kể rằng vợ chồng bà già cả có một
chút con trai, nó nhỏ dại mà ở xa bị người ta dụ dỗ nên nó mê sa gái hư. Bà xin
quan Chủ tỉnh làm phước thương dùm phận vợ chồng bà, xin rút con bà về Bạc-
liêu làm việc đặng nó lánh xa kẻ quấy.
Quan Chủ tỉnh thấy bà năn nỉ quá ngài động lòng, nên chạy tờ
cho Quan trên mà rút thầy Trần Văn Phong về Bạc-liêu. Quan trên nhậm lời, song
làm giấy đổi thầy về Long-xuyên.
Từ khi bà Hương sư Sắc về rồi thì thầy thông Phong buồn bực
lo sợ hết sức. Thầy bối rối, vì một đàng làm cha mẹ, còn một đàng là người yêu,
hễ vưng lời cha mẹ thì đau lòng, còn hễ vừa lòng thì thất hiếu với cha mẹ, nên
thầy lưỡng lự không biết liệu lẽ nào. Thầy nghi cho cô Ba Điệp hoặc bà Phó Mỹ
thêu dệt cho nên mới có việc bất hoà như vầy, bởi vậy thầy sanh lòng oán hận,
tính kiếm nhà khác mà ở đậu.
Thầy chưa nhứt định nên không dám xuống nhà thầy ký Trượng mà
chơi nữa. Cách bảy tám bữa, thình lình có dây thép của quan Chủ tỉnh Bạc-liêu
đánh cho quan Phó Tham biện Cà-mau hay rằng thầy thông Phong đổi đi Long-xuyên
và dạy phải đi lập tức.
Thầy hay tin ấy chẳng khác nào sét đánh bên tai. Nếu chống cự
không chịu đi thì chắc quan trên cách chức, còn nếu đi Long-xuyên thì làm sao gần
gũi với cô Sáu Lý được nữa? Xúi cô trốn anh chị mà đi theo mình cho trọn tình
chung thủy thì có lẽ được; cha chả, làm như vậy thì nghịch ý cha mẹ. Thầy còn bối
rối
chưa nhứt định lẽ nào, quan Phó Tham biện lại thôi thúc biểu
thầy nội ngày mai phải đi, chớ không được trì hoãn.
Tuy vợ chồng ông Hương sư Sắc dạy con, hồi nó còn đi học thì
khuyên nó phải ráng học đặng làm thông ngôn ký lục, chừng nó được làm thầy
thông, thì khuyên nó phải lựa con nhà giàu sang mà kết đôi, và phải dùng của hối
lộ mà lập nghiệp, chớ không chỉ đường nhân nghĩa, không dạy cách làm trai,
không dặn chữ nhơn quyền, không khuyên trọng danh dự. Nhưng mà lương tâm của thầy
thông chưa u ám thái quá, nên thầy cũng biết thương yêu cha mẹ, biết kính trọng
tổ tiên. Nhờ cái lương tâm ấy nó khuyên thầy, nên đến chiều thầy mới nhứt định
từ cô Sáu Lý mà đi, thà cắt ruột mình, chớ không nỡ để phiền lòng cha mẹ.
Đến tối thầy xuống nhà thầy ký Trượng từ giã đặng sáng mai
lên đường. Rủi mà cũng may, vì bữa ấy không có vợ chồng ký Trượng ở nhà, duy có
một mình cô Sáu Lý mà thôi. Sự thầy bị đổi đi Long-xuyên ai cũng đã hay rồi hết,
nên thầy mới bước vô thì cô hỏi rằng: "Nghe nói thầy đổi rồi việc mình
tính đó thầy liệu làm sao?"
Thầy lấy khăn ra lau nước mắt, rồi ngồi chống tay mà ngó ngọn
đèn, lòng bối rối, họng ngẹn ngùng, không nói chi được hết. Cô ngồi bên ghế dựa
vách mà khóc rấm rứt. Cô đợi một hồi lâu không nghe thầy trả lời, cô mới đứng dậy
hỉ mũi rồi nói rằng: "Bữa nào thầy đi xin thầy cho tôi biết trước. Bề nào
tôi cũng trốn mà đi theo thầy, chớ tôi xa thầy một ngày chắc tôi buồn rầu tôi
phải chết".
Thầy lắc đầu mà đáp rằng: "Không được, cô theo tôi không
nên đâu". Cô nhướng mắt ngó trân mà hỏi rằng:
- Sao vậy?
- Cha mẹ tôi không bằng lòng cho tôi cưới cô, nếu tôi cãi lời
thì cha mẹ tôi không nhìn tôi nữa.
- Ai nói với thầy như vậy.
- Má tôi nói, chớ ai.
- Thầy gặp má thầy hồi nào mà má thầy nói. -
Má tôi xuống bữa hổm.
- Xuống hôm nào, sao tôi không hay.
- Xuống cách bảy tám bữa rày. Xuống có một bữa rầy tôi rồi giận
bỏ đi về liền.
Cô Sáu Lý nghe mấy lời, liền ngồi lại trên ghế, mắt ngó thầy
trân trân, coi bộ giận lắm. Cách một hồi lâu cô mới hỏi rằng:
- Má thầy ở xa, thuở nay không biết tôi, mà sao lại chê tôi,
nên cản không cho thầy cưới.
- Không biết tại sao mà má tôi không chịu, bởi vậy hổm nay
tôi buồn quá.
- Nếu vậy thì bây giờ thầy tính làm sao?
- Thiệt khó quá, nên tôi không biết liệu làm sao cho được.
- Tôi hỏi thiệt thầy vậy chớ thầy thương tôi hôn?
- Bụng tôi cô đã biết rồi, cần gì cô phải hỏi nữa.
- Thầy có chê tôi là con mồ côi nghèo hèn, không xứng đáng
làm vợ thầy hôn?
- Không, đạo vợ chồng miễn là có tình với nhau thì thôi, chớ
so sánh giàu nghèo sang hèn là nghĩa gì.
- Nếu thầy thương tôi, mà thầy cũng không chê tôi nghèo hèn,
thì hai đứa ở đại với nhau; cha mẹ có giận thì một ít năm nguôi ngoai rồi thôi,
chớ không lẽ giận hoài hay sao mà sợ.
- Không được. Má tôi rầy lắm. Nếu tôi cãi lời chắc má tôi
không dung đâu.
- Bất quá giận thì không tới nhà mình, chớ chém giết gì đó mà
sợ.
- Ý! Nói như vậy sao được.
- Nếu vậy thầy sợ cha mẹ hơn là thương tôi. Tình thầy như vậy
thì có ra gì đâu.
- Mình làm con phải sợ cha mẹ chớ.
- Té ra thầy nhứt định bỏ tôi mà đi hay sao? Vậy mà hôm trước
thề thốt dữ chớ!
- Hôm trước tôi có dè cha mẹ cản trở như vậy đâu.
- Vậy mà dám xưng là trượng phu, xưng là quân tử. Vậy mà dám
nói rằng hễ vắng mặt tôi thì buồn rầu chắc phải chết. Trượng phu quân tử gì mà
gạt gẫm đàn bà con gái như vậy. Thầy bỏ tôi mà đi Long-xuyên thầy không sợ buồn
rầu rồi chết sao?
Thầy thông Phong hổ thẹn không biết sao mà trả lời nên ngồi gục
mặt mà chịu. Cô Sáu Lý đứng dậy mà nói rằng:
- Thầy thúi lắm. Làm trai như vậy nên lắt cái mặt mà quăng
đi. Tôi biết rồi, thầy gạt tôi, sợ ở đây tôi chửi, nên xin đổi đặng trốn tôi chớ
gì. Tôi nói cho thầy biết, thầy gạt tôi không dễ gì đâu.
Cô nói dứt lời liền quày quả đi vô buồng giở rương lấy cái
khăn với phong thơ của thầy đưa hôm nọ mà liệng trúng ngay mặt thầy và mắng rằng:
- Đồ khốn nạn! Trả khăn với thơ cho mầy đó. Đi đâu thì đi cho
mau.
Đừng ngồi đó nữa. Thứ vầy mà cũng xưng là thầy thông! Thông
gì! Thông khoan.
Thầy hổ thẹn, mặt mày tái xanh, không nói được một tiếng, thò
tay lượm cái khăn với phong thơ, rồi riu ríu ra về. Thầy ra tới ngoài đường rồi,
mà cũng còn nghe có tiếng lầm bầm mắng nhiếc.
--------------------------
19 uể oải, mất sự linh động
TẬP 5
T
rong mấy tỉnh ở dọc theo mé sông Hậu-giang, duy có tỉnh
Long-xuyên thì nhỏ mà lại nghèo hơn hết. Tuy vậy mà tỉnh thành sạch sẽ, dưới
sông tàu ghé, ghe đậu đông đầy, trên đường cây trồng ngay hàng, tàn che rất mát
mẻ.
Những người giúp việc nhà nước từ thầy thông, thầy ký, thầy
giáo, cho đến bực Phủ, Huyện, khi mới đổi lại Long-xuyên thấy xứ không giàu bằng
Cần-thơ, Sóc-trăng, Sa-đéc, Rạch-giá, thì buồn, nên không muốn ở, mà hễ ở được
vài tháng, quen biết người bổn xứ, nhứt là có đến nhà bà Hương quản Viện chơi một
ít lần rồi, thì đem lòng trìu mến, không muốn đổi đi xứ nào khác nữa.
Bà Hương quản Viện ở dưới xóm Cái-sơn, cách chợ chừng vài
trăm thước. Bà goá chồng, tuổi đặng năm mươi rồi, mà răng vẫn còn cứng khư, tóc
chưa điểm bạc. Bà không phải là nhà cự phú, song khi chồng chết có để lại cho
bà một
cái nhà ngói ba căn, nền đúc, cửa cuốn, trong nhà ghế bàn ván
tủ thứ nào cũng bằng danh mộc hết thảy, sau vườn thì trồng cây trái sum sê, trước
sân thì chưng kiểng vật ê hề, ngoài rào song sắt đặng ngăn kẻ gian, trong có để
bàn ngồi mà hứng gió. Bà có ruộng thì ít mà có bạc thì nhiều, ruộng thì bà cho
mướn mỗi năm góp lúc chừng vài ngàn giạ mà thôi, song bạc thì chứa đầy tủ sắt,
bà cho vay mỗi năm số tiền lời bà xài không hết.
Bà không có con trai, duy có một đứa con gái đặt tên là Lâm
Diệu-Anh năm trước bà đã gả lấy chồng về dưới Lấp-vò; rủi thay, bà có rể mừng
chưa kịp, kế chú rể mang bịnh mà vong thân, làm bà phải ứa luỵ rước con mang về
mà khuyên giải cho nó bớt sầu não.
Lâm Diệu-Anh tuổi vừa mới hai mươi hai, chồng đã chết ba năm
rồi, mà cô ở goá không tính lấy chồng khác. Cô là một người chơn chất, không chịu
thoa son giồi phấn, chẳng hề tỉa mái tóc, nhổ chơn mày, y phục thì dùng hàng
đen với trắng, chớ không ưa màu đỏ xanh, nói chuyện thì dùng tiếng ngọt lời êm,
chẳng hề thấy cô lả-lơi giễu cợt. Nhan sắc của cô chẳng hơn con gái nhà giàu
khác, nhưng vì nết của cô đằm thắm cái hạnh của cô khít khao, lời nói của cô dịu
dàng, tướng đi của cô yểu điệu, bởi vậy mấy thầy ở tỉnh, dầu chưa có vợ hay là
có vợ rồi cũng vậy, ai cũng gắm ghé trầm trồ.
Bà Hương quản Viện nhà giàu, mà có con gái như vậy, thì cũng
đủ quến 20) khách rồi, mà bà lại thêm có tánh bải-buôi, hễ nhà có cúng quải thì
bà ưa mời hết mấy thầy mà đãi, còn ngày thường thầy nào tới chơi thì bà cũng tiếp
rước ân cần lắm, bởi vậy chẳng đêm nào mà nhà bà không có một vài thầy tới
chơi, còn bữa chúa nhựt thì họ lại rủ nhau tới đó hoặc đánh bài thính cẩu, hoặc
đánh bài tứ sắc; bà đãi rượu trà cơm cháo thì bà lấy xâu, còn họ đánh bài với
nhau thì ai ăn thì nhờ, ai thua thì chịu.
Mà trong mấy thầy duy có thầy Lê Trường Sanh tới nhà bà chơi
thường hơn hết. Thầy Lê Trường Sanh đứng thông ngôn cho quan Chánh-bố (21) chủ
tỉnh. Thầy đẹp trai, ăn nói lanh lẹ, y phục đoan trang. Nghe nói thầy làm việc
lương bổng thì ít, mà huê lợi thì nhiều; nhưng vì thầy ưa bài bạc mà cũng ưa
gió trăng, nên trong túi thầy thường có năm bảy chục đồng luôn luôn, mà trong
nhà thì không có một đồng nào hết. Thầy đã hai mươi sáu tuổi rồi, song không hiểu,
thầy muốn ở một mình đặng chơi cho thong thả, hay thầy chưa thấy ai vừa lòng đẹp
mắt, mà thầy đổi lại Long-xuyên bốn năm rồi, làm việc thì quan trên yêu, dân dưới
sợ, nếu muốn thì chẳng thiếu chi người dành gả con, nhưng mà thầy chưa tính cưới
vợ chỗ nào hết.
Khi thầy mới quen với bà Hương quản Viện thì thầy theo chọc
ghẹo cô Diệu Anh hoài, mà thầy nói giễu cợt, cô cứ giữ nghiêm trang, bởi vậy
tuy tánh thầy ngang tàng, mà rồi thầy cũng phải kiêng nể, không dám nói lả-lơi
nữa.
Mấy thầy thấy đến nỗi Lê Trường Sanh mà còn chọc cô Diệu Anh
không được, bởi vậy xét phận mình thì hổ thầm, nên không ai dám hở môi. Tuy vậy
mà cũng rủ nhau tới chơi hoài, có thầy thiệt thấy bà Hương quản háo khách nên tới
chơi, còn có thầy lại có ý riêng, thầm tính tới thường hoặc may cô Diệu Anh có
động tình vừa mắt chăng.
Bà Hương quản tiếp mỗi thầy đều trọng hết thảy, chẳng hề bạc
đãi một thầy nào. Bà lại biết bụng con của bà, nên bà không thèm dè-dặt gìn-giữ
chi hết, cứ niềm nở bãi buôi với mọi người rồi dùng sự thân thiết đó mà cậy mượn.
Bởi người vay bạc không trả hoặc trốn, thì có thầy thông đứng bàn quan Biện lý
cho bà, mua đất mua trâu thì có thầy thông coi sở Bách phần lo cầu chứng, ai lấn
ranh giựt đất thì có thầy thông coi địa-bộ (22) làm đơn cho bà đi thưa, làng có
húng hiếp việc gì thì có thầy thông quan lớn chánh binh vực. Mấy thầy tới nhà
bà chơi thì vui, mà bà trọng đãi mấy thầy bà cũng có lợi.
Thầy Trần Văn Phong ở dưới Cà-mau đổi lên Long-xuyên tuy thấy
cảnh đẹp đẽ hơn xứ Cà-mau nhiều nhưng vì mấy lời mắng nhiếc của cô Sáu Lý còn
văng vẳng bên tay hoài, nên thầy không vui chút nào hết.
Thầy vào trình việc với quan Chủ tỉnh mà xin việc. Quan Chủ tỉnh
thấy thầy trẻ tuổi, lại nghe thầy khai mới làm việc có ba tháng mà thôi, ngài sợ
thầy chưa thông-thạo, nên dạy thầy coi nhựt ký thơ từ, chớ không cho thầy làm
việc chi khác.
Thầy nghĩ phận mình cũng là thông ngôn chách ngạch như người
ta, mà sao người ta được làm bộ trâu bò, được phát sách ghe, được coi sanh ý
(23), được thâu đơn khẩn, được giữ bộ điền, còn mình thì mỗi buổi hầu cứ chép
thơ mỏi tay, tổng làng dân sự không ai thèm ngó tới, bởi vậy thầy không vui mà
lại càng thêm buồn phiền, nên thầy mướn một căn phố nhỏ ở, rồi hễ đi hầu về rồi
nằm co mà thở dài, không muốn đi chơi như chúng bạn.
Ở gần nhà thầy, có thầy ký Hậu, tánh tình vui vẻ, thấy thầy mới
đổi lại cứ nằm nhà hoài, tưởng là vì lạ lùng bợ ngợ, nên thầy không đi chơi, bởi
vậy lân la đến làm quen rồi bữa thì dắt đi thăm anh em bữa thì rủ nhau đi dạo
chợ. Lần lần thầy ký Hậu dắt thầy Trần Văn Phong xuống nhà bà Hương quản Viện.
Thầy thông Phong bước vô thấy nhà cửa nguy nga, ghế bàn hực hỡ,
thì thầy ái ngại, nên kệ nệ ngồi không yên. Chừng thầy ký Hậu trình thầy cho bà
Hương quản rồi, bà mừng rỡ, hỏi thầy đổi lại hồi nào, dọn nhà ở đâu, có vợ con
hay chưa, cha mẹ còn song toàn hay không, gốc gác ở tỉnh nào, bộ bà ân cần trọng
hậu lắm, chừng ấy thầy mới hết bợ ngợ nữa. Thầy thông Phong ngồi nói chuyện
chơi trót một giờ đồng hồ, thầy thấy tánh bà Hương quản bãi buôi, lấy làm đẹp ý
vô cùng, và nhứt là thầy thấy cô Diệu Anh vô ra, lúc rót nước mời thầy uống, lúc
ngồi dựa đèn mà may, nhan sắc cùng là y phục chẳng có vẻ chi hơn gái bình thường
song cô có cái duyên chi không biết mà thầy thấy cô rồi thì cặp mắt bắt liếc
ngó cô hoài, bởi vậy thầy chà lết cứ ngồi nói chuyện hoài không tính về, đến nỗi
thầy ký Hậu đứng dậy biểu thầy về thầy mới chịu từ bà Hương quản và cô Diệu Anh
mà đi theo ký Hậu.
Bà Hương quản đưa khách ra cửa rồi còn nói với thầy thông
Phong rằng:
- Bữa nào thầy buồn cứ xuống dưới nầy mà chơi. Tôi không có
con trai, nên thấy mấy thầy còn nhỏ tôi thương lắm. Thầy đừng ngại chi hết, hễ
biết thì là bà con chớ ai đó sao.
Ra ngoài đường thầy thông Phong mới hỏi thầy ký Hậu coi bà
Hương quản ấy là ai, sao mà bà giàu có như vậy, mà trong nhà bà chỉ có hai mẹ
con mà thôi, không có một người đàn ông nào hết. Thầy ký Hậu mới đem việc nhà của
bà Hương quản mà đọc hết cho thầy nghe rồi lại nói rằng:
- Cô hai Diệu Anh là một người con gái đứng đắng lắm. Cô nhỏ
tuổi, góa chồng ba năm nay, mà mấy thầy đến chơi dập dìu, chớ chưa có thầy nào
đụng được chéo áo của cô. Ai mà ve cô được, thiệt chẳng khác chuột sa vào hũ nếp.
Đêm ấy thầy thông Phong nằm thao thức hoài, trong trí cứ tưởng
tượng cô Diệu Anh, mà không hiểu thầy tưởng đó là vì dung hạnh của cô, hay là
vì nhà tốt của bà Hương quản Viện.
Mấy bữa sau thầy cứ rủ thầy ký Hậu đi xuống Cái Sơn chơi
hoài, lâu lâu thầy đi một mình xuống thăm mẹ con bà Hương quản, không cần rủ ai
đi hết. Bà Hương quản càng quen, bộ lại càng thêm thân thích, mà thầy thông
Phong càng thấy cô Diệu Anh thầy càng phơi phới trong lòng. Còn cô Diệu Anh thì
cứ một mực đãi thầy, thầy nói chuyện với cô thì cô cũng hầu chuyện với thầy,
song nói chuyện thì cô cứ giữ lời nghiêm trang, đứng ngồi thì cô giữ đủ lễ
phép.
Thầy thông Phong thấy mẹ con bà Hương quản đã thân thiết mà lại
trọng hậu mình, trong trí tưởng người ta đã chấm mình rồi, nên lân la tới hoài,
lại thầm tính hễ có lễ nghỉ thì về thăm nhà đặng thưa cha mẹ hay rồi cậy mai
nói cô Diệu Anh mà cưới.
Thầy tính như vậy mà chưa kịp về nhà, kế gặp dịp bà Hương quản
có kỵ cơm, bà mời đủ mấy thầy, mấy ông trong tỉnh đến dự tiệc. Khi quan khách tới
đông rồi bà Hương quản mời uống rượu khai vị, và bà nói rằng:
- Nhà tôi không có đàn ông nên không có ai ra đãi khách được,
vậy xin
mấy ông mấy thầy miễn lễ dùm cho tôi. Thầy thông Phong nghe
nói như vậy thầy liền đứng dậy cười ngỏn ngoẻn và nói rằng:
- Thưa cô, để tôi thay mặt mà đãi khách cho cũng được vậy mà,
xin cô an tâm.
Thầy nói dứt lời, liền xách mấy ve rượu đi rảo mấy bà mà mời
khách, bộ lăng xăng lít xít, làm như người chủ nhà.
Thầy Trường Sanh vẫn đã có ý kết tóc se tơ cùng cô Diệu Anh,
nhưng vì thấy tánh nết cô khít khao, sợ cô chê mình ăn chơi cô không ưng, nên
không dám nói. Mấy tháng nay thầy nghe thầy thông Phong lân la xuống nhà bà
Hương quản hoài, thì thầy sợ thầy thông Phong chiếm chỗ quý địa của thầy, nên
tuy thầy không nói ra, song thầy đã đem lòng ganh ghét rồi. Nay thầy thấy thầy
thông Phong làm như người trong nhà nữa, thì thầy nổi giận, muốn thừa đám đông
mà làm nhục thầy thông Phong một lần cho thầy chừa thói hí hất không xem trước
ngó sau đi, bởi vậy khi thầy thông Phong xách rượu lại mời thầy, Lê Trường Sanh
trợn mắt mà nói rằng:
- Để đó cho người ta, mầy! Ai cầu hay sao mà làm bộ như con
khỉ vậy.
Thầy thông Phong tưởng Trường Sanh nói chơi, nên không giận,
lại nhăn răng cười rồi day qua mời người khác. Trường Sanh ngó theo cặp mắt lườm
lườm.
Chừng nhập tiệc rồi thầy thông Phong ngồi ăn, mà một lát cũng
chạy dòm đầu nầy, ngó đầu nọ, khi thì đứng rót rượu mời khách, khi thì biểu trẻ
dọn đồ ăn, Trường Sanh giận quá dằn không đặng nên kêu lớn rằng:
- Ê! đi-đon(24) Phong, toa cũng là khách như mấy ông mấy thầy
đây vậy, toa phải ngồi êm thắm mà ăn như người ta, chớ toa còn làm bộ lộn xộn nữa,
moa bạt tai và đạp đít toa ra khỏi cửa đa, nói toa cho biết.
Thầy thông Phong nghe mấy lời nặng nề ấy thì nổi giận, mà liếc
mắt thấy cô Diệu Anh ngồi bên ván miệng chúm chím cười thì hổ thẹn quá, nên
buông đũa đứng dậy và đi lại chỗ Trường Sanh ngồi và nói rằng:
- Tôi có động tới thầy đâu, thầy ỷ đứng bàn quan lớn chánh rồi
thầy muốn xài (25) ai thì xài sao?
Trường Sanh không thèm trả lời, đợi thầy thông Phong lại tới
chỗ thầy ngồi, thầy vùng đứng dậy nện cho thầy thông Phong một bạt tai lại nhảy
đạp cho một đạp té nhủi vô cánh cửa một cái rầm.
Mấy thầy áp lại kẻ ôm Trường Sanh, người đỡ thầy Phong mà
can. Thầy thông Phong đứng dậy, tóc xụ bít cả mắt, gò má bên tả đỏ lòm, cái cà-
ra-hoách(26) đen văng đâu mất, sau đít lại bị chiếc giày của Trường Sanh nên lấm
lem nữa. Phần thì giận, phần thì mắc cỡ, bởi vậy môi tái xanh, tay run lập cập,
thầy chỉ Trường Sanh mà nói rằng:
- Thầy đừng có ỷ thế mà phách với tôi mà thầy giỏi gì đó sao?
Trường Sanh trợn mắt đáp rằng:
- Nầy còn nói nữa tao đánh nữa.
Thầy vưà nói vưà xốc lại. Mấy thầy kẻ thì giăng tay cản Trường
Sanh mà nói rằng thầy Phong còn nhỏ mới lỗi lầm một lần nên cho xin, người thì
phủi quần, gắn cà-ra-hoách dùm cho thầy Phong rồi dắt đi về chỗ biểu ngồi ăn đừng
nói chi nữa hết.
Thầy thông Phong ngồi gục mặt xuống hổ thẹn ăn không đựơc, mà
cũng không dám ngó ai hết.
Bà Hương quản ngồi bên ván trách rằng:
- Hai thầy thông nóng nảy quá, may có mấy thầy can dùm, chớ
phải
một mình tôi thì tôi biết làm sao.
Trường Sanh đứng dậy miệng chúm chím cười và nói rằng:
- Thưa dì tại thầy vô lễ quá, làm cho tôi giận tôi dằn không
được. Vậy dì tha lỗi cho tôi.
Thầy thông Phong uất ức, muốn nói phải quấy ít lời cho đỡ xấu
nhưng vì giận và hổ thẹn nên thầy mất trí khôn, không biết tiếng chi mà nói,
nên cứ ngồi lặng thinh, bộ mặt đầm đầm.
Đêm ấy thầy thông Phong về nhà tức giận, ngủ không được, muốn
rửa nhục mà không biết dụng mưu nào, đánh lộn thì sợ đánh không lại người ta,
còn cậy người khác phụ với mình thì mình mới tới Long-xuyên chưa thâm giao với
ai, nên không biết ai mà cậy. Thầy tính tới tính lui rồi nhứt định để sáng mai
vô Tòa bố sẽ kiện với quan lớn chủ tỉnh.
Bữa sau thầy đi hầu, ngó thấy mấy thầy thì xẻn lẻn, còn Trường
Sanh thì hiu hiu tự đắc, kêu làng khoát nạt om sòm. Đến mười giờ thầy thông
Phong nghe bếp hầu nói quan lớn Chủ tỉnh rảnh rồi, thầy mới men men lên phòng
riêng của ngài mà kiện Trường Sanh. Chẳng hiểu Trường Sanh đã thưa trước với
quan lớn chánh thể nào, mà ngài vừa thấy mặt thầy Phong thì ngài la rầy vang
rân, mắng rằng còn nhỏ mà không lo học làm việc để lo ve gái, rồi lại hăm rằng
nếu còn làm như vậy nữa thì ngài sẽ chạy tờ xin đổi thầy đi Côn-nôn hoặc Hớn-quản.
Thầy thông Phong tức quá, muốn đối nại, mà bị quan lớn chánh
gạt ngang không cho nói, rồi đuổi biểu đi về chỗ ngồi làm việc, bởi vậy thầy phải
vưng lời riu ríu đi ra mà cặp mắt ướt rượt.
Thầy oán giận Trường Sanh cành hông, song không biết làm sao
mà rửa oán. Thầy hổ thẹn không dám thấy mặt mẹ con bà Hương quản Viện nữa. Đã vậy
mà Trường Sanh còn hăm he nói rằng nếu thầy Phong còn léo hánh xuống Cái Sơn nữa
thì thầy sẽ làm nhục bằng mười cái nhục hôm trước và sẽ nói quan lớn chánh cách
chức. Thầy thông Phong yếu thế nên phải nhịn thua, đã không dám đến nhà bà
Hương quản, mà cũng không muốn đi chơi chỗ khác.
---------------------------------------------
20 thu hút
21 (bố chánh), tỉnh trưởng, chủ tịch tỉnh
22 hay địa bạ (cadastre, cadastral register): sổ sách ghi sở
hữu về ruộng (điền bộ), về đất trồng trọt (thổ bộ) và về đất "ăn ông"
(ngạn bộ)
23 nghề nghiệp
24 (dis donc), nầy
25 rầy, xài xể, khiển trách
26 cà vạt
TẬP 6
C
uộc tuyển cử Hội đồng quản hạt gần tới. Ông Lê Huấn Hữu là cựu
thông ngôn ở Châu-đốc với ông Võ Hạo Nhiên là điền chủ ở Long-xuyên ra tranh cử
quận Châu-đốc, Hà-tiên, Long-xuyên, Rạch-giá, nên đi rảo khắp nơi kiếm thế cậy
thần mà khuyến dụ thừa sai các làng.
Lê Trường Sanh đứng thông ngôn cho quan chủ tỉnh, tổng làng
thảy đều kiêng nể, bởi vậy hai người ra tranh cử người nào cũng đến cậy giúp lời
dùm. Trường Sanh đã không chịu giữ cử chỉ trung lập, mà lại còn chường mặt đi
lo dùm Võ Hạo Nhiên, ép làng phải theo ý mình, rầy tổng sao không sốt sắng.
Đến ngày tuyển cử, Võ Hạo Nhiên ở Long-xuyên tuy được thăm
nhiều, song ở Châu-đốc, Rạch-giá, Hà-tiên đều sút thăm Lê Huấn Hữu xa lắm, bởi
vậy Lê Huấn Hữu đắc cử.
Lê Huấn Hữu không nhờ thừa sai tỉnh Long-xuyên mà cũng được
làm Hội đồng Quản hạt, bởi vậy khi lãnh chức rồi muốn cho dân Long-xuyên biết
oai thế của mình, nên đi Sài-gòn làm sao không biết mà quan trên chạy giấy rút
thầy Lê Trường Sanh về làm việc tại dinh Thượng thơ.
Thầy thông Phong oán hận Trường Sanh mà không dám ra sức rửa
hờn. Nay thình lình người ta làm cho Trường Sanh bị đổi, thầy lại khoái chí vui
lòng. Cái thái độ ấy thiệt là thấp hèn, nhưng vì thầy không phải là người cao
kiến, bởi vậy sự vui mừng của thầy lộ ra ngoài cho đến mọi người đều thấy rõ hết
thảy.
Cách chẳng mấy ngày quan Chánh chủ tỉnh lại giao cho thầy coi
thâu đơn khẩn đất và coi phát bài vĩnh viễn. Thầy vẫn biết tỉnh Long-xuyên đất
hoang còn nhiều, nếu được lãnh coi sở nầy thì dễ làm giàu như chơi. Tuy vậy mà
thầy không thạo việc, chưa hiểu lề luật lại cũng chưa quen tổng làng, bởi vậy
thầy bợ ngợ không biết nói thế nào mà ăn tiền cho được.
Thầy thấy lúc nầy thầy đi hầu, có một hai người lột khăn xá
thầy. Thầy lấy làm đắc ý, tưởng là thầy đã thế vị cho Trường Sanh được rồi.
Chiều bữa nọ, ăn cơm rồi, thầy mới rủ thầy ký Hậu xuống nhà
bà Hương quản Viện mà chơi. Bà Hương quản vừa thấy thầy bước vô thì bà cười ngất
và nói rằng:
- Dữ hôn! Mấy tháng nay tôi mới thấy mặt thầy thông! Thế khi
thầy
Trường Sanh cấm thầy, nay thầy đổi đi rồi nên thầy mới dám xuống
đây chớ gì, phải hôn?
Bà nói chơi, mà thầy có tịch riêng nên thầy nhột nhạt. Đã vậy
mà thầy thấy cô Diệu Anh đứng trong cửa buồng lấy khăn che miệng mà cười, thì
thầy càng hổ thẹn, bởi vậy thầy trả lời ú ớ, nghe không được, ngồi chơi chưa đầy
mười phút đồng hồ, rồi từ bà Hương quản mà về. Từ đó về sau thầy không chịu xuống
xóm Cái-sơn chơi nữa, dầu ai rủ cho mấy thầy cũng không đi.
Ông Lê Huấn Hữu được làm Hội đồng Quản hạt rồi, thì ông chẳng
lo việc chi gấp cho bằng viêc khẩn đất. Bởi vậy có người điềm chỉ nên ông vào
đơn xin khẩn hai sở đất lớn ở tỉnh Long-xuyên. Ông nghe nói thầy thông Phong
coi về đất khẩn, nên ông tìm đến nhà mà làm quen rồi mượn thầy làm giấy tờ dùm
cho ông cho mau.
Thầy thông Phong thấy cái gương Lê Trường Sanh vì nghịch với
ông Hội đồng mà bị đổi thì thầy giựt mình, bởi vậy thầy ráng lo công việc cho
ông Lê Huấn Hữu không dám trễ nãi.
Lê Huấn Hữu khẩn được hai sở đất rồi, bữa nọ có dịp xuống
Long-xuyên mới ghé nhà thầy thông Phong rồi lại mời thầy ra nhà hàng mà ăn cơm.
Thầy được ăn cơm với ông Hội đồng Quản hạt thì thầy đắc ý chẳng có chi bằng. Mà
chừng ăn cơm rồi nghe ông Hội đồng Quản hạt mời thầy khi nào có lễ nghỉ vài
ngày lên Châu-đốc chơi một chuyến cho biết nhà ông, thì thầy lại càng đắc ý hơn
nữa.
Thầy về nhà thầm nghĩ, nhỏ mà làm quen với mấy ông lớn mới cậy
nhờ được, chớ chơi với kẻ thấp hơn mình thì không ích lợi gì, bởi vậy về sau thầy
ít muốn tới lui chơi với mấy thầy trong tỉnh, đêm nào có buồn thì thầy đến nhà
quan Phủ thăm ngài mà thôi, đến đó bẩm dạ mà thầy vui hơn là nói chuyện với người
khác.
Gần tới Lễ Sanh nhựt (Lễ Chúa giáng sinh, lễ Noël) có giấy
quan trên cho ba ngày nghỉ, thầy nhứt định lên Châu-đốc chơi, nên đánh dây thép
cho ông Hội đồng Hữu hay trước rồi xuống tàu mà đi Châu-đốc.
Thầy đi tàu chệt (27), nên tới Châu-đốc lối hai giờ chiều.
Ông Hội đồng có cho người gia dịch ra đón cầu tàu rước thầy về nhà.
Khi thầy bước vô, ông Hội đồng mừng rỡ, hối đứa ở lấy rượu
đãi thầy và hỏi thăm việc đất cát lăng xăng. Ăn cơm chiều rồi ông Hội đồng mới
dắt thầy đi dạo chợ chơi.
Qua ngày sau ăn cơm sớm mai rồi, ông Hội đồng lại rủ thầy xuống
ghe đi với ông qua thăm anh rể của ông là Cai Tổng Hồng Văn Luông ở bên Phú-hội.
Ghe tới bến thì đã gần ba giờ chiều. Thầy thông Phong dưới
ghe bước lên cầu mát, dòm thấy một toà nhà lầu đồ sộ trước mặt, thầy choá con mắt,
nên đứng ngó sửng. Ông Hội đồng bước lên vỗ vai thầy mà nói rằng:
-Nhà anh Tổng tôi đây. Đi vô chớ.
Ông Hội đồng đi trước, thầy nối gót theo sau. Bước vô khỏi cửa
ngõ sắt rồi mới tới một cái sân lớn, chính giữa sân có trồng một bồn bông tây
thiệt đẹp, lại dọc theo đường đi hai bên có để chậu kiểng đủ thứ, kim quít
(28), cằn thăn, xen lộn với cau lùn, bùm sụm (29), chậu nào cũng lớn cây nào
cũng tươi. Ngoài hai hàng kiểng ấy thì là cây trái sum sê, nào mận, nào cam,
nào ổi bồ đào, nào sa bô chê (30), nào mảng cầu xiêm, nào mít miền dưới, chẳng
thiếu thứ nào hết. Trước thềm nhà lại có xây một cái hồ lớn, giữa hồ có xây một
hòn non giả, dưới nước cá lội vởn vơ, trên non cây mọc lố xố, trông ra thiệt là
phong lưu thú vị vô cùng.
Thầy thông Phong mới thấy ngoài sân mà trong bụng thầy đã
khen thầm rồi chừng bước vô nhà thầy thấy ghế bàn tủ ván, món nào cũng tốt lộng
lạc, thuở nay thầy chưa thấy nhà ai đẹp bằng, thì thầy kinh tâm nên đứng ngó
dáo dác, coi bộ bợ ngợ lắm. Ông Hội đồng thấy nhà vắng teo bèn hỏi rằng:
(thiếu câu hỏi)
Bỗng nghe phía sau có tiếng dạ, mà lại nghe có tiếng giày ở
trên lầu đi xuống thang. Ông Hội đồng ngồi tại ghế giữa rồi chỉ cái ghế khác để
ngang đó mà mời thầy thông ngồi.
Thầy thông vừa ngồi thì thấy một cô độ chừng mười bảy, mười
tám tuổi, da trắng, môi son, y phục toàn lụa trắng, ở trong cửa buồng bước ra
xá ông Hội đồng mà chào rằng: "Thưa cậu, mới vô", rồi lại ngó thầy
thông Phong và cúi đầu chào.
Cô nầy là Hồng Như Hoa con gái của ông Cai Tổng Hồng Văn
Luông. Ông Hội đồng hỏi cô rằng:
- Có anh Tổng và chị Tổng ở nhà hay không?
Cô Hồng Như Hoa cười và đáp rằng:
-Thưa ba với má cháu đi vô trong ruộng.
-Bất nhơn dữ hôn, đi hồi nào?
-Thưa đi hồi khuya.
-Vậy mà tao cứ tưởng có anh Tổng ở nhà, nên sẵn dịp có thầy
thông ở dưới Long-xuyên lên thăm, tao dắt thầy qua chơi chớ. Anh Tổng có nói chừng
nào về hay không?
-Thưa, ba cháu nói đi chiều nay về, bởi vì mai còn mắc đi ăn
kết (31) trong làng nào đó không biết.
-Chắc ảnh về hay không?
-Thưa chắc, bởi vì ba với má cháu dặn chờ về rồi sẽ ăn cơm.
Ông Hội đồng day qua nói với thầy thông Phong rằng:
-Không lẽ qua đến đây rồi bỏ đi về. Thôi, chờ ảnh về đặng tôi
nói chuyện chơi. À! Thầy biết bắn hay không? Như muốn đi bắn chim chơi thì lấy
cây súng của tôi đó, rồi biểu bầy trẻ nó dắt cho mà đi.
Thầy thông Phong không biết bắn súng, song nếu chịu thiệt trước
mặt cô Như Hoa thì sợ cô cười, nên lắc đầu nói tránh rằng:
- Trời nắng quá, thôi để ở nhà chơi.
Mấy đứa chèo ghe xách súng và ôm áo mưa của ông hội đồng lên.
Kẻ trong nhà cũng lăng-xăng lít-xít, đứa quét ván lau bàn, đứa bưng trà lấy thuốc.
Cô Như Hoa đi ra đi vô mà sai khiến tôi tớ như thường, chớ
không phải cô thấy có thầy lạ mà cô bợ ngợ như con gái khác.
Ông Hội đồng cởi áo nằm nghỉ. Thầy nói thầy không mỏi mệt,
nên bước ra đứng trước cửa coi kiểng chơi, ông Hội đồng cởi áo thay giày rồi nằm
ình trên ván.
Chừng thầy trở vô thì ông Hội đồng đã ngủ ngáy khò khò. Thầy
thấy có mấy khuôn hình treo trên bàn viết dựa cửa sổ, thầy mới đi lần lại đó mà
coi. Thình lình cô Như Hoa bước ra và cười nói rằng:
- Ủa! Cậu Hội đồng ngủ rồi. Hồi hôm thức khuya quá sao mà?
Thầy thông day lại nói rằng:
- Hồi hôm ông Hội đồng thức nói chuyện chơi với tôi quá mười
hai giờ khuya rồi mới ngủ.
Thầy vưà nói vưà đi lần lại bàn giữa lấy một điếu thuốc đốt
mà hút.
Còn cô Như Hoa thì ngồi ghế xích đu để gần trước bàn thờ.
Thầy liếc ngó cô thì thấy cô đã bới tóc láng nhuốt, chớ không
phải để đầu bùi nhùi như hồi mới vô vậy nữa. Thầy ngó kỹ lại thấy cổ cô đeo một
sợi dây chuyền nhỏ, mà tai có đeo một đôi bông hột xoàn lớn, tay cô đeo ba chiếc
cà-rá, cũng nhận hột xoàn; tuy miệng rộng môi mỏng, trán thấp, mắt lươn, song
tướng mạo dong dải, tay chơn dịu dàng, coi phải điệu con gái nhà giàu lắm.
Thầy đương liếc cô, thình lình cô day ra ngó thầy mà hỏi rằng:
- Thầy ở dưới Long-xuyên phải hôn?
- Phải, tôi làm thông ngôn tòa bố dưới Long-xuyên.
- Thầy đi lên trên nầy chơi hay có việc chi?
- Ông Hội đồng mời hoài nên tôi lên thăm ông chơi chớ có việc
chi đâu.
- Ừ! Phải rồi. Tôi nghe cậu Hội đồng tôi có khẩn dất ở dưới
Long- xuyên, có lẽ khi cậu xuống dưới thường nên quen với thầy phải hôn?
- Phải.
- Đất ở dưới tốt hay không vậy thầy?
- Chắc là không bằng đất trên nầy. Không biết ông Cai ở nhà
đây mỗi
Năm góp lúa chừng bao nhiêu vậy cô?
- Phần của ba tôi góp chừng năm sáu chục ngàn giạ. Còn đất của
anh hai tôi ở bên Hồng-ngự ảnh góp hai ba chục ngàn gì đó không biết.
- Giàu lớn dữ há! Ông Cai có mấy người con?
- Có hai người con, anh hai tôi với tôi đây mà thôi.
Hai người nói chuyện tới đó, bỗng đâu ông Hội đồng trở mình
và tằng hắng, làm cho hai người lặng thinh không nói nữa. Thầy thông đứng dậy lại
cửa sổ mà ngó ra vườn. Cô Như Hoa đi ra nhà sau, rồi nghe có tiếng cô khoát nạt
tôi tớ om sòm.
Cách chẳng bao lâu ông Hội đồng thức dậy, rửa mặt rồi kế ghe
của vợ chồng ông Cai Tổng về tới.
Ông Cai Tổng tuổi chừng năm mươi, mà vì ông có bịnh hút nên
ông ốm, coi bộ ông già. Ông không có râu mà tóc đã điểm bạc hoa râm. Ông ít nói
mà hễ nói thì chậm rãi, dường như đếm từng tiếng, cân từng lời. Còn bà Cai Tổng
thì mập mạp, phục phịch, đã hay nói hay rầy, mà tiếng nói lại rổn rảng, nên từ
tôi tớ trong nhà đến làng dân trong tổng ai cũng kiêng sợ bà.
Hai vợ chồng ông Cai Tổng về tới bến, thấy ghe của ông Hội đồng
Quản hạt đậu đó thì lật đật đi riết vô nhà; anh em gặp nhau chào hỏi coi bộ vui
vẻ lắm. Ông hội đồng tiến dẫn thầy thông Phong thì vợ chồng ông Cai Tổng cũng
chào hỏi niềm nở tử tế.
Ăn cơm rồi, ông Cai Tổng biểu gia dịch dọn mâm hút lại bộ ván
lớn phía bên tay mặt rồi mời khách lại nằm hút với ông đặng nói chuyện chơi.
Ông Hội đồng nằm ngang với ông Cai Tổng lâu lâu hút một điếu, còn thầy thông
thì thú thiệt rằng thầy không biết hút, nên thầy nhắc ghế ngồi gần đó mà coi và
nói chuyện chơi.
Hai ông nói chuyện với nhau, chẳng hề nghe luận việc chi ích
nước lợi dân, hoặc tính việc chi có nhơn có nghĩa, chỉ lo mưu mà mua đất cho rẻ,
hoặc lập thế giựt đất của dân mà thôi. Nói một hồi rồi ông Cai Tổng hỏi thăm thầy
thông coi ở dưới Long-xuyên còn sở đất nào trống hay không, đặng ông gởi đơn
xin khẩn.
Thầy thông thấy ông giàu lớn ỷ mạnh, trong ý muốn làm ơn cho
ông, nên tuy không thạo việc khẩn đất cho lắm, song cũng hứa bướng rằng để về
ông hỏi dọ cho chắc rồi sẽ viết thơ cho ông biết.
Bà Cai Tổng ngồi bộ ván phía bên kia, bà cũng xen vô mà nói
chuyện vang rân. Cô Như Hoa ngồi một bên bà, cô cũng nói thong thả chẳng ké né
(32) chút nào hết.
Chừng thầy thông bước lại bàn giữa rót nước uống, bà Cai Tổng
mới hỏi thăm thầy mấy tuổi, có vợ hay chưa, gốc ở đâu, cha mẹ còn đủ hay không.
Bà hỏi đâu thì thầy nói đó, cứ tỏ thiệt không dấu chi hết. Lúc thầy nói thì cô
Như Hoa ngó thầy trân trân, nhưng vì đứng trước mặt bà Cai Tổng không dám liếc,
nên thầy không thấy sự ấy.
Lối mười giờ, cô Như Hoa lên lầu mà ngủ. Thầy thông mới lại
ván mà nằm; vì đêm trước thầy thức khuya lại trưa thầy không nghỉ, nên mệt mỏi
nằm nghe nói chuyện một hồi rồi thầy ngủ quên.
Sáng hôm sau ông Hội đồng với thầy thông Phong xuống ghe mà về.
Hai vợ chồng ông cai Tổng với cô Như Hoa đều đưa tới cầu mát. Ghe đã dang ra rồi
mà ông Cai Tổng còn kêu với thầy thông mà dặn kiếm dùm đất ở dưới Long-xuyên đặng
cho ông xin khẩn.
Về dọc đường ông Hội đồng nói chuyện với thầy thông thì cứ
khen ông Cai Tổng Luông giàu lớn, khen ông trị dân khôn khéo, khen ông bụng dạ
rộng rãi. Chừng ghe về tới nhà, hai người sửa soạn bước lên, ông Hội đồng lại vỗ
vai thầy thông mà nói rằng:
- Nầy, tôi mới nghĩ một việc ngộ lắm. Thầy muốn vợ hôn? Thầy
thông chưng hửng, nên mắt ngó ông Hội đồng trân trân, không biết trả lời thế
nào.
Ông Hội đồng cười mà nói tiếp rằng:
-Tôi hỏi thiệt chớ không phải giả bộ đâu. Nếu thầy muốn kiếm
vợ thì tôi nói với anh Tổng tôi đặng ảnh gả con cháu tôi cho thầy. Từ hôm qua đến
nay thầy qua nhà chơi, thầy thấy con cháu tôi rõ ràng, nó dễ coi, chớ không lịch
sự cho lắm, mà cưới vợ kiếm gái xinh đẹp làm chi, vợ xấu là vợ của mình. Nó có
học trên Nữ học đường ba bốn năm, nó nói tiếng tây khá quá. Tôi mới quen biết
thầy mấy tháng nay, mà tôi thấy tánh nết thầy tôi thương, nên tôi tính như vậy
đặng gần gũi nhau chơi. Thầy nghĩ thử coi được thì tôi làm mai dùm cho.
Thầy thông Phong tuy trong trí thường mơ ước cưới vợ giàu,
theo như lời cha mẹ dạy, song vô đến nhà Cai Tổng Luông, thầy thấy nhà cửa kinh
dinh (33) thầy choá mắt, thầy thấy cô Như Hoa đeo hột xoàn thầy kinh tâm, thầy
nghe chủ nhà giàu, số huê lợi mỗi năm đến năm bảy chục ngàn thầy khiếp sợ, nên
thầy chẳng hề dám ước cho được vào làm rể một nhà như vậy bao giờ. Nay thình
lình nghe mấy lời của ông Hội đồng chẳng khác nào nằm chiêm bao, bởi vậy thầy
biến sắc rồi ú ớ rằng:
-Ông thương tôi cám ơn ông quá...Nếu được như vậy thì tôi cám
ơn ông lắm..Mà tôi sợ...không biết con ông Tổng có ưng tôi hay không?
Ông Hội đồng kéo tay biểu thầy bước lên trước, rồi ông theo
sau mà nói rằng:
-Không hại gì đâu, để tôi tính cho. Thầy đừng lo.
Ngày ấy thầy thông Phong cứ nằm mà tính hoài, nửa mừng nửa
lo, không muốn nói chuyện, mà cũng không chịu đi chơi. Tối lại, lối mười giờ thầy
từ ông Hội đồng xuống tàu mà về. Ông Hội đồng đưa ra tới cầu tàu. Lúc tàu gần mở
dây, ông nói với thầy rằng:
-Chuyện đó để tôi nói lại với anh Tổng và chị Tổng tôi rồi
tôi gởi thơ cho thầy hay. Còn thầy hỏi dọ dùm tôi có miếng đất nào trống thì thầy
cho tôi hay liền nhé.
Thầy thông dạ rồi kế tàu súp-lê (34) chạy tuốt.
----------------------------------------------
27 người Trung hoa sống ở Việt Nam
28 loại cây chanh, còn được gọi là cam quất.
29 loại kiểng lá tròn quãng đầu ngón tay, trái chín có vị ngọt
30 (sapotier), loại cây ăn trái du nhập từ Java
31 (enquête), điều tra
32 rụt rè
33 rộng rãi, ngăn nắp
34 (souffler), thổi gió như thụt ống bể của thợ rèn
TẬP 7
T
àu chạy được một khúc xa, từ cò tàu cho tới hành khách ai nấy
đều ngủ hết, duy phía sau chưn vịt (35) quạt nước nghe lạch xạch, còn trên mui
lâu lâu nghe tiếng súp-lê thổi cho ghe tránh mà thôi.
Thầy thông Phong nằm trên ghế bố, tay gác ngang qua trán, mắt
nhắm lim dim, còn trí lúc thì tư tưởng xóm Phú-hội, lúc phưởng phất miền Tầm-vu,
dã dượi (36) bàng hoàng, mừng lo lộn xộn, thầy thầm nghĩ nếu mình cưới đặng cô
Như Hoa thì chắc cha mẹ vui mừng, đã hết phiền trách, mà lại thêm yêu mến mình
nữa. Những quân khinh khi nhạo báng mình như Lê Trường Sanh, như bà Hương quản
Viện, còn dám khinh mình còn dám nhạo mình hôn? Mình là rể của ông Cai Tổng hạng
nhứt, giàu lớn đến nỗi trong tỉnh Long-xuyên và trong tỉnh Tân-an không ai bì kịp,
lại mình là cháu rể của ông Hội đồng Quản hạt sang trọng vô cùng, còn vợ mình
đã biết nói tiếng tây lại đeo hột xoàn cũng lớn sợ con hàng Phủ, Huyện cũng
chưa có hột xoàn tốt như vậy, nếu cưới vợ được chỗ đó thì phỉ nguyện rồi, chẳng
còn mơ ước việc gì nữa.
Thầy nghĩ tới đó chắc trong bụng thầy mừng lắm, nên thầy lồm
cồm ngồi dậy đốt một điếu thuốc mà hút. Tánh ý của thầy thiệt là kỳ! Muốn đi
nói vợ, mà không hỏi thử bụng mình coi có thương cô gái mình thấy đó hay không,
không tính dọ tánh nết, không thèm kể công ngôn, lại cứ mừng cha vợ giàu to, mừng
cậu vợ thế mạnh, người như vậy thì còn phải học, chớ chưa đáng xưng thầy, mà
người như vậy số đông đầy dẫy, chớ không có một mình Trần Văn Phong nầy mà thôi
đâu.
Thầy đương tự đắc, bỗng đâu thầy lại châu mày. Sao đương vui
rồi lại buồn? Thầy lo, thầy lo ông Hội đồng nói mà ông Cai Tổng có chịu gả hay
không, lại còn sợ nỗi cô Như Hoa chê mình nghèo mà không ưng kia nữa. Nếu hụt
chỗ nầy thì đến già cũng chưa kiếm chỗ nào bằng được.
Thầy mừng rồi lo, sợ rồi vui, thao thức sáng đêm, nên khi tàu
tới Long- xuyên thầy bước lên thầy nhớ lại không có ngủ được giờ nào hết.
Tối bữa đó thầy đóng cửa sớm ngồi viết một bức thơ rất dài mà
gởi về cho cha mẹ. Trong thơ thầy kể đầu đuôi, tại sao thầy quen với ông Hội đồng,
thầy lên nhà ông Cai Tổng Luông thấy nhà cửa thể nào, sự nghiệp ông đáng bao
nhiêu, ông Hội đồng nói với thầy những gì, thầy viết không sót một chỗ nào hết.
Sau cùng thầy lại dặn hễ thầy tiếp được thơ của ông Hội đồng, như ông nói xong,
thì thầy cho cha mẹ hay rồi mau mau xuống đủ đặng thầy dắt lên Châu-đốc mà xin
coi mắt dâu; mà có xuống thì phải sửa soạn quần áo cho tốt, kẻo người ta thấy bộ
mình lôi thôi rồi người ta chê nghèo hèn.
Bữa sau thầy lại viết tiếp về nhà mình một cái thơ nữa mà dặn
như cha mẹ không có quần áo mới thì phải mua mà muớn may cho mau, dặn cha phải
mua giày tây mà mang chớ đừng mang giày hàm ếch (37), còn mẹ thì phải bận quần
lãnh trắng chớ đừng có bận quần lãnh đen.
Thầy tưởng có mau cho lắm thì nửa tháng hoặc một tháng ông Hội
đồng mới trả lời, chẳng dè thầy về Long-xuyên mới có năm bữa thì tiếp đươc một
phong thơ thấy con dấu Châu-đốc đóng ngoài bao, thầy mừng mà lại sợ, không biết
việc có thành hay chăng, nên thầy xé thơ mà tay run môi tái. Thầy coi dấu ký
tên thì quả là của ông Hội đồng Hữu. Thơ nói rằng vợ chồng ông Cai Tổng thấy thầy
vui vẻ lại mềm mỏng cũng đem lòng thương, nên chịu gả con cho thầy. Ông Hội đồng
khuyên thầy hãy viết thơ mời cha mẹ xuống rồi dắt lên Châu-đốc ông sẽ đem cho
coi nàng dâu. Ông lại nói vợ chồng ông cai Tổng gả con chọn người chớ không kiếm
của, bởi vậy không đòi bạc vàng chi đâu mà sợ.
Thầy mừng quá lật đật đánh dây thép về Tầm-vu mà mời cha mẹ
xuống lập tức.
Hai vợ chồng ông Hương sư Sắc tiếp được thơ của con thì mừng
rỡ, bàn tính với nhau sáng đêm không ngủ được. Bữa sau tiếp được phong thơ thứ
nhì, bà Hương lật đật đi chợ mua hai cái quần lụa trắng về cắt may cho ông một
cái cho
bà một cái. Bà hối ông đi chợ mua giày không kịp, còn quần
thì bà may cái của bà rồi, chớ quần của ông bà vừa kịp ráp ống, bởi vậy, đi dọc
đường bà phải đem kim chỉ theo đặng bà may lai và may lưng.
Vợ chồng ông Hương sư Sắc xuống tới Long-xuyên nhằm chiều thứ
năm. Thầy thông Phong đánh dây thép cho Hội đồng Hữu hay trước. Thầy dắt ông
Hương sư qua chợ mua cho ông một đôi giày tây đen, rồi thứ bảy sửa soạn áo quần
xuống tàu mà đi Châu-đốc.
Ông Hội đồng Hữu tiếp rước tử tế. Ông nói rằng ông thấy đường
xá xa xuôi nên ông đã có nói trước nếu vô coi hai đàng ưng bụng rồi thì đi liền
một đôi bông làm lễ sơ vấn, rồi chừng nào cưới thì cưới khỏi đi lễ chi nữa.
Ông Hương sư thấy chỗ giàu sang mà dễ như vậy thì ông mừng lắm,
song ông than vì việc thình lình nên ông không có đem đồ nữ trang theo.
Bà Hội đồng mới nói rằng:
- Hôm trước mình gởi thơ cho thầy thông mà không nói việc ấy,
bây giờ thầy có bông tai đâu sẵn mà đi. Thôi để cho thầy mượn đôi bông nhỏ của
tôi đây, đặng thầy đi cho đủ lễ. Đôi bông tôi mua hồi năm ngoái hai trăm; vì
tôi chê nhỏ nên từ hồi mua đến bây giờ, tôi ít hay đeo.
Hai vợ chồng ông Hương sư thấy vợ chồng ông Hội đồng tử tế
quá thì cảm tình vô cùng, mà chừng qua tới Phú-hội thấy nhà cửa của Cai Tổng
Luông kinh dinh, thuở nay chưa từng thấy nhà ai bằng, thấy Như Ngọc thoa son giồi
phấn, quần áo nhổm nha, hột xoàn chớp nhoáng, thuở nay chẳng hề dám ước mơ một
con dâu sang trọng đến bực ấy, bởi vậy cả hai vợ chồng đều ngơ ngẩn, dường như
người ngon giấc chiêm bao.
Ông Hội đồng không cần hỏi coi đàng trai chịu hay không, ngồi
uống nước vừa rồi, thì ông khởi đầu cho vợ chồng ông Hương sư tri lễ sơ vấn.
Vợ chồng ông cai Tổng Luông dọn tiệc mà đãi rất trọng. Vợ chồng
ông Hương sư ngồi ăn mà ké né, không dám nói chuyện, không dám gắp đồ ăn. Ông
Cai Tổng Luông nói chuyện thì cứ nói với ông Hội đồng, còn bà Cai Tổng tuy hỏi
bà Hương sư việc nầy việc kia không ngớt mà cái giọng bà nói là giọng nói với
tá điền, chớ không phải nói với sui gia.
Ăn cơm rồi đàn trai từ mà trở qua Châu-đốc đặng đón tàu về
Long-xuyên. Trước khi xuống tàu thì ông Hội đồng nói với thầy thông Phong rằng
để ông cậy họ coi ngày, như ngày nào tốt nên làm lễ cưới thì ông sẽ cho hay trước.
Vợ chồng ông Hương sư về nhà trầm trồ nàng dâu xinh đẹp, anh
sui giàu sang hoài. Còn thầy thông Phong thì trong trí cứ tính việc cưới vợ, muốn
mướn phố khác cho tốt mà ở, muốn mua giường sắt, muốn sắm ghế xích-đu, muốn đủ
thứ, mà ngặt vì không có tiền nên muốn mà không làm việc nào hết.
Ngày cưới đã định rồi. Bữa nay thình lình có giấy quan trên đổi
thầy thông Phong lên làm việc tại toà bố Châu-đốc. Thầy được tin ấy thì thầy
vui mừng khắp khởi, lo tính lăng xăng, vừa mướn ghe chở đồ mà đi, thầy lại tiếp
được thơ của Hội đồng Hữu nói rằng nhơn vì muốn thầy về gần gũi bên vợ, nên ông
mới xin quan trên đổi thầy lên Châu-đốc. Ông lại khuyên thầy bán hết ghế bàn
giường ván của thầy đi bởi vì bà Cai Tổng có hứa sẽ sắm đồ mà dọn một căn phố
cho xứng đáng đặng vợ chồng thầy ở.
Thầy thông nghe lời mới bán hết đồ đạc trong nhà, còn quần áo
thì sắp vô rương lấy giấy tờ mà đi Châu-đốc. Lên tới đó, thầy ở đậu tại nhà ông
Hội dồng
Hữu. Thầy hỏi thăm trẻ trong nhà có thấy căn phố nào trống
hay không. Bà Hội đồng cười và nói rằng:
- Cháu đừng lo, anh Tổng đã có mướn một căn phố lầu dựa bên
phố chợ,
hổm rày bầy trẻ rửa sạch sơn tường xong rồi hết. Còn chị Tổng
chỉ đã lên Sài-gòn đặng mua đồ mà dọn, mai mốt đây chắc chỉ về tới. Vợ chồng ảnh
có một chút con gái nên cưng lắm, tính dọn nhà cho hơn họ hết thảy mới chịu.
Hôm chỉ đi Sài-gòn chỉ đem tới năm sáu ngàn đồng bạc, để coi chỉ mua vật gì cho
biết.
Thầy nghe nói cha mẹ vợ rộng rãi thì thầy vui vô cùng. Sáng bữa
sau ông Hội đồng dắt thầy vô Tòa bố mà trình diện với quan Chánh chủ tỉnh. Thầy
đi với ông Hội đồng Quản hạt thì trong lòng thầy vững vàng không nhút nhát chút
nào hết. Mấy thầy thấy thầy Phong có thân thế, ai cũng kiêng nể, chớ không phải
như khi đến Cà-mau và Long-xuyên vậy.
Quan chủ tỉnh vừa ra khách thì ông Hội đồng dắt thầy vô liền.
Quan Chủ tỉnh bắt tay thầy, hỏi thầy mấy tuổi, hỏi thầy đã làm việc bao lâu, và
hỏi và cười, coi bộ vui vẻ tử tế lắm. Ông Hội đồng nhơn dịp ấy mới gởi gắm thầy
và xin cho thầy làm việc gì có quyền chút đỉnh. Quan Chủ tỉnh suy nghĩ một hồi
rồi bắt thầy đứng thông ngôn cho Ngài. Ông Hội đồng tạ ơn và xin phép cho thầy
nghỉ vài bữa rồi sẽ lãnh việc.
Thầy thông Phong bước ra khỏi Toà bố trong lòng khấp khởi đắc
chí phỉ nguyện. Cưới vợ thì trúng nhà giàu sang, làm việc thì đứng thông ngôn
cho quan Chủ tỉnh, lần lần rồi đây mình sẽ làm ông Huyện, ông Phủ, mình sẽ mang
mề đay tím, mề đay điều, danh vọng viễn đại nữa, những anh em bạn học của mình
có ai được như mình vậy đâu.
Những người lập chí khác hơn thầy, coi nhơn nghĩa hơn tiền
tài, coi danh dự quí hơn quyền tước, ngày đêm cứ tính giúp ích cho quần chúng,
chớ không lo làm lợi cho mình, nếu biết lòng dạ của thầy thông Phong, chắc
khinh bỉ thầy lắm. Nhưng mà thầy đương mãn tâm đắc ý, nếu lúc nầy ai đem nhơn
nghĩa danh dự mà nói với thầy, chắc thầy không hiểu chi hết, mà lại e thầy cười
người giảng chánh lý đó là đồ ngu dại, hoặc thầy cho người ấy không được như thầy
nên ganh ghét rồi kiếm lời nói xấu cho thầy.
Chiều bữa đó thầy đi qua chợ coi căn phố rộng hẹp tốt xấu thế
nào. Tối lại bà cai Tổng Luông đi Sài Gòn về, ghé nhà ông Hội đồng gặp thầy thì
bà mừng rỡ, biểu thầy đi với bà về bên nhà rồi ngày mai bà sẽ cho ghe đưa trở
qua mà làm việc. Xuống ghe rồi mẹ vợ chàng rể nói chuyện với nhau coi mòi thân
thiết lắm.
Bà khoe với thầy rằng bà mua một cái giường đồng có mùng lưới
nệm đủ hết, mua một cái tủ sắt, mua một cái tủ áo gắn liền, mua một cái bàn ăn
cây cẩm lai, mua một bộ sa-lông Bắc, mua một cái tủ áo gắn kiếng một mặt, mua một
chục ghế tô-nê, mua một cái bàn viết, một cái tủ kiếng xanh, một cái bàn rửa mặt,
hai cái ghế xích đu, một bộ ván hai tấm dầy gần hai tấc, các món bà gởi ghe
chài chở, rồi bà mới xuống tàu mà về đây.
Thầy thông Phong nghe nói càng thêm đắc chí, song thầy không
biết làm sao mà tỏ ý kính mến mẹ vợ, nên cứ ngồi ngó bà mà miệng chúm chím cười
hoài.
Nhà dọn vừa xong thì tới ngày cưới vợ. Vợ chồng ông Hương sư
Sắc xuống có lựa dắt theo vài người bà con, thầy thông Phong mới cậy vài thầy mới
quen tiếp vô nữa mà đi họ đàn trai nên coi cũng là rậm đám.
Nhơn vì nhà thầy xa xuôi, nên cưới định nhập phòng bên đàn
gái. Mà ở đủ ba bữa rồi thì vợ chồng thầy dắt nhau về căn phố mới dọn đó mà ở
chớ không dắt về nhà cha mẹ ở Tầm-vu mà làm lễ tổ tiên.
Đến bữa vợ chồng ông Hương sư Sắc xuống tàu mà về thì vợ chồng
thầy Phong có dắt nhau đưa tới cầu tàu. Cô Như Hoa đã không nói một lời chi
trìu mến hoặc cần cố đến cha mẹ chồng, mà cô lại theo nói tiếng tây với ông cò
tàu hoài. Còn thầy Phong thì đứng nói chuyện với cha mẹ mà cặp mắt cứ ngó vợ,
coi bộ thầy vui mừng hớn hở lắm.
Chừng tàu gần chạy ông Hương sư Sắc mới dặn con rằng:
- Thôi, vợ chồng con dắt nhau về mà nghỉ, ở khuya có mù sương
đây rồi con hai nó sổ mũi đa. Con cưới vợ như vậy cha mẹ mừng lắm. Con phải
chìu lòng cung kính anh chị bên vợ, còn vợ con thì con cũng ráng ăn ở tử tế với
nó, đừng để nó phiền nghe hôn con.
Lời dạy nghe rất lạ lùng, mà thầy Phong lại vui vẻ mà vâng chịu
và đáp:
- Con biết lắm, xin cha và má yên tâm. Tàu chạy rồi, vợ chồng
thủng thẳng dắt nhau về nhà.
--------------------------------------------------
35 bộ phận truyền lực từ máy xuống nươc để đẩy tàu
36 hay dã dượi, có vẻ mỏi mệt
37 rộng và chè bè giống hàm con ếch
TẬP 8
T
ừ nhỏ chí lớn cha mẹ khuyên lơn dạy dỗ thì chẳng điều chi
khác hơn là bảo phải ráng học làm thầy thông thầy ký rồi cưới vợ giàu cho sung
sướng tấm thân. Nay thầy thông Phong đã được đứng thông ngôn cho quan Chủ tỉnh,
oai thế lẫy lừng, mà lại thêm cưới được vợ giàu, cửa nhà hực-hỡ, chỗ ước vọng của
thầy đã đủ rồi, bởi vậy thầy lấy làm vui lòng đắc chí lắm.
Có khi nằm một mình thầy nhớ lời ước hẹn với cô hai Liền là
con gái của ông Chủ Hạnh, nhớ lời mắng nhiếc của cô Sáu Lý là em vợ thầy ký
Trương, nhớ vụ Trường Sanh làm nhục tại nhà cô Diệu Anh, thì thầy mơ màng như
thấy chuyện trong giấc mộng, mày-mạy (38) như nhớ chuyện xưa, bởi vậy thầy chúm
chím cười rồi rùn vai không thèm nghĩ đến việc cũ.
Từ ngày thầy được cấp bằng làm ký-lục cho đến nay đã hơn một
năm rồi, bởi vậy thầy đã thông thạo công việc làm chút đỉnh, nên không lừng khừng
bợ- ngợ như hồi mới xuống tới Cà-mau vậy.
Đã vậy mà quan Chánh Chủ tỉnh vị tình ông hội đồng Hữu nên
đem lòng yêu thầy, có việc nào kín cứ biểu thầy làm, đi giảng các làng thì dắt
thầy theo, chẳng những tổng làng dân sự thấy thầy gần quan lớn thì kính sợ thầy
mà thôi, mà thậm chí mấy thầy giúp việc tại Toà bố ai cũng kiêng nể thầy hết thảy.
Ai có việc chi muốn vào hầu quan Chánh Chủ tỉnh, trước phải
ghé nhà thầy mà năn nỉ cậy thầy giúp lời, chớ năn nỉ miệng không, thì thầy nộ nạt
rầy rà, rồi việc dễ cũng hóa ra khó. Nào người muốn làm làng, làm tổng, nào người
muốn xin sắm súng, mề đay (39), nào người muốn khẩn đất, muốn tranh hội đồng,
muốn xuất tiền công nho, muốn lãnh bài vĩnh viễn, mỗi muốn làm việc chi cũng phải
đến cậy thầy. Theo thế thường hễ giúp việc quan mà đắc thời, được người ta sợ
và có tiền nhiều, thì ai cũng kiêng dè, phải bải-buôi dịu ngọt mà mua lòng
thiên hạ. Thầy thông Phong đắc thế đắc thời, được giàu được sang rồi, thầy lại ỷ
thân thế, mê giàu sang, tưởng mình trên thiên hạ hết thảy, hễ đi ngoài đường
hương chức không chào hỏi thì thầy bắt lỗi, lúc ngồi nói chuyện, anh em bạn nói
chơi lỡ lời thì thầy hay trành tròn. Còn làng cùng dân đến nhà mà lo lót với thầy
nhiều khi thầy ở trên lầu trửng giỡn với vợ mà để cho người ta đợi một hai giờ,
mà chừng thầy ra khách đặng thâu tiền, thầy cũng chẳng hề mời khách ngồi, để họ
đứng khóm róm khoanh tay đặng cho thầy ra mặt người sang trọng.
Có nhiều người già cả lụm cụm có việc đến cầu thầy; thầy
không kiêng nể tuổi tác cứ bắt đứng khoanh tay, nếu ông Hương sư Sắc mà thấy
cái cảnh nầy, chẳng biết ông vui được con cao sang, hay là buồn vì con xấc xược.
Thầy thông Phong được giàu sang thanh thế, thầy đã không nhớ
ơn cúc dục, mà lại còn trách mẹ cha sao hồi khai sanh cho thầy không kiếm chữ tốt
mà lót tên. Để bây giờ kêu là Trần Văn Phong nghe chẳng khác nào tên mấy thằng
dân trong làng kia vậy. Thầy kiếm mấy ông thông chữ nho mà hỏi coi tên thầy bây
giờ lót chữ gì tốt. Họ khuyên thầy lót chữ Xuân đặng thành Xuân Phong là gió
mùa Xuân. Thầy nghe cắt nghĩa lấy làm đắc ý, lật đật viết thơ cho nhà in trên
Sài- gòn mà đặt một trăm danh thiệp mà đề như vầy:
TRẦN XUÂN PHONG
Interprète de l'Administrateur Chef de province
CHÂU ĐỐC
Mấy thầy trong tỉnh ai nấy thấy danh thiệp như vậy cũng tức
cười, nhưng cười thầm mà thôi, chớ chẳng ai dám cười trước mặt.
Từ ngày cưới vợ cho con xong rồi, vợ chồng ông Hương sư Sắc,
vì xét phận mình nghèo, nên sợ dâu về nhà nó thấy nhà mình xấu nó khi dễ nên
không dám biểu dâu con về thăm, nhưng mà hai ông bà thầm ước chúng nó dắt nhau
về chơi một lần, đặng cho hương chức trong làng họ biết mặt con dâu giàu sang,
kẻo họ nghi mình khoe dối.
Hai ông bà chờ đến ba bốn tháng mà không thấy con dắt dâu về,
túng thế bà lên Châu-đốc mà thăm rồi biểu con xin phép về chơi ít bữa.
Thầy thông Phong dọ ý vợ thì vợ bằng lòng đi chơi cho biết Tầm-vu.
Thầy rất mừng lật đật xin phép nghỉ một tuần lễ rồi dắt về thăm tổ quán.
Ông Hương sư Sắc thấy con dâu về nhà thì ông mừng quýnh, bởi
vậy ông lăng xăng lớp thì hối đứa ở quét sân lau ván, lớp thì cậy lối xóm lên
chợ Tân-an mua thịt cá với bánh mì.
Bà con cùng hương chức trong làng nghe nói có vợ chồng thầy
thông về, rùng rùng kéo nhau đến thăm, tuy ngoài miệng nói đến mừng vợ chồng thầy,
song trong lòng quyết xem coi cô thông có thiệt con nhà giàu sang hay không.
Thầy thì hiu hiu tự đắc, cười nói om sòm, còn cô thì chim bỉm
tự cao, ai hỏi cô cũng biếng ừ biếng nói.
Nhơn tình thiệt là lạ! Ai đến đó thấy áo quần của cô thông lòa
lẹt, thấy hột xoàn của cô chớp nhoáng, rồi áp trầm trồ khen ngợi ông Hương sư Sắc
có phước chớ chẳng có một ai dọ tánh nết cô thông tốt xấu thế nào.
Lúc ăn cơm, thịt cá dọn đầy mâm mà cô thông cứ ngồi chống đũa
ngó ngơ, chê cá kho tanh, cơm hôi cám cô ăn không được.
Tối lại ông Hương sư hối bà quét giường của ông cho sạch sẽ,
rồi giũ mùng trải chiếu mới, đặng cho con dâu ngủ cho tử tế. Như Hoa ngủ tại
giường cha mẹ chồng mà cô cứ cằn nhằn mùng cũ hôi mốc, chiếu cấn đau lưng, cô
ngủ không được.
Sớm mai gần chín giờ cô mới thức dậy. Lúc trong mùng bước ra
thì mẹ chồng đỗ nước sẵn trong thau cho cô rửa mắt, mà cô còn trề môi nhăn mặt
chê nước đục lại hôi phèn.
Thầy thông xin phép nghĩ tám bữa. Mà về nhà chơi mới có một
ngày một đêm, chưa đi thăm bà con được một người nào, rồi cô nói với thầy sao
đó không biết, mà trưa bữa sau thầy sửa soạn bỏ quần áo vô va ly thưa với mẹ
cha rằng thầy phải lên Sài-gòn mua đồ cho ông Cai Tổng rồi vợ chồng dắt nhau đi
tuốt, không trở về Tầm-vu nữa.
Có đêm vợ chồng ông Hương Sắc ngủ đã thèm rồi, đến khuya thức
dậy nấu nước trà uống mà nói chuyện đời với nhau. Ông vưà cười vưà nói rằng:
- Mình cưới được con dâu giàu sang thiệt là đẹp mặt nở mày
quá. Người trong làng ai cũng cho nhà mình đại phước.Tuy vậy mà nghĩ lại con
dâu mình nó chưa têm được cho mình một miếng trầu cho mình ăn, chưa nấu được một
siêu nước cho mình uống.
Bà châu mày trợn mắt mà đáp rằng:
- Ối! Miễn nó giàu sang thì thôi, tôi không chấp nhứt chi hết.
Ông muốn có dâu nó têm trầu cho ông ăn, nấu nước cho ông uống lắm sao? Vậy sao
hồi trước ông không kiếm con ăn mày mà cưới, chớ con người ta như vàng như ngọc
từ nhỏ chí lớn kẻ bẩm người dạ, không làm động móng tay, gót chân không chấm đất,
bây giờ ông biểu nó vô bếp mà nấu nước cho ông uống hay sao?
Ông vuốt râu và cười mơn mà nói rằng:
- Ta nói chuyện nghe chơi vậy thôi, chớ ai bắt tỳ bắt ố gì đó
hay sao mà bà giận.
Xét bấy nhiêu đó thì biết vợ chồng ông Hương Sắc trọng con
dâu là dường nào. Gái khôn thấy cha mẹ chồng nghèo càng thương, thấy cha mẹ chồng
tưng tiu càng sợ. Như Hoa đã không thương, không sợ, mà thấy thói cha mẹ chồng
quê, thấy cha mẹ chồng xấu lại đem lòng khinh khi bỉ bạc, bởi vậy về tới Châu-đốc
rồi hễ ai hỏi thăm chuyện bên chồng của cô, thì cô trề nhún, tỏ ý khinh thị bên
chồng biết chừng nào. Nhiều khi nói chuyện với thầy cô cũng tỏ ý ấy, chớ không
kiêng nể chi hết. Mà hay cho thầy, thầy nghe lời khinh bỉ cha mẹ mà thầy đành
đoạn ngồi ngó vợ mà cười tự nhiên, đã không chỉ chỗ quấy mà dạy vợ, lại cũng
không phiền trách cô chút nào hết.
Cô đã sẵn tánh khinh chồng nghèo, mà thầy cũng có sẵn tánh sợ
vợ giàu, bởi vậy hai tánh ấy gặp nhau mới có năm sáu tháng mà trong chốn gia
đình mọi
việc đều tự quyền cô nhứt định hết thảy. Cô muốn đánh bài giờ
nào tuỳ ý, đến nhà thiên hạ đánh đã thèm rồi, lại còn rủ họ về nhà mình mà đánh
nữa, kiếm đàn bà không đủ tay, cô rủ tới đàn ông mà thầy cũng không dám cản. Thầy
lãnh lương bao nhiêu phải đưa hết cho cô, ai đem đền ơn thầy bao nhiêu thầy
cũng không dám giữ, bửa nào thầy muốn đi chơi với anh em thì thầy xin năm ba chục
đồng bỏ dằn bóp mà thôi.
Thầy ở vậy mà cũng chưa vừa lòng cô, nhiều khi còn phải bị mắng
nhiếc. Thầy sợ rầy rà trong nhà nên hễ cô nói lớn tiếng thì thầy lặng thinh bỏ
đi chỗ khác. Cô thấy vậy càng lên nước, nên cứ theo ăn hiếp thầy hoài, biết rằng
hễ nói ra thì thầy chịu nhịn thua dường ấy có hại gì mà không dám nói, lần lần
rồi cô hành hạ thân thầy chẳng khác nào đứa ở trong nhà, hễ cô giận dầu trước mặt
làng tổng hay là mấy thầy cô cũng mắng.
Có một vài thầy thân thiết thấy gia đình của thầy như vậy thì
buồn dùm cho thầy và trách thầy sao không dạy vợ, để nó hỗn ẩu quá như vậy
thiên hạ chê cười. Thầy không biết lấy tiếng chi mà chữa mình, túng thế thầy mới
nói rằng:
- Ở nhà tôi nó hiền lắm chớ, không biết tại sao mà từ hôm có
nghén đến nay nó quạu quọ như vậy. Tôi chắc hễ nó đẻ rồi thì nó hết hỗn nữa.
Thiệt cô Như Hoa đã có nghén. Đến ngày khai hoa cô đẻ một đứa
con trai. Thầy thông Phong mừng húm nên hễ mãn giờ làm việc rồi về nhà cứ cà-rà
một bên vợ đặng bồng con. Cô nói cho con bú cực khổ cô chịu không nổi. Bà Cai Tổng
Luông lật đật về bên nhà ép vợ một tên tá điền phải dứt sữa con nó đặng ra ở vú
nuôi con cho cô Như Hoa.
Cô đẻ vừa mới đầy tháng thì đã rủ họ đến đánh bài lại như cũ.
Bởi còn non ngày nên cô phải đánh tại nhà, chùng cứng cáp rồi, cô lần lần tới
nhà họ mà đánh. Có khi cô đánh bài ban ngày rồi đánh luôn tới ban đêm nữa, cô
không thèm ngó ngàng chi hết.
Thầy thương con, mà thấy cô lạt lẽo với con như vậy thì thầy
buồn nên đêm nọ thầy dùng lời dịu ngot mà khuyên cô hãy giảm bớt bạc bài, để có
giờ săn sóc con cho tử tế. Thầy nói nhỏ nhẹ mà cô lại óng tiếng đáp lại rằng:
- Tao đánh bài dầu có thua đi nữa, thì tao thua tiền của mầy
hay sao mà
mầy nói? Tao là con nhà giàu, từ nhỏ đến lớn tao ăn xài bài bạc
chơi đã quen rồi chớ phải quân ăn mày coi đồng bạc như cái bánh xe đâu. Mầy có
chê tao thì mầy để (40) tao ra rồi đi cưới vợ khác đi. Cha chả! Mầy tưởng tao
màng cái tuồng mặt mầy lắm sao? Bực mầy đó là đồ bỏ đa, đừng có làm phách.
Thầy thông Phong nghe mấy lời hỗn hào mà lại bất nghĩa quá
như vậy thì thầy buồn tủi nên nằm gác tay qua trán lặng thinh, mà nước mắt tuôn
dầm dề.
Đến chủ nhựt thầy qua Phú-hội than phiền với cha vợ, thì Cai
Tổng Luông kiếm lời an ủi thầy, hứa rằng bữa nào ông qua ông sẽ rầy con.
Thiệt đến đầu tháng ông Cai Tổng Luông đi hầu lệ ông có ghé rầy
la Như Hoa. Mà ông rầy cũng như không, bởi vì ông về rồi cô cũng đi đánh bài và
chửi chồng như cũ. Thầy buồn chí không muốn nói đến vợ nữa, bổn thân coi săn
sóc giỡn chơi với con cho giải khuây.
Thầy đặt tên con là Trần Xuân Sơn, nhưng vì cô cằn nhằn trách
thầy sao không lựa tên tây mà đặt, nên trong nhà cỡi lại mà kêu thằng Jean.
Thằng nhỏ da trắng, tóc nhiều, biết cười, biết ngó, lại thêm
sổ sữa, nên coi thiệt là ngộ nghĩnh. Tuy thầy đau lòng về vợ song thầy vui lòng
được chút con, hễ về nhà thấy con thì thầy bớt buồn, bởi vậy thầy chẳng lấy làm
sầu não cho lắm.
---------------------
38 tương tư
39 huy chương
40 ly dị, bỏ
TẬP 9
C
ách chẳng bao lâu, thầy có ý coi mấy thầy trong tòa bố thường
hay dụm năm dụm ba mà nói to nói nhỏ với nhau, mà hễ thấy thầy lại gần thì họ tản
lạc đi chỗ khác, hoặc kiếm chuyện khác mà nói.
Bữa nọ đúng bảy giờ rưỡi sớm mai, trống hầu trong trại lính
nghe ình-ình. Thầy thông Phong mặc một bộ đồ tây trắng, chơn mang giày vàng, cổ
thắt cà-ra- hoách rằn, thủng thẳng bước vô Toà bố, hương chức và dân đứng dựa cửa
chực hầu, ai thấy thầy cũng vẹt trống đường và chấp tay xá sát rạt. Thầy cứ ngó
ngay trước mặt mà đi, dường như đi ngoài đồng trống.
Khi vô tới bàn thầy thấy trên bàn lính trạm đã để sẵn hai
phong thơ. Thầy cầm ngoài bao thì thấy một cái chữ của cha mình viết, còn một
cái chữ nghều ngoào như chữ con nít, không biết của ai. Thầy kéo ghế ngồi rồi
xé bức thơ của cha mà đọc. Trong thơ ông Hương sư Sắc viết có mấy hàng thăm vợ
chồng thầy và nói rằng: Chừng nửa tháng nữa ruộng cấy xong rồi hai ông bà sẽ
lên mà thăm cháu nội.
Thầy đọc rồi liền xé mà quăng trong giỏ rác, rồi mới tới bức
thơ thứ nhì mà đọc. Bức thơ nầy tuồng chữ lăng-quăng, nói như vầy:
Thầy thông ơi!
Thầy là người có học thức, mà sao thầy tối tăm đến nỗi vợ thầy
lấy trai mấy tháng nay mà thầy im-lìm không trừng trị nó vậy? Tôi thấy thầy tôi
thương nên viết mấy hàng nầy mà mách cho thầy biết. Vợ thầy nó lấy xã Xù, nếu
thầy không tin lời tôi, thì bữa nào vợ thầy đi đánh bài ban đêm, thầy rình mà
coi thì thầy sẽ thấy rõ.
Một người anh em bạn.
Sớm mai trời mát mẻ, mà thầy đọc thơ rồi mồ hôi nhỏ giọt, cặp
mắt chóa loà. Bức thơ còn trải để trước mắt, hai tay chống trán, thầy ngồi gục
mặt xuống bàn. Thôi rồi! Còn gì là giàu sang, tưởng sắc cầm hoà hiệp, vàng đá
trăm năm, nào hay đâu vợ chẳng biết kính trọng chồng, mà bây giờ sanh tâm gạt
chồng đi ân ái với kẻ khác nữa, làm cho gia đình tan rã, thinh giá (41) nhơ nhuốc,
thôi, còn gì nữa mà trông mong, còn gì nữa mà ao ước.
Thầy nghĩ tới đó gan teo ruột nát, nước mắt chảy dầm dề. Mấy
ngày ấy quan Chánh chủ tỉnh mắc đi Sài-gòn, thầy không có việc nên ngồi thong
thả một
mình mà khóc trót giờ. Có lúc thầy giận muốn xách dao mà giết
xã Xù là đứa phá cang thường của thầy, về giết luôn Như Hoa là đàn bà đê tiện
không biết giữ trinh tiết, rồi thầy cắt họng thầy chết theo nữa, cho khỏi vòng
áo não.
Thầy đã tính làm như vậy mà rồi thầy lại nghĩ vợ mình có tánh
hỗn ẩu và hay bài bạc, chớ không lẽ đê tiện nỗi đành lòng thất tiết với chồng.
Thiên hạ xấu lắm, hay ganh hiền ghét ngõ, có lẽ họ thấy mình làm việc có quyền,
lại thêm có vợ giàu sang, họ muốn hại mình nên họ gởi thơ nói xấu cho vợ mình đặng
phá hoại gia đình sự nghiệp của mình chơi cho đã ghét.
Thầy nghĩ tới đó thầy đã bớt buồn, nên lấy khăn lau nuớc mắt
rồi xếp bức thơ bỏ vào bốp phơi (42). Thầy bước lại đứng dựa cửa sổ mà ngó ra
ngoài lộ. Thầy thấy hương chức họ đi hầu, đương nói đương cười với nhau, chẳng
hiểu vì cớ nào mà thầy lại thẹn thầm, nên thầy trở lại bàn mà ngồi, tính lấy giấy
tờ công văn ra mà làm. Thầy làm cũng không được, nên khoanh tay dựa ngửa trên
ghế mà suy nghĩ. Thầy nghĩ một hồi rồi lấy giấy viết một bức thơ gởi về cho cha
mẹ, nói dối rằng thầy đương tính dọn nhà chỗ khác nên khuyên cha mẹ đợi chừng
nào thầy dọn nhà xong, thầy cho hay rồi sẽ xuống.
Chừng tan hầu thầy cứ ngồi ghì đó hoài, chờ mấy thầy đi về hết
rồi thầy mới thủng thỉnh đi sau một mình.
Thầy về thấy vợ còn nằm ngủ trong mùng, còn con thì còn đương
nằm giỡn với con vú. Thầy thay đổi quần áo rồi bồng con mà hun và biểu con vô
kêu vợ dậy ăn cơm.
Như Hoa thức dậy rửa mặt lại ngồi bàn ăn cơm, nói chuyện với
chồng, la rầy tôi tớ như thường, chẳng thấy có gì lạ. Thầy ngồi ăn mà cứ liếc
ngó cô hoài, nhiều lúc thầy muốn lấy bức thơ đưa cho cô xem rồi hỏi cô có sanh
tâm làm quấy như vậy hay không, mà rồi thầy không đưa, có ý muốn để thủng thẳng
dò lòng cô.
Lúc uống nước thầy hỏi thình lình như vầy:
- Nghe nói mấy tháng nay xã Xù đánh bài ăn nhiều lắm,có thiệt
như vậy hay không mình há?
Cô đáp gọn gàng rằng:
- Không biết...Tôi có đánh với nó một sòng gì đó chớ có đánh
thường
đâu mà biết.
Có mấy lời đó mà làm thầy hết nghi bụng cô, tin chắc rằng họ
ganh ghét nên họ rơi thơ mà phá gia đạo cang thường của thầy, chớ cô là con nhà
giàu sang không lẽ cô quên phẩm giá. Buổi chiều thầy làm việc như thường, không
ão não thiết tha như buổi mai nữa. Hễ thầy nhớ tới bức thơ rơi thì thầy không
giận vợ, mà thầy lại oán người khiếp nhược nặc danh mà báo hại gia đạo thầy.
Tối bữa đó ăn cơm rồi cô đốt đèn đọc chuyện. Thầy thấy vậy mà
hỏi sao cô không đi đánh bài mà chơi. Cô lắc đầu mà đáp:
- Ba biểu mình chiều thứ bảy về trong nhà đặng coi giấy tờ gì
đó không biết.
Thầy tin như lời, nên trưa thứ bảy đi hầu về ăn cơm rồi thầy
thay áo đổi quần rồi rủ cô đi với thầy. Cô lắc đầu đáp rằng:
- Tôi đi mới về còn đi chi nữa. Mình đi không biết chừng sớm
mai tôi qua rồi tôi rước mình về.
Thầy mượn ghe nhỏ đưa qua Phú-hội. Khi thầy bước lên nhà thì
thấy nhà cửa vắng teo, hỏi chúng nó nói ông bà Cai Tổng đi qua Hồng-ngự mà thăm
con trai lớn. Thầy lấy làm lạ, chẳng hiểu vì cớ nào cha vợ đã nhắn mình qua mà
sao lại bỏ đi Hồng-ngự. Thầy nằm trên ghế xích-đu lúc lắc một hồi, mặt mày buồn
so.
Thầy suy nghĩ hay là vợ nó bày chước gạt mình đi khỏi đặng
đêm nay nó thong thả. Thầy nghĩ đến đó mồ hôi nhỏ giọt, chạy ra mé sông muốn đi
về liền, ngặt chiếc ghe đưa thầy qua đó đã về rồi, nên thầy trở vô, tính để tối
biểu bạn trong nhà đưa thầy về mà rình coi vợ ở nhà làm việc chi cho biết.
Thầy chấp tay sau đít cứ thơ thẩn đi vô đi ra, nhăn mặt châu
mày coi bộ thầy lo lắng bứt-rứt lắm. Chiều bạn trong nhà dọn cơm cho thầy ăn.
Thầy bưng chén cơm mà trí thầy lơ lửng, tưởng mấy lời trong bức thơ hôm nọ, làm
cho thầy đau lòng ngao ngán, nuốt cơm mà như nuốt đá, nên thầy ăn có nửa chén rồi
bỏ đũa đi uống nước.
Lối bảy giờ rưỡi tối, thầy nói dối với bạn trong nhà rằng, thằng
Jean ấm đầu, thầy lo sợ ở chơi không đặng nên biểu bạn chèo ghe đưa thầy về.
Thầy về tới Châu-đốc, ghe ghé tại cầu tàu cho thầy lên, thầy
nghe đồng hồ trong nhà gõ mười hai giờ. Thầy biểu ghe trở về, rồi thầy thủng thẳng
lần bước đi về nhà. Mấy tiệm ở dọc theo đường đã ngủ hết. Ngoài đường cũng chẳng
có ai đi, duy có một tên lính mã-tà đương thơ thẩn đi tuần, gặp thầy lật đật
xá, và xa xa có mấy đứa nhỏ đương ngồi vây gánh mì mà ăn, còn chú chệt bán mì
thì đứng chống tay lên đòn gánh mà gõ lắc-cắc cụp, lắc-cắc cụp...
Thầy về tới cửa, đứng lóng tai mà nghe trong nhà im lìm, từng
trên tới từng dưới đèn tắt tối mò. Thầy kêu cửa, thì thằng Lung là đứa ở nấu
ăn, đốt đèn rồi mở cửa cho thầy vô. Thầy vừa bước vô liền hỏi rằng:
- Cô mầy ngủ hay là đi đâu?
Thằng Lung sật sừ đáp rằng:
- Thưa, hồi tối tôi dọn dẹp rồi đi chơi, đến chín giờ tôi về
ngủ liền, không biết cô có ngủ trên lầu hay là cô đi chơi.
Thầy tuốt lên lầu, dở mùng dòm không thấy vợ, thầy lắc đầu chắc
lưỡi, mặt tái tay run, thầy quẹt hộp quẹt đốt đèn rồi kêu con vú thức dậy hỏi
cô đi đâu. Con vú mở mắt thấy thầy, liền lồm cồm ngồi dậy đáp rằng:
- Thưa, cô đi chơi.
- Đi hồi nào?
- Đi hồi tám chín giờ gì đó tôi quên.
- Có ai lại rủ hay tự mình ra đi.
- Thưa...Đi một mình...Không thấy ai rủ.
Thầy thấy con vú ú ớ thầy càng nghi, nên châu mày gãi đầu rồi
hỏi tiếp:
- Cô có nói đi chơi nhà nào hay không?
- Thưa, cô dặn nếu có ai hỏi thì nói cô đi đánh bài dưới nhà
Hội đồng
Sỉa.
Thầy đứng suy nghĩ một hồi leo lên võng nằm gác tay qua trán
mà đưa. Thầy nằm lim dim, mà ngực tức như đá dằn, ruột nóng tợ lửa đốt. Thầy muốn
tin
vợ đi đánh bài, và muốn trách mình nghi bậy nên dở mùng leo
lên giường mà nằm ngủ. Thầy kéo cái gối mà nằm, lại thấy có một miếng giấy nhỏ
xếp bằng ngón tay lăn theo cái gối. Thầy lấy đem lại dựa đèn rồi mở ra mà đọc
thì thấy một bức thơ nói như vầy:
Tình nhân rất yêu mến ôi! Qua có việc mắc đi Sài-gòn gần một
tuần nay, không giáp mặt với em được thì qua ăn không ngon, nằm không ngủ, bâng
khuâng ngơ ngẩn, dường như kẻ không hồn. Nay qua mới về tới đây, vậy xin em liệu
thế nào tối thứ bảy nầy ta gặp nhau mà tỏ tình thân ái một đêm cho phỉ lòng mơ
ước, nếu được như vậy ngày mai qua chết đi nữa qua cũng vui lòng.
Thơ không ký tên, viết có mấy hàng mà thôi, mà cũng đủ chứng
rằng trọn một tuần trước Như Hoa không đi đánh bài và bỏ về Phú-hội, ấy là tại
tình lang đi khỏi, và đủ chỉ rằng Như Hoa gạt chồng về Phú-hội đặng đêm nay cô
thong thả hội diện với tình lang.
Thương thay, thầy thông Phong đọc bức thơ rồi thì tay chơn
run bây bẩy, mặt mày xây bô bổ, thầy nắm miếng giấy chắc cứng mà chạy xuống
thang lầu, rồi biểu thằng Lung mở cửa cho thầy đi, mình mặc đồ mát đầu không đội
nón.
Thầy xâm xâm đi riết lại nhà Hội đồng Sỉa, kêu cửa mà kiếm vợ.
Đứa ở trong nhà mở cửa. Thầy hỏi trong nhà có đánh bài hay không, nó nói không
có, mà thầy hỏi từ hồi tối đến giờ có cô thông lại chơi hay không, nó cũng nói
không có. Thầy trở ra ngoài châu mày tức giận, mà nước mắt tuôn dầm dề.
Thầy đi tuốc lại nhà xã Xù thì thấy trong nhà vắng teo. Thầy
nghĩ xã Xù là con nhà giàu, trong nhà có cha mẹ lại có vợ nữa, nên không lẽ dám
dắt vợ mình về nhà, chắc là chúng nó hẹn hò với nhau rồi mượn nhà nào đó rồi
nói chuyện, mà bây giờ biết nhà nào?
Thầy bối rối nên đi khắp các nẻo đường, thấy nhà nào mở cửa đốt
đèn thầy cũng đứng dòm, nghe tiếng ai nói chuyện thầy cũng lóng mà nghe. Thầy
thẩn thơ, thơ thẩn ai gặp cũng lấy làm kỳ. Thầy đi cho đến bốn giờ khuya, trở về
nhà hỏi thằng Lung coi vợ đã về hay chưa, nó nói chưa, thầy lại đi nữa.
Lối năm giờ, trời tuy sáng mà còn mờ mờ, thầy đương đi dọc
theo dãy phố mé sông, bỗng thấy xa xa có dạng một người đàn bà đi trước, coi
như cô thông mà cách chừng năm ba thước có một người đàn ông đi theo nữa. Thầy
bươn bả đi riết theo, lúc gần tới nhà thầy thì người đàn ông đã biến đi đâu mất,
chỉ có mình cô thông đương đứng trước nhà kêu cửa mà thôi.
Cô vừa bước vô cửa, thình lình nghe tiếng có người bước theo
sau, cô day lại ngó thấy thầy, cô sửng sốt, mặt tái ngắt, cô hỏi bài hãi rằng:
- Mình đi đâu đó vậy?
Thầy giận quá dằn không được, nên xốc tới xô cô vô nhà. Cô té
nhằm cái mặt bàn đá nhỏ để gần đó, bàn ngã lăn, mặt đá rớt bể nát.
Thầy thấy cô té đã không thèm đỡ, mà lại còn xốc tới cho cô một
bốp tay mà mắng rằng:
- Mầy là quân khốn nạn! Đờn bà mà bỏ nhà đi đâu một đêm nay vậy
hử?
Mầy nói cho tao nghe thử coi.
Cô nổi giận, không còn sợ nữa, nên trợn mắt ngó thầy mà đáp rằng:
- Tao muốn đi đâu thì đi, mầy không phép tra hỏi. Tao đi đánh
bài tao chơi! Sao mầy dám đánh tao. Tao thua tiền của cha mầy hay sao mà mầy
nói?
- Mầy đánh bài nhà nào?
Cô quày quả bỏ đi lên lầu, vưà đi vưà nói rằng:
- Mầy muốn làm dữ để rồi mầy coi tao. Mầy tưởng tao màng mầy
lắm há?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét