Thiệt giả giả thiệt
CHƯƠNG 1
Cách mấy năm trước, tại Sài gòn, ở về đường Espagne, khỏi rạp
hát bóng một khúc, có một tiệm may trên cửa treo một tấm bảng hiệu đề hai chữ lớn:
Vĩnh Hưng.
Tiệm dọn trong một căn phố lầu rộng rãi mát mẻ. Phía ngoài cửa
có một bộ ván(1) lớn bề dày trên một tấc để cho thợ ngồi cắt áo. Hai bên để hai
hàng tủ kiểng, đựng đủ các thứ hàng, lụa nỉ, nhung. Chánh giữa để một hàng bốn
cái máy có treo mấy ngọn đèn khí chụp có kết tua. Phía trong thì dọn một cái
phòng, có để ghế salon (2) có treo kiếng lớn dựa vách để tiếp khách đến đặt mã
áo, hoặc đến thử áo.
Tiệm may đẹp đẽ nầy là tiệm của bà Tư Kiến. Vì tiệm may có
danh may khéo, nên từ sớm mơi cho tới chiều khánh ra vô đặt may đồ dập dìu
trong tiệm thường thường phải có chín mười cô thợ.
Bà Tư Kiến tuổi đã sáu mươi, mà tóc chưa bạc, răng còn chắc.
Bà bổn tánh bãi buôi, vui vẻ nhưng mà bà không ưa thói nhõng nhẽo hoặc gian
tà, hễ thấy việc gì trái đạo lý thì bà nói ngay, không sợ mích lòng ai hết, bởi
vậy mấy cô thợ may thương bà mà cũng kính trọng bà lắm.
Một bữa lối 4 giờ chiều trong tiệm các thợ đương lăng xăng, kẻ
ngồi lược áo, người ngồi đạp máy. Có một cô gái lối 24 - 25 tuổi, mình mặc một
cái áo xuyến đen cũ, một cải quần hàng trắng nhụt nhụt (3) chơn mang một đôi guốc
đen, vai vắt một cái khăn lụa trắng, tay ôm một cải bao bằng giấy nhựt trình, đứng
trước cửa tiệm ngó vô. Tuy cô ăn mặc tầm thường, không giồi phấn, không thoa
son, không cạo chơn mày, lông mặt, không đeo đồ nữ trang, tai trái chi đeo một
đôi bông hồ (4), nhưng mà nước da cô trắng lại ửng hồng gương mặt cô tròn lại
điềm đạm, môi cô mỏng mà lại đỏ, mắt cô sáng mà lại nghiêm,
hai bàn chân nhỏ mà no vun, hai bàn tay dài mà dịu nhiễu, nên ai thấy cô thì
cũng trầm trồ gái đẹp. Cô đứng bợ ngợ một hồi, rồi rón rén bước vô tiệm, lại đứng
gần một cái máy mà coi một cô thợ đương may.
Cô thợ may thấy cô lạ ấy đứng lâu, bèn hỏi rằng: "Cô muốn
mướn may đồ hay là lại đây có việc chi? Như mướn may đồ, thì cô đi ngay vô
phòng trong kia có bà chủ ờ trỏng".
Cô lạ ấy dụ dự rồi nói rằng: "Không. Tôi vô coi chơi, chớ
có mướn may đồ chi đâu". Cô đứng ngó quanh quất một hồi nưã, rồi cúi xuống
hỏi nho nhỏ cô thợ may rằng: "Không biết tiệm có cần dùng thợ may thêm nữa
hay không, chị há?"
Cô thợ may ngước mặc ngó cô nọ mà hỏi rằng:
- Cô muốn xin may hay sao?
- Phải. Nếu tiệm có thiếu thợ, thì tôi xin ở tôi may.
- Có một chị thợ thôi may đã hơn 3 tuần rồi, mà không thấy bà
chủ kêu ai thế. Đâu cô đi
thẳng vô phòng nói với bà chủ coi bà chịu mướn hay không.
Cô lạ ấy ngó vô phòng mà cô dụ dự không dám giở chơn lên đi.
Lúc đó tấm màn che cửa phòng vùng khoát lên, trong phòng bước ra một cô chơn
mày vẽ cong vòng nguyệt, hai môi tô đỏ tợ bông vông (5), chơn mang giày cao
gót, mình mặc áo rằn ri, tay ôm bóp xám xám. Sau lưng có một bà đi theo, tay cầm
cặp mắt kiếng, bà vừa đi vừa nói với cô đi trưởc rằng: "Cô nhớ chiều thứ
năm lại bận thử coi. Tiệm của tôi thợ cắt thợ may đều khéo nhứt, chớ không phải
như tiệm của họ vậy đâu. Tôi may cho cô bạn một cái áo nầy rồi từ rày sắp lên
cô lại tiệm tôi, cô không thèm tiệm nào khác hết". Cô nọ day lại cười và
nói: "Cảm ơn bà rồi xung xăng đi ra cửa, mùi dầu bay thơm ngát.
Cô thợ may bèn nói với cô lạ muốn xin ở may đó rằng: "Bà
chủ đỏ, cô muốn xin ờ may thì nói với bả thử coi".
Cô lạ ấy xẻn lẻn bước ra, tính đón bà chủ. Bà đưa khách ra
khỏi cửa rồi bà trở vô, ghé lại bộ ván mà nói với chị thợ cắt rằng: "Cô đó
là cô thầy thuốc (6) Cộn trong Chợ Lớn. Vóc áo đưa hồi nãy đo phải cắt cho thiệt
khéo, chiều thứ năm cô ra bận thử. Thân chủ nầy chắc là may đồ nhiều lắm, phải
làm cho tử tế, cho vừa lòng người ta".
Bà chủ dặn rồi bà thủng thẳng đi vô.
Cô lạ đứng chờ bà đó, nghe bà nói chuyện với chị thợ cắt thì
cô biến sắc, ngơ ngẩn bởi vậy chừng bà đi tới cô muốn nói, mà nói không được.
Bà liếc thấy bộ cô muốn nói với bà thì bà dừng lại hỏi rằng: "Cô em có việc,
chi muốn nói với qua hay sao?"
Cô bợ ngợ cúi đầu đáp rằng: "Thưa bà, cháu muốn xin ở
may cho bà. Không biết bà có cần dùng thợ thêm hay không?"
Bà chủ châu mày mang cặp mắt kiếng lên, đứng ngó ngay cô rồi
hỏi rằng:
- Cháu thuở nay may tiệm nào?
- Thưa, thuở nay cháu chưa có may tiệm nào hết.
- Cháu ở đâu?
- Thưa cháu ở dưới Sóc Trăng.
Bà chủ suy nghĩ rồi nói rằng: "Đâu cháu đi vô đây
coi".
Bà chủ đi trước, cô đi theo sau, vô tít trong phòng bà ngồi
trên ghế canapé (7) và chỉ một cái ghế nhỏ mà biểu cô ngồi. Cô không dám ngồi,
cứ đứng xớ rớ.
Bà hói cô rằng:
- Cháu năm nay mấy tuổi?
- Thưa, 24 tuổi.
- Đã có chồng con gì hay chưa?
- Thưa chưa.
- Chưa có chồng. Vậy mà cha mẹ còn đủ hay không?
- Thưa, ông thân cháu mất vài năm nay. Cháu còn có một mẹ
già mà thôi.
- Bà già cháu bây giờ ở đâu?
- Thưa ở dưới Sóc Trăng.
- Dưới Lục tỉnh cũng có tiệm may. Sao cháu không may ở dưới,
lại lên tới trên nầy.
- Thưa, ở tinh đồ may ít lắm. Cháu sợ may không đủ cơm ăn nên
cháu mới lên đây.
- Cháu may giỏi chưa?
- Thưa, cháu may áo lót cũng được.
- Cháu biết đột máy (8) hay không?
- Thưa biết.
Lúc nầy tôi có cần mướn thêm một người thợ, song thợ giỏi
kia, chớ thợ lược hay là luôn thì tôi cỏ đủ. Đâu cháu ra đây may thử cho tôi
coi.
Bà dắt cô trở ra ngoài, biểu cô may tay, may máy, may mỗi thứ
một khúc và may đủ kiểu cho bà coi. Coi bộ bà vừa ý lắm, nên bà gặc đầu và dắt
cô trở vô phòng mà nói rằng: "Cháu may được. Vậy nếu cháu muốn ở may thì
tôi mướn".
Cô nghe bà nói chịu mướn thì cô lộ sắc mừng cô nói rằng:
"Cháu cảm ơn bà lắm. Cháu nguyện ráng làm cho bà vừa ý. "
Bà chủ cười mà hỏi rằng:
- Cháu tên gì?
- Thưa, cháu họ Triệu, tên Phùng Xuân.
- Cháu ở Sóc Trăng, mà ở làng nào?
- Thưa cháu gốc gác ở chợ Cái Con, từ ngày ông thân cháu mất
rồi, thì bà thân cháu ở tại Kế Sách.
- Trong tiệm tôi có bốn năm cô thợ không có chồng con thì ăn
đây ngủ đây. Cháu muốn ở đây hay là tối cháu về nhà.
- Thưa bà, cháu nghèo nên phải xuất thân đi làm ăn, đặng kiếm
tiền nuôi mẹ. Ở Sài gòn cháu không có bà con với ai hết. Nếu bà có lòng thương
cháu, bà cho cháu ở luôn tại tiệm thì cháu đội ơn bà lắm.
- Được, ở luôn đây cũng được. Cháu may thử tháng đầu tôi trả
tiền công cho 7 đồng. Nếu sau cháu may khá, thì tôi sẽ liệu mà cho thêm.
- Cảm ơn bà.
- Nầy, mà để tôi nói trước cho cháu biết. Tiệm tôi gắt lắm chớ
không phải như mấy tiệm
khác. Thợ may của tôi thì phải nghiêm chỉnh, đi đứng không được
lẳng lơ. Ai muốn chồng thì lấy chồng, chớ không được phép rù quến bướm ong mà
làm cho tiệm mang tiếng không tốt. Nhứt là cháu ở Lục tỉnh mới lên Sài Gòn,
cháu cần phải dè dặt cho lắm mới được. Đất nầy họ yêu ma lắm không nên tin ai
hết. Nhiều người họ nói một đường, họ làm một ngả. Họ ăn bữa trước, họ quên
bữa sau. Tôi nói riêng cho cháu biết
phần nhiều thiên hạ họ điếm lắm, chỉ mong gạt nhau, giựt nhau
chớ không có tình nghĩa chi hết. Vậy mỗi việc đều phải cẩn thận.
- Bà thương, bà dạy cháu như vậy cháu đội ơn bà lắm. Cháu sẽ
ghi nhớ những lời vàng ngọc của bà.
- Thôi cháu ra ngoài đặng tôi tiến dẫn cho chị em bạn mà làm
quen với nhau.
Mấy cô thợ cũ thấy cô thợ mới dung nhan đẹp đẽ, ăn nói nhỏ
nhoi, thì chẳng ai mà chẳng vui lòng kết bạn.
Mọi ngày đúng 6 giờ chiều thì thợ nghỉ hết. Những cô có nhà
riêng thì bận áo, đội khăn mà về, còn mấy cô ở tại tiệm thì ra phía sau mà ăn
cơm, rồi rửa mặt, gỡ đầu, thay quần, đổi áo, mà đi chơi đặng giải cái mệt ngồi
cả ngày bực bội.
Cô Phùng Xuân ở may mới ít bữa, thì bà Tư Kiến dòm thấy cô
khéo léo, siêng năng, nhậm lẹ, vui vẻ, mà lại có nết na. Tối nghỉ may thì cô lấy
truyện hoặc nhựt trình nằm đọc, chớ chẳng bao giờ cô bước chân ra khỏi tiệm.
Bà thấy vậy thì đem lòng thương, song sợ mấy cô thợ kia ghen ghét, nên thương
thì bà để bụng, chớ bà không lộ cho ai biết.
Đến chiều thứ năm cô thầy thuốc Cộn lại tiệm bận thử áo. Bữa
nay cô đi xe hơi mới và mặc quần áo còn sắc sảo hơn hôm trước nữa. Cô bước vô
tiệm thì hỏi trống: "Bà chủ đâu?" Cô thợ ngồi phía ngoài chỉ ngay vô
phòng khách. Cô thầy thuốc xâm xâm đi riết vô không thèm ngó ai hết.
- Bà Tư Kiến kêu chị thợ cắt biểu đem áo vô, mà bà lại kêu
cô Phùng Xuân vô phòng nữa.
Cô Phùng Xuân đương may máy. Cô nghe bà chủ kêụ thì cô lật đật
đứng dậy đi vô song nếu lúc ấy ai ngó cô, thì sẽ thấy sắc mặt cô buồn nghiến
(9).
Bà chủ biểu chị thợ cắt đưa áo cho cô thầy thuốc bận thử và
dặn cô Phùng Xuân phải ghi kích tấc rộng hẹp, hoặc dài, vắn, đặng nhớ mà may
cho đúng.
Cô Phùng Xuân phải đứng nhắm cô thầy thuốc, phải đi chung
quanh cô trót 15 phút đồng hồ mới rồi việc. Cô bước ra khỏi phòng, môi cô thường
đỏ au, mà bây giờ lại tái lét.
Tối bữa ấy bà Tư Kiến thấy mấy cô thợ may đi chơi hết, duy
có một mình cô Phùng Xuân ngồi buồn hiu, thì bà kêu cô lên lầu và cậy cô mạng
dùm mùng rách cho bà. Cô ngồi mà mạng, bà nằm mà ngó cô trong phòng vắng vẻ,
duy nghe tiếng xe chạy dưới đường với tiếng hát ở xa xa mà thôi. Cách một hồi
bà hỏi cô rằng:
- Dì coi nết na của cháu cho tới tướng mạo cùng là cử chỉ,
thì cháu chẳng phải là con nhà nghèo. Tại sao mà cháu phải xuất thân đi may mướn
vậy.
- Thưa bà, hồi trước cha mẹ cháu cũng khá mấy năm nay bị nợ
nần nên nghèo.
- Ờ, có vậy mới phải chớ... Cháu khiêm nhượng nên cháu nói
"khá" đó, chớ dì chắc hồi trước cha mẹ cháu giàu đại, chớ không phải
khá mà thôi đâu. Hồi nhỏ cháu học trường nào mà biết chữ nên cháu coi truyện
coi sách đó?
- Thưa cháu học xong Nhà trắng (10) dưới Sóc Trăng.
- Học mấy năm?
- Thưa sáu bảy năm.
- Đó, dì đoán trúng rồi, phải con nhà giàu mới có thể học Nhà
trắng tới sáu bảy năm chớ. Cháu biết tại sao mà dì dám đoán quyết cháu là con
nhà giàu hãy không?
- Thưa, không.
- Dễ đoán lắm. Hồi chiều cô thầy thuốc tới bận thử áo, dì dòm
thấy bộ tịch của cháu thì dì biết liền. Cháu làm thợ may mà đem áo cho người
ta bận thử, chảu lại buồn bực hổ thẹn. Bao nhiêu đó thì đủ biết cháu là con nhà
giàu, bây giờ suy sụp, ra thân làm mướn, nên cháu mới hố phận chớ.
Cô Phùng Xuân làm thinh một hồi rồi cô nói một cách rất buồn
thảm rằng: "Bà đoán trúng lắm. Vì bà thương cháu, nên cháu phải tỏ thiệt
việc nhà của cháu cho bà rõ. Song cháu xin bà đừng nói lại cho chị em bạn của
cháu biết mà họ cười cháu tội nghiệp. Ông thân của cháu hồi trước làm Cai Tổng
có ruộng đất nhiều mỗi năm góp huê lợi tới ba bốn chục ngàn giạ lúa. Vì thời vận
không may, mùa màng thất bát, nợ nần chồng lời, gia đình suy sụp, ông thân cháu
lo lẳng hết sức mà lo không kham nên chủ nợ biên tịch phát mãi ruộng đất nhà cửa
hết, ông thân cháu thất chí, buồn rầu, nhuốm bịnh mà chết. Cháu có một người
anh thứ hai, làm Hương chủ ở Kế Sách. Ảnh cũng nghèo, còn người chị thứ ba của
cháu, chỉ có chồng Cái Côn thì chỉ khá.
Nói thiệt cho bà thương. Tuy bây giờ mẹ con cháu nghèo, song
trong xứ ai cũng biết là vợ con của Cai Tổng. Không lẽ cháu ở đó mà làm thuê
làm mướn cho được. Cháu lớn rồi, nếu cháu theo nương tựa với anh, thì sợ chị
dâu nói tiếng nặng tiếng nhẹ. Còn chị ruột của cháu thì chỉ còn ở chung với cha
mẹ chồng, cháu không lẽ theo ở với chị. Tại cái phận của cháu như vậy đó. nên
cháu phải buộc lòng gởi bà thân của cháu ở với anh cháu đặng cháu đi xa làm mướn
cho thiên hạ khỏi chê cười".
Cô Phùng Xuân thuật tâm sự của cô mà cô rưng rưng nước mắt.
Bà Tư Kiến động lòng, nên bà thở ra mà nói rằng: "ở đời
giàu hay nghèo ấy là may với rủi mà thôi, chớ không phải giỏi hay là dở. Trời
khiến cái mạng cháu phải lận đận lao đao như vậy, cháu chẳng nên buồn làm chi,
mà cháu thấy người ta giàu, cháu chẳng nên hổ thẹn. Cháu có học tự nhiên cháu
biết. Tiền bạc không phải quý, đức hạnh kia mới thiệt quý, bởi vi tiền bạc dễ
kiếm chớ đức hạnh khó kiếm, tiền bạc có, nhiều khi phải tiện tặn, chớ đức hạnh
dẫu chừng nào cũng còn hoài. Họ giàu mà họ ăn ở bậy bạ thì sao bằng mình nghèo
mà mình ăn ở từ tế. Dì khuyên cháu đừng thèm so sánh sự giàu nghèo, cháu cứ lo
giữ tiết cho sạch, tập tánh cho cao, gìn lòng cho ngay, ráng chí cho vững, cháu
được như vậy dù nghèo mà cháu quý hơn con nhà giàu sang hết thảy".
Bà nằm suy nghĩ sao đó rồi bà lại hỏi tiếp rằng:
- Bữa hôm cháu nói cháu 24 tuổi, phải hôn?
- Thưa phải.
- Tuổi cũng trộng rồi! Sao cháu không tính lấy chồng đặng có
chỗ mà nương dựa.
Cô Phùng Xuân nghe hỏi tới câu đó thì cô cúi mặt xuống, nhễu
hai giọt nước mắt trong cái mùng. Cô nghẹn ngào nên đáp nhỏ nhỏ rằng: "Phận
cháu nghèo khổ rồi, ai thèm cưới mà mong lấy chồng".
Bà Tư Kiên ngồi dậy têm trầu mà ăn và nói rằng: "Thiệt
đó chút đời này là đời tiền bạc.
Thiên hạ họ kể đồng tiền, chớ họ màng gì đức hạnh. Trai có học
thì chen nhau dành giựt những tiếng kêu "thầy, kêu "ông". Còn cưới
vợ thì họ kiếm mấy chỗ giàu đặng òn ỷ sắm nhà lầu, mua xe hơi tốt. Con gái
nghèo thì có thế gì mà mong lấy chồng cho sung sớng tấm thân được. Kìa như
ông Huyện Phi ở trong Bà Chiểu đó. Ông có ba bốn đứa con gái đứa nào cũng học
giỏi, bánh trái, mau vá khéo mà vì ông nghèo nên con ông sồ sộ mà có ai thèm rớ
tới đâu. Đời khốn nạn quá!"
Cô Phùng Xuân mạng lỗ mùng rách xong rồi, đồng hồ gõ 9 giờ.
Bà Tư Kiến biểu cô đi nghỉ.
-------------------------------------------------
1. loại bàn ghế làm bằng ván gỗ dày
2. (salon), nơi tiếp khách
3. không còn mới
4. bông tai gắn hột hổ phách (Bernstein)
5. lá to bông đỏ, lá được dùng gói nem chua
6. vợ của một y sĩ
7. trường kỷ, ghế dài
8. may bằng máy may
9. nhiều, buồn nát lòng
10. trường nữ do nhà thờ quản lý, còn gọi là "trường bà
phước"
TẬP 2
Ô
ng Phán Thêm là một người tánh nết hòa huỡn, ăn ở nhơn từ.
Ông làm việc tại sở Thương Chánh Sài Gòn hai mươi mấy năm, ông chẳng hề mếch
lòng anh em trong ty, mà cũng chăng biết giận hờn ai hết.
Người tánh tình như vậy, cư xử như vậy ai quen cũng đều
thương mến chẳng hiểu tại mạng số làm sao mà đã không được hưởng hạnh phúc,
lại còn phải mang một cái tai họa lớn trong chốn gia đình, làm cho trí ông muốn
đảo điên, lòng ông phải khô héo.
Ông gốc ở Phụng Hiệp. Ông cưới vợ trễ mà có con cũng muộn, đến
32 tuổi vợ chồng mới sanh được một đứa con gái. Vợ chồng ông ăn ở với nhau rất
thuận hòa, lại ít con nên cưng con không ai bì kịp.
Nhờ ông cần kiệm lại cũng nhờ có của phụ ấm (11) giúp vô nên
ông có sắm được một sở ruộng tại kinh Sóc Trăng, mỗi năm thâu huê lợi lối 5
ngàn giạ lúa. Ông lại có mua được một miếng đất nhỏ trong Châu Thành Sài Gòn,
phía sau Nhà Thờ Chợ Đũi, ông cất một cái nhà ngói nền đúc, vách gạch cao ráo sạch
sẽ mà ở với vợ con.
Gia đình của ông đương đầm ấm vui vẻ thình lình đất bằng sóng
dậy làm cho rã rời tan nát, đau đớn không biết chừng nào.
Số là cách 3 năm trước, con gái ông lúc ấy được 13 tuổi. Tới
mùa gặt, bà Phán sửa soạn xuống Sóc Trăng mà thâu gộp lúa ruộng. Vì bà cưng
con bà không muốn rời con, nên bà nói với ông rằng: "Tôi đi lâu, để con nhỏ
ở nhà sợ nó nhớ. Lại nếu để nó ở nhà mỗi ngày ông mắc đi làm việc thì nó buồn tội
nghiệp. Thôi để tôi dẫn nó theo tôi cho xong. Ông Phán cũng cưng con, song ông
nghe bà nói trúng lý, nên ông không nỡ cản, duy có dặn bà góp lúa riết mà gởi rồi
về cho mau mà thôi.
Bận đi thì mẹ con đi xe hơi đò. Xuống ruộng ở ít bữa, bà Phán
lại thấy nhựt trình đăng tin nói có một chiếc xe đò đường Sài Gòn - Sóc Trăng
vì chạy mau nên lật, hành khách chết hết hai người, và bị thương trên một chục
người. Bà hay tin ấy thì bà sợ quá, nên chừng góp lúa gởi xong rồi bà không
dám về xe. Bà biểu tá điền chèo ghe đưa bà lên Ngã Bảy rồi mẹ con xuống tàu mà
về Sài Gòn, tính tránh tai nạn về xe đụng, xe lật. Tuy bà dè dặt kỹ lưỡng,song
con người hễ mang cái mạng đã cùn rồi thì khó mà chạy trời cho khỏi nắng được.
Chánh chuyến tàu mẹ con bà đi đó, chiếc tàu rủi nổ nồi sô-de (12)chìm ban đêm
giữa sông cái, hành khách chết rất nhiều, mẹ con bà phán đều chết trong cái tai
nạn ấy.
Ông Phán Thêm hay tin, thì ông bủn rủn tay chân. bất tỉnh
nhơn sự. Cái hạnh phước của đời ông là vợ với con, nay vợ con tiêu mất một lượt,
tiêu mất một cách bất ngờ, một cách thảm thiết thì cái hạnh phước ấy nó tan
như chòm mây, nó rã như bọt nước, cái đời của ông không cỏn nghĩa lý gì. Ông
gượng gạo đi kiếm vớt tử thi của vợ con mà chôn rồi trở về nhà một mình hiu quạnh,
ông nghĩ cuộc đời là một giấc mộng, có sanh rồi có tử, có vui rồi có buồn, lê
thứ cũng như công hầu, đồng lặn hụp trong biển luân hồi, đồng lăn lộn trong
vòng phiền não.
Ông nhớ vợ con, ông trách căn số, ông hết muốn công danh nữa
nên ông làm đơn xin hưu trí, đặng dấu cái sắc buồn trong nhà cho thiên hạ khỏi
thấy mà thương tâm.
Trong ba năm nay mà tóc ông đã bạc hết phân nửa, răng ông đã
rụng hết vài cái, hình vóc ông đã ốm, da mặt ông đã dùn, khi thì xẩn bẩn ngoài
sân sửa kiểng trồng bông, khi thì nằm co trên ghế nghĩ việc đời, hoặc đọc tiểu
thuyết.
Một buổi sớm mơi, chị Mười là người ở nấu ăn, mắc lăng xăng
sau bếp, còn chú Sen là bạn (13) trai thì đương lau tủ, lau bàn. Ông Phán Thêm
đứng trước sân xem bông, thình lình ông thấy có một cái xe kéo ngừng ngay cửa
ngõ. Ông dòm coi khách nào đến thăm, té ra Bà Tư Kiến, là chủ tiệm may
"Vĩnh Hưng" quen biết ông thuở nay.
Ông mời chào bà, chả kịp mời vô nhà thì bà nói rằng: "Mấy
tháng nay tôi không gặp ông nay có dịp đi lên mé trên nầy, nên ghé thăm ông một
chút. Sao ông không đi chơi, cứ ở nhà hoài, ông Phán".
Ông thở ra mà đáp rằng:
- Tôi có biết vui là cái gì đâu mà đi chơi.
- Ông cứ buồn rầu hoài!
- Không buồn sao được, bà Tư.
- Buồn thì phải đi chơi cho khuây lảng chớ.
- Tôi tưởng khó mà khuây lảng được.
Hai người dắt nhau vô nhà. Ông phán mời bà Tư Kiến ngồi bộ
ván lót căn bìa, kêu chú Sen biểu đem nước trà đãi khách, rồi ông kéo ghế ngồi
tại bàn viết cho gần bà và nói chuyện.
Bà Tư muốn khuyên giải ông Phán nên bà nói rằng:
- Ở đời ai có mạng số nấy, hơi nào mà buồn rầu. Như tôi đây,
hồi ông mất tôi cũng buồn dữ lắm chớ, mà buồn ít tháng rồi khuây lảng lần lần,
để trí lo làm ăn, chớ nằm co mà buồn rầu hoài, thì chết đói còn gì.
- Ông mất mà bà còn có vài người con. Tuy con có gia thất
riêng song cũng còn đó. Còn phận tôi thì rụi hết một lượt, hễ nhớ tới thì tôi
đứt ruột nát gan, làm sao mà vui được.
- Tại phần số của bà Phán tới chừng đó mà thôi, nên trời khiến
bà phải theo ông theo bà.
Bây giờ ông buồn rầu đến chừng nào đi nữa, bà Phản hay là
con cháu cũng không sống lại được.
- Đã biết như vậy đó chớ mà tôi khuây lảng không được biết
làm sao.
- Tôi khuyên ông phải đi chơi, đi xứ nầy, xứ kia tự nhiên
khuây lảng.
- Tôi có đi thử rồi. Đi ra ngõ thấy thiên hạ họ có vợ có con
họ vui với vợ con, tôi nghĩ lại phận tôi thì tôi càng buồn nhiều hơn nữa. Nhất
là tôi thấy con gái của họ một trang một lứa với con nhỏ của tôi thì tôi nhớ
con nhỏ tôi quá, chịu không được. Vì vậy nên tôi hết muốn đi đâu nữa lục đục ở
nhà ra vô thấy chân dung của con nhỏ tôi cho tôi đỡ buồn.
Ông Phán nói tới đó ông ngó vô bàn thờ hai hàng nước mắt rưng
rưng.
Bà Tư Kiến ngó theo ông thì thấy trên bàn thờ có treo hai tấm
chân dung, họa thiệt lớn, một tấm của bà Phán thì ngồi, một tấm của con gái bà
thi đứng, hai tấm đau đóng khuôn lồng kiếng kỹ lưỡng. Bà thấy ông Phán đau đớn
về gia đình quá thì bà động lòng bà muốn kiếm lời khuyên giải ông, nên bà nói rằng:
- Ông buồn rầu quá, tôi sợ ông đau chớ, năm nay tôi coi ông ốm
lung lắm.
- Ôi! Đau ốm gì tôi cũng không cần. Tôi muốn chết phứt cho rồi
chớ song như tôi nghĩ cũng không ích gì.
- Ông nói như vậy sao phải. Ông năm nay chưa đầy 50 tuổi,
mà muốn chết cái gì!
- Chớ tôi sống nữa làm gì? Cái đời của tôi không còn mục đích
gì nữa, sống thêm một ngày thì phiền não thêm một mớ, chớ có ích chi đâu?
- Ông nói như vậy tôi xin đỡ lời ông. Đời thiếu gì người gãy
gánh (14) nửa chừng như ông vậy. Họ kiếm chỗ chắp nối (15 ) rồi cũng sanh con
được vậy chớ.
- Họ khác tôi khác. Tôi làm như họ không được.
- Tại sao vậy? Ông năm nay thiệt mấy mươi tuổi?
- Tôi được 48 tuổi.
- Mới 48 tuổi mà già cả gì đó! Có người tới sáu mươi mà họ
còn cưới vợ, còn sanh con đó sao.
- Tôi làm sao kiếm được người như vợ tôi hồi trước, mà bà
biểu tôi cưới vợ khác?
- Phải, vợ chồng chắp nối thì làm sao cho bằng nguyên phối được.
Nhưng mà ông ở trơ trọi một mình nếu có một người đờn bà ở trong nhà sớm
khuya hủ hỉ với ông, thì có lẽ ông cũng bớt buồn được chớ.
- Khó lắm bà ôi! Tôi đã gây dựng được một cái gia đình đầm ấm,
vui vẻ thì tốn công phu không biết bao nhiêu. Thình lình cái gia đình ấy tan rã
đi. Bây giờ tôi đã già rồi, tôi nhắm khó mà lập lại một cái gia đình khác nữa
cho được.
- Ông trộng tuổi chớ chưa phải là già thiệt. Tôi tưởng nếu
ông cưới vợ khác, thì còn kiếm con được mà.
- Còn kiếm con làm chi? Ví dầu trời nhiễu phước cho tôi có
con nữa thì cái cảnh "cha già con muộn", là một cái họa thêm nữa chớ
ích gì. Người đến tuổi nầy nghĩ cũng chẳng còn sống bao lâu nữa. Nếu tôi cưới
vợ khác rồi sanh con, chừng tôi nhắm mắt, tôi bỏ lại vợ góa con thơ bơ vơ chiu
chít, ở dưới cửu tuyền tôi chịu sao được.
- Ông lo xa quá. Chưa chết đâu mà. Thế nào ông cũng sống tới
bảy tám mươi tuổi chớ. Hai mươi mấy hoặc ba mươi năm nữa ông mới chết thì
con ông lớn rồi còn lo nỗi gì.
- Sống chết là máy tạo hóa, ai mà dám đoán trước được. Vậy
chớ bà không nghe người ta nói: "Nhơn sanh thất thập cổ lai hi" (16)
hay sao. Người mà quá 40 tuổi rồi thì đừng tính làm giàu, bởi vì giàu hưởng
không được, mà cũng đừng tính lập gia thất bởi vì gia thất lập muộn thì vợ phải
bơ vơ, con phải thất dưỡng.
- Ông không chịu cưới vợ sanh con, thôi thì ông xin con họ
ông nuôi, bây giờ nó hủ hỉ với ông, ngày sau nó cúng quảy ông.
- Tôi có tính việc đó. Tôi muốn cho đời tôi có mục đích nên
tôi có tính xin con nít của họ tôi nuôi, rồi tôi gia công dạy dỗ rèn tập cho nó
trở nên người đúng đắn. Mà rồi tôi nghĩ, con của họ không phải máu thịt của
mình dễ gì mà tập cho nó giống tánh mình được. Nếu mình nuôi mình dạy nó mà rủi
gặp đứa ngang ngạnh, thì đã uổng công mà còn phiền lòng mình nữa.
- Cái nào ông cũng không chịu hết, thôi thì đi tu cho rồi chớ
ở thế gian sao được.
- Bà nói phải lắm. Tôi muốn cạo đầu vô chùa tôi tu cho rảnh nợ
trần gian. Ngặt vì mấy ông thầy chùa phần nhiều họ không hiểu tôn chỉ cao thượng
của Phật giáo. Họ bấu làm thói mê muội theo hạ thặng, tụng kinh mà không hiểu
nghĩa, làm ác mà lạy Phật cầu cho được Niết-bàn, không lo tập tánh rèn lòng từ
bi lại bày đặt xúi người tu tắt, gần họ tôi sợ gai con mắt rồi tôi tu đã không
thành chánh giác mà còn phải mang tội nữa.
- Phải, đời nay thầy chùa phần nhiều dối thế lắm. Mà họ làm
sao họ làm ông tu miễn là ông thành tâm thôi.
- Tôi tu ở nhà.
- Ở nhà mà tu sao được. Ông tu sao không có dựng bàn thờ Phật?
- Thờ Phật làm chi?
- Tu thì phải trọng Phật, phải thờ phải lạy Phật chớ.
- Phải. Tu thì trọng Phật, tin tưởng Phật. Mà trọng là trọng
cừ chỉ, trọng tâm tánh của Phật, phải suy niệm đặng bắt chước cừ chi tâm tánh ấy
mà làm theo, chớ thờ Phật hay là lạy Phật mà làm chi.
- Ông nói nghe trái đời quá.
- Trái đời mà trúng đạo lắm đa bà Tư.
- Nếu ông làm trúng đạo, thì tôi khuyên ông tu riết tới đi.
Ông tu đắc đạo thì ông giải phiền não cũng được vậy.
- Tôi tu đã lâu rồi. Nhờ tu đó tôi mới còn sống tới ngày nay
đây. Tôi tu là tu cái tâm mà thôi, chớ không chịu cạo đầu lại Phật, làm những
việc dối thế.
Bà Tư Kiên đứng dậy và cười và nói: "Ông tu cách nào
đó thì tu, mà tôi khuyên ông đừng có ăn chay. Vì ông ốm quá, ăn chay sợ mang bịnh".
Ông Phán cũng đứng dậy cười mà đáp rằng: "Phải, mấy
tháng nay tôi ốm quá. Bà coi đây, áo quần tôi bận rộng rinh!".
Bà Tư ngó ông rồi nói: "Đồ rộng hết? Ông biểu sửa lại
cho vừa vặn mà bận. Bận như vậy người ta quở chớ".
Ông Phản đáp rằng:
- Có ai đâu mà sửa.
- Dữ hôn! Trong nhà không có đờn bà thì kêu một con thợ may lại
nó sửa cho, có khó gì. Thôi, để tôi về tôi sai một đứa lên nó sửa cho.
Bà tính từ ông mà về, mà chưa muốn từ giã thì bà lại nghĩ
sao đó, nên bà đứng lại rồi nói rằng: "Nầy, tôi mới mướn một con thợ may
khéo léo lại dễ thương quá. Tội nghiệp nỏ là con Cai tổng hồi trước mà bị gia
đình suy sụp nên bây giờ phải ra thân may mướn kiếm cơm mà ăn. Thấy cuộc đời
thiệt ngán quá".
Ông Phán thở ra mà đáp rằng: "Thì cuộc đời hễ sanh rồi tử,
tử rồi sanh, có rồi không, không rồi có, tuần huờn luân chuyển hoài, có lạ gì.
Cái kiếp của con người là kiếp khổ, mình sanh ra mà trả nợ tiền khiêng (17).
Tôi nói thiệt với bà, nhờ tôi nhớ như vậy đó nên tôi mới còn sống được cho tới
ngày nay đây".
Bà Tư suy nghĩ rồi gặc đầu nói rằng: "Ông nói phải lắm.
Thiệt như vậy. Mà con nhỏ đó cũng ngộ, nó không buồn. Trước ở bực sang giàu
bây giờ rớt xuống bực hèn hạ mà nó cũng thủ phận an mạng, coi bộ không phiền
trách chi hết. Bởi tôi thấy như vậy nên tôi mới thương chớ".
Ông Phán ngó lơ, không nói nữa.
Bà Tư từ mà ra cửa, chừng bước lên xe kéo bà còn nói với rằng:
"Để sáng mai tôi biểu thợ may lên nó sửa ảo sửa quần cho".
---------------------------------------
11 của thừa tựa
12 (chaudière), bộ phận sản xuất hơi nước
13 người giúp việc
14 chết vợ hay chết chồng
15 cưới vợ hay chồng kế
16 từ xưa ít người sống tới 70
17 kiếp trước
TẬP 3
S
áng bữa sau ông Phán Thêm thức dậy sửa soạn đốt đèn nấu nước
đặng chế vô bình trà mà uống.
Từ ngày vợ con ông mất rồi thì ông mua một cái đèn nấu nước,
một bộ chén nhỏ, với một cái bình nhỏ, để sớm mai hay là trưa, ông uống nước
trà, thì ông bổn thân nấu lấy mà uống chớ ông không chịu sai chú Sen.
Nước sôi ông đương chế vô bình, thì cô Phùng Xuân bước vô cửa,
chắp tay cúi đầu xá ông và nói rằng: "Thưa ông cháu là thợ may ở dưới tiệm
Vĩnh Hưng. Bà Tư chủ tiệm sai cháu lên đặng sửa áo sửa quần cho ông."
Ông Phán gặc đầu nói rằng: "Phải, hôm qua bà Tư có nói.
Cô ngồi trên ván đó chơi đợi tôi uống nước rồi tôi sẽ soạn đồ trong tủ ra cho
cô sửa.
Cô Phùng Xuân lại ngồi ghé góc ván phía trong vách.
Ông Phán ngồi uống ít chén nước rồi hỏi cô rằng:
- Cô có đem kim chỉ theo đặng ở đây mà sửa, hay là cô tính lấy
đồ đem về dưới tiệm mà làm?
- Thưa, bà Tư dặn cháu lên trên nầy mà sửa chớ đừng có lấy đồ
đem về tiệm. Bà nói ở đây sửa, đặng hễ cái nào rồi ông bận thử liền cái nấy,
coi như chưa vừa thì sửa lại nữa, chớ đem về tiệm rồi nhắm chừng mà sửa sợ e
không vừa.
- Bà Tư tính như vậy cũng được. Cô có đem kim chỉ theo hay
không?
- Thưa, có. Cháu có đem đủ thứ chỉ.
- Áo quần của tôi bây giờ rộng rinh hết thảy. Chắc là phải sửa
mấy bữa mới rồi.
Ông ngước mặt ngó cô rồi hỏi tiếp rằng:
- Cô may tiệm bà Tư được bao lâu rồi?
- Thưa cháu lại may được vài tuần nay.
Ông Phán nghe mấy lời thì ông ngó cô trân trân rồi hỏi rằng:
- Té ra cô là người thợ may mới mà bà Tư nói hôm qua đó phải
hôn?
- Thưa bà Tư nói sao?
- Bà nói cô là con của một ông Cai Tổng hồi trước phải vậv
hay không?
Cô Phùng Xuân thẹn, nên cúi mặt xuống mà đáp nhỏ nhỏ:
"Thưa phải."
Ông Phán châu mày rồi đi mở tủ lấy hết áo vắn áo dài đem ra bỏ
một đống trên ván. Ông bận thử vài cái cho cô Phùng Xuân coi rộng bâu, rộng tay
chỗ nào bao nhiêu, rồi ông nói rằng: "Đó, cô em sửa lần đi. Sửa xong mấy
cái đó, rồi tôi bận thử, hễ vừa thì lấy mực mà sửa luôn các áo kia. Cô ngồi bộ
ván đó mà may. Chỗ đó có cửa sổ sáng sủa dễ may".
Ông nói rồi bỏ đi ra trước sân mà sửa kiểng.
Cô Phùng Xuân ngồi chăm chỉ lo làm việc bổn phận, cô không
dòm ngó ai hết, mà cũng
lặng thinh không nói tiếng chi. Một lát cô nghe ông Phán ở
ngoài sân nói lớn rằng: "Chị Mười có nấu cơm thì nấu thêm gạo một chút đặng
cô thợ may ăn với, nghe hôn".
Cô lại nghe có tiếng dạ rồi thấy một người đàn bà đi ngang
qua cửa sổ, tay có bưng một rổ đồ ăn, cô định chừng người ấy là người ở nấu
ăn cho ông Phán.
Trưa nắng ông Phán vô nhà, ông thấy cô chăm chỉ quá thì ông cười
mà nói rằng:
- Cô em có khát nước thì đi thẳng ra sau mà uống. Có chị Mười
nấu ăn ở sau.
- Thưa cháu không khát.
- Thủng thẳng rồi sửa, bữa nào rồi cũng được không cần phải
sửa lật đật. Ngồi lâu có
mỏi thì ra phía sau nói chuyện chơi với chị Mười mà nghỉ một
chút.
- Thưa mới may có một chút, có chi đâu mà mệt.
- Nhà tuy không có đàn bà, mà cô em đừng ngại chi hết. Cô
đáng em đáng cháu mà ngại gì.
Ông nằm trên ghế xích đu, đưa lúc lắc một hồi rồi hỏi rằng:
- Cô em gốc gác ở đâu?
- Dạ cháu sanh đẻ tại Cai Côn.
- Ủa! Cái Côn, mà thuộc bên Sóc Trăng hay bên Cần Thơ.
- Thưa bên Sóc Trăng.
- Té ra cũng ở gần tôi mà. Tôi gốc ở Ngả Bảy. Cô em là con thầy
Cai Tổng nào đó?
- Thưa cháu là con của Cai Tổng Hùng.
- Ờ, ờ tôi có nghe danh thầy. Thầy mất đã bao lâu nay?
- Thưa mới mãn tang vài tháng nay.
- Nhỏ lớn tôi mắc đi làm việc nên không có gặp thầy lần nào.
Tuy không quen, chớ tôi có nghe thầy hồi trước là người tử tế mà lại hảo hớn
lắm. Đời nầy thì vậy đó, phải hung bạo phải bợ đỡ thì mới khá được, chớ còn
làm nhơn nghĩa, giữ chánh trực thì mang hại. Thầy Cai mất rồi bây giờ bà Cai ở
với ai?
- Thưa ở với anh cháu dưới Kế Sách.
- Cô em được mấy anh em?
- Thưa cháu có một người anh với một người chị đều có vợ
chồng rồi hết.
- Cô em may cho bà Tư một tháng bà trả tiền công bao nhiêu?
- Thưa bà nói bà cho cháu 7 đồng. Như ít tháng bà coi cháu
may khá thì bà sẽ cho thêm.
- Bảy đồng bạc mà ăn sao đủ.
- Thưa cháu ăn ở luôn trong tiệm, nên khỏi tốn hao chi hết.
- Chớ có 7 đồng bạc mà còn phải mướn phố mà ở, nấu cơm mà
ăn, thì chết còn gì?
- Thưa, cháu mới may mà được tiền công như vậy cũng khá,
chớ có người lãnh bốn năm đồng.
Ông Phán nghe như vậy thì ông gãi đầu nhăn mặt bộ buồn hiu.
Chị Mười nấu cơm dọn rồi chị bước ra mời ông Phán đi ăn.
Ông Phán biểu cô Phùng Xuân nghỉ may đặng đi ăn cơm. Cô cáo từ, xin để về tiệm
mà ăn. Ông không cho, ông nói rằng về tiệm xa lắm, đi nắng mệt lại mất ngày giờ,
ở ăn cơm nghỉ tới 2 giờ sẽ may nữa, rồi chiều sẽ về tiệm. Cô lấy làm ái ngại,
mà bị ông mời ép quá, túng thế cô nói rằng: "ông thương, ông cho cháu ăn
cơm, thôi để lát nữa rồi cháu sẽ ăn với chị Mười". Ông lắc đầu đáp rằng:
"Không được. Tôi mời cô em ăn cơm có lẽ nào tôi để cho cô em ăn với bạn
bè vậy sao".
Cô Phùng Xuân bối rối quá, không biết dùng chước nào mà từ,
nên đứng dụ dự hoài.
Ông Phán nói rằng:
- Tưởng là ai xa lạ kìa. Chớ cô là em cháu mà ngại nỗi gì.
Tôi biểu thì phải nghe lời.
- Thưa phận cháu hèn hạ, mà ngồi đồng bàn với ông vậy cháu lỗi
lắm, cháu đâu dám.
- Sao mà hèn hạ. Cô không tiền cô làm thợ may. Người ta có
tiền mua áo mà người ta không biết may người ta đem mướn cô may. Cô ra công
mà may thì cô ăn tiền, người ta muốn có áo bận thì phải trả tiền, hai đàng
cũng vậy có ai sang hay là hèn hơn ai đâu?
Cô Phùng Xuân không biết lấy chi mà cãi.
Ông Phán thấy chị Mười đi vô nhà sau, ông bèn nói thêm rằng:
"Chớ chi thầy Cai còn mạnh giỏi, thì cô em còn sang trọng hơn tôi nữa, đừng
có nói hèn hạ".
Cô Phùng Xuân bị ép quá không thể từ chối được cực chẳng đã
phải đi ăn cơm với ông Phán. Cô kính ông nên phải ngồi dưới ông một bực mà ăn
thì cô rón rén không dám gắp đồ ăn. Còn ông thì ông nói việc nầy, hỏi việc nọ
không dứt, coi bộ như ông vui mà có một người khách ăn cơm với ông. Ông ăn
coi ngon lắm còn cô thủng thẳng ăn hết một chén cơm rồi cô cáo từ đi uống nước.
Ăn cơm rồi ông nghỉ trưa. Ông biểu cô nghỉ mà cô lại ráp may
nữa, sửa tới chiều rồi được 3 cái áo. ông bận thử thì vừa vặn, khỏi phải sửa lại
nữa. Đúng 5 giờ chiều cô xin phép ông đặng về tiệm mà nghỉ, rồi sáng mai sẽ lên
sửa nữa.
Mấy bữa sau cô Phùng Xuân cũng làm y như bữa đầu. 7 giờ sớm
mai thì lên tới, trưa ăn cơm với ông Phán, rồi chiều đúng 5 giờ thì về tiệm.
Sửa áo tới 3 ngày, mà cũng chưa rồi. Một bữa trưa, đương ngồi
ăn cơm, ông Phán nói với cô Phùng Xuân rằng: "Hổm nay có cô em ăn cơm, nói
chuyện cho vui nên tôi ăn ngon quá. Ngồi ăn có một mình buồn xo, ăn không được.
Để chiều tôi biểu chị Mười nấu cơm sớm một chút đặng cô em ăn rồi sẽ về. Cô em
chịu phiền ăn dùm với tôi, đặng vui miệng tôi ăn mới được."
Cô Phùng Xuân đã ăn bữa trưa rồi, không lẽ từ bữa chiều, nên
phải vưng lời.
Sửa áo tới 7 bữa mới xong. Mà sửa áo xong rồi, ông lại bắt cô
vá nệm, vá drap (18), vá mùng nữa. Chừng trong nhà chẳng còn vật chi sửa hay là
vá nữa ông mới đưa tiền biểu cô ra nhà hàng mua vải mua ren đặng may màn treo
cửa buồng và mấy cửa sổ.
Cô ngồi may thì ông ít hay nói chuyện với cô, song mỗi ngày hễ
trưa thì ông hay nằm cái ghế xịch đu bên căn giữa, ông ngó cô có khi tới một
hai giờ đồng hồ mà không nói một tiếng chi hết.
Một bữa trưa, ông đương nằm ngó cô trong nhà lặng trang,
thình lình ông hỏi cô rằng: "Cô em bây giờ thân phận côi cút, gia đạo suy
vi, sao không lấy chồng mà nương dựa cho đỡ tấm thân, để đi may mướn làm chi
cho cực khổ?"
Cô Phùng Xuân ngước mắt ngó ông rồi châu mày đáp rằng:
"Thưa phận cháu nghèo hèn
có ai thèm cưới mà tính lấy chồng."
Ông Phán cười mà nói rằng:
- Nếu vậy hễ nghèo thì không thể nào có chồng hay sao? Có lẽ
tại cô em không muốn
lấy chồng chớ?
- Thưa phải. Cũng tại cháu không muốn lấy chồng.
Ông Phán nghe trả lời như vậy thì ông ngồi dậy đốt một điếu
thuốc mà hút, bộ ông suy nghĩ lắm. Ông ngồi im lìm mà ngó ra sân, ông thấy một
cặp chim sắc đương nhảy trước thềm, tiếng kêu chét chét; con trống nhảy chỗ
nào thì con mái nhảy theo chỗ nấy, hai con không rời nhau xa, chừng con kia bay
đi thì con nọ cũng bay theo liền. Ông nhìn cặp chim, rồi trong lòng sanh cảm,
nên chậm rãi nói rằng: "Phận cô em còn trẻ, vừa mới bước chân vào đường đời,
chưa thấy những nỗi khổ bao nhiêu, mà sao cô em nói nghe hơi như chán ngán dữ
vậy! Nếu cô em ở trong cái cảnh của tôi đây thì cô em mới não nề đến thế nào nữa!"
Ông nói mấy lời thường, mà giọng nghe buồn thảm lắm. Ông nín
một lát rồi nỗi thảm của ông tràn trề trong lòng, không thể dằn được nên ông
nói tiếp rằng: "Cô em nói rằng cô em không muốn lấy chồng. Theo người thường
họ mê mùi trần, họ nghe câu ấy, họ đều cho cô em nói quấy. Chớ theo tôi thì tôi
cho cô em nói phải lắm. Làm con người còn lục đục trong cái vòng khổ não là
cái dòng "sanh, lão, bịnh, tử" nầy. Nếu sanh ra thì cứ tranh đua danh
lợi, mê mẩn vợ chồng cho đến ngày chết, rồi đầu thai lên kiếp khác cũng tranh
danh lợi, mê vợ chồng nữa, làm như vậy hoài, thì biết chừng nào mới qua khỏi
biển khổ. Huống chi kết vợ chồng mà chắc gì được hạnh phúc hay sao. Mình làm
thân con gái, khi người ta muốn cưới mình, thì họ nói ngon nói ngọt, họ hẹn
biển thề non, mà nhiều khi về ở với nhau rồi những lời ngon ngọt thành ra những
tiếng đắng cay, những câu thề nguyền đều trôi theo dòng nước hết, rồi cái đời
của mình tuy ở chốn trần gian, song chẳng khác nào như nằm trong địa ngục. Nếu
may mà gặp được chồng hiền, sanh được con thảo, gia đình đầm ấm hôm sớm vui vầy,
rồi thình lình gãy gánh can thường, chồng con ly biệt thì sự thương tiếc nó
còn làm cho mình phải khổ não, khó chịu hơn nữa. Một cái gương của tôi đây
cũng đủ làm cho ngời ta phải ngao ngán về nỗi vợ chồng...".
Ông nói tới đó rồi ông nín thò tay vào túi lấy khăn ra chậm
nước mắt.
Cô Phùng Xuân uất về nỗi vợ chồng, nên nghe ông nói tới việc
vợ chồng thì cô buồn hiu.
Chừng cô thấy ông nhớ tới vợ con mà ông đau đớn thì cô cảm
xúc trong lòng nên quên việc của mình mà tội nghiệp dùm cho ông.
Ông ngồi lặng thinh một hồi rồi ông chậm rãi nói nữa rằng:
"Hổm nay cô em lên đây ở may, có lẽ cô em đã thấy rõ gia đạo của tôi rồi.
Đó cũng vì vợ con mà tuổi đã lớn, trong nhà có đủ ăn, song tôi còn phải chịu buồn
thảm như vầy, buồn thảm đến nỗi ốm o gầy mòn, đến nỗi những việc thiên hạ đồng
cho là vui mà tôi không biết vui chi hết. Tôi nghĩ thiệt tôi phiền tạo hóa quá.
Bày cho có cuộc gia đình làm chi, mà loài người phải đau đớn khốn khổ hết sức!
Nếu tạo hóa bày một cách nào khác cho loài người sanh sản, chớ đừng có vợ chồng,
đừng có cha con thì cái khổ của chủng ta ắt giảm được phân nữa, chúng ta trả nợ
trần mà giải thoát dễ biết chừng nào. Cô em nghĩ thử coi những lời tôi nói đó
phải hay là quấy ".
Cô Phùng Xuân ngừng may mà đáp rằng: "Thưa những lời
ông nói đó đều phải hết thảy. Ở đời cha con cũng là tình nghĩa. Vợ chồng cũng
là tình nghĩa, anh em cũng là tình nghĩa.
Nhưng mà trong ba thứ tình ấy, duy có tình nghĩa vợ chồng dồi
dào hơn hết, nhiều khi nó làm cho người ta não nề thất chí đến nỗi coi chết
như chơi. Ông trách tạo hóa bày vợ chồng, cháu nghĩ phải lắm chớ".
Ông Phán cười gằn mà nói rằng: "Cô em thấy việc của
thiên hạ chớ cô em chưa nếm mùi
vợ chồng, mà cô em còn biết như vậy đó. Chừng cô em lập gia
đình xong rồi thì mới thấy nhiều hơn nữa".
Ông nói tình cờ, chớ ông không rõ tâm sự của cô, nhưng mà
không lời ơ hờ ấy như bươi
móc khêu gợi lòng cô, cô không thể dằn được, nên cô thở dài
mà nói nhỏ nhỏ rằng: "Thưa, cháu cũng có nếm mùi chút đỉnh rồi, nên cháu mới
biết vợ chồng là khổ, chớ có phải cháu thấy việc của thiên hạ mà thôi
đâu".
Ông Phán chưng hửng (19) bèn hỏi rằng: "Té ra cô em có
chồng rồi hay sao?"
Đã bước tới lỡ rồi, không thể sụt lại được, nên cô chảy nước
mắt mà đáp rằng:
- Thưa, thiệt cháu chưa có chồng, mà cũng như có một đời
chồng rồi.
- Ủa, sao vậy?
- Thưa, hồi cháu mới được 16 tuổi thì cha mẹ cháu có hứa gã
cho một người trai nghèo mà học giỏi, định hễ học thành tài rồi thì cho vầy
duyên. Trong mấy năm người ấy đi học thì cha mẹ cháu thường phụ cấp tiền bạc
áo quần. Lúc bãi trường người ẩy về thì thường tới lui thăm viếng có khi ở
chơi năm mười bữa. Chừng người ấy học hoàn toàn rồi thì nhà cháu suy sụp, cha
cháu chết, gia tài bị chủ nợ tịch hết, người ấy làm lơ đi kiếm chỗ giàu sang
mà cưới vợ".
Ông Phán trợn mắt ngó cô Phùng Xuân mà nói rằng: "Người
gì mà đê tiện dữ vậy! "
Cô nín khe, lấy khăn lau nước mắt. Ông hỏi rằng: "Người
đó là ai, bây giờ làm việc ở đâu?
Cô dụ dự một lát rồi nói nho nhỏ rằng:
- Thưa làm thầy thuốc, nghe nói ở đâu trong Chợ Lớn.
- Tên gì vậy?
- Thưa tên Cộn.
- Cưới vợ là con của ai ở đâu vậy?
- Thưa, cưới con gái của ông Huyện Hàm Cử ở dưới Bạc Liêu.
- Tội nghiệp cho ông Huyện đó, vô phước quá, nên mới mang
chú rễ như vậy?... Hứ! nhân tình bạc bẽo hết sức? Mê giàu sang chớ không kể
nhơn nghĩa gì?...Hèn chi hồi nãy tôi hỏi sao cô em không tính lấy chồng thì cô
em nói mình nghèo có ai lại thèm cưới mà mong lấy chồng. Cô em buồn cô em oán
cũng phải. Đó thấy chưa? Mới hứa hôn chớ chưa thành gia thất mà đã khổ não rồi
đó!
- Thưa cháu nghĩ đó chắc là tại cái mạng của cháu nên cháu
buồn phận cháu mà thôi chớ cháu không oán ai.
- Đến nước đó mà cô em cũng không oán? Nếu vậy thì cô em đã
có cốt tu rồi, hoặc là còn thương người đó nhiều lắm.
Cô Phùng Xuân lặng thinh, chăm chỉ mà may không trả lời nữa.
Chú Sen ở sau bước ra mời ông Phán đi tắm làm cho câu chuyện tới đó rồi dứt.
Cô Phùng Xuân may vá cho ông Phán Thêm đến 15 bữa mới hết
công việc. Cô từ giã ông mà trở về tiệm.
Tối bữa ấy ông Phán đi chợ mua một cây lụa trắng đem về, rồi
sáng bữa sau ông viết một bức thơ sai chú Sen cầm đem cho bà Tư Kiến với cây lụa
và 20 đồng bạc, mà cậy bà Tư đền bồi công khó nhọc cho cô Phùng Xuân.
Trót ba năm ông Phán Thêm ôm sầu ấp thảm sớm tối hiu quạnh một
mình, ít giao thiệp với ai, nên không có dịp thố lộ tâm sự đặng hả hơi mà khuây
lòng chút đỉnh.
Trong 15 bữa rày, nhờ có cô Phùng Xuân ở trong nhà may vá, ăn
cơm có người làm vui miệng ăn ngon, nằm buồn có người luận việc đời tiêu khiển,
nhứt là nhờ có dịp ấy làm cho ông thấy ông buồn rầu mà có người khác cũng buồn
rầu như ông vậy, tuy hai cái buồn không giống nhau, song cũng buồn về nỗi gia
đình, thì cái không khí trong nhà ông coi ra dường như có mòi vui vẻ hơn trước.
Mà trót nữa tháng, mỗi bữa đều thấy mặt cô Phùng Xuân, đều
nghe tiếng cô nói, đều có cô ngồi ăn cơm làm cho con mắt quen thấy, lỗ tai quen
nghe, trong trí quen nhớ, rồi bây giờ bộ ván chỗ cô ngồi trống trơn, vắng bặt
tiếng cô nói chuyện, nằm ghế xích đu không thấy hình dạng cô nữa, thì ông Phán
vào ra trong lòng buồn bực lại trong trí bàng hoàng hoài.
Tại sao ông buồn bực bàng hoàng? Ông biết tại vắng mặt cô
Phùng Xuân.
Mà tại sao vắng mặt cô Phùng Xuân thì ông lại buồn bực bàng
hoàng như vậy. Câu hỏi ấy ông vừa nghĩ tới thì ông giựt mình. Ông không dám
trà lời, ông nhút định quên cô, ngặt vì trong trí quên không được, vởn vơ thấy
hình dạng cô trước mắt, văng vẳng nghe tiếng cô nói bên tai, nằm trong nhà
cũng vậy mà ra ngoài sân cũng vậy.
Ông lấy truyện ra mà đọc tính làm như vậy đặng khuây lảng
trí. Té ra đọc truyện mà trí không có chuyện ông đọc lại nhớ chuyện của cô
Phùng Xuân nói với ông. Ông bứt rứt trong lòng quá chịu không được nữa, nên bữa
sau ăn cơm tối rồi ông ngồi xe kéo đi chợ Bến Thành mà chơi. Hồi mới ra đi thì
ông tính đi chợ mà chừng ra gần tới thì ông lại biểu xa phu chạy qua đường
Espagne, rồi ông ghé tiệm may Vĩnh Hưng.
Lúc ấy đã quá 7 giờ tối, thợ may tốp thì về nhà, tốp thì đi
chơi hết duy có một mình cô Phùng Xuân lục đục đương sửa một cái máy may mà
thôi.
Ông Phán Thêm bước vô thấy cô ngồi dưới một cái bóng đèn
khí sáng loà, thì mặt ông tươi rói. Cô lật đạt đứng dậy chắp tay chào ông.
Ông cười và hỏi rằng:
- Có bà Tư ở nhà hôn cô em?
- Dạ thưa có. Bà ở trên lầu.
- Cô em may tới ban đêm nữa sao?
- Thưa, hồi chiều có một cái máy hơi trục trặc nên tối rảnh
cháu sửa một chút. Mời ông ngồi đỡ đây đặng cháu lên lầu cho bà Tư hay.
- Lúc nầy đồ may nhiều hôn?
- Thưa nhiều.
- Cô em sửa đồ tôi bận coi vừa quá. Sẵn dịp đi chợ tôi ghé cảm
ơn cô em và cảm ơn luôn bà Tư nữa.
- Thưa cháu may có mấy bữa, công không bao nhiêu, mà hôm qua
ông gởi cho bà Tư đặng đưa cho cháu tới 20 đồng bạc với một cây hàng thiệt nhiều
quá. Của ông cho, cháu không dám từ song cháu ái ngại hết sức.
- Ôi! Chút đỉnh có đáng gì đâu. Công cô may tới nửa tháng cực
nhọc quá mà.
Bà Tư Kiến ở trên lầu nghe tiếng ông Phán nói chuyện, bà đi
xuống, đi mới được nửa cái thang thì bà nói lớn rằng: "Dữ ác hôn? Tôi lập
tiệm mấy năm rồi, bữa nay ông Phán mới chịu ghé đa. Từ rày sẳp tới cửa tiệm tôi
phát tài lắm rồi".
Ông Phán cười mà đáp rằng: "Sẵn dịp đi chợ tôi ghé cảm
ơn bà".
Bà Tư hỏi:
- Cảm ơn gì mà cảm?
- Nhờ bà cho thợ lên sửa áo nên tôi phải cảm ơn chớ.
- Dữ hôn? Con thợ Tư nó sửa đồ, vậy mà được hay không?
- Được lắm, được lắm, áo quần của tôi bây giờ vừa vặn chớ
không còn rộng rinh như hôm trước nữa. Tôi bận đây, bà coi phải vừa hay
không?
Bà Tư ngó ông mà cười, biểu Phùng Xuân mở đèn trong phòng
khách rồi mời ông vô chơi. Ông Phán với bà Tư nói chuyện cô Phùng Xuân lăng
xăng bưng nước, lấy thuốc đãi khách. Ông Phán hỏi việc nầy, việc nọ, bộ ông
vui vẻ, chớ không phải buồn bực như hôm bà Tư lên nhà ông đó vậy. Ông ở chơi
tới 10 giờ rồi ông mới từ mà về. Bà Tư Kiến đưa ông ra cửa. Bà nói rằng:
- Lúc nầy tôi coi bộ ông khá khá, chớ hôm trước ông ốm quá,
thấy phát sợ.
- Tôi bớt ốm hay sao.
- Bớt bộn.
- Mới mấy bữa rày tôi ăn cơm được. Có lẽ nhờ vậy nên tôi mới
bớt ốm.
- Mà bộ ông lúc nầy coi cũng vui nữa.
- Ạ! Cái đó không chắc bởi vì tôi tưởng không thể nào tôi
vui được.
- Từ hồi hôm tới giờ ông nói chuyện nghe vui vé quá chớ.
- Tới thăm bà tôi phải làm vui chớ lẽ nào tôi dám nói chuyện
buồn.
- Vậy thì ông nên đi chơi hoài cho vui. Có buồn ra đây nói
chuyện chơi.
- Mấy năm nay ở nhà hoài, quen thói, nên bây giờ tôi ít muốn
đi đâu.
Ông Phán lên xe mà về. Bà Tư trở vô nói với cô Phùng Xuân rằng:
"Tội nghiệp ông Phán, vợ con chết hết, mấy năm nay ông thất chí ông buồn rầu
quá!"
Trong mấy giờ đồng hồ ông Phán ngồi tại tiệm Vĩnh Hưng thì
ông vui thiệt, chớ không phải tại thủ lễ nên làm bộ vui, chừng về tới nhà thì sự
buồn bực của ông chẳng những trở lại, mà còn làm cho ông khó chịu hơn trước nữa.
Ông không muốn nhớ tới cô Phùng Xuân ngặt không muốn không được, mà hễ nhớ tới
cô thì lòng ông bát ngát rồi ông giựt mình. Đêm ấy ông ngủ không được. Ông
chong đèn ngồi trót mấy giờ đồng hồ. Trí ông hỏi lòng ông: "Vậy chớ ông có
muốn cô Phùng Xuân hay không?"
Không lý muốn mà cũng không nên muốn như vậy; một lẽ là tuổi
ông bằng hai tuổi của cô, cô đáng con của ông. Hai lẽ là ông già rồi. Nếu ông
có vợ nhỏ, trong ít năm ông chết ông bỏ vợ bơ vơ còn như sanh con lại càng tội
nghiệp hơn nữa, ba lẽ ông đã có gây cuộc gia thất một lần rồi. Tại số mạng của
ông phải cô độc nên Trời Phật mới khiến vợ con chết hết, bây giờ còn miễn cưỡng
cuộc thất gia một lần nữa mà làm chi, bốn lẽ là cô đương uất tình, đương khổ
thân. Chẳng khác nào người chơi vơi giữa giòng sông, nếu không thể cứu vớt dùm
tánh mạng cùng danh giá của cô được thì thôi, chớ có lẽ nào lại thừa lúc cô
nguy khốn mà dụ dỗ ép uổng.
Ông xét như vậy thì trúng chánh lý. Mà những chánh lý ấy
không đủ sức mạnh dập tắt lửa tình đương ngún trong lòng ông được, bởi vậy ông
muốn quên cô chừng nào thì lòng ông lại càng khoăn khoái chừng nấy.
Ông lấy làm khó chịu nên ông tự hỏi ông: "Nợ vợ chồng
mình trả chưa dứt hay sao, nên khiến lòng mình còn phải lăng xăng như vậy. Có
lẽ tại như vậy đó.
Ông vẫn biết nếu ông nói mà cưới cô Phùng Xuân thì trái
phong hóa mà cũng trái lương tâm nữa.
Nhưng nếu không thấy mặt cô thì ông chịu không được bây giờ
biết làm sao? Đã say về tình rồi thi còn kể gì là lương tâm, còn kể gì là
phong hóa, ông nhứt định phải ra tiệm Vĩnh Hưng mà tỏ thiệt cái tình của ông
cho cô Phùng Xuân biết và hỏi cô nếu cô ưng thì ông cưới liền; ông cưới cô đặng
gỡ mối sầu thảm của ông, mà cũng làm cho cô hưởng hạnh phúc ít năm, kẻo thân cô
cơ hàn bơ vơ tội nghiệp. Chồng già vợ trẻ, ở đời cũng thường thấy hoài.
Huống chi mình đã chết vợ còn cô thì người hứa hôn thấy cô
nghèo mà phụ bạc để cưới vợ khác, thế thì mình với cô kết duyên chẳng có chi
phạm nghĩa mà dụ dự. Dầu vợ chồng vì khác tuổi nên tình không được dan díu,
nghĩa không được mặn nồng, mà miễn là mình có cô ở trong nhà, cô có chỗ dung
thân dường ấy gẫm cũng đủ mình bớt buồn trong mấy năm sổng sót, ông cứ quyết định
như vậy mà ra tới tiệm Vĩnh Hưng, ông thấy mặt cô Phùng Xuân thì ái ngại quá
nên mở miệng không được. Ông tính cậy bà Tư Kiến nói dùm, đến chừng ông về
thì ông mời bà Tư bữa nào có rảnh xin vô nhà ông cho ông nói chuyện riêng.
Tối bữa sau bà Tư Kiến vô nhà thăm ông Phán. Có lẽ bà thấy bộ
tịch của ông khác hơn xưa, bà phát nghi trong lòng nên bà vừa ngồi thì bà cười
mà hỏi rằng: "Ông mời tôi vô đặng nói chuyện riêng là chuyện gì vậy?"
Ông Phán day mặt chỗ khác mà đáp rằng:
- Chuyện riêng của tôi.
- Mà chuyện gì chớ? Phải ông muốn cậy tôi làm mai hay không?
Ông Phán rất hổ thẹn, song ông gượng cười mà hỏi rằng:
- Sao bà biết?
- Mà tôi nói đó trúng hay không kìa
- Trúng. Mà sao bà biết trước chớ?
- Con mắt tôi giỏi lắm. Hễ ngó thoáng qua thì tôi biết liền.
- Mà bà nghĩ thử coi được hay không? Tôi mời bà vô đây là
tôi muốn hỏi bà coi theo ý bà việc đó có nên làm hay không. Như nên thì tôi
xin bà ra ơn làm mai dùm. Tôi tính làm đủ lễ nghĩa chớ không phải muốn chơi qua
đường. Bà nghĩ thử coi.
Bà Tư Kiến hồi nãy bà hí hởn, mà nghe ông Phán hỏi như vậy,
thì nét mặt bà nghiêm nghị. Bà ngồi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi đáp rằng:
- Ông muốn kết duyên cùng con Phùng Xuân, thì có can danh phận
nghĩa chi đâu mà không nên. Nếu được như vậy thì phận ông giải bớt sầu não được,
còn phận con nọ, nó được sung sớng tấm thân. Ngặt có điều nầy là nó nhỏ tuổi
hơn ông nhiều quá: ví như bây giờ thân nó nghèo khổ, nó không nệ tuổi lớn nhỏ,
nó ưng ông, tôi sợ ông cưới nó
rồi về sau ông cực lòng chớ.
- Tại sao mà bà sợ tôi cực lòng? Tánh nết cô Phùng Xuân có chỗ
không tốt hay sao?
- Không. Tánh nết của nó không có chỗ nào chê được. Ông kiếm
thử hết thảy con nhà giàu, con nhà quan coi có được bao nhiêu người tánh nết
bằng nó mà. Gái như nó, tuy bây giờ nghèo hèn chớ giá đáng ngàn vàng, không phải
dễ kiếm đâu.
- Vậy chớ tại sao mà nếu tôi cưới cô thì tôi sẽ cực lòng?
- Ông không hiểu tại sao? Phàm con người đến tuổi nào, thì
có cái vui, cái buồn, cái ưa, cái ghét, cái muốn, cái chê riêng theo tuổi nấy.
Nếu ông kết vợ chồng với Phùng Xuân ông tuổi lớn, nó tuổi nhỏ ở một nhà mà hai
người tính ý bất đồng thì làm thế nào mà ông không cực lòng cho được. Để tôi
thí dụ cho ông nghe: ông tuổi lớn tự nhiên ông ưa
thanh tịnh. Còn Phùng Xuân tuổi nhỏ tự nhiên nó ưa náo nhiệt.
Ông muốn nó theo ông, ông cứ bắt nó ở nhà hoài thì nó không vui, còn ông chìu
theo ý nó ông dắt nó đi chơi, thì ông buồn. Ông nghĩ coi có cực lòng hay không?
Ông Phán ngồi lặng thinh mà suy nghĩ rồi ông gặc đầu nói rằng:
- Bà nói trúng lắm. Người khác tuổi tự nhiên tính ý khác
nhau. Nếu tôi cưới cô Phùng Xuân thì trong hai người phải có một người cực
lòng. Tôi nói thiệt thà là tôi chịu cực lòng, chớ tôi không nỡ để cho cô cực
lòng đâu.
- Ông can đảm lớn dữ há!
- Không phải tôi có can đảm lớn, mà cũng không phải tôi nói bướng.
Tôi bây giờ chẳng còn biết chi là vui nữa. Tôi nói thiệt với bà tôi mà còn đem
lòng thương cô Phùng Xuân chắc là tại cái nợ nhân duyên của tôi ở trên cõi đời
nầy chưa dứt. Vậy tôi cưới cô là quyết trả cái nợ ấy cho xong mà thôi tôi hứa
chắc tôi sẽ làm cho cô vui lòng luôn luôn phần cực tôi lãnh tôi gánh vác hết mà
trả nợ.
Bà Tư cười ngất.
Ông Phán không có ý diễu cợt, nên thấy bà cười thì ông lấy
làm lạ, ông hỏi rằng:
- Tại sao tôi nói thật mà bà lại cười?
- Muốn cưới vợ nhỏ thì cưới ai cười chê gì sao nên phải mượn
cái thuyết nhơn quả của Phật mà đậy che lòng dục!
Ông Phán mắc cỡ nên ngồi lặng thinh.
Bà Tư nói tiếp rằng:
- Nói pha lửng mà cười chơi, chớ nếu ông cưới con Phùng
Xuân thì hay lắm, có sao đâu mà ngại. Ông là người có tiếng tuy trộng tuổi một
chút chớ chưa phải già, mà ở trơ trọi một mình, không có vợ con chi hết. Còn
con Phùng Xuân thì nó nghèo nàn, không nơi nương dựa, mà cũng chưa có chồng
con...
Cô gần có chồng đa bà. Cha mẹ đã hứa gã cô rồi đợi chàng ta học
xong rồi thì cho cưới rủi nhà cô suy sụp nên chồng bội ước mà bỏ cô đi cưới
chỗ khác.
- Sao ông biết?
- Cô có nói thật việc ấy cho tôi nghe.
- Chồng là ai ở đâu?
- Ông thầy thuốc nào đó bây giờ làm việc ở trong Chợ Lớn.
- Vậy mà nó dấu tôi chớ... Nếu có vậy thì nó ưng ông càng phải
hơn nữa. Nó kết duyên với ông thì nó có chỗ nương dựa sung sướng tấm thân,
còn ông thì có người săn sóc cơm nước. Nếu Trời Phật nhễu phước sanh cho ông
được một chút con trai thì càng quý hơn nữa.
- Ôi! Bà bày chuyện lớn quá! Tôi không dám mơ ước cao đến thế
đâu. Cầu trong mấy năm tôi còn sống sót đây, tôi bớt buồn rầu và tôi làm cho cô
khỏi cực khổ tấm thân được, thì cũng đủ rồi.
- Bày chuyện là sao? Ông còn có con được lắm chớ. Tuổi lớn
có được một chút con, nói đỏ đẻ cho mà nghe, không vui hay sao?
Ông Phán châu mày đáp rằng: "Bây giờ lo nói thử coi cô ưng
hay không đã". Chớ lo chi chuyện xa đường dữ vậy!"
Bà Tư cười và bà hứa để về bà hỏi dò ý cô Phùng Xuân coi cô
nhửt định lẽ nào rồi bà sẽ trả lời.
Tối bữa sau, tiệm đóng cửa rồi bà Tư Kiến kêu cô Phùng Xuân
lên lầu mà biểu cô đọc tiểu thuyết "Ngọn cỏ gió đùa" cho bà nghe. Bà
biểu đọc quyển thứ nhì, tới lúc Hải Yến thi đậu rồi bỏ Ánh Nguyệt, thì cô nghĩ
phận cô chẳng khác nào phận Ánh Nguyệt hồi trước bởi vậy cô cảm động chảy nước
mắt, đọc tiếng run.
Bà Tư là người biết tâm lý nên bà thừa lúc ấy mà hỏi rằng:
"Nghe ông Phán nói hồi trước ông Cai có hứa gả cháu cho người nào đó, rồi
chừng họ thi đậu làm thầy thuốc, họ thấy cháu nghèo họ phụ bạc bỏ đi cưới vợ
khác có như vậy hay không?"
Cô Phùng Xuân đương cảm xúc, không thể dằn lòng được nên cô
mới thuật rõ tâm sự của cô cho bà Tư nghe, cô lại nói ngày cô mới lại tiệm may,
cô thầy thuốc Cộn lại bận thử áo. Người đó là vợ của người phụ bạc cô hồi trước.
Bà Tư chưng hửng, ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng:
"Hèn chi bữa cô thầy thuốc Cộn bận thử áo cháu bợ ngợ, mà bộ coi thẹn thùa
quá. Người đời nay phần nhiều họ không có tình nghĩa gì hết miễn có tiền thì
thôi. Thứ đờn ông như vậy mà ra gì".
Cô Phùng Xuân cười gằn mà đáp rằng:
- Thưa bà họ sang trọng lắm chớ.
- Sang với ai?
- Có vợ giàu đeo hột xoàn lớn, ngồi xe hơi tốt. Thiên hạ ai
cũng phải bẩm dạ, có ai mà dám khinh dễ.
- Thiệt như vậy đó chớ? Dân của mình còn khờ quá không biết
kính trọng người phải, cứ theo kính trọng mấy kẻ tiền bạc nhiều thế lực lớn dầu
họ ăn cướp mà làm ra tiền bạc ấy, hay lòn cúi nhục nhã mà gây nên thế lực ấy
cũng không cần. Tại trí dân còn thấp nên mới sanh cái hạng bạt lương vinh mặt
múa may như vậy đó.
- Cháu nghĩ tại cháu vô duyên bạc phận. Bởi vậy cháu buồn phận
cháu mà thôi chở cháu không trách ai hết.
- Nói chuyện nghe chơi chớ trách ai làm chi. Mà cháu để rồi
coi đời nầy quả bảo nhãn tiền. Họ bạc cháu, tự nhiên họ sẽ bị người khác bạc lại
họ, chạy không khỏi đâu. Còn phận cháu, tuy bây giờ cháu buồn, song ngày sau
cháu sẽ vui lắm. Cháu sẽ có chồng sang trọng mà lại tử tế bằng mười ông thầy
thuốc Cộn khốn nạn đó cho mà coi.
- Thưa bà, thân phận cháu mà còn mong chồng con gì nữa.
- Ủa, sao vậy cháu ở vậy đặng chờ ông thầy thuốc đó hay sao?
- Thưa bà. Người ta có vợ rồi mà còn chờ nỗi gì. Cháu không
mong lấy chồng mà là vì phận cháu nghèo, người tử tế ai mà thèm cưới; hai là
vì cái tình của cháu đã khô rồi, còn vui vẻ gì mà lập gia thất.
- Cháu đừng có thất chí, ở đời có kẻ quấy mà cũng có người
phải, chớ không phải hết thảy đều thấy giàu mà ham, còn thấy nghèo như cháu mà
chê đâu. Bà nói thiệt cho cháu biết ông Phán Thêm ông hay phận cháu bị chồng phụ
bạc rồi bây giờ ra thân may mướn cực khổ, ông thương nên ổng cậy bà làm mai
nói dùm, đặng ổng cưới cháu đó. Ổng cũng biết ông lớn tuổi hơn cháu nhiều song
ông thấy người ta phụ bạc cháu ông giận nên ông tính cưới đặng làm cho cháu
sung sướng tấm thân kẻo cháu cực khổ tội nghiệp.
Cô Phùng Xuân nghe nói như vậy thì cô chưng hửng không biết
lời chi mà đáp.
Bà Tư muốn đập sắt trong lúc còn đương cháy đỏ, bởi vậy bà
nói tiếp rằng: "Thiệt ông Phán không phải giàu sang gì lắm. Nhưng mà theo
danh giá thì ông cũng được người ta kêu bằng "ông". Còn gia tài sự
nghiệp thì bây giờ ông có nhà cửa từ tế, có ruộng đất mỗi năm thâu góp huê lợi
được 5 ngàn giạ lúa. Ổng lại lãnh tiền hưu trí mỗi năm được hơn 700 đồng bạc
nữa. Bề ăn ở thì ông được sung sướng rồi, mà ổng lại có nhơn đức, thiên hạ ai
biết ổng thì cũng đều yêu mến. Nếu cháu ưng ông, thì cháu hết lo cực khổ nữa.
Chà chà mà nếu cháu sanh cho ổng được một chút con trai, ôi thôi, quý biết chừng
nào!
Cô Phùng Xuân rưng rưng nước mắt mà đáp rằng: "Cháu
bây giờ côi cút hèn hạ, cha chết, anh nghèo, mẹ bơ vơ. Thân cháu chẳng khác nào
như người té dưới giếng sâu, bạ đâu níu đó, miễn sống được thì thôi còn kén
chọn gì nữa. ông Phán có lòng nhơn đức ông muốn cửu vớt cháu. Ơn ấy như biển,
biết lấy chi mà đền đáp cho vừa. Ngặt cháu xét phận cháu, nếu cháu ưng ông thì
có chỗ bất tiện".
Bà Tư tưởng cô dụ dự vì tuổi tác bất đồng nên bà nói rằng:
- Có cái gì đâu mà bất tiện. Đời nầy tuổi cỡ ổng đó họ cưới
vợ nhỏ thiếu gì. Họ cưới 17- 18 nữa kia chớ. Có ai cười chê gì mà cháu ngại.
- Thưa bà, không phải cháu ngại về tuổi tác.
- Vậy chớ cháu ngại cái gì? Ông trơ trọi một mình không có vợ
con. Cháu vô đó thì làm vợ lớn, chớ không phải làm bé, mà cũng khỏi con ghẻ.
Cô Phùng Xuân thờ dài mà đáp rằng:
-Cháu ngại là vì ông Phán thì lấy thiệt tình mà thương cháu
còn phận cháu thì cái tình khô héo đã lâu rồi, nếu cháu ưng ông, cháu sợ cháu
không làm cho vui lòng ông được, rồi cái ơn của ông cháu không trả, mà cháu
còn làm buồn cho ông.
- Cháu sợ như vậy cũng phải. Vợ chồng phải một trang một lứa
với nhau thì mới vui. Chớ kẻ lớn người nhỏ thì thế nào cũng không hiệp được.
Tuy vậy mà vợ chồng thương nhau chẳng phải vì tình mà thôi đâu cháu, phần nhiều
là vì nghĩa nữa. Cái tình nó hăng hái một hồi rồi phai lạt; cái nghĩa nó êm ái
mà mặn mòi nên nó mới bền dai. Qua lớn
tuổi, qua thấy rõ việc đời lắm. Gia đình mà được đầm ấm lâu
dài là nhờ nghĩa chớ không phải nhờ tình đâu.
Cô Phùng Xuân không trả lời nữa cô cử ngồi lặng thinh, mà bộ
cô suy nghĩ lắm. Bà Tư nói tiếp rằng: "theo ý qua thì phận cháu nên ưng
ông Phán lắm. Cháu viết thơ thưa cho bà Cai hay đi. Qua chắc bà Cai cũng
khuyên cháu ưng nữa. Thôi khuya rồi, cháu xuống dưới đi nghỉ đi. Nầy, cháu nhớ
viết thơ cho bà Cai nghe hôn".
Cô Phùng Xuân đi xuống lầu, cô không nói cô ưng hay là không
ưng. Nhưng mà đêm ấy cô ngủ không được cứ nằm suy duyên xét phận hoài. Vì cô
đã hứa hôn với ông thầy thuốc Cộn đã mấy năm, tuy chưa chung chăn gối, song
cũng trộm nhớ thầm yêu nhiều khi bãi trường ông đến thăm hai đàng cũng có chuyện
vãn cùng nhau rất thân thiết. Nay ông phụ bạc thì cô phiền trách, nhưng mà mối
tình đã vấn vít trong lòng lỡ rồi, không dễ gì mà gỡ cho được. Đã biết hễ ông
cưới vợ khác thì nhân duyên của hai chồng đã dứt, cô lấy chồng khác không lỗi
gi. Mà cô lấy chồng khác có biết trong trí quên ông được hay không. Nếu lấy chồng
mà còn tưởng tới duyên xưa thì lỗi với chồng nhiễu lắm.
Vì cô nghĩ như vậy nên trong lòng dụ dự không dám lấy chồng.
Mà bây giờ thân cô nghèo khổ, phải may thuê vá mướn đặng kiếm cơm ăn. Nếu
không lấy chồng, rủi gặp cơn đau yếu thì biết đâu mà nương dựa.
Cô bối rối hết sức không biết đường nào phải, nẻo nào quấy
mà nhứt định. Đến khuya cô mới viết thơ gởi cho mẹ mà hỏi coi mẹ dạy lẽ nào thì
cô sẽ làm theo lịnh mẹ.
Bữa sau bà Tư hay Phùng Xuân gởi thơ về Sóc Trăng, thì bà định
cho cô đã chịu rồi, nên lật đật cho ông Phán Thêm hay. Nhân dịp ấy bà nhắc lại
những lời cô nói với bà lại cho ông Phán nghe. Ong Phán nghe mà nói rằng:
"Tôi cưới cô là tôi làm nghĩa bởi vậy tôi mong cô lấy nghĩa mà đối với
tôi vậy thôi, chớ tôi đã già rồi, tôi dại gì mà mong cô ấy lấy tình mà đãi tôi
hay sao. Xin bà làm ơn tỏ ý của tôi lại cho cô biết. Nếu tình của cô đã khô,
thì tình của tôi cũng đã héo. Vậy thì cô với tôi lấy nghĩa mà phối hiệp cùng
nhau lại càng quý hơn nữa.
Cách một tuần lễ, bà Cai Tổng Hùng gởi thơ trả lời. Cô Phùng
Xuân chờ đêm tối cô mới lên lầu, đọc thơ cho bà Tư nghe. Trong thơ bà Cai Tống
nói rằng: "ông thầy thuốc Cộn đã bội nghĩa thi mình chẳng còn chi mà phải
ái ngại. Huống chi bây giờ mình đã nghèo nàn lưu lạc, chẳng nên kén chọn cho lắm.
Ông Phán Thêm đã giàu có mà lại không có vợ con vậy thì nên ưng ông đặng có nơi
nương dựa.
Bà Tư nghe đọc thơ rồi thì bà cười nói rằng: "Qua định
trúng hay không? Qua biết trước thế nào bà Cai cũng khuyên cháu ưng ông Phán. Vậy
bây giờ cháu nhứt định lẽ nào?"
Cô Phùng Xuân chảy nước mắt mà đáp rằng: "Cháu phải
vưng lời má cháu".
Bà Tư cho ông Phán hay. Ông Phán đưa bạc mượn bà mua áo quần
cho cô, lại mua một đôi bông, một bộ dây chuyền với một đôi vàng tây mà làm lễ
cưới.
Y phục cùng nữ trang sắm xong rồi ông Phán mới định ngày
thành hôn. Cô Phùng Xuân có gởi thơ trước nên bữa cưới có bà Cai Tổng Hùng
lên, với con trai lớn của bà là Hương Chủ Tráng.
Lễ cưới ông Phán làm sơ sài mà thôi, ông dọn một tiệc mời
vài người bạn thân thiết đến dự. Đến chiều bà Tư Kiến hiệp với bà Cai Tổng và
Hương Chủ Tráng đưa cô Phùng Xuân lên lạy bàn thờ cha mẹ chồng và bàn thờ bà
Phán rồi nhập tiệc, chớ không có lập hôn thơ hôn thú chi hết.
Ông Phán Thêm với cô Phùng Xuân đã gần gũi nhau trót nửa
tháng, cỏ ăn cơm chung với nhau, có nói chuyện với nhau trước, nay giao duyên
hiệp cẩn, lẽ thì chẳng có chi mà phải e thẹn như gái giá trai tơ. Đã vậy mà ông
đã được phỉ tình, còn cô thì được an phận. Lẽ thì ngày nay là ngày vui vẻ lắm
mới phải. Mà chừng mãn tiệc, khách từ mà về bà Cai Tổng với Hương chủ Tráng
cũng theo bà Tư Kiến xuống tiệm may ngủ nhờ đặng khuya ra xe về Sóc Trăng cho
dễ. Bạn bè dọn dẹp đóng cửa đi nghỉ, thì ông Phán với cô Phùng Xuân lại cũng giữ
một mực nghiêm nghị như trước, không ai lộ vẻ vui mừng chút nào hết.
Ông ngồi tại bàn giữa đốt đèn nấu nước mà uống. Cô lăng xăng
lo dọn dẹp những đồ bày đãi khách hồi chiều. Ông uống vài chén trà rồi kêu cô,
mời ngồi cái ghế ngang mặt ông đó mà nói rằng: "Qua với em mà gần nhau
đây, qua không tính trước, mà qua chắc em cũng không dè, ấy là tại đôi ta có
duyên nợ nên Phật Trời mời khiến như vậy. Qua đã có nói với bà Tư có lẽ bà
cũng có nhắc lại với em chớ. Qua biết phận qua lắm nên qua cưới em qua chẳng hề
dám mong mỏi em lấy cái tình mà đối với qua; qua chỉ mong em lấy cái nghĩa mà
yêu nhau vậy thôi. Còn về phần của qua, thì qua hứa chắc, qua sẽ ráng mà làm
cho em vui vẻ luôn luôn. Hễ qua còn ở chốn dương trần nầy được bao lâu, thì
trong khoảng thì giờ ấy qua chẳng hề để cho em buồn một chút nào hết. Lòng dạ của
qua như vậy đó. Vậy nếu em ăn ở với qua mà em có muốn việc chi, hay là có buồn
việc chi, thì em cứ tỏ thiệt cho qua biết. Vợ chồng phải lấy chân tình mà đối
đãi nhau. Qua nói thiệt qua cưới em đây qua vì em nhiều hơn là vì qua. Vậy em
đừng ngại chi hết".
Những lời ấy bề ngoài nghe nghiêm chỉnh, mà bên trong chất chứa
không biết bao nhiêu tình bởi vậy cô Phùng Xuân ngồi nghe thi cô cảm xúc, nên
cô rưng rưng nước mắt mà đáp rằng: "Em cũng đã nói với bà Tư phận em thể
như người té xuống giếng sâu, ông cưới em thì cũng như ông đã ra tay mà cứu vớt
em. Em nguyện trọn đời em sẽ làm thân trâu ngựa mà đền bồi cái ơn trọng của
ông. Em chỉ muốn bao nhiêu đó mà thôi chớ chẳng muốn điều chi khác. Em còn ngại
một điều là tuy em trẻ tuổi, song tình của em đã khô rồi, em sợ trong đạo vợ chồng
ông không vui về cái thói lợt lạt của em đó mà thôi".
Ông Phán cười mà nói rằng:
- Qua đã nói lấy nghĩa đối với nhau cũng đủ, em đừng ngại sự
đó. Mà bây giờ em phải kêu qua thế nào chớ kêu bằng ông hoài hay sao.
- Kêu quen rồi biết làm sao.
- Qua nói chơi vậy chớ, kêu thế nào cũng được. Bề ngoài có
quan hệ gì đâu.
Ông Phán Thêm có vợ mới tuy ông không lộ sự vui mừng cho ai
biết, tuy bề cư xử ông không đổi một chút nào, song tôi tớ trong nhà đều thấy
ông không buồn bực như trước nữa, mà ông lại hay nói chuyện hay bàn luận việc
đời, hay chỉ đường ngay nẻo dại cho vợ biết. Có khi vắng vẻ, ông cũng tỏ dấu lả
lơi mà hễ vừa mở miệng hoặc vừa có cử động thì dường như ông hổ thẹn, nên ông
ngập ngừng. rồi ông lập nghiêm sửa liền cái dấu lả lơi ra dấu lễ nghĩa.
Còn cô Phùng Xuân, thì cô giữ đạo làm vợ vẹn toàn, cô chăm
nom từ miếng ăn, từ điếu thuốc, từ giấc ngủ, từ bình trà của ông, sáng ông thức
dậy thì cô sẵn nước nóng cho ông rửa mặt, trưa ông nực thì có sẵn nước mát
cho ông tắm, chỗ ông nằm ngồi chẳng hề có một chút bụi áo quần ông mặc đều sạch
sẽ luôn luôn.
Các việc trong nhà cô xem xét hết thẩy, chẳng để xảy ra một
việc gì trắc trở mà phải cực lòng ông. Bề ăn ở của ông Phán thiệt là thảnh
thơi, an ổn, ông không dè ngày già mà còn được hưởng hạnh phúc đến thế nầy. Có
bữa ông ngồi ông nghĩ đến cái gia đình cực lạc của ông bây giờ đây thì chẳng
khác nào một bức tranh thanh bạch treo trước mắt ông, nhưng mà ông nghĩ cho kỹ
lại thì bức tranh ấy còn có một chỗ lu lờ nên không được hoàn toàn như ông muốn.
Chỗ lu lờ ấy là cái tình của cô Phùng Xuân.
Thiệt như vậy cô Phùng Xuân ở với chồng thì cô trọn đạo, cô
lo lắng từ bữa ăn, giấc ngủ cho chồng, cô kính trọng chồng, nhưng mà đối với
chồng thì cô thiếu cái nét thân thiết dan díu, dường như sự niên kỷ bất đồng
nó đã ép cái tình của cô không phát hiện ra được vậy. Ông Phán muốn bôi cái
khóm lu lờ trong bức tranh gia đình thanh bạch của ông. Đầu tiên ông tính dắt
cô đi chơi. Ông dắt cô đi luôn mấy đêm, bữa thì đi nhà hàng ăn cơm Tây bữa thì
mướn xe đi hứng gió, bữa thì đi coi hát bóng, bữa thì đi coi hát cải lương. Ông
làm cho cô đầy đủ các cuộc vui, rồi ông hỏi cô có vui hay không, thì cô cúi mặt
nói rằng: "Em muốn cho ông vui lòng, nên ông dạy thế nào em cũng vưng theo
hết, chớ kỳ thiệt trong đời nầy có việc gì mà làm cho em vui được đâu.
Ông Phán nghe mấy lời như vậy thì ông lắc đầu, song ông
không thối chí, ông quyết lập thế khác mà nhen nhúm lửa tình cho vợ, đặng ông hưởng
trọn hạnh phước gia đình. Ông mới mua hột xoàn cho vợ đeo, ông dắt vợ xuống tiệm
Vĩnh Hưng mà đặt may y phục theo kiểu kim thời cho vợ bận, phải thoa môi son,
phai giồi má phấn rồi ông còn mua một cái xe hơi mới để vợ chồng đi chơi.
Cô Phùng Xuân xuôi xị, chồng khiến bề nào cô cũng làm theo bề
nấy. Cô không cãi, không phiền. Cô đã có nhan sắc sẵn, nay thêm trang sức thì sắc
của cô càng đẹp bội phần bởi vậy cô ngồi xe hơi đi chơi, trẻ già thảy đều trầm
trồ liếc ngó. Cô được sung sướng dường ấy, cô được chồng yêu dường ấy, mà đối
với chồng cô cũng giữ một mực chẳng bao giờ cô lộ vẻ vui mừng hay là tỏ vẻ dan
díu chút nào.
Một buổi chiều ông Phán đi xe hơi với cô ra đường Catinat dạo
chơi ông bịt khăn đen bận áo dài đàng hoàng, còn cô thì giồi phấn đeo xoàn hực
hớ. Vợ chồng ngừng xe rồi dắt nhau vô một nhà hàng lớn kiếm đồ mua. Chừng trờ
ra tới cửa thình lình có một cô, y phục sắc sảo chạy a lại nắm tay cô Phùng
Xuân mà nói rằng: "úa! Chị Tư. Cha chả lâu gặp chị quá. Bây giờ chị ở
đâu?"
Ông Phán không biết cô ấy là ai, mà ông lại sợ vợ thẹn thùa,
nên ông dang ra, rồi chậm rãi lên xe mà ngồi để cho vợ thong thả mà nói chuyện.
Cô Phùng Xuân nhìn lại thì người mừng cô đó là cô Huyện Khải, vốn là chị em bạn
học của cô hồi trước. Cô cũng mừng rỡ mà đáp rằng:
- Thiệt, từ ngày đám cưới chị cho tới bây giờ chị em mình
không gặp nhau nữa. Gần 4 năm rồi. Bây giờ ông Huyện đổi đi tỉnh nào?
- Ở Sài Gòn hoài, chớ có đổi đi đâu. Mình còn nhỏ đi tỉnh làm
gì phai hôn chị.
- Phải, a.
- Nhà tôi ở sau Đất Thánh Tây. Mời chị lên chơi cho biết nhé.
- Cảm ơn, để khi khác. Chị có được mấy đứa con rồi?
- Chưa có đứa nào hết.
- Sao mà dở vậy?
- Tại Trời chưa cho thì thôi chớ biết làm sao. Ối! Mà tôi
cũng không muốn có con sớm.
Để chơi cho thong thả, có con nó bó buộc lắm.
- Có con vui chớ.
- Vui giống gì? Đã biết hạng mình hễ có con thì mướn vú
nuôi. Chớ không lẽ mình cho bú được. Mà dầu mướn vú mình cũng phải coi chừng
cực nhọc quá. Tuần nào thích đi Vũng Tàu hay là Long Hải mà chơi nếu để con ở
nhà mình không an lòng, còn nếu đem theo thì lòng thòng bất tiện. Nầy chị, mấy
chị học một lớp với mình hồi trước, bây giờ họ có chồng ở Sài Gòn đây bộn bộn.
- Ai đâu?
- Để tôi kể cho chị nghe: chị Quế hô đó chị nhớ hôn?
- Ờ, nhớ.
- Chị Quế có chồng là ông Đốc Học Lang ở trong trường Sư Phạm.
Chị Thình thì có chồng là ông Trường Tiền (20) Hi. Chị Nghĩa thì có chồng là
ông Kinh Lý Hải. Mẩy chị đó tôi gặp hoài tôi biết nhà họ hết. À, tôi còn quên
chị Bình chớ. Chị Bình Cần Thơ đó mà.
- Phải. Tôi nhớ lắm, chị Bình mập đó mà.
- Phải rồi chị biết bây giờ chị Bình ở đâu hay không? Chỉ ở
trong Bà Chiểu. Chồng chỉ là ông thầy thuốc Phi. Trời ơi, chỉ đẻ con liền xì, đẻ
năm một mới đây mà chỉ đã được 8 đứa con rồi đa chị.
- Vậy thì chỉ có phước lắm.
- Có phước chớ! Nếu chỉ cứ đi cái nước đó hoài, tôi sợ con
chỉ sau thành một đạo binh, rồi chỉ chạy cơm cho nó ăn đó mà chết chớ.
- Có giỏi lắm thì chừng 10 đứa chớ bao nhiêu...
- Ý, tôi sợ tới hai chục đa chị? Đẻ sao mà đẻ hà rầm (21) vậy
không biết? Lụi hụi ít ngày nghe chỉ đẻ; mình đi thăm mà cũng mệt nữa. Gặp nhau
mừng quá, mắc nói lăng xăng nên quên hỏi chị coi bây giờ chị ở đâu.
- Tôi có chồng ở Sài Gòn đây.
- Vậy hay sao? Cơ khô dữ hôn! Vậy mà có hay đâu. Chị có chồng
về trên nầy hay sao?
- Phải.
- Trời ơi? Đám cưới hồi nào? Sao chị không mời tôi? Chị thiệt
là tệ! Hồi đám cưới tôi, chị làm dâu phụ. Mà chừng chị lấy chồng chị lại không
mời tôi chớ? Tôi phiền chị rồi quá. Chị có chồng làm việc gì ở đâu?
- Không làm việc gì hết.
- Chắc là giàu lớn lắm rồi.
- Đủ ăn vận thôi, chớ không phải giàu.
- Không phải giàu, sao lại không làm việc?
- Chồng tôi hưu trí rồi.
- Hưu trí rồi?...
Cô Huyện Khải nhìn cô Phùng Xuân trân trân, tưởng cô giễu cợt.
Cô Phùng Xuân cười mà nói rằng:
- Tôi nói thật đa chị.
Cô Huyện Khải nghiêm sắc mặt mà hỏi rằng:
- Nếu vậy thì chồng chị chắc là trộng tuổi rồi.
- Phải lớn hơn tôi nhiều.
Hồi trước làm việc sở nào lên tới chức gì?
- Làm Thông Phán Sở Thương chánh.
- Đám cưới chị không cho hay. nên tôi có dè đâu.
- Cưới hỏi sơ sài nên tôi không dám mời chị em.
- Tôi muốn mời chị đi luôn lên nhà tôi đặng chị em mình nói
chuyện chơi.
- Xin lỗi chị, bữa nay không tiện, vì tôi mắc đi mua đồ.
- Nhà chị ở đâu?
- Tôi ở đường sau nhà thờ Chợ Đũi.
- Thôi để bữa nào rồi tôi sẽ kiếm nhà chị tôi thăm. Chị em
mình bây giờ được tụ về Sài Gòn bộn rộn thiệt tôi mừng quá. Để tôi có gặp chị
Quê, chị Thình, chị Nghĩa, chị Bình thì tôi cho mấy chỉ hay rồi mình lựa một bữa
làm tiệc đặng chị em tụ hội nói chuyện chơi.
- Thôi yến tiệc làm chi. Gặp nhau mừng như vầy cũng đủ rồi.
Cô Huyện Khải nắm vạt áo của cô Phùng Xuân mà coi rồi hói rằng:
- Tiệm nào may áo cho chị đây khéo quá?
- Tiệm Vĩnh Hưng ở đường Espagne.
- À, phải rồi. Cách mấy tháng trước tôi có nghe cô thầy thuốc
Cộn khen tiệm Vĩnh Hưng lắm. Để bữa nào tôi mua hàng đem mướn tiệm ấy may ít
cái áo bận chơi. Tiệm nầy may theo kiểu kim thời khéo thiệt. Chị bận coi đẹp quá.
Cô Phùng Xuân sợ ông Phán chờ lâu nhọc lòng, nên cô từ giã cô
Huyện Khải rồi bước ra xe hơi.
Cô Huyện Khải đứng ngó theo, thấy cô Phùng Xuân lên ngồi một
cái xe hơi thùng kiểu mới tinh, mà trên xe lại có một người khăn đen áo dài ngồi
đàng hoàng, cô định người ấy chắc là ông Phán hưu trí, nên cô lắc đầu miệng lại
chúm chím cười.
Xe rút chạy ông Phán hỏi vợ rằng:
- Cô nào đó, mà kêu em bằng chị Tư?
- Cô Huyện Khải, chị em bạn học của em hồi trước.
- Em quen, sao em không mời cô lên nhà chơi?
- Em không có mời. Song chỉ có hói thăm nhà và chỉ nói để bữa
nào chỉ lại chơi.
- Em có chị em bạn thì mời họ tới lui chơi cho vui, ở đời
minh phải giao thiệp với người ta chớ.
Cô Phùng Xuân không trả lời nữa. Cô cúi mặt xuống mà sắc lại
buồn.
-----------------------------------------
18 khăn bọc nệm
19 bất ngờ, ngạc nhiên
20 trưởng ty công chánh
21 liên tục, không dứt
22 không bao lâu
TẬP 4
C
ách mấy tháng trước, thân cô Phùng Xuân cực khổ hèn hạ bao
nhiêu, thì bây giờ thân cô cũng sung sướng sang trọng bấy nhiêu, ở trong nhà
ông Phán không cho cô làm động móng tay, còn bước ra đường thì ông buộc phải
đi xe hơi chớ không cho đi bộ. Nhờ thân được sung sướng mà nhứt là nhờ cái xe
hơi, với mấy hột xoàn, nó quến (23) khách xa gần tới lui thăm viếng nờm nợp.
Những chị em bạn học hồi trước là cô Huyện Khải, cô thầy thuốc Phi, cô Đốc Học
Lang, cô Trường Tiền Hi, cô Kinh Lý Hải, lần lượt đều có đến thăm đủ mặt.
Khách của cô Phùng Xuân đến thăm thì ông Phán tiếp rước vui vẻ, mà ông lại còn
ép vợ phải trả lễ, phải đi thăm người ta lại cho tròn nghĩa chị em. Chằng hiểu
họ đến thăm họ biết ông Phán rồi về nhà họ có dị nghị về sự chồng già vợ trẻ
hay không chớ trước mặt cô Phùng Xuân thì không ai dám nói một tiếng giễu cợt
nào hết mà có người lại mừng cho cô được sung sướng, thong thả.
Một buổi chiều vợ chồng ông Phán vừa mới sừa soạn đặng đi
chơi thì có cô thầy thuốc Phi với cô Huyện Khải đến thăm. Cô Phùng Xuân tiếp
khách mời ngồi, ông Phán sợ cực lòng vợ, nên ông bước ra sân sửa kiểng để cho
vợ thong thả mà nói chuyện với khách.
Cô thầy thuốc Phi dòm thấy ý ông Phán ái ngại, cô bèn kêu mà
hỏi rằng:
- Thưa ông Phán, sao ông thấy chị em tôi rồi ông lại bỏ đi
ra ngoài sân?
- Tôi muốn để cho mấy bà nói chuyện chơi thong thả.
- Không mà. Ông làm như vậy chị em tôi không dám tới nữa,
ông vô đã đặng nói chuyện chơi cho vui chớ.
- Mấy bà tới thì có cô Tư hầu chuyện. Tôi đờn ông mà tôi
xen vô sợ e thất lễ chăng.
- Xin lỗi ông, lễ đời nay thong thả lắm. Đờn ông với đàn bà
nói chuyện cùng nhau có ngại chi đâu.
Ông Phán nghe mấy lời ấy tưởng cô thầy thuốc châm chích ông
là người thủ cựu, bởi vậy ông mắc cỡ song ông cũng gượng trở vô nhà.
Cô thầy thuốc Phi bèn nói rằng "Bữa chúa nhựt tới đây
tôi có ăn lễ thôi nôi cho thằng nhỏ tôi ông thầy thuốc dạy tôi mời hai ông bà
chiều bữa ấy vô ăn cơm chơi với vợ chồng tôi".
Ông Phán nghe mời thì ông bối rối nên ông đáp rằng:
- Ông bà tưởng tình vợ chồng tôi lắm nên bà bổn thân ra nhà
mà mời lẽ nào mà tôi dám từ chối. Ngặt vì chủ nhật tôi mắc đi Mỹ Tho có chuyện
cần lắm. Vậy xin lỗi bà bữa đó cho phép tôi vắng mặt, để cô Tư đi thế cho tôi.
-Tôi không có mời ai lạ, chỉ mời chị em bạn học hồi trước mà
thôi. Xin ông đừng ái ngại chi hết.
- Tôi tiếc quá. Tôi mắc lỡ hẹn với người ta dưới Mỹ Tho. Nếu
không có vậy thì tôi đi, có chi đâu mà ái ngại. Ông thầy thuốc tôi muốn có đủ
hai ông bà vô chơi. Ông từ chắc ông thầy thuốc tôi buồn lắm.
- Để bữa đó cô Tư vô thay mặt cho tôi mà xin lỗi với ông Thầy
Thuốc.
Cô Huyện Khải cười mà nói rằng: "Chị em bạn học hồi trước,
bây giờ hội hiệp được ít người tại Sài gòn thì ai cũng mừng. Chị thầy thuốc muốn
thừa dịp ăn thôi nôi cho con. Chị mời đủ vợ chồng mỗi người đặng làm quen với
nhau. Xin ông Phán vui lòng đình việc đi Mỹ Tho lại, đặng bữa đó vô Gia Định gặp
mấy ông một lần cho biết nhau.
Ông Phán suy nghĩ một hồi rồi đáp rằng: "Tôi lấy làm tiếc
quá, ấy là một dịp tốt cho tôi làm quen với mấy ông. Ngặt vì việc đi Mỹ Tho tôi
đình không được. Vậy xin để dịp khác rồi sẽ gặp mấy ông".
Hai cô khẩn mời ông Phán không được thì không vui, song cũng
ở nói chuyện chơi trót giờ (24) rồi mới về.
Tối lại ông Phán dặn vợ lựa đồ mua ít món đặng chủ nhật đi lễ
mừng cho cô Thầy Thuốc. Cô Phùng Xuân bèn hỏi ông rằng:
- Chủ nhật ông đi Mỹ Tho hay sao?
- Không. Qua kiếm cớ mà từ, chớ có đi Mỹ Tho làm chi đâu.
Cô Phùng Xuân chưng hửng, cô ngó ngay ông mà hỏi nữa rằng:
"Tại sao ông không từ, mà lại kiếm cớ giả dối mà nói như vậy".
Ông Phán hổ thẹn, nên ông cúi mặt xuống mà đáp nhỏ nhỏ rằng:
"Qua trộng tuổi rồi tới mấy đám như vậy qua vui sao được. Đã vậy mà qua lại
sợ nếu có qua thì em không vui. Thà là qua mang tội giả dối mà tránh cái tiệc ấy
đặng cho em vui chơi thong thả với các chị em bạn. Em đừng ngại chi hết em cứ sắm
lễ vật đặng bữa đó vô chơi với chị em. Miễn em được vui thì thôị phận qua
không kể gì".
Cô Phùng Xuân nghe như vậy thì cô ngồi lặng thinh, trong
lòng tư lương (25) lung lắm.
Chiều chúa nhật ông Phán kêu sốp phơ biểu sửa soạn xe hơi cho
cô Phùng Xuân đi Bà Chiểu, ông ép cô phải mặc y phục mới phải giồi phấn phải
đeo xoàn.
Cô Phùng Xuân trang điểm rồi bước ra, xem tướng mạo nghiêm
chinh mà lại xinh đẹp, chị em bạn của cô chẳng có người nào bì kịp.
Cô vô tới nhà ông thầy thuốc Phi thì đã có vợ chồng ông Đốc Học
Lang với ông Kinh Lý Hải đến trước rồi. Mấy cô mừng rỡ ra tại xe hơi mà tiếp rước.
Cô Phùng Xuân ngó ông Thầy Thuốc Phi mà nói rằng: "ông tưởng
tình ông mời, mà ông Phán tôi đi không được, thiệt là lỗi quá. ông Phán tôi đi
Mỹ Tho mà ông cứ theo căn dặn tôi vô chịu lỗi với ông, vì bữa nay ổng mắc việc,
thôi để dịp khác rồi ổng sẽ vô chơi đặng trước mừng cháu, sau làm quen với
ông".
Cô Thầy Thuốc hớt mà trả lời rằng:
- Vợ chồng in khuôn rập quá! Tôi chắc ông Phán bây giờ ở
ngoài nhà chớ không có đi đâu hết.
- Đi Mỹ Tho thiệt chớ.
- Không có. Chị thương chồng nên chị phải kiếm lời mà che đậy
cho chồng, chớ có chi đâu.
- Nếu có ở nhà thì vô chơi với ông Thầy Thuốc rồi.
Ông Phán không chịu vô. Tại cớ nào tôi với cô Huyện đã biết rồi.
Tại ông ái ngại.
- Có chi đâu mà ái ngại.
- Tụi mình đây còn nhỏ, hay nói giễu cợt. Ổng trộng tuổi, nên
tánh nghiêm chỉnh. Ổng sợ chơi với mình không hạp ý, nên ổng kiếm cớ mà từ chớ
gì.
- Không phải vậy đâụ! Đi Mỹ Tho thiệt mà.
Cô Phùng Xuân muốn dứt câu chuyện ấy cho mau, nên cô liền đưa
một gói đồ cho cô Thầy Thuốc mà nói rằng: "Chị ăn thôi nôi cho cháu, tôi
không biết lấy chi làm lễ mừng, nên đem một cái nón với một đôi giày cho cháu
dùng và chúc cho cháu mau khôn lớn".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét