Tỉnh mộng
CHƯƠNG 1
Dọc theo mé sông từ Tân-An qua Mỹ-Tho, nhà cất liên tiếp, cây
trồng giao nhành, người lạ ngồi thuyền đi qua đó ai cũng khen là chỗ dân cư trù
mật. Cách ít năm trước, ở chợ Tân-An, do theo quan lộ đi dựa mé sông ấy, vô chừng
vài ngàn thước thì thấy có một tòa nhà ngói cũ ba căn hai chái, nền đúc, cửa cuốn,
vách gạch, cột gõ. Nhà cất day cửa xuống mé sông, trước cửa kiểng vật đủ thứ:
nào là vạn-niên-tùng, nào là bá-trắc-diệp, nào là bùm-sụm, nào là càng-thăng,
nào là thủy-tiên, nào là kim-quít. Hai bên đường vô cửa lại có mấy bồn bông
lan, bông huệ, vạn-thọ, mồng-gà, đinh lăn, sao-nháy. Bên chái trên có mấy nọc
trầu vàng sum-sê, gió thổi lá đòng đưa khoe màu tươi mướt. Phía chái trên có
chuồng bồ-câu sơn đỏ, mà vì mưa sa nắng táp làm phai lợt màu son. Ở sau nhà lớn
thì có một cái nhà ngói nhỏ ba căn song để chứa đồ và nấu nướng. Còn từ đó ra
phía sau nữa thì là một khoảnh vườn lớn gần nửa mẫu, chung-quanh trồng mấy hàng
dừa, cây cong-vòng, cây suông đuột, buồng sai, tàu xụ, xem rất u-nhàn. Trong vườn
thì xẻ mương nhỏ cái dọc, cái ngang, rồi trên mấy liếp trồng chuối lộn với cau,
chuối nhảy con bùm-sùm, cau ngay hàng thẳng rẳng.
Nhà nầy nhà của quan Phủ Phan-hữu-Tiền. Quan Phủ qua đời đã
hơn 6 năm rồi, không có con trai, để lại một đứa con gái, năm nay đã 19 tuổi,
tên là Phan-yến-Tuyết, mà người ta thường kêu là cô hai Tuyết, ở hủ hỉ với bà
Phủ. Quan Phủ Tiền là người gốc-gác ở Bà-rịa nhưng mà lúc ngài còn sanh tiền,
ngài giúp việc cho nhà nước có ở nhiều tỉnh và tới chỗ nào ngài cũng ở lâu năm,
nên ngài coi mấy chỗ ấy như quê quán của ngài, bởi vậy ít ai biết chắc ngài
sinh trưởng tại xứ nào. Lúc ngài già yếu ngài nghĩ nhà không có con trai, có
nuôi một đứa cháu kêu bà Phủ bằng dì, cho đi học đã thành thân rồi, không cần
phải lao tâm nhọc trí chi nữa, nên ngài xin hồi hưu rồi mua khoảnh vườn nầy cất
nhà mà ở đặng an hưởng thanh nhàn.
Từ ngày quan Phủ qua đời, thì bà Phủ vào ra quạnh-quẽ, buồn
lòng xót dạ nên không lo dọn dẹp nhà cửa cho lắm. Ngoài ngõ tuy có bắc thêm một
cái cầu thang để xuống sông cho dễ, song kiểng vật không ai uốn nhành cắt lá,
nên cây lên tự nhiên coi không đẹp như xưa. Trong nhà thì ghế bàn tủ ván đóng
cây đã tốt, mà kiểu cũng lanh, song ít hay lau chùi nên coi không còn nước
bóng.
Bà Phủ không giàu, mà quan Phủ qua đời rồi, bà tom góp tiền bạc
mua được một sở ruộng ở Kỳ-Sơn huê lợi mỗi năm góp được một ngàn giạ, nhập với
huê-lợi cây trái trong vườn được vài trăm đồng bạc nữa, thì mẹ con ăn xài không
hết.
Tiết tháng chạp, trời chiều mát mẻ, sông nước dẫy đầy. Cô hai
Tuyết ăn cơm rồi mới lần bước ra ngoài cầu thang ngồi mà hứng gió. Cô mặc một
cái áo bà-ba lục-soạn trắng, mới giặt ủi nên lằn xếp còn ràng-ràng; mặc một cái
quần lãnh đen tuy cũ song láng mướt coi cũng như quần mới. Dưới chân có mang một
đôi dép quai đen, mà trên quai lại có kết bông màu hường. Cô là một người con
gái vóc vừa vừa không lớn mà cũng không nhỏ, không mập lung mà cũng không ốm
quá; đã vậy mà cô nhỏ xương nên tướng đi yểu điệu; thuở nay cô thêu thùa may
vá, hoặc viết thơ, hoặc đọc sách mà thôi, chớ không nấu nướng, không làm công
việc trong nhà, không dang nắng, không dầm mưa, nên nước da cô trắng đỏ mà lại
trong bóng. Cô không gỡ đầu nên tóc xấp xải hai bên bàn tang, mà có nhiều sợi
gió thổi ngã xuống tới gò má, làm cho cô một lát phải lấy tay mà vuốt lên, lòi
cái mặt sáng rỡ, lại thêm đôi bông hột xoàn chiếu ánh sáng mặt trời chiều chớp
nhoáng hai bên trái tai. Mỗi lần cô vuốt tóc thì thấy mấy ngón tay cô nhỏ mà lại
dài, còn bàn tay dịu nhiễu, cườm tay no tròn, chiếc đồng bánh ú đeo khít-rịt.
Cô mặc áo không có bâu, nên bày trọn cái cổ trắng trong, lại có sợi dây chuyền
nhỏ vòng theo coi thiệt là đẹp. Cô đứng trên cầu mà ngó bầy cá lòng-tong ăn bọt
nước, gió thổi ống quần phất-phơ lòi hai bàn chân ra ngón nhỏ xíu, gót đỏ lòm,
trên bàn chân thịt vung líp luôn tới mắt cá.
Thuyền chèo ngang ai thấy cô đứng trên cầu cũng đều dòm ngó,
nhưng mà cô không dè cái sắc của cô đến nỗi làm cho người nghiêng tròng, bởi vậy
cô đứng chơi tự nhiên, lượm đất nhỏ liệng cá lòng-tong đã thèm, rồi nhổ nước miếng
xuống sông cho cá lìm-kìm nổi lên hớp bọt.
Mặt trời lặn mất rồi, cô hai Tuyết mới lần bước trở vô nhà.
Cô qua khỏi cửa ngõ thấy một bụi huệ trổ bông bay mùi thơm tho, khoe màu trắng
nõn, cô đứng lại cúi mặt xuống rồi cầm một cộng, kề ngang lỗ mũi mà hưởi. Nhánh
bông huệ kề gần gò má, mấy ngón tay của cô coi cũng như bông búp, còn nước da mặt
của cô coi cũng không kém màu mấy bông đã nở chút nào.
Có một con kiến hôi ở trong nhánh bông bò qua ngang gò má,
làm cho cô nhột nên phải lấy tay mà phủi; song cô dịu-dàng quá, nên con kiến
không chết, lại leo qua tay cô mà bò. Cô chúm-chím cười bày hai hàm răng trắng
trong, rồi nhè nhẹ kề bàn tay gần lá huệ cho con kiến bò đi, chớ cô không nỡ giết.
Cô còn đương xem hoa, bỗng thấy thằng Quới, là đứa ở, quẹt lửa
đốt đèn trong nhà. Cô bước vô thấy bà Phủ đương nằm trên ván mà quạt hơi, cô mới
hỏi:
- Trời mát quá, sao chiều nay má không ra ngoài mé sông mà
chơi, má?
- Từ hồi trưa đến bây giờ sao nó nặng đầu quá. Con đưa ve dầu
măng (#1) cho má một chút con.
- Cô hai Tuyết lại ghế ăn trầu kiếm ve dầu măng đem đưa cho
bà Phủ, rồi ngồi lại một bên, rờ tay rờ trán và hỏi rằng:
- Má có dún mình (#2) hay không?
- Không.
- Tại hồi trưa má ra sau vườn coi bầy trẻ bẻ cau nên chói nắng
mà nhức đầu đó chớ gì. Trưa nắng má đừng có đi như vậy nữa nghe không má.
- Tại nó nhức đầu thì nó nhức, chớ phải tại đi ra vườn hay
sao. Hôm trước anh ba nó biểu con làm cho nó một chục khăn hỉ mũi, con làm đã rồi
hay chưa? Nó nói bữa nào đây nó qua đa. Như con làm chưa rồi thì làm riết đi, đặng
nó qua đưa cho nó.
- Con làm được 8 cái rồi. Anh đó ảnh làm rộn quá! Có vợ mà
sao không biểu vợ nó làm cho mà dùng, để đi mượn người ta.
- Con nói sao vậy? Bởi chị ba con không biết làm, nên thẳng
nó mới mượn con chớ.
- Ai biểu ảnh cưới vợ vụng như vậy làm chi.
- Nó vụng mà nó có nhiều tiền, đời nay hễ có tiền thì hơn, chớ
cần gì khéo vụng, con.
- Có tiền nhiều mà như vậy ai thèm. Nầy má, anh ba ảnh lịch-sự
trai quá chớ, không biết tại sao hồi đó ảnh cưới chị ba chi vậy, coi kỳ quá, má
há? Chị mập ú, cặp mắt băng xiên băng nai, mà văn nói nghe cụt ngủn, anh ba ảnh
thương sao được không biết.
- Cưới vợ cần gì nhan sắc, con.
- Lúc ảnh nói vợ, con mắc đi học trên nhà trắng, chớ phải con
ở nhà con cản; thiếu gì con gái hay sao mà lựa vợ như vậy.
- Con đừng nói tầm bậy, chị ba con nó hay được nó phiền.
- Nầy má, hồi trước ba với má đứng cưới vợ cho ảnh, hay là ảnh
lựa một mình ảnh vậy má?
- Hồi đó nó học đã thi lấy bằng cấp, rủi dì với dượng con khuất
đi, má với ba con thấy nó côi-cút tội nghiệp mới nuôi nó cho nó học đặng thành
thân với người ta. Chừng nó ra trường rồi ba con mới lo cho nó vô làm
thông-ngôn Tòa, rồi đổi xuống Mỹ-tho.
- Hồi đó con còn nhỏ quá nên không biết.
- Ừ, hồi đó con mới được tám chín tuổi.
- Con nhớ ảnh đi học hễ bãi trường ảnh về thì ảnh đem hình về
cho con, con thương ảnh lắm. Hồi đó mình ở trên Biên-Hòa, phải hay không má?
- Ừ.
- Ảnh làm thông ngôn ở Mỹ -Tho rồi ảnh mới đụng (#3) chỉ đó
phải hay không.
- Ừ. Nó làm việc có thời, quan yêu dân chuộng, mà nó lại khá
trai, thầy Cai Tường ở Bến Tranh thấy nó thẩy thương, thẩy mời nó vô nhà chơi
đôi ba lần rồi thẩy tính gả con cho nó. Nó thấy thẩy giàu có lớn, huê-lợi đến gần
20 ngàn giạ, mà có một mình chị ba con đó mà thôi, chớ không có con trai, nó muốn
ưng ngặt chị ba con có hèn đứa (#4) một chút nên nó dục-dặc trót hơn một năm
không chịu đi nói. Sau má nghe má rầy nó, má nói người ta giàu lớn, về nhà đó
cũng như chuột rớt hũ gạo, ở không ăn đến già cũng không hết của, dại gì mà
không chịu; nó nghe nói phải nó mới chịu đi nói, rồi ba con với má đứng cưới
cho nó đa. Nó nghe lời má bây giờ phải sung sướng tấm thân hay không? Cưới vợ
có ít tháng thì thầy Cai biểu xin thôi về ở với thẩy. Thẩy góa vợ nên thẩy giao
chìa khóa tủ sắt cho vợ chồng nó cầm. Nó về Bến-Tranh làm làng chơi ít năm rồi
làm Hội-đồng địa-hạt. Cha vợ làm Cai-tổng, chàng rể làm Hội-đồng, nhà có ghe hầu,
có xe ngựa, có xe hơi, sang trọng biết chừng nào.
- Lúc nọ con nghe ảnh nói với má, ảnh tính tranh cử Hội-đồng
quản-hạt, rồi sao êm, không nghe nói tới chuyện đó nữa vậy má?
- Nó muốn làm Hội-đồng quản-hạt lắm, song thầy Cai thẩy cản,
thẩy nói rằng tranh cử phải tốn một đôi muôn đồng bạc, mà làm có 4 năm rồi mãn
khóa không ích lợi gì. Thẩy mới tính với nó hễ thẩy xin hưu trí rồi thì nó ra
làm thế cho thẩy; cỡ Cai-tổng bây giờ không ai dành lại nó, bởi vì nó giỏi chữ
Tây, mà lại giàu lớn, trong tổng có ai mà theo kịp nó. Hôm trước nó qua nó nói
thầy Cai sửa-soạn xin hưu trí chắc trong ít tháng nữa đây nó lên Cai-tổng rồi.
- Hứ! Chị giàu thì giàu chớ trong bụng ảnh có vui sướng gì
đâu, má.
- Sao vậy?
- Vậy chớ hôm trước thằng Quới đi qua bển nó về nó nói chuyện
lại má không nghe hay sao?
- Nói chuyện gì?
- Nó nói chị ba hỗn-hào lắm, nói với ảnh cũng như nói với đầy
tớ, từ sớm mơi đến tối mắng ảnh luôn luôn, hễ ảnh cự lại chỉ nói ảnh là đồ ăn
chực. Giàu mà thô-tục quá như vậy, dầu vào đó hốt vàng cũng không ai thèm.
- Thằng Quới nó đồn tầm bậy, sao con không rầy nó, lại tin lời
nó nói làm gì. Để sáng mai tao hỏi lại nó rồi nó coi tao.
Cô hai Tuyết thấy mẹ có sắc giận thì cười và nói rằng:
- Con đặt chuyện nói chơi, chớ không phải thằng Quới nói đâu
má. Má đừng rầy nó tội nghiệp.
- Ờ, có lẽ con bày đặt, chớ thằng Quới nào mà dám nói láo như
vậy.
Cô hai Tuyết vào trong buồng lấy quả may ra, rồi đem đèn để
trên ván ngồi mà rút khăn hỉ mũi. Bà Phủ nằm ngó con một hồi rồi nghĩ thầm
trong trí rằng: con mình lớn rồi, thế nào cũng phải lo mà gả nó lấy chồng. Cha
chả, mà gả nó lấy chồng rồi ai ở với mình. Tuy hai năm nay nó thôi học về ở nhà
thì ở không mà chơi, có siêng thì nó rút khăn, thêu giầy mà dùng, hoặc nó đọc
truyện cho mình nghe, chớ nấu cơm, nấu nước, hoặc dọn dẹp trong nhà có tôi tớ,
mình không cho nó làm. Bởi vậy nó ở nhà cũng không lợi ích chi. Song có mẹ con
hủ hỉ mới khỏi buồn, nếu nó lấy chồng chắc là mình buồn lắm. Chớ chi có thằng nào
chịu cưới rồi về đây ở với mình thì mình khỏi lo. Mà mình có của đủ ăn mà thôi,
chớ không phải giàu muôn hộ chi đây mà tính nuôi rể. Nếu mình kiếm mấy đứa mồ-côi
nghèo khổ mình gả cho nó thì có lẽ mình ép vợ chồng nó phải ở đây với mình được.
Ngặt vì mấy đứa mồ-côi nghèo khổ nếu nó học giỏi thì nó mong kiếm vợ cho thiệt
giàu, rồi vợ chồng nó dắt nhau đi làm việc quan húng-hính chơi cho sung-sướng;
mình không giàu nó đã không thèm nói con mình, có đâu nó chịu ở theo bên vợ. Hoặc
là mấy đứa có học lam nham, nếu mình kêu mà gả thì chắc nó chịu, ngặt con mình
văn nói dịu-dàng, đi đứng yểu-điệu, thêu thùa đã giỏi, mà chữ nghĩa cũng thông,
không lẽ có con như vầy mà mình đem gả nó cho đứa học dở. Ví dầu mình có gả bướng
đi nữa, sợ con mình nó cũng không chịu đâu. Khó, khó lắm! Chớ chi có con ai thiệt
nhà giàu lớn mà đi nói nó, thì mình gả phứt cho rảnh. Thà gả cho nhà giàu.
Bà Phủ đương suy nghĩ đến đó, bỗng nghe cô hai Tuyết nói:
- Má nầy, hôm trước con đi Sài-gòn với má con có gặp chị
Nhan, chỉ nói chỉ có chồng rồi, chồng chỉ làm thầy-thông gì đó không biết.
- Chị Nhan nào?
- Chị Nhan là bạn học của con. Chị là con thầy Cai-tổng gì ở
dưới Cần-Thơ đó không biết. Hồi con còn đi học có một lần má đi thăm, má gặp chỉ
rồi má khen chỉ miệng nói có duyên đó, má nhớ hay không?
- Lâu quá má nhớ được đâu.
- Chỉ đen mà lùn bân, chỉ xấu quá, duy được cái lỗ miệng. Hứ!
Vậy mà được lấy chồng làm thầy-thông thầy-ký cũng khá quá.
Cô hai Tuyết nói tới đó miệng chúm-chím cười, rồi cúi xuống
mà may khăn.
Cách ít ngày có cô ba Hương ở Sài Gòn đi bán hột xoàn, cô
quen với bà Phủ Tiền, nên nhân dịp xuống Tân-An cô mới mướn xe vô nhà thăm bà
Phủ. Cô nầy tuổi quá 40, lanh lợi bặt thiệp lắm, lại vì cô đi cùng các tỉnh mà
bán bông tai, cà-rá, nên cô quen biết nhiều người. Vừa bước vô tới cửa ngõ thì
cô kêu om-sòm mà hỏi rằng: “Phải nhà chị Phủ ở đây hay không? Có khách Sài Gòn
xuống thăm đây nè”.
Bà Phủ ngồi trong nhà nghe hỏi vang-rân ngoài cửa, không biết
là ai, nên lật đật chạy ra. Bà thấy cô ba Hương thì bà mừng quá nên hỏi:
- Cha chả! Tôi ở vườn tược quê mùa, khách Sài Gòn nào mà tìm
tới đây vậy?
- Ở Sài Gòn người ta đi ăn nem Thủ Đức, đi coi hát cải-lương
đã thèm rồi, bây giờ người ta thèm dừa xiêm, thèm chuối phơi khô, nên người ta
tìm tới đây xin ăn, chị cho ăn hay không?
Hai người cười với nhau, rồi dắt nhau vô nhà. Cô ba Hương mới
hỏi:
- Chị làm giống gì mà mấy tháng nay chị không lên Sài Gòn
chơi vậy chị Phủ? Xưa rày chị mạnh giỏi thế nào?
- Tôi không đau mà cũng không mạnh cho lắm. Tôi có tật hễ ít
bữa thì nặng đầu một lần, nên ít muốn đi đâu.
- Tại chị ở nhà hoài, trí tù-túng nên chị đau như vậy chớ gì.
Phải chị đi chơi như tôi vầy thì chị có đau đâu.
- Cô xuống dưới nầy chơi hay là có chuyện chi?
- Tôi đi Tân-An có việc, tôi nhớ chị quá nên tôi chạy vô đây
thăm chị một lát.
- Cám ơn cô quá! Hai đứa nhỏ cô bây giờ làm việc ở đâu?
- Thằng lớn làm thông-ngôn dưới Bạc-Liêu còn thằng nhỏ bây giờ
nó bỏ hãng sắt, mới vô sở Trường-Tiền hôm đầu tháng tới nay.
- Hai đứa có con rồi hết há?
- Thằng lớn có hai đứa con, còn thằng nhỏ chưa có.
Cô hai Tuyết nằm trong phòng mà xem truyện, nghe có khách lật
đật cắt trầu, bửa cau rồi bưng ra. Cô chào hỏi cô ba Hương rồi vô cửa buồng đứng
hối chị chín Hữu, là người ở đi chợ nấu ăn nấu nước riết đặng chế một bình trà
ngon mà đãi khách. Cô ba Hương thấy Yến-Tuyết thì ngó trân trân rồi nói với bà
Phủ rằng:
- Con cháu năm nay đã trọng đến há? Chị có định gả nó cho chỗ
nào chưa vậy chị Phủ?
- Ổng khuất rồi, tôi còn có một mình nó hủ hỉ hôm sớm cho
vui, nếu gả chồng thì chắc là buồn lắm, nên tôi chưa muốn gả.
- Con nó đã lớn rồi, mình phải tính đôi bạn cho nó chớ. Nầy
chị, chị để tôi kiếm chỗ tôi làm mai cho cháu nhé. Tôi làm mai dễ lắm; tôi
không đòi năm bảy cái đầu heo đâu mà sợ. Ở bên Bến-tre có một thầy Cai giàu
quá. Hôm trước tôi xuống bán cho vợ chồng thầy một bộ cà-rá một ngàn bảy, tôi ở
chơi hai bữa thấy vợ chồng thầy thiệt là người tử tế. Thẩy mới gả đứa con gái lớn
lấy chồng, chỗ đó cũng giàu dữ! Thẩy còn thằng con trai năm nay lối 20, 21 tuổi
mà chưa có vợ, chị chịu thì tôi làm mai dùm cho cháu.
Cô hai Tuyết đứng trong cửa buồng nghe hai bà nói chuyện tới
đó thì mắc cở, nên bỏ qua phòng bên mà nằm. Mà bộ ván chỗ hai bà ngồi nói chuyện
thì cách phòng có một tấm vách ván mà thôi, nên ở ngoài nói chuyện gì thì cô nằm
trong đều nghe hết. Bà Phủ nghe cô ba Hương nói muốn làm mai con thầy Cai ở bên
Bến-Tre cho con mình, mà thầy Cai ấy nhà giàu có lớn, thì bà lấy trầu têm và cười,
coi bộ suy nghĩ lắm. Cách một hồi bà mới hỏi:
- Vậy chớ thằng đó học hành có bằng-cấp gì hay không?
- Cha chả! Việc đó tôi không hiểu đa. Mà tôi coi bộ cậu ta là
con nhà giàu lớn, chắc là cậu ta học sơ-sài, biết ít chữ rồi về ở nhà, chớ
không bằng người ta. Ý! Mà cậu ta mềm mỏng lắm, trình thưa dậm dại chớ không phải
dút dát như mấy cậu công-tử bột vậy đâu.
- Theo ý tôi hễ chỗ nào phải thì tôi gả, không cần giàu
nghèo, không cần học giỏi dở. Ngặt con nhỏ tôi ý nó chê mấy người học không có
bằng-cấp, mà chỗ đó lại xa quá, sợ nó không bằng lòng.
- Nếu chị không chịu chỗ đó để tôi lựa cho chị một chàng rể
đúng mực đặng chừng già yếu chị nhờ cậy cho được kìa, chớ thứ đồ bá-vơ, diện bộ
hình coi láng bóng, nói lỗ miệng nghe lốp-bốp, mà không nên thân, thì gả làm
chi.
Cô ba Hương thăm chơi trót giờ rồi muốn từ đặng trở ra chợ
Tân-An đi xe lửa mà về. Bà Phủ cầm quá nên cô phải ở lại dùng một bữa cơm. Cô
hai Tuyết mắc cỡ nên không chịu ra ăn cơm, mà chừng khách về cô cũng không ra
đưa khách.
Chú thích:
(1-) (tiếng Pháp) menthe, một loại dầu gió
(2-) nhún mình, khom lưng chào, tỏ ý khiêm nhượng
(3-) gặp
(4-) thô kệch, không đẹp
CHƯƠNG 2 -
C
on gái đến 18, 19 tuổi, tuy mắc cỡ không nói ra chớ ai cũng
lo thầm tính lén việc tóc tơ trăm năm. Cô hai Tuyết là con nhà quan, sắc đã đẹp
mà học cũng nhiều, lại thông hiểu việc đời, thấy xa nghe rộng, bởi vậy nhiều
đêm cô nằm trong phòng, canh khuya vắng-vẻ, rồi hoặc trời mưa rỉ-rả, hoặc gió
thổi lao-xao, nhìn bóng, ngó đèn, có lúc cô cũng suy nghĩ đến duyên nợ. Tuy vậy
mà cô suy nghĩ thì có suy nghĩ, song trong trí cô thường lộn-xộn, cô chẳng hề
có tưởng-tượng hình vóc của người chồng là thế nào. Hôm nay cô nằm nghe cô ba
Hương trạng cảnh gia-đình của nhà chồng, lại tỏ tánh nết của chú trai sẽ làm
người chồng của cô nữa, thì cô lấy làm mắc cỡ, cô tính bít lỗ tai không thèm
nghe, mà chẳng hiểu vì cớ nào cô lại cứ lóng tai nghe hoài, bởi vậy hai bà nói
chuyện với nhau cô nghe chẳng sót lời nào hết.
Đêm ấy Yến-Tuyết đi ngủ sớm, mà vào phòng cô nằm lăn qua trở
lại hoài, nhắm hai con mắt mà không ngủ được. Đồng hồ gõ 10 giờ, bà Phủ và tôi
tớ trong nhà đều ngủ hết. Cô ta nằm im-lìm một lát nghe dưới sông có tiếng ghe
chèo sạt-sạt. Cô ta mới nhớ tới chuyện cô ba Hương nói hồi sớm mơi. Trong trí
cô trạnh cái nhà của thầy Cai-tổng bên Bến-Tre, rồi cô tưởng-tượng luôn hình-dạng
của con thầy Cai nữa. Cô thấy một cái nhà ngói lớn mà cũ, cất thấp-thấp, trong
nhà tối hù, trên ván đóng bụi, dưới gạch sơn bùn, ở nhà sau treo nia treo thúng
cùng vách, ngoài hè rác-rến dơ-dáy, vườn lớn mà cỏ mọc đầy, sân rộng mà bông
hoa còi-cọc hết.
Cô lại thấy con trai thầy Cai tóc cúp ma-ní, mặc áo lục-soạn
trắng quần lãnh đen, chân mang guốc, ngồi nói chuyện với Hương chức làng rồi ra
nhà sau đứng ăn chuối. Cô trạnh cảnh, trạnh người rồi rồi thì trong lòng cô lạnh
ngắt, chẳng có ý muốn vào ở cái nhà đó chút nào. Cô mới ước thầm chớ chi cô có
một người chồng chẳng cần giàu cũng chẳng cần học siêu-quần xuất chúng làm gì,
miễn là có bằng-cấp đủ làm việc nhà nước, quần áo đoan-trang, đứng đi gọn-ghẽ,
nói-năng bặt-thiệp, nhà-cửa sạch sẽ, chồng đi làm việc mình ở nhà thêu khăn hoặc
đọc truyện mà chờ, chừng chồng về mình nói chuyện vui-vẻ cho chồng nghe, được
như vậy thì mình mới vừa lòng đẹp ý. Cô tính tới nghĩ lui rồi nằm mòn mỏi nên
ngủ quên hồi nào không hay.
Qua tuần sau bà Phủ thấy Tết đã gần tới nên dắt con đi Sài
Gòn đặng mua đồ chút đỉnh về mà ăn Tết. Nhơn dịp ấy mẹ con dắt nhau ghé thăm cô
ba Hương. Cô ba Hương tiếp rước rất hậu, rồi nói với bà Phủ rằng: “Tôi thấy
cháu tôi thương quá, nên hổm nay tôi về tôi thường tính lựa chỗ xứng đáng mà
làm mai. Hôm qua có Đốc-công Dưỡng lại nhà chơi với con tôi; tôi nghe nói ông
chưa có vợ, mà tôi nhắm bộ cũng khá, nên tôi tính làm mai dùm cho ông. Té ra
tôi mới mở hơi thì ông hỏi vậy chớ nhà chị giàu mà gia-tài được chừng bao
nhiêu? Tôi nói chị đủ ăn, chớ không giàu. Ông nghe như vậy ông trề môi nói ông
chưa muốn cưới vợ. Chị nghĩ coi, đời nay họ ham của quá, miễn là tiền bạc nhiều
thì thôi, họ không cần đức hạnh gì hết”. Bà Phủ cười rồi từ mà về cho kịp xe.
Bà Phủ với cô hai Tuyết về đến nhà thì thấy thầy Hội đồng
Lê-trường-Xuân nằm ở nhà mà chờ. Lê-trường-Xuân là cháu kêu bà Phủ bằng dì ruột,
rể của Cai-tổng bên Bến-Tranh. Bởi anh ta mồ-côi sớm nhờ có quan Phủ nuôi cho
đi học rồi sau lại đứng cưới vợ cho nữa, nên từ ngày quan Phủ hồi hưu về ở
Tân-An thì anh ta qua lại thăm viếng thường, mà từ ngày quan Phủ khuất rồi, anh
ta thấy dì ở có một mình quạnh-quẽ anh ta lại qua thăm thường hơn nữa. Bà Phủ
bước vô nhà ngó thấy liền hỏi rằng:
- Ủa! Cháu qua hồi nào mà nằm đó?
- Thưa, tôi qua hồi trưa.
- Cháu đi xe hơi hay là xe ngựa?
- Thưa, tôi đi xe lửa.
Cô hai Tuyết nghe nói đi xe lửa thì cười mà hỏi rằng:
- Xe hơi anh hư rồi hay sao? Hay là tại chị ba không cho phép
nên không dám đi xe hơi?
- Em kêu ngạo hoài! Tại anh muốn qua ở chơi vài bữa nên anh
đi xe lửa chớ.
- Á! Tại vậy hay sao.
Cô hai Tuyết cười rồi hối thằng Quới ra ngoài xe lấy đồ mới
mua trên Sài Gòn đó mà ôm vô nhà. Cô rửa mặt thay áo rồi mới lấy chục khăn hỉ-mũi
cô đã làm rồi mà đưa cho Trường-Xuân. Trường-Xuân tuy miệng khen may khéo và
cám ơn, song mắt không muốn ngó mấy cái khăn cho lắm. Anh ta ngồi cứ ngó ra
ngoài sân hoài, bà Phủ có hỏi việc chi thì trả lời vắn tắt phứt cho rồi, coi bộ
buồn không muốn nói chuyện, chớ không phải bải-buôi như xưa nay vậy.
Tối lại ăn cơm rồi bà Phủ ngồi bộ ván bên nây ăn trầu, cô hai
Tuyết ngồi ghế giữa mà chơi; còn Trường-Xuân thì nằm bộ ván bên kia mà hút thuốc.
Trường-Xuân cứ nằm gát tay qua trán lặng-thinh hoài, hút vừa hết điếu thuốc nầy
rồi thì quẹt hộp-quẹt mà đốt qua điếu khác. Bà Phủ xem ý cháu buồn nên kiếm
chuyện mà hỏi rằng:
- Cháu qua thăm dì hay là có chuyện chi?
- Dạ, qua thăm chớ có chuyện chi đâu.
- Hôm trước cháu nói thầy Cai muốn tính xin hưu trí đặng để
chức lại cho cháu, vậy mà đã vô đơn rồi hay chưa?
- Thưa, vô đơn rồi.
- Thế thì trong ít ngày nữa cháu làm Tổng rồi.
- Thưa, bây giờ tôi hết muốn.
- Ủa, sao vậy?
Trường-Xuân nằm lặng-thinh không trả lời. Bà Phủ ăn trầu
đương xỉa thuốc, liền dừng tay lại mà ngó Trường-Xuân, có ý trông coi anh ta
nói tại cớ nào mà anh ta hết muốn làm Tổng. Yến-Tuyết ngồi, tay rờ cái đèn mà
nghe chuyện, thấy vậy cũng day mặt ngó Trường-Xuân. Cách một hồi Trường-Xuân ngồi
dậy, đi lại ghế giữa ngồi ngang mặt Yến-Tuyết, lấy thuốc ra đốt hút nữa, rồi thủng-thẳng
mới nói rằng: “Chẳng giấu dì mà làm chi; thiệt gia-đạo của tôi hễ tôi nghĩ tới
thì tôi buồn hết sức. Phận tôi mẹ cha khuất sớm, tôi nhờ có dì dượng bao bọc
nên tôi học mới được thành thân. Tôi ra làm Thông-ngôn đã được vinh-vang mà lại
no ấm. Khi ông gia tôi muốn gả con cho tôi, tôi thấy ông giàu lớn mà lại có một
dứa con gái mà thôi, nên thiệt trong bụng tôi mừng lắm. Ngặt có một điều là vợ
tôi nó hèn quá, nên tôi dục-dặc không nhất định. Dì với dượng hay việc ấy thì
khuyên tôi biểu ưng phứt cho rồi.
Tôi muốn làm cho vui lòng dì với dượng, mà tôi nghĩ thầm
trong trí rằng tôi làm Thông-ngôn mỗi tháng lãnh lương có mấy chục đồng bạc, mà
phải sắm ăn sắm mặc, phải trả tiền phố tiền bồi, ví dầu tôi có tặn tiện cho lắm
đi nữa thì chừng tôi già yếu hồi hưu tôi cũng có dư năm ba ngàn đồng bạc là nhiều.
Vả đời nay thiên-hạ ai cũng tranh danh trục lợi, nếu tôi khư-khư trông lãnh
lương hoài thì mãn đời rồi mà sợ cũng chưa giàu bằng ai được. Mà nếu tôi tính
chặt đầu lột da người ta mà lấy của, thì có lẽ tôi giàu được, song làm những điều
ấy không phải dễ gì, may họ bình an thì êm, còn rủi họ kiện thưa thì mình mang
khổ. Nay có người giàu có, sự nghiệp kể đến năm mười muôn, họ muốn gả con cho
mình, hễ muốn vô đó thì giàu liền, mà sau mình còn có thế làm Hội-đồng, làm
Cai-tổng, làm Huyện hàm nữa, thân đã sung sướng mà danh lại rỡ-ràng, dại gì mà
không chịu. Bởi tôi nghĩ như vậy nên tôi mới chịu cưới. Khi tôi mới cưới đem về
ở ngoài phố của tôi bên Mỹ Tho, thì chúng bạn trước mặt họ khen tôi có phước gặp
được vợ giàu, còn sau lưng thì họ xầm-xì với nhau nói rằng vợ tôi xấu-xa, tôi
ham của không cần lựa chọn. Tôi nghe thiệt tôi buồn thầm một chút, song tôi
nghĩ không lẽ họ ăn cơm nhà theo cười tôi hoài, mà ở đời vợ có đức quí hơn là
có sắc, bởi vậy họ nói xa nói gần mặc họ, tôi không thèm kể đến. Mấy tháng ở
ngoài chợ thì vợ chồng hòa thuận, tuy vợ tôi quê mùa, song không làm điều chi cực
lòng tôi. Đến chừng tôi xin thôi làm việc, về ở theo quê vợ, thì vợ tôi một
ngày nó một đổi ý, coi bộ không kiêng-nể tôi; mà có nhiều khi nó lại hỗn hào hết
sức. Mới hồi hôm nầy nó la rầy tôi như giặc, mắng chửi tôi xấu hổ không biết chừng
nào, tôi giận thưa với ông gia tôi, rồi tôi bỏ tôi đi qua bên nây đặng coi còn
ai cho nó mắng nữa”.
Trường-Xuân nói tới đó thì nước mắt chảy rưng-rưng, trong cổ
nghẹn-ngùng, nên ngừng lại rồi lấy thuốc đốt mà hút. Yến-Tuyết ngồi nghe Trường-Xuân
thuật chuyện nhà, thì cặp mắt nhìn trân-trân, chừng nghe nói tới sự vợ hỗn-ẩu
thì cô ta buồn mà lại phiền trong lòng, coi bộ cô cũng thương hại dùm thân anh
lắm. Bà Phủ nghe nói cũng đau lòng, song không lẽ lặng-thinh nên bà hỏi Trường-Xuân
rằng:
- Việc nhà của cháu như vậy mà sao mấy năm nay cháu không nói
cho dì hay, mà cũng không nói cho ai biết hết.
- Ấy là vì cháu nghĩ việc vợ chồng là việc riêng của cháu, dầu
nói cho dì nghe thì dì buồn chớ không ích gì.
- Dì thấy vợ chồng họ già khú mà họ cũng còn xích-mích với
nhau thay, huống chi vợ chồng cháu còn nhỏ, tự nhiên có lúc phải trâu đen trâu
trắng, sao cho khỏi được. Cháu chẳng nên buồn làm chi. Cháu muốn ở chơi thì vài
bữa rồi về. Dì biết vợ chồng hễ giận thì rầy với nhau như vậy, chớ sao lại
không thương. Hễ cháu đi ít bữa rồi cháu về đây có nó mừng húm đa.
- Thưa dì, tôi giận quá, muốn để phứt nó cho rảnh.
- Để đâu? Để trong buồng! Cháu đừng có nói lếu như vậy. Cưới
được một con vợ dễ dúng gì hay sao? Vợ chồng ăn ở với nhau gần 10 năm rồi còn để
bỏ nỗi gì? Tuy nó có hỗn chút đỉnh, song thầy Cai thẩy tử tế quá, cháu đừng nói
lếu thẩy hay được thẩy buồn.
- Dì cũng biết, có phải tôi thấy giàu mà tôi mê nó đâu, nó
giàu thây kệ nó. Hễ có rầy với nhau thì nó cứ nói tôi ăn chực cơm của nó hoài.
Cha chả! Tôi như vầy làm không đủ cơm mà ăn hay sao nên theo ăn chực của nó.
- Ối! Đàn bà hễ giận cùng thì nói bậy nói bạ hơi nào cháu phiền.
- Thiệt ông gia tôi ông hiền- từ nhân đức lắm tôi thương ổng
quá. Đã vậy mà ổng tính hễ ông hưu-trí được rồi thì ổng lo cho tôi lên thế chức
Cai-tổng cho ông, bởi vậy cho nên tôi dùn dằng, không nỡ bỏ mà đi … Hồi hôm tôi
giận quá tôi muốn đi cho xa, hoặc lên Nam-Vang, hoặc ra Hà-Nội kiếm việc tôi
làm đặng coi con vợ tôi nó làm sao.
Bà Phủ nghe nói thì cười ngất rồi khuyên rằng:
- Cháu mồ-côi mồ-cút, tuy là bây giờ cháu chưa có của riêng,
song thầy Cai thầy đã già rồi, trong năm ba năm nữa thầy chết, chớ không lẽ thầy
lột da mà sống hoài. Hễ thầy nhắm mắt rồi thì bạc tiền ruộng đất về tay cháu hưởng
trọn hết. Đã vậy mà chức Cai-tổng cháu gần nắm trong tay rồi. Cháu phải nhịn nhục
một chút mà hưởng phú quí vinh hoa, chớ đừng có giận cùng rồi làm bậy không nên
đâu. Cháu phải nghe lời dì. Có muốn chơi thì ở chơi ít bữa rồi về. Để bữa nào
dì khỏe trong mình, dì sẽ qua mà dứt bẩn con.
Trường-Xuân đứng dậy đi lại ván mà nằm, không nói chi nữa hết.
Bà Phủ thấy vậy mới kêu thằng Quới biểu coi đóng cửa, rồi biểu Yến-Tuyết lấy
truyện “Tái sanh duyên” đọc cho bà nghe. Đến 10 giờ rưỡi bà Phủ nằm ngủ quên mà
Trường-Xuân cũng ngủ khò, Yến-Tuyết thấy vậy mới vặn đèn lu-lu rồi vào phòng mà
nghỉ.
Theo thế thường hễ con một thì cha mẹ tưng-tiu, muốn đòi vật
chi cũng được, muốn làm việc chi cũng cho, tập quen tánh nết sai khiến người
ta, rồi lần lần sanh thêm ý tứ cao-ngạo, hoặc hỗn-hào, làm cho những kẻ đồng bực
không ai yêu được, mà những kẻ dưới cũng không ai chịu nổi. Yến-Tuyết sanh
trong nhà quan, từ nhỏ cho đến lớn ở trong nhà thì tôi-tớ đều thưa dạ, đi ra đường
thì thiên-hạ đều kiêng vì. Đã vậy mà vợ chồng ông Phủ có một mình cô mà thôi, bởi
vậy cưng cô như cưng trứng mỏng, khi cô còn thơ-ấu, hễ nghe cô khóc thì vợ chồng
chạy lăng-xăng, đến chừng cô lớn khôn, hễ thấy cô buồn thì vợ chồng lo chộn-rộn,
chẳng có việc chi cô muốn mà không làm, chẳng có vật nào cô đòi mà không sắm.
Cô được tưng trọng như vậy, nhưng mà cô không nhân cái tình cảnh ấy mà sanh
lòng cao-ngạo, hoặc tập thói hỗn-hào. Những tôi trai tớ gái trong nhà đứa nào
nhỏ hơn thì cô kêu bằng em nghe ngọt- ngào, còn người nào lớn tuổi hơn cô thì
cô kêu bằng anh bằng chị, chớ chẳng hề cô chịu làm mặt chủ nhà mà xưng mầy xưng
tao. Có đứa nào làm quấy mà cô rầy, nghe cũng vui lòng; có việc chi bất bình mà
cô giận, coi càng đẹp-đẽ. Gà bươi giàn hành hay là chó ăn vụng bột, cô ngó thấy
thì cô biểu đuổi nó đi mà thôi, chớ cô không cho đánh đập. Tánh cô hòa-huỡn mà
lại mềm-mỏng như vậy, nên tôi tớ trong nhà thương cô mà lại sợ cô, còn chòm-xóm
từ già chí trẻ chẳng ai mà chẳng kính trọng.
Yến-Tuyết ở với người dưng thì được lòng mọi người, còn ở với
cha mẹ lại trọn đạo làm con nữa. Khi quan Phủ còn sanh tiền, cô thấy cha mẹ
tưng-tiu chừng nào cô càng kính trọng thương yêu chừng nấy, cô chẳng hề nói một
tiếng nào, hay là làm một việc chi cho cha mẹ buồn lòng cực trí. Từ ngày quan
Phủ qua đời rồi, trong vài năm đầu hễ có đi học về ngó lên bàn thờ thì giọt
châu lã chã, tấc dạ ngậm-ngùi; lần lần một ngày một nguôi-ngoai, nên cô không
khóc nữa, song hễ đêm nào cô nằm mà nhớ cha, thì bâng-khuâng trong lòng cô ngủ
không được. Tình thương cha mẹ của cô bây giờ dời hết về cho bà Phủ, bởi vậy cô
mới thôi học để về mà phụng-dưỡng săn-sóc mẹ già. Ngoại trừ bà Phủ thì cô còn
biết thương ai nữa. Đã biết trong lúc cô học tại nhà trắng, cô thấy có ít trò
tánh hiền nết tốt, nên có kết làm chị em, mà từ ngày cô thôi học cho đến nay đã
ba năm rồi, cô ít hay gặp mặt, nên tình muốn lợt lạt, nghĩa gần phai, bởi vậy
cô không để ý cho lắm. Anh cô là Lê-trường-Xuân tuy gần gũi cô hơn mười năm
nay, song từ ngày cô có trí khôn, cô thấy người háo danh háo lợi, miễn là ngồi
trên đứng trước, miễn là áo tốt bạc nhiều thì thôi, ai chê cười mặc ai, thì cô
đem dạ khinh thầm, bởi vậy tình anh em thì cô thương, nhưng mà lòng thương ấy lại
có pha lộn ý ghét.
Yến-Tuyết nghe Trường-Xuân thuật việc nhà với bà Phủ, ban đầu
cô ta ngồi tự nhiên không động lòng chút nào hết; lần lần cô nghe Trường-Xuân
nói tới vợ hỗn-hào mắng chởi thì cô ta có giận thầm, giận chị sao không biết
nói thanh-tao, rồi lại giận anh sao không ra oai trừng-trị. Đến chừng cô thấy
Trường-Xuân nghẹn-ngùng lụy ứa, phiền vợ than thân, chừng ấy cô nghĩ Trường-Xuân
ở trong gia đình chắc là khổ não lắm, bởi vậy cô mới buồn xo tôi nghiệp dùm cho
phận người có đủ sức mà thong-thả với đời, song vì chữ lợi-danh nên phải chịu
ngậm cay nuốt đắng.
Yến-Tuyết đêm ấy nằm trăn-trở hoài ngủ không được, trong trí
cứ tưởng-tượng cái cảnh gia-đình của Trường-Xuân, thấy cô hai Hảo là vợ Trường-Xuân
da đen, miệng rộng, đầu tóc chềm-bệp, ngón tay chù-vù, từ sớm mai cho tới tối cứ
trợn mắt chau mầy, nói với chồng thì câu-mâu, nói với tôi tớ thì quạu-cọ, rồi lại
thấy Trường-Xuân ra vào than thở, đứng ngồi buồn xo, mặc áo tốt mà không được
vui, ngồi xe hơi mà không biết khỏe. Cô là người hay lạt lòng, thuở nay hễ thấy
ai bị hoạn-nạn thì cô thương xót, bởi vậy cô suy nghĩ một hồi thì cô thương
thân anh Trường-Xuân vô cùng, mà rồi cô ghét hai Hảo, có chồng sao không biết
trọng chồng, tiền bạc quí báu gì, sao lại ỷ tiền bạc mà khinh bỉ chồng, làm cho
chồng mang sầu đeo thảm.
Qua bữa sau bà Phủ thấy Trường-Xuân cũng còn buồn, nên ăn cơm
rồi bà biểu ở nhà mà chơi, để bà qua Bến-Tranh đặng nói phải trái với thầy Cai
Tường và dứt bẩn cháu dâu đặng cho vợ chồng đừng xích-mích nữa. Bà Phủ đi rồi,
Yến-Tuyết đem đồ ra để trên ván ngồi thêu, rồi kiếm chuyện nói cho Trường-Xuân
giải buồn. Ban đầu hai người nói chuyện dông dài, lần lần Yến-Tuyết mới hỏi
phăng đến việc gia-đạo, Trường-Xuân nằm trên ván bên kia mà nói với, chừng nghe
hỏi tới việc nhà mới lại ghế ngồi gần Yến-Tuyết, rồi to nhỏ thuật hết tánh tình
của vợ cho Yến-Tuyết nghe. Anh ta nói gần trót giờ, Yến-Tuyết bỏ thêu ngồi
chăm-chỉ mà nghe. Anh ta kể hết các sự quấy của vợ rồi mới nói rằng: “Bây giờ
anh nghĩ lại anh ăn-năn vô cùng”.
“Vì anh ham giàu sang nên gần mười năm nay anh chẳng vui-sướng
chút nào hết. Em không rõ, chớ chị ba em nó còn một cái quấy lớn lắm. Qua cưới
nó về ở được 3 năm rồi qua mới hay nết nó không được tốt, khi trước nó có tư
tình với thằng biện của ông gia anh. Tại có như vậy nên ông sợ xấu, mới cậy mối
mà gả cho anh đó”.
Yến-Tuyết nghe nói tới chuyện đó thì chưng-hửng, không biết
nói sao cho được; cô ta liền cắm kim vừa thêu vừa hỏi rằng: “Sao hồi anh hay
anh không để bỏ phứt cho rồi?”.
Trường-Xuân ngồi lặng-thinh một hồi rồi thở ra mà đáp rằng:
“Thiệt ban đầu anh cũng có tính đi xin để, song cách vài ngày sau anh suy đi
nghĩ lại việc đã lỡ rồi bây giờ để bỏ thì càng mang tiếng. Đã vậy mà nó giàu có
lớn, mình bỏ nó thì cũng uổng, nên anh mới tính đánh liều miễn mình hưởng
gia-tài nó được thì thôi. Anh tưởng nó là đứa có tì-tích, chắc sao nó cũng
kiêng-nể mình, nào dè nó đã hư mà lại còn lên giọng lấn thế … thiệt nếu mà anh
biết trước như vầy, thì hồi nhỏ anh không thèm ham giàu đâu, để anh lựa một cô
nào mảnh-mai, thanh-nhã, khôn-khéo như em đây vậy anh cưới, rồi chồng làm việc,
vợ coi nhà, hủ-hỉ với nhau cho vui, miễn là đủ ăn, đủ mặc thì thôi không cần gì
giàu có.”
Trường-Xuân nói tới đó thì liếc mắt thấy Yến-Tuyết chúm-chím
cười. Anh ta bắt mùi nên nói thêm rằng: “Anh chắc người nào mà kết nghĩa với em
thì thiệt là có phước lắm. Được một người vợ nước da trắng trong, chơn tay dịu-nhiễu,
cặp mắt như thu-thủy, chân mày tợ xuân-sơn, môi đỏ như son, má nún trái quít,
ngồi coi đã đẹp, mà đứng coi cũng xinh, nói có duyên, cười có nết, được vợ như
vậy không phải là có phước lắm hay sao?” Yến-Tuyết nghe nói thì ngó Trường-Xuân
vừa cười vừa nói rằng: “Anh quỉ nà! Nói nhiều chuyện hông!”
Từ đó tới chiều Trường-Xuân cứ theo diễu cợt Yến-Tuyết hoài,
kiếm lời chọc cho cô ta tức cười, rồi lại kiếm chuyện nói cho cô ta động lòng nữa.
Đến chiều xe lửa Mỹ-tho qua rồi mà không thấy bà Phủ về. Yến-Tuyết nghi chắc thầy
Cai cầm ở lại ăn cơm rồi tối cho xe hơi đưa về; chẳng dè chờ đến tám giờ tối mà
cũng chưa thấy về, Yến-Tuyết sợ Trường-Xuân đói bụng mới biểu dọn cơm ăn. Cơm dọn
lên bàn, Yến-Tuyết mời Trường-Xuân ăn trước, ngoài miệng thì nói rằng mình
không đói, nhưng mà trong bụng nghĩ thầm mình là phận gái ngồi ăn chung một mâm
như vậy coi không được, nên tính để Trường-Xuân ăn rồi mình sẽ ăn sau, Trường-Xuân
cứ theo nài Yến-Tuyết phải ăn thì anh ta mới chịu ăn, cực chẳng đã Yến-Tuyết phải
vâng lời.
Ngồi ăn cơm Trường-Xuân nói nói cười cười, bộ vui-vẻ lắm, cứ
theo ngó Yến-Tuyết rồi khen tay cầm đũa coi đẹp, khen miệng mỉm cười có duyên,
làm cho Yến-Tuyết mắc cỡ nên ăn không được. Ăn cơm rồi chừng ăn đồ tráng miệng,
Trường-Xuân đợi Yến-Tuyết thò tay bẻ một trái chuối, anh ta mới kề tay vô mà bẻ
đặng đụng tay Yến-Tuyết. Yến-Tuyết mắc cỡ quá, nên bẻ riết cho được một trái rồi
đứng dậy đi qua ván ngồi mà ăn, chớ không nói chi hết.
Trường-Xuân nói chuyện nầy rồi bắt qua chuyện khác không dứt.
Trời khuya lần lần, tôi tớ trong nhà đóng cửa ngủ hết, trước sông vắng-vẻ ngoài
vườn im-lìm; Yến-Tuyết đứng dựa cửa sổ mà dòm ra thì chỉ nghe gió giông thổi
cây lá lào-xào và thấy bóng trăng rọi cỏ hoa rực rỡ. Đồng hồ đã gõ 10 giờ. Yến-Tuyết
day mặt ngó đồng hồ rồi nói rằng: “Đã 10 giờ rồi, chắc là má ở bển chơi sáng
mai mới về. Anh ba buồn ngủ hay chưa? Thôi, để tôi đi ngủ đặng cho anh ngủ”.
Trường-Xuân men men đi lại cửa sổ là chỗ Yến-Tuyết đứng đó, vừa
đi vừa nói nho nhỏ rằng: “Em thức nói chuyện chơi mà. Anh buồn quá ngủ không đặng.
Nói chuyện với em mấy đêm qua cũng không biết buồn ngủ”. Yến-Tuyết thấy Trường-Xuân
lại gần thì tính trở lại ván mà ngồi, nhường cửa sổ cho Trường-Xuân đứng. Trường-Xuân
đã có ý muốn lại đứng gần Yến-Tuyết, nên thấy Yến-Tuyết bỏ đi thì thất-vọng, mới
dòm ra ngoài sân mà nói rằng: “Ý! Ai đi vô cửa kia kìa! Ai đó?”
Yến-Tuyết nghe nói tưởng là bà Phủ về nên lật-đật chạy lại vừa
ngó vừa hỏi: “Ai đi đâu?” Trường-Xuân đứng khít một bên, làm bộ dòm ra ngoài rồi
nói: “Ối! Cái tàu dừa gió thổi đưa qua đưa lại anh tưởng là người ta đi vô cửa
chớ! Nầy em coi trăng tỏ trời thanh, ngó ra ngoài thấy cảnh đẹp-đẽ quá há? Cảnh
xem thú vị, nếu đứng xem một hồi lâu ai cũng phải động tình. Từ nhỏ cho tới bây
giờ có khi nào em xem trăng trong gió mát, hoặc em nằm đêm vắng canh khuya, rồi
em bâng-khuâng trong dạ, khoan-khoái trong lòng, dường như thương như nhớ ai vậy
hay không em?” Yến-Tuyết đứng lặng-thinh không trả lời. Trường-Xuân chúm-chím
cười rồi dùng những lời ngọt-dịu, kiếm những chuyện nguyệt-hoa mà khêu tình Yến-Tuyết.
Yến-Tuyết là gái mới lớn, tuy thuở nay đọc truyện Tàu thấy những
tích Bá-Ngọc-Sương ở có tình với La-Côn, Phụng-Kiều ở có nghĩa với Lý-Đáng, Mạnh-Lệ-Quân
trọn đạo cùng Hoàng-phủ-Thiếu-Hoa, thì muốn làm như Bá-ngọc-Sương, như Phụng-Kiều,
như Mạnh-Lệ-Quân, song cô ta chưa gặp ai là La-Côn, ai là Lý-Đáng, ai là
Hoàng-phủ-Thiếu-hoa, bởi vậy khối ái-tình còn phong kín trong lòng, chưa có dịp
mà phát hiện ra ngoài được. Trọn một ngày nay cô ở một mình trong nhà với Trường-Xuân,
tuy là anh của cô, song cũng là một người trai, hình vóc dong-dảy, tướng-mạo
đoan-trang, lại có học nên văn nói lanh-lợi, đối-đáp bặt-thiệp; mà từ hồi chiều
cho đến bây giờ lại nói với cô những lời dịu-ngọt, những chuyện nguyệt-hoa nữa,
bởi vậy cho nên cô lững-đững lờ-đờ, trong lòng bâng-khuâng, trong trí bối-rối,
dường như nửa say nửa tỉnh. Cô đứng dựa cửa sổ mà nghe Trường-Xuân nói, ngoài
sân vắng-vẻ gió mát trăng trong, bên tai rập-rình tiếng kèn giọng quyển, bởi vậy
cô đã tính đi ngủ mà không đi, đã tính lánh xa Trường-Xuân mà không lánh khỏi,
cứ đứng đó trân trân đến đỗi Trường-Xuân vịn vai cô, cô cũng không hay, Trường-Xuân
nắm tay cô, cô cũng xuôi xị.
Trường-Xuân tuy cư-xử trong chốn gia-đình thì coi bộ không
thông cho lắm, nhưng mà sang qua cái đường ong-bướm thì thiệt là lanh, dòm thấy
Yến-Tuyết như vậy thì không kể chi là nghĩa anh em, quyết lập thế làm cho phỉ
tình sắc dục. Than ôi! Từ xưa đến nay bọn nam-nhi hoặc thừa cơ-hội may mắn, hoặc
dùng ngôn ngữ lanh-lợi mà làm điều nhơ danh phạm nghĩa, kể biết bao nhiêu. Mà
đoàn phụ-nữ hoặc chưa thông thế thái nhơn tình, hoặc không biết giữ lòng son tiết
trắng để cho hư thân mất giá, kể số cũng chẳng ít! Người không học sa vào đó,
mà người có học cũng sa vào đó, người nghèo hèn không tránh khỏi, mà người giàu
sang cũng không tránh khỏi, nghĩ coi có đáng buồn cho xã-hôi phong-tục, có đáng
tiếc cho gia-đình danh dự hay chăng?
Trường-Xuân tuy là người có học, song bấy lâu nay anh ta đành
đem cái danh dự của nam-nhi mà đổi lấy chút sang giàu, người phẩm giá như thế
thì tự nhiên tánh tình như thế, nghĩ chẳng lạ gì. Thương thay cô Yến-Tuyết phận
gái đào-thơ liễu-yếu, bấy lâu nay tiết trắng như giá, lòng trong như gương,
chưa biết thói nguyệt-hoa, chưa quen lời ong-bướm, thình-lình gặp cái cảnh
say-mê thuở nay chưa từng nghe, bởi vậy cho nên cô dã-dượi bồi-hồi, rồi quên hết
những câu giáo-dục gia-đình, để cho kẻ thất-phu nó làm nhơ nhuốc nữ-lưu danh tiết,
nghĩ thiệt đáng buồn lắm!
CHƯƠNG 3 -
T
rời gần sáng, gà lối xóm gáy vang bên tai; trên nhành chim
dáo-dác đứng rỉa lông, ngoài sông ghe lạc-sạc chèo đi chợ. Dưới bếp chị chín Hữu
nấu nước, khua lộp-cộp; trước sân con chó vàng chụp rượt con mèo chạy nghe rần-rật.
Yến-Tuyết giật mình thức dậy, nhè nhẹ bước ra ngoài, dòm thấy đèn còn chong
lu-lu, Trường-Xuân thì nằm trên ván day mặt vô vách mà ngủ. Cô ta vừa ngó thấy
Trường-Xuân, sực nhớ tới những việc hồi hôm thì cô ta mắc cỡ, nên lật-đật trở
vào phòng. Cô khóa chặt cửa phòng rồi leo lên giường mà nằm lại. Cô suy tới
nghĩ lui, nhớ tới việc đã làm quấy thì cô lấy làm hổ-thẹn, bởi vậy cô lấy mền đắp
bít mặt mà khóc. Cô khóc một hồi rồi cô tức giận, không hiểu vì ai khiến nên
gương trong hóa đục, tiết trắng hóa bùn, từ nầy còn mặt mũi nào mà dám ngó chị
em, còn trinh tiết gì mà dám mong hoa chúc. Cô giận rồi lại khóc, khóc rồi lại
giận, cứ nằm lăn lộn trên giường hoài.
Trời sáng lần lần; ánh sáng chen kẹt cửa sổ vào phòng lờ-mờ.
Yến-Tuyết đầu xoả tóc, ngồi dậy đi lại cửa sổ đứng chống tay mà dòm ra ngoài vườn
trầu. Cô đứng ngó một hồi, lòng lạnh ngắt như đồng, mặt ướt mem nước mắt. Cô
nghe thằng Quới hè-hụi xách nước đem tưới trầu, cô hổ-thẹn không dám cho nó thấy
mặt, nên lật-đật đóng cửa sổ lại rồi leo lên giường mà nằm nữa. Nghe đồng hồ ở
ngoài gõ bảy giờ, rồi lại nghe tiếng giầy của Trường-Xuân thì tức tối cũng như
ai vác cây mà đập vào ngực, nghe tiếng nói của Trường-Xuân thì xốn-xang như ai
cầm dao mà cắt ruột gan. Tuy cô nằm một im-lìm cũng như ngủ, nhưng mà nước mắt
chảy dầm-dề, cô chán ngán cuộc đời, muốn chết phứt đặng vùi lấp kiếp hồng nhan
nhơ nhuốc.
Đến 8 giờ cô nghe Trường-Xuân ra đứng dựa cửa sau, kêu chị
chín Hữu mà hỏi rằng: “Chị chín, cô hai còn ngủ hay là đi đâu, mà hồi sớm mai đến
bây giờ sao vắng tiếng vậy chị?” Chị chín Hữu trả lời nho nhỏ nghe không rõ, rồi
Trường-Xuân lần ra ngoài trước đi qua đi lại mà ngâm thơ. Yến-Tuyết nghe tiếng
anh ta chừng nào thì càng tủi, càng phiền, càng tức, càng giận chừng nấy. Đúng
10 giờ mới nghe tiếng xe hơi ngừng ngoài cửa.
Trường-Xuân lật-đật chạy ra, ngó thấy bà Phủ về, lại có thầy
Cai Tường với vợ mình đi theo nữa, liền trở lộn vô rồi nằm trên ván day mặt vô
vách làm bộ ngủ. Bà Phủ vô trước, thầy Cai với cô hai Hảo đi theo sau.
Thầy Cai-tổng Tường tuổi đã 65, mặt dùn da, mắt đeo kiếng,
tóc bạc, râu dài đầu bịt khăn đen, mình mặc áo xuyến đen mới, quần nhiễu trắng
cũ, chơn mang giầy hàm ếch da láng. Còn con gái thầy là vợ Trường-Xuân, tuy con
nhà giàu sang, song dung mạo rất tầm thường, người không quen biết thì không dè
là con Cai-tổng, bởi vì cô da đen, mũi gãy, răng hô, càm lẹm, tay chơn thô-kịch,
đi bộ cứng-còng, đầu đội khăn lục soạn trắng, mình mặc áo cẩm nhung đen, quần
hàng bom bay mới, chơn đi giầy nhung đỏ thêu cườm, tay xách dù màu xanh cán bạc.
Bà Phủ bước vô ngó thấy Trường-Xuân nằm ngủ thì kêu om-sòm mà
nói rằng: “Hội-đồng, thức dậy nào! Có anh Cai với cỏn qua với tao đây nè!”
Trường-Xuân lồm cồm ngồi dậy, làm bộ như ngủ, nên lấy khăn
lau cặp con mắt; chừng thấy thầy Cai bước vô thì đứng dậy chào hỏi rồi đi rửa mặt.
Vợ Trường-Xuân vừa ngó thấy chồng thì đứng lại mà nói rằng: “Thứ đờn-ông gì mà
hễ có gây với vợ thì bỏ nhà mà đi. Tưởng là đi đâu, té ra qua bên dì Phủ, giỏi
dữ hông” Trường-Xuân làm bộ không nghe, cứ đứng rửa mặt. Thầy Cai ngồi hút thuốc
cũng lặng-thinh, không nói chi hết.
Bà Phủ thấy vắng Yến-Tuyết thì kêu chín Hữu mà hỏi. Chín Hữu
đáp rằng: “từ hồi sớm mơi đến bây giờ cô nằm trong phòng hoài không ra”. Bà Phủ
chạy vô thấy cửa phòng khóa chặt thì vỗ vách mà kêu. Yến-Tuyết đương nằm mà
khóc, tóc tai xụ-xộp, mặt mũi ướt-dầm, nghe mẹ kêu thì lật đật ngồi dậy lấy khăn
lau mặt rồi mới mở cửa. Vì cửa sổ đóng chặt nên trong phòng lờ mờ. Bà Phủ không
thấy mặt con cho rõ, song bà không biết việc gì mà 10 giờ còn nằm êm trong
phòng, bởi vậy bà mới hỏi rằng: “Con đau hay sao vậy con?” Yến-Tuyết thấy mặt mẹ
thì đã chết điếng trong lòng, lại nghe mẹ hỏi nữa thì cô chịu không được, muốn
tỏ hết sự tình cho mẹ nghe, ngặt khách đương ngồi ở ngoài, nói ra bất tiện, nên
cô dằn lòng, gục mặt xuống đất mà thưa rằng: “Từ hồi hôm đến bây giờ con nhức đầu
quá nên ngồi không được”. Bà Phủ liền biểu: “Thôi, con nằm xuống mà nghỉ”, rồi
bà trở ra hầu chuyện với khách. Bà vừa xây lưng thì thấy cô hai Hảo bước vô
phòng đứng hỏi rằng: “Cô hai ể mình hay sao vậy dì?” Bà Phủ đáp rằng: “Ừ, nó
nói nó nhức đầu”, rồi hai người dắt nhau trở ra.
Bà Phủ mời thầy Cai uống nước rồi dòm thấy ý vợ chồng, cha
con bợ ngợ, không ai chịu khởi đầu mà nói việc nhà, bà mới ngó Trường-Xuân mà
nói rằng: “Tao qua bển đặng phân phải trái với anh Cai và dứt bẩn con ba, té ra
theo lời con ba nó nói với tao, thì vợ chồng rầy rà với nhau đó là lỗi tại nơi
cháu chớ không phải tại nó. Nó nói cháu không lo việc nhà, bỏ phú cho một mình
nó, cháu cứ đánh quần đánh áo rồi khi thì đi Sài Gòn, khi thì đi Mỹ-Tho mà chơi
hoài; mà đi tới đâu cháu lại có mèo chuột tới đó. Nó sợ cháu chơi sa đọa mà hư
hại việc nhà chớ nó dám hỗn hào với cháu đâu. Nầy cháu, nay có mặt anh Cai đây,
dì mới nói thiệt cho cháu rõ: phận cháu côi-cút, dì đây cũng như mẹ vậy, dì nói
cháu phải nghe. Anh Cai già yếu rồi, sự nghiệp thì lớn lắm, cháu phải hết lòng lo
quản xuất việc nhà, chẳng nên chơi bời nữa. May mà cháu có vợ nó biết lo lắng
như vầy, chớ nếu cháu đụng đứa thưa thớt, rồi cháu bỏ đi chơi hoài thì có cơm
đâu đủ mà ăn. Thôi, vợ chồng đừng có hờn nhau nữa. Cháu đã làm ông nầy ông kia
với người ta, nay mai đây cháu lại làm tới Cai-tổng, không phải là nhỏ: chẳng
nên để xào-xáo trong nhà, thiên hạ người ta chê cười”.
Trường-Xuân đứng dậy thưa rằng: “Thưa trước là thầy sau là
dì, vợ tôi nó kiếm chuyện đổ tội cho tôi, chớ thuở nay tôi có chơi bời chi đâu.
Tôi đi đâu cũng có chuyện tôi mới đi chớ. Như đi Mỹ-Tho thì nó biểu tôi đi kiện
nợ, hoặc đi đóng bách-phần ruộng, tôi đi mới được. Mà hễ đi thì trưa về liền,
có giờ nào rảnh mà lo mèo chuột. Còn hai năm nay tôi có đi Sài Gòn lần nào đâu.
Việc đó thầy tôi biết lắm, nó nói thêm cho tôi sao được.”
Vợ Trường-Xuân ngồi trên ván nghe chồng nói như vậy thì đứng
dậy chỉ tay mà nói rằng:
- Mình đừng chối! Tôi nghe họ nói đã rùm tai. Hễ mình bước
chân ra khỏi nhà thì mình rà-rà theo mấy con đĩ, còn chối gì nữa. Tôi không
thèm nói thì thôi, đừng có chọc miệng tôi.
- Tôi mà có trai gái với ai, thì xin lịnh ông Quan-Đế vặn họng
tôi đi. Mình đừng có nói tức quá như vậy.
- Vậy chớ con chó nào lấy con Hương-lễ Chẩn đó?
- Hương-lễ Chẩn nào đâu?
- Thôi, đừng có lẽo-lự. Cái tuồng mặt thấy mà phát ghét.
Hai vợ chồng cãi lẫy với nhau om-sòm, thầy Cai ngồi vuốt râu
mà cười, không nói chi hết; còn chín Hữu với thằng Quới thì đứng núp trong cửa
buồng mà nghe, rồi ngó nhau bụm miệng mà cười. Bà Phủ dòm thấy mới rầy rằng:
“Thằng Quới đứng chi đó, sao không lo đi làm cỏ ngoài vườn đi? Còn con chín thì
coi cơm riết rồi dọn ăn, trưa rồi, còn đợi giống gì nữa?” Hai người ở nghe rầy
lật đật chạy xuống nhà bếp. Bà Phủ day lại nói với hai vợ chồng Trường-Xuân rằng:
“Thôi, hai cháu đừng có rầy rà thiên hạ người ta chê cười. Phàm vợ chồng muốn ở
đời với nhau thì vợ nhịn chồng một chút, chồng nhịn vợ một chút mới được. Hai
cháu đã làm ông nầy bà kia với người ta, đi ra kẻ bẩm người dạ. Nếu hai cháu
không nghe lời dì, thì từ rày sắp lên đừng có biết đến dì nữa.”
Thầy Cai Tường mới tiếp mà nói rằng: “Tôi coi tuổi hai đứa nó
hạp nhau lắm chớ, không biết tại sao mà nó xung khắc cứ rầy với nhau hoài. Tôi
đã dứt bẩn hết sức mà cũng không được. Tôi chắc tại tôi cất cái cửa ngõ sái hướng.
Để bữa nào tôi mượn họ rước thầy Địa-lý coi, rồi day cửa ngõ lại hướng khác thử
coi trong nhà có hết lộn xộn hay không.”
Cơm dọn xong rồi bà Phủ mới mời ngồi hết lại ăn. Ngồi ăn cơm
bà Phủ nói rằng: “Ở đời nầy tiền bạc phải cho nhiều, mà chức phận cũng phải cho
lớn thì người ta mới kiêng vì, chớ tiền nhiều mà làm dân thì người ta khi, còn
chức lớn mà không tiền thì không ai sợ. Cháu tiền đã nhiều, mà chắc cũng lớn,
giàu sang gồn đủ thì quí biết chừng nào. Dì ước cho cháu được làm Cai-tổng rồi lần
lần lên tới Huyện-hàm, mới thiệt đẹp mầy nở mặt”.
Trường-Xuân nghe nói ngồi chúm-chím cười. Vợ thấy vậy mới chống
đũa mà nói rằng: “Dì nói đó phải ngoáy lỗ tai cho lớn mà nghe.”
Cơm nước xong rồi, bà Phủ hối Trường-Xuân mặc áo mang giầy đặng
theo thầy Cai mà về. Trường-Xuân ríu-ríu đi thay đồ, không cãi lẫy chi nữa.
Xe hơi chạy rồi, bà Phủ dòm đồng hồ thì đã 1 giờ rưởi. Chín Hữu
đương dọn dẹp dưới bếp, còn thằng Quới thì lột dừa sau vườn. Bà Phủ bước vô buồng
rồi lại dở mùng mà hỏi Yến-Tuyết rằng: “Con bớt nhức đầu hay chưa con?” Yến-Tuyết
nằm đắp mền day mặt vô vách không trả lời. Bà Phủ hỏi tiếp rằng: “Con có biểu
bày trẻ nó dọn cơm cho con ăn hay không? Để má biểu con chín nó dọn cơm bưng vô
đây cho con ăn nghe.” Yến-Tuyết cứ lặng thinh hoài. Bà Phủ thấy vậy mới vói tay
dở cái mền lên rồi rờ mặt Yến-Tuyết té ra gò má mát rượi mà ướt mem, bà không
hiểu con đau bịnh gì mà lại khóc, nên bà lo sợ bà mới hỏi nữa rằng: “Trong mình
con đau làm sao đó con, con nói cho má biết. Để má biểu thằng Quới đi rước thầy
coi mạch cho con nghe.”
Yến-Tuyết thấy mẹ ân-cần thì tủi trong lòng, nên lắc đầu rồi
khóc rấm-rứt. Bà Phủ thấy tình cảnh như vậy càng lo sợ hơn nữa; bà liền ngồi
trên giường, một tay bà nắm tay, còn một tay bà rờ ngực Yến-Tuyết rồi to nhỏ hỏi
rằng: “Sao đó con? Có việc chi mà con khóc dữ vậy? Con nói thiệt cho má biết,
không có sao đâu mà sợ. Má đi khỏi ở nhà có việc gì đó hay sao?” Yến-Tuyết nói
tấm tức tấm tưởi rằng: “Má ôi, thân con không còn chi mà kể. Con đã hư rồi xấu
hổ lắm, con phải chết, chớ không thế nào sống được.”
Bà Phủ nghe nói giựt mình kinh khủng song bà muốn biết rõ đầu
đuôi nên bà dằn lòng làm tỉnh mà hỏi rằng: “Sao vậy con? Con nói chuyện gì nghe
kỳ dữ vậy? Con làm sao mà con gọi rằng hư? Nín đi con. Con đừng khóc, con nói hết
đầu đuôi cho má nghe; con còn một mình má đây, nếu con có làm việc chi quấy mà
con giấu má thì má biết sao mà an-ủi con được. Con cứ nói thiệt cho má nghe, ví
dầu con có tác-tệ cho lắm đi nữa, má cũng không đánh đập chi đâu mà sợ.” Bà Phủ
vừa nói vừa đỡ Yến-Tuyết ngồi dậy.
Yến-Tuyết cứ khóc nước mắt tuôn dầm-dề, một tay thì che mặt,
một tay thì ôm mền, ngồi dậy rồi nói nho nhỏ rằng: “Má đi khỏi, anh ba ở nhà ảnh
cứ theo ve-vãn con hoài; bởi con khờ dại, con không biết giữ mình, con nghe lời
ảnh nên bây giờ con đã ô danh xủ tiết rồi, má ôi”. Bà Phủ nghe rõ thì chưng hửng,
liền buông con ra, rồi ngồi khoanh tay chống đầu gối mà thở ra, giọt lụy
tràn-trề, ngực ấm-ách. Bà ngồi lặng thinh một hồi lâu, rồi lau nước mắt đứng dậy
đi ra ngoài mà ăn trầu. Yến-Tuyết nằm co trên gường ôm mền mà khóc rấm-rứt.
Bà Phủ nằm ngoài ván gác tay qua trán, một lát bà thở dài một
cái. Đến 3 giờ chiều, chị chín Hữu ở dưới bếp sẽ lén đi lên, dòm thấy bà Phủ thức
mới thưa rằng: “Bẩm bà, cô hai không ăn cơm, thôi để tôi nấu cháo cho cô ăn”.
Bà Phủ liền đứng dậy bước vô buồng kêu con mà hỏi rằng: “Con a, con ăn cơm hay
không? Như ăn cơm không được, thôi để nó nấu cháo cho con ăn nghe”. Yến-Tuyết lắc
đầu. Bà Phủ nói tiếp rằng: “Con không ăn cơm thì phải ăn cháo, chớ nhịn đói như
vậy không nên. Con chín đi nấu cháo đi; nấu cháo rồi chiên cá bưng lên đây cho
nó ăn.”
Chín Hữu vâng lời đi riết xuống bếp. Bà Phủ ngồi trên gường
to nhỏ mà khuyên con rằng: “Con khờ dại, con làm như vậy thiệt là quấy lắm. Mà
đã lỡ rồi má biết liệu làm sao bây giờ. Má nghĩ má giận thằng đó quá, để bữa nó
qua đây rồi má sẽ rầy nó; thôi bây giờ con đừng có khóc-lóc nữa. Con phải ăn uống
chơi bời như thường, đừng có làm như vầy họ nghi.”
Yến-Tuyết lau nước mắt mà đáp rằng:
- Con mắc-cỡ quá, còn mặt mũi nào mà thấy tôi-tớ trong nhà,
hay là kẻ lân-cận trong xóm nữa được.
- Vậy chớ mấy đứa ở có đứa nào biết hay sao?
- Thưa không. Trong lúc đêm có một mình con với ảnh ở trên
nhà trên, cửa đóng hết có ai biết được.
- Tưởng là có đứa ở nào nó biết thì sợ nó đàm-tiếu ra ngoài xấu-hổ,
chớ nếu không ai biết thì có sao đâu mà con sợ.
- Con làm quấy rồi con tức-tối nên khóc hoài, mà con lại hổ-thẹn
quá, nên từ sớm mai cho đến bây giờ con không dám ló ra ngoài cửa buồng, con
không dám cho ai thấy mặt hết.
- Không hại gì đâu. Con đi rửa mặt gỡ đầu, rồi cứ ăn uống
chơi-bời như thường, chớ nếu con làm như vậy thì trẻ ở trong nhà nó nghi rồi xấu-hổ
lắm đa con, ngồi dậy đi với má. Má nói con đừng có cãi lời. Việc nầy thì có một
mình má với con và anh ba con biết mà thôi, chớ người ngoài không ai hay thì có
sao đâu mà sợ.
Yến-Tuyết dục-dặc không chịu đi. Bà Phủ nói riết rồi làm giận
làm hờn, cực chẳng đã cô ta phải vâng lời đi ra ngoài rửa mặt. Trên bàn rửa mặt
có treo một tấm kính vuông. Yến-Tuyết đứng lau mặt dòm thấy hình mình trong tấm
kính thì hổ ngươi nên cúi đầu xuống, không dám ngó.
Yến-Tuyết nghe lời mẹ nên ráng ăn một chén cháo, rồi lấy cườm
với nhung ra ngoài ván ngồi mà thêu mặt giầy. Bà Phủ nằm ngoài mà ngắm con thì
thấy đầu tuy không gỡ, áo tuy nhàu-nhè, nhưng mà gương mặt sáng-rỡ, coi ít có
con gái ai bì kịp. Yến-Tuyết ngồi thêu mà bộ coi buồn thảm lắm, một lát nước mắt
tuôn ra rồi chảy dài theo gò má, cô phải lấy khăn mà lau, có hồi cô lau không kịp
nước mắt rớt xuống ướt tấm nhung làm ố đi nên cô phải lấy vạt áo mà chậm.
Bà Phủ thấy con cứ buồn rầu hoài, tối lại tôi-tớ trong nhà ngủ
hết, bà mới lấy lời nhỏ-to dịu-ngọt mà khuyên giải con. Hễ bà Phủ nói tới việc ấy
thì Yến-Tuyết lấy làm khó chịu nên khóc òa rồi thưa rằng:
- Má biểu con đừng có buồn, mà con nghĩ không buồn sao được.
Thân con gái duy có sự trinh tiết là trọng. Nay con đã mất trinh mất tiết rồi
thì thân con ra gì nữa đâu. Con tính thà con chết phứt cho yên thân, chớ sống
mà nhơ-nhuốc như vầy, sống một ngày thêm xấu một ngày, sống càng thêm hổ-thẹn
chớ vui sướng chi mà sống.
- Con đừng nói quấy như vậy. Ba con mất rồi mấy năm nay nhờ
có con hủ-hỉ, má mới khỏi buồn. Nếu con không nghe lời má, con cứ sầu não mà
mang bịnh, thoảng như có bề nào thì chắc má chết, má sống không được. Con nhỏ dại
con không hiểu, ở đời ai cho khỏi lầm lỡ được. Má thấy có nhiều đứa con nhà
sang trọng hơn mình nữa, mà nó còn lấy trai có chửa, rồi sau nó cũng có chồng tử-tế
quá vậy đó sao. Con mới làm lỡ có một lần mà con biết ăn-năn thì có sao đâu mà
sợ. Cô ba Hương cô nói để cô kiếm chỗ làm mai cho con. Thôi, con đừng có buồn,
con giả đò như quên lửng sự con làm quấy đó đi, để coi có chỗ nào xứng đáng má
gả con lấy chồng rồi êm chớ gì.
- Má nói như vậy con càng buồn nhiều hơn nữa.
- Sao vậy?
- Con đã mất tiết rồi, bây giờ còn mặt mũi nào mà dám lấy chồng.
Xin má đừng có tính tới việc đó. Từ hồi sớm mai cho đến bây giờ con muốn tự vận
chết cho rồi. Ngặt con thương má quá nên con không dám chết. Con nói thiệt, con
nguyện ở như vậy mà nuôi má, ngày nào má trăm tuổi già thì con cạo đầu đi tu,
chớ con không chịu ưng ai làm chồng hết.
Bà Phủ nghe nói hẳn như vậy bà lặng thinh, song trong trí bà
tính thầm rằng để thủng-thẳng rồi mình sẻ khuyên giải lần lần, chớ bây giờ nó
còn đương ảo não, nếu mình ép quá nó cùn trí sợ nó làm bậy càng khổ nữa. Nhờ bà
Phủ lanh-lợi biết cách thế khuyên lơn, nên Yến-Tuyết lần lần bớt khóc, ăn uống
ra vào như thường, nhưng mà cô chiêm-nghiểm, không vui, không cười, sớm mai
không ra trước sân mà nhìn hoa, buổi chiều không xuống cầu thang mà hóng mát
như thuở trước vậy nữa, dường như cô thấy hoa tươi cô thẹn, cô thấy nước trong
cô buồn.
CHƯƠNG 4 -
T
rường-Xuân rầy rà với vợ rồi giận bỏ nhà đi; tôi tớ trong nhà
xầm-xì với nhau đứa thì nói làm bộ đi vài bữa rồi về, đứa thì nói xấu hổ quá
nên sợ đi luôn, té ra mới đi có ít ngày, thầy Cai với cô hai Hảo qua rồi riu-ríu
theo mà về. Về nhà rồi thì cũng vui cười như thường, dường như chẳng xích-mích
chi hết vậy.
Trường-Xuân về nhà nằm đêm nhớ tới Yến-Tuyết thì trong lòng
khoan-khoái vô cùng. Có lúc anh ta ăn-năn, nghĩ rằng nó với mình là anh em mình
làm như vậy thì quấy lắm. Mà rồi anh ta lại nghĩ rằng theo luật đời nay rất đổi
là anh em chú bác, đồng một họ với nhau mà người ta còn cho phép cưới gả cho
nhau đó sao, mình với nó là anh em bạn dì, khác họ với nhau, có can chi mà ngại.
Anh ta muốn qua thăm bà Phủ lắm, đặng thấy mặt Yến-Tuyết, ngặt ở bển mới về nếu
đi nữa sợ vợ nghi nên không dám.
Tới Tết, Trường-Xuân ngồi xe hơi đi một mình qua mừng tuổi
dì. Yến-Tuyết thấy dạng anh ta thì lật đật đi vô buồng rồi khóa cửa lại nằm
im-lìm không muốn cho thấy mặt.
Trường-Xuân mặc áo tố lót màu trứng sáo, mang một đôi giầy mới
tinh, hút thuốc xì-gà phà khói lên nghi ngút, ngồi nói chuyện với bà Phủ một hồi
rồi hỏi rằng: “Ngày Tết mà con hai nó đi đâu vắng dì há?” Bà Phủ thấy Trường-Xuân
thì đã có ý quở trách sự anh ta loạn-luân phạm nghĩa, song bà nghĩ ngày xuân
không lẽ đem chuyện không tốt ra mà nói, đã vậy mà ban ngày tôi-tớ ra vào lộn-xộn,
nếu nói ra sợ chúng nó nghe được thì xấu hổ, bởi vậy bà làm lơ giả như không
hay biết chuyện chi hết vậy, song bà cũng lặng-thinh không thèm trả lời.
Trường-Xuân trong mình có tịch nên hổ thầm, bởi vậy bụng thì
muốn biết coi Yến-Tuyết đi đâu mà miệng không dám hỏi nữa.
Anh ta ngồi chơi hơn một giờ đồng-hồ rồi đứng dậy từ mà về đặng
có đi mừng tuổi chỗ khác. Khi ra cửa bà phủ kêu mà nói vói rằng. “Ra ngoài ngày
bữa nào cháu rảnh rang thì qua bên dì chơi đặng dì tỏ việc nhà cho cháu nghe”.
Trường-Xuân dạ rân rồi lên xe hơi mà đi.
Về dọc đường anh ta ngồi suy nghĩ hoài, không hiểu bà phủ biểu
qua đặng tỏ việc gì. Hay là dì đã hay sự mình làm quấy nên biểu qua mà rầy
chăng? Không lẽ dì hay được, việc ấy âm thầm ai biết mà học lại. Yến-Tuyết là
con gái tự nhiên nó mắc-cỡ, có lẽ nào mà nó học lại hay sao? Chắc là biểu qua đặng
nói việc chi khác, chớ không phải việc đó. Còn con nọ ngày Tết mà nó bỏ đi đâu
kìa! Mình trông cho có dịp qua thấy mặt nó, té ra qua mà nó đi đâu mất, làm
mình buồn quá. Để bữa nào rồi mình kiếm chuyện đi qua nữa.
Đến rằng tháng giêng Trường-Xuân thay áo đổi quần sửa-soạn đi
qua thăm bà Phủ. Vợ nói đi sao đi hoài, mới qua thăm hôm Tết rồi còn qua chi nữa,
làm cho anh ta thụt ở nhà không dám đi.
Ở bên nầy bà Phủ có ý trông Trường-Xuân qua quở trách đặng
cho anh ta chừa cái thói xấu ấy đi, rồi sau biểu anh ta kiếm chỗ làm mai đặng
bà gả phứt Yến-Tuyết cho rồi, chớ để lâu ngày sợ tiếng thị phi khó chịu. Chẳng
dè bà trông hoài đến nửa tháng hai mà cũng chưa thấy.
Từ qua khỏi Tết rồi thì Yến-Tuyết coi bộ bớt buồn, nhưng mà
cuối tháng giêng trở về sau trong mình cô ta lại dã-dượi bần-thần, hôi cơm tanh
cá, ăn không biết ngon, mà sao lại hay buồn ngủ lắm. Bà Phủ dòm thấy con mặt mầy
chao-vao, bộ-tịch khác thường, thì trong lòng phát nghi, muốn rước thầy thuốc
chẩn mạch thử coi có phải là có thai nghén chi đây hay không, song bà sợ nếu
thiệt có thai mà mình để cho thầy thuốc biết, thì ắt người ngoài họ hay hết thảy,
rồi còn gì danh-giá nhà mình, bởi vậy bà để im-lìm mà coi chừng, không dám hở
môi với ai hết. Đến nửa tháng hai, bà coi thì thiệt quả Yến-Tuyết đã có chửa.
Bà buồn rầu hết sức, tuy bà không dám than phiền với con, song hễ bà nằm một
mình thì nước mắt chảy dầm-dề, bà lo tới tính lui, không biết làm thế nào mà
che đậy đặng cho người ta đừng biết.
Đêm nọ canh khuya vắng-vẻ tôi-tớ ngủ hết, bà mới bước vào
phòng kêu con thức dậy rồi bà to nhỏ mà tỏ với con rằng: “Con ôi! Má coi bộ con
có nghén rồi đó con! Nếu thiệt quả như vậy thì nhà ta vô phước lắm.” Yến-Tuyết
nghe mẹ nói mấy lời thì ngã ngửa trên giường nằm chơn tay lạnh-ngắt. Bà Phủ thất
kinh, lật-đật kêu chín Hữu rồi hối nhúm lửa bưng vào cho bà hơ. Cách một hồi Yến-Tuyết
tỉnh dậy ngó mẹ mà nước mắt tuôn như mưa. Cô chắc lưỡi lắc đầu hai tay ôm mẹ vừa
khóc vừa nói rằng: “Thế nầy thì con phải chết mới xong, má ôi!”
Bà Phủ ngồi tay vịn con, tay ôm mặt mà khóc rấm-rứt, nghẹn-ngùng
nói không được. Bà thấy dạng chín Hữu đi ngang qua cửa buồng, bà lật đật lau nước
mắt rồi bước ra nói rằng: “Khuya rồi, thôi con chín đi nghỉ đi con”. Bà khép cửa
trở vô mới ngồi dựa bên con mà nói rằng: “Nầy con, việc đã lỡ rồi, bây giờ con
sầu não cho lắm đi nữa cũng chẳng có ích chi. Má nghĩ nếu việc nầy tiết lậu ra
ngoài thiên hạ hay thì xấu-hổ lắm. Con là con ông Phủ, chớ không phải con nhà
dân-dã, hễ một người hay được thì cả lục-tỉnh đều hay, rồi chẳng những con mang
nhơ mà thôi, mà má đây cũng mang nhục với người nữa. Vậy má tính phải giấu-diếm
cho lắm mới được. Thôi, để mai mốt má đi Sài Gòn kiếm mướn một căn phố xấu xấu ở
trong đường hẻm rồi đem con lên đó mà ở. Con ở đó ít tháng chờ đến ngày lâm bồn
thì vô nhà bảo-sanh mà nằm. Đẻ song rồi thì đem đứa nhỏ cho nhà mồ-côi cho họ
nuôi rồi má rước con về. Bây giờ thì má nói với họ rằng má đem con vô nhà trắng
đặng con học thêu thêm một năm nữa, làm như vậy con đi ra mới khỏi người ta
nghi, mà chừng con về mới khỏi người ta dị-nghị. Má tính kế ấy vẹn toàn lắm,
con nghĩ thử coi có được hay không.”
Yến-Tuyết lau nước mắt rồi ngó mẹ mà nói rằng: “Thưa má, phận
con là con gái không biết giữ tiết hạnh, đã làm cho má buồn rầu gần 2 tháng
nay, mà rồi đây con sẽ làm cho cha mẹ phải nhơ-nhuốc với thiên hạ nữa, thiệt
con lỗi với cha mẹ nhiều lắm. Vậy nên con tính con phải chết thì má mới khỏi
mang tiếng xấu. Con làm quấy thì con phải chịu, xin má đừng có lo lắng cho con
làm gì mà nhọc lòng. Thiệt bây giờ con chết, thì con không tiếc thân con chút
nào hết. Vậy xin má ở lại dương-trần mà vui hưởng ngày già, để cho cho dứt phứt
nợ trần cho rồi đặng con mát tấm thân và má khỏi mang tiếng xấu.”
Yến-Tuyết nói dứt lời liền ngồi xuống đất mà lạy mẹ. Bà Phủ lật-đật
đỡ đứng dậy, kéo con lên giường rồi mẹ con ôm nhau mà khóc. Trong phòng bóng
đèn leo-lét, sau hè gà gáy tấm-te, cảnh đã buồn mà người cũng buồn, thợ trời
khéo vẽ một bức tranh rất bi-thảm, tưởng ai trông vào cũng phải đau lòng ủ mặt.
Bà Phủ to nhỏ mà khuyên giải con, bà nói rằng nếu Yến-Tuyết mà chết thì bà cũng
tự vận mà chết theo, chớ bà không thế nào mà sống ở một mình trên dương-trần
cho được. Bà nói quá nên Yến-Tuyết động lòng nên không tính tới việc tự tử nữa,
nhưng mà hễ bà nhắc tới chuyện lên Sài Gòn mướn phố giấu cô thì cô cự hẳn, cô
không bằng lòng, cô nói rằng ở đời việc gì mình giấu lung chừng nào thiên hạ càng
hay nhiều chừng nấy. Bây giờ mình tính đi lánh mặt đặng chờ ngày đẻ xong rồi sẽ
về; mình làm như vậy tưởng là che miệng thế gian được, mà có chắc gì thiên hạ
không hay. Mà ví dầu không ai biết đi nữa, mình biết việc mình, tự nhiên mình
cũng hổ thầm. Chi bằng mình đã làm quấy rồi thì mình cứ chịu quấy ngay đi, đừng
giấu-diếm, đừng gạt-gẫm ai hết. Đã biết lúc ban đầu thì thiên-hạ họ chê cười,
mà thà là mình bị họ cười trước mặt, chớ không nên để hổ thầm trong lòng. Huống
chi mình đã làm quấy thì mình phải chịu phạt, chớ mình làm quấy mà còn muốn làm
mặt phải, dường ấy cái quấy của mình lại càng lớn hơn nữa.
Bà Phủ nghe tỏ ý như vậy thì bà lấy làm kỳ, bởi vậy bà mới hỏi
gạn lại rằng:
- Bây giờ con tính cứ ở nhà như thường chừng đẻ con ra thì
con nuôi, ai cười chê mặc ai hay sao?
- Dạ.
- Ứ hự! Con tính nghe kỳ quá. Thuở nay má chưa từng thấy ai
mà tính như con vậy bao giờ.
- Ấy là tại họ hư mà muốn làm mặt nên bởi vậy họ tính giấu-diếm.
Chớ phận con đây con đã hư rồi con chịu hư, nên con không thèm giấu ai hết.
- Con nói hơi liều mạng như vậy sao đươc. Con ở nhà thì họ cười
con đã đành rồi mà họ cười luôn tới má nữa mới là khổ cho chớ. Con đành lòng để
họ cười má rồi cười luôn vong hồn của ba con nữa sao?
Yến-Tuyết nghe nói tới vong-hồn cha thì mủi lòng, nên ngồi
khóc tấm-tức tấm-tưởi, làm cho bà Phủ phải kiếm lời mà khuyên giải nữa.
Bà Phủ sợ con thất chí rồi làm bậy, nên bà ngủ chung với con,
chớ không để cho con nằm một mình. Qua đêm sau bà lại lo mưu tính kế mà giấu-diếm
nữa; bà muốn dắt Yến-Tuyết về Bà-Rịa, rồi đem ra phía Lưới-Rê mà gởi cho bà
con, mà bà tỏ ý ra thì Yến-Tuyết cứ khóc hoài, ý muốn ở nhà chớ không chịu đi
đâu hết.
Hai mẹ con hễ ban ngày thì ra vô ăn uống như thường, còn ban
đêm thì đóng cửa vào trong phòng mà tính việc nhà. Mà ngặt con một ý, mẹ một ý,
nên tính hoài mà cũng không nhứt định lẽ nào. Lối nửa tháng hai Trường-Xuân mới
nói với vợ để qua thăm dì được. Anh ta thoát ra khỏi nhà thì mừng rỡ vô cùng
tính đi riết qua đặng thấy mặt Yến-Tuyết. Anh ta xuống xe đi vô nhà chơn bước
khấp-khởi, miệng cười ngỏn-ngoẻn, tưởng là mình lâu qua hễ qua tới thì dì mừng
rỡ em vui cười, chẳng dè bước vô nhà thì bà Phủ chào sơ sài rồi ngó chỗ khác mà
ăn trầu, không niềm-nỡ như xưa nay vậy, còn Yến-Tuyết thì đi đâu mất, không thấy
tăm dạng chi hết. Anh ta kéo ghế mà ngồi, không biết có việc chi mà coi bộ dì
buồn dữ vậy, trong lòng lấy làm ái-ngại, song không lẽ ngồi lặng-thinh hoài,
nên phải làm gượng mà nói rằng: “Hổm nay dì ở bên nây mạnh giỏi thế nào? Hôm Tết
dì dặn cháu có rảnh thì qua dì nói chuyện, mà xưa rày mắc lận-đận hoài đi không
được. Không biết dì có việc chi đó vậy dì há?
Bà Phủ không trả lời. Bà kêu thằng Quới sai đi chợ, và biểu
chín Hữu coi nấu cơm ăn, rồi bà mới day qua ngó Trường-Xuân mà nói rằng: “Ừ, dì
có việc muốn nói với cháu, xưa rày dì có ý trông hoài, mà không thấy cháu qua.
Cháu là một đứa khốn-nạn lắm. Cháu đã có học-thức mà lại làm ông nầy ông kia với
người ta, sao cháu không biết giữ luân thường; em cháu khờ dại, lẽ thì cháu phải
lo gìn giữ dùm danh tiết cho nó mới phải, chớ sao cháu lại đành lòng làm những
điều tồi phong bại tục, khiến cho em cháu nó nhơ danh xủ tiết như vậy?”
Trường-Xuân lấy làm hổ-thẹn nên ngồi gục mặt xuống đất mà lặng
thinh không biết sao mà trả lời, mà cũng không dám ngó bà Phủ. Bà Phủ thấy vậy
mới nói tiếp rằng: “Thôi, việc cháu làm thì cháu phải chịu, bây giờ nó đã có
nghén lỡ rồi, vậy cháu tính sao thì cháu tính đi cho xong, chớ để vài tháng nữa
bụng nó lớn đây mang xấu hết cả bầy cả lũ”.
Bà Phủ nói mà nước mắt rưng-rưng. Trường-Xuân nghe Yến-Tuyết
có nghén thì thất kinh, mầy mặt tái xanh, mồ-hôi nhỏ giọt, bối-rối trong lòng,
không biết nói sao cho được, duy nói nhỏ rằng: “Cháu có dè mà hại đến như vầy
đâu”. Bà Phủ thấy vậy mới tiếp mà nói rằng: “Dì nghĩ lại dì giận cháu lắm. Tại
cháu làm mà hai tháng nay dì khóc hết nước mắt, ăn ngủ không đặng. Còn con nhỏ
nó tức tối hổ-thẹn chịu không kham, nay nó đòi thắt họng, mai nó đòi uống thuốc
độc, làm cho dì lo sợ không biết chừng nào. Cháu nghĩ coi việc cháu làm nó hại
dường nào. Hổm nay dì tính để đi Sài Gòn mướn phố trong hóc trong hẻm mà giấu
nó, nuôi đến chừng nào nó đẻ rồi dì sẽ đem nó về, mà nó không chịu, nó quyết ở
nhà mà thôi, không thèm giấu-diếm ai hết, ai cười thì nó chịu, bởi vì nó dại nó
lầm lỡ thì nó phải mang tiếng quấy. Nếu để nó ở đây thiên-hạ họ hay thì xấu hổ
cả và tông-môn, bởi vậy dì mới không bằng lòng; dì sợ nó cùn trí rồi tự-vận lại
càng khốn-khổ hơn nữa, nên dì không dám rúng ép”.
Trường-Xuân nghe rõ đầu đuôi, ngồi thở ra lặng thinh một hồi
rồi hỏi rằng:
- Sao dì chắc nó có nghén.
- Sao lại không chắc.
- Nếu nó không chịu đi Sài Gòn thôi thì đem nó vô trong ruộng
hoặc trong vườn mà giấu nó có được hay không?
- Dì cũng có tính như vậy mà nó cũng không chịu.
- Cha chả! Nếu vậy thì khó quá.
- Bởi vậy hổm nay dì rầu biết chừng nào. Nếu nghe lời nó cứ để
nó ở trong nhà hoài, trong vài tháng nữa bụng nó lớn đây thì thiên-hạ họ cười
chết, dì chịu sao nổi. Mà dì lại còn sợ một nỗi nữa con ba ở bển nó hay được
thì còn gì thể-diện của dì.
Trường-Xuân nghe nói tới chuyện vợ hay thì lo sợ quá đỗi, ngồi
suy nghĩ một hồi rồi nói rằng:
- Cha chả! Nếu vợ cháu mà nó nói thì xấu hổ lắm. Mà lúc nầy
đã có giấy cho ông gia cháu hưu trí rồi, cháu đương sửa-soạn ra tranh chức
Cai-tổng, nếu nó hay nó phá hoang thì khổ cho cháu biết chừng nào.
- Vậy chớ biết làm sao bây giờ? Chớ chi hôm lúc Tết có ai đi
nói, dì gả phứt nó thì xong quá.
- Thưa dì, cháu tính như vầy, dì nghĩ thử coi có được hay
không?
- Cháu tính sao đó?
- Dì cũng biết, việc gia-đạo của cháu khó lắm. Thuở nay cháu
được đẹp mầy nở mặt với người ta ấy là nhờ bên vợ. Nay mà cháu được làm Tổng
hay là không được thì cũng là nhờ bên vợ nữa. Nếu việc nầy mà lậu ra đến tai
con vợ cháu thì dì đã hổ thẹn, mà cái thân cháu đây cũng phải mang khổ. Vậy
mình phải lo làm sao mà giấu cho nhẹm việc nầy mới được. Dì mới ước rằng phải
có ai đi nói, dì gả phứt con hai cho êm, vậy cháu xin dì cho phép cháu kiếm người
nôm nó, cháu kiếm đứa nghèo khổ cháu cho tiền bạc nhiều thì tự nhiên nó chịu liền
chớ không khó gì.
- Dì ước là ước hồi nó chưa có nghén kìa, chớ bây giờ nó
nghén đã gần 2 tháng rồi ai mà chịu đi cưới. Nếu mình gạt họ rồi chừng họ đi cưới
bụng nó thè-lè thì mình làm sao mà nói với họ?
- Thưa dì, việc đó không hại gì. Cháu nói thiệt trước với người
ta, hễ họ đành như vậy mình mới cho cưới chớ. Thuở nay con nhà giàu sang nếu rủi
ro chửa oan thì họ làm như vậy thiếu gì.
- Cha chả! Mà biết họ chịu hay không?
- Cháu lựa mấy đứa nghèo nàn, cháu cho một đôi ngàn thì nó chịu
liền, có khó gì đâu.
- Sợ mấy đứa tầm bậy, con nhỏ nó không ưng.
- Phải ưng đỡ đặng mà che miệng thiên-hạ. Chớ chọn lựa chỗ
đương môn đối hộ thì họ có chịu đâu.
- Thôi, cháu đi ra ngoài chợ mà chơi một chút, để dì dọ ý con
nhỏ thử coi, rồi cháu trở về đây dì sẽ trả lời cho cháu.
Trường-Xuân nghe lời leo lên xe hơi mà đi. Bà Phủ vô buồng thấy
cửa buồng khóa chặt, bà gõ cửa mà kêu. Yến-Tuyết đi lại mở cửa, rồi hỏi mẹ rằng:
“Anh khốn-nạn đó còn lân-la tới nhà chi nữa vậy?”
Bà Phủ ngồi trên giường biểu con lại ngồi một bên rồi bà òn-ĩ
mà tỏ sự bà muốn kiếm người nghèo cực đặng họ nôm đỡ, trước là danh tiếng của mẹ
con vẹn-toàn, sau nữa đường công-danh của Trường-Xuân khỏi lỡ-dở. Yến-Tuyết
nghe nói liền hỏi rằng:
- Anh đó ảnh bày như vậy phải không má?
- Ơ … ừ … Nó tính như vậy đó, mà má nghĩ tính như vậy thì hay
lắm đa con, nếu con bằng lòng thì mẹ con ta khỏi mang tiếng.
- Má tưởng làm như vậy rồi khỏi xấu hay sao?
- Có ai biết đâu mà họ cười. Hễ kiếm được người rồi thì má
cho cưới liền.
- Nếu cưới có 6, 7 tháng rồi con đẻ, thì làm sao mà họ không
biết con có chửa hoang?
- Thiếu gì cách nói. Mình nói đẻ thiếu tháng cũng được mà.
- Mà ví dầu mình dối người ngoài được đi nữa, còn cái anh đi
nôm đó làm sao mà dối ảnh?
- Thì mình đã nói trước cho nó biết rồi, mình có dối trá gì
đâu.
- Nếu nói trước ai thèm cưới.
- Má làm sao thì má làm, miễn là có người ta chịu cưới con
thì thôi, con đừng lo.
- Con đã thất tiết thất trinh rồi, bây giờ con còn mặt mũi
nào mà dám động phòng hoa chúc. Thưa má, xin má để cho con chết phứt cho rồi,
chớ lấy chồng như vậy hổ-thẹn, con làm không được.
- Nếu con cãi lời má hoài, thì cũng như con bưng danh-giá của
tông-môn mình mà con trút xuống sông vậy.
Bà Phủ nói dứt lời, thì ngồi khóc coi thảm thiết lắm. Yến-Tuyết
nghĩ mình làm quấy để mẹ ưu phiền, thì trong lòng đau đớn chịu không được bởi vậy
cô cũng khóc òa mà thưa rằng: “Con thấy má ưu phiền chừng nào con càng muốn chết
chừng nấy. Thôi xin má đừng có khóc nữa, má tính thế nào con cũng bằng lòng. Ngặt
vì thuở nay con vẫn mong đem tấm gương trong mà gởi cho chồng, nay tấm gương của
con đã đục rồi, nếu con trao cho chồng thì con hổ lắm. Má tính để má kiếm người
nghèo cực mà mướn họ nôm đỡ. Vậy thì con xin má cho họ tiền bạc cho nhiều đặng
giao với họ cưới thì cưới mà họ không được ăn nằm với con. Nếu được như vậy thì
con mới bằng lòng, bởi vì ý con đã nhứt định không chịu thất thân với ai hết.
Con nghĩ người nào mà chịu cưới con là vì có bạc tiền nên họ mới chịu, bởi vậy
nếu mình buộc thêm việc ấy họ cũng chẳng kèo nài gì.”
Bà Phủ nghe con nói như vậy thì ngồi suy nghĩ một hồi rồi bỏ
đi ra ngoài. Cách chừng nửa giờ Trường-Xuân trở lại, bà Phủ mới thuật mấy lời của
Yến-Tuyết lại cho Trường-Xuân nghe, Trường-Xuân gật đầu và đáp rằng: “Con hai
nó tính như vậy cũng phải. Thôi, việc ấy cháu xin dì đừng lo, để cháu tính
trong năm ba bữa cháu sẽ qua cho dì hay”.
Trường-Xuân từ giã bà Phủ ra về. Lên xe ngồi anh ta nghĩ bên
Bến-Tranh không có ai, nhưng nếu về bển mà kiếm người thì lấy làm bất tiện lắm,
chi bằng mình ra ghé chợ Tân-An mà nói thiệt với em mình là thầy giáo Nguyễn-tế-Thế
nghe, rồi mình cậy nó tính dùm, dầu tốn hao năm ba ngàn đồng mình cũng chịu, chớ
để đổ bể ra đây mình chắc hụt làm Tổng, mà lại sợ hết đi xe hơi nữa được.
Thầy giáo Nguyễn-tế-Thế là anh em với Trường-Xuân, một đàng
là con nhà cô, một đàng là con nhà cậu. Thầy đã 25 tuổi mà chưa có vợ, nhà ở gần
lối trường học. Trường-Xuân ghé xe trước nhà, thì thầy đi dạy học cũng vừa mới
về tới đó. Anh em mừng rỡ nhau rồi Tế-Thế mời Trường-Xuân vô nhà, hối trẻ nấu
nước mà đãi khách. Trường-Xuân thấy trời gần tối ý muốn về cho mau, nên cản
không cho nấu nước nôi chi hết, vừa ngồi xuống thì kêu Tế-Thế mà nói rằng:
- Nầy em, qua có một việc rối quá, nên ghé cậy em phải giúp
qua mới được.
- Việc gì vậy?
- Để qua nói thiệt em nghe. Dì Phủ của qua em biết không?
- Biết.
- Ờ, dĩ có một đứa con gái, là con hai Tuyết, đã khôn-khéo mà
đẹp-đẽ lắm.
- Cô đẹp thiệt, mà anh để cho người ta khen chớ anh khen sao
phải.
- Để qua nói em nghe. Bởi vì nó đẹp quá nên hôm tháng chạp
qua đến chơi, qua thấy nhan sắc của nó qua dằn không được, qua làm bậy trai gái
với nó bây giờ lỡ nó có chửa rồi, em.
- Húy! Trời ơi!
- Thiệt khổ lắm! Bữa nay qua đi thăm qua mới hay. Việc nầy
chưa ai hay hết. Qua tin em lắm qua mới tỏ thiệt với em.
- Bây giờ anh biểu tôi nôm hay sao anh?
- Không .. Mà ví dầu em nôm, nghĩ cũng không hại gì.
- Trời ôi! Anh khéo nói không! Ai đi làm như vậy cho được
anh.
- Nó lịch sự lắm em.
- Ủa! Lịch sự mà làm gì?
- Mà nó có của nữa.
- Có của thì có chớ.
- Mà không phải qua cậy em nôm đâu mà em sợ. Em cũng biết,
con gái mà có chửa oan thì xấu hổ lắm. Huống chi hai Tuyết là con quan, nếu
thiên-hạ hay thì còn gì danh tiếng. Mà phận nó mang tiếng xấu đã đành, ngặt lúc
nầy qua đương tính tranh Cai-tổng, nếu đổ bể thì khổ cho qua lắm. Vậy qua tính
kiếm người nghèo-nàn đặng mướn họ nôm đỡ nó, họ đòi năm ba ngàn gì qua cũng chịu
hết thảy, miễn là giấu cho nhẹm thì thôi. Em làm ơn kiếm dùm một người cho qua,
tốn hao bao nhiêu em đừng ngại. Họ đòi ăn tiền bao nhiêu cũng được, song qua buộc
họ hai điều nầy: điều thứ nhứt là họ cưới mà họ không được ăn nằm với con hai
Tuyết; điều thứ nhì là chừng nào con hai Tuyết đẻ xong rồi, bất luận là ngày
nào, hễ qua biểu họ thôi thì họ phải thôi liền. Tại ý dì Phủ muốn như vậy, chớ
qua không can gì. Em làm ơn dùm cho mau mau, nếu việc thành rồi qua thưởng công
em trọng lắm. Mà việc nầy kín lắm, em đừng có nói bậy cho họ hay nghe không em.
Tế-Thế ngồi ngẫm-nghĩ một hồi rồi đáp rằng: “Có lẽ được. Hôm
tháng trước tôi đi chơi bên Mỹ-Tho, tôi có gặp một người bạn học hồi trước đi
lình-xình ở bển, quần áo lang-thang, coi bộ nghèo-khổ lắm. Tôi hỏi thăm thì anh
ta nói anh ta làm việc Trạng-sư. Thôi, để mai nhằm ngày chúa-nhựt tôi đi qua
nói dùm thử coi, nếu anh cho tiền nhiều thì chắc anh ta chịu”.
Trường-Xuân nghe nói thì mừng hết sức liền móc túi lấy ra một
tấm giấy hai chục đồng mà đưa cho Tế-Thế đặng làm phí-lộ mà đi, rồi đứng dậy từ
mà về. Tế-Thế đưa ra tới ngoài đường. Trường-Xuân lên xe rồi dặn với rằng: “Em
ráng hết lòng mà lo dùm việc đó cho qua nghé. Hễ được thì đánh dây thép cho qua
hay … Mà thôi, để trưa thứ hai tới qua đây mà hỏi thăm thì tiện hơn. Em vô nghỉ,
qua về nhé.”
Tế-Thế trở vô nhà đi qua đi lại miệng chúm-chím cười hoài.
CHƯƠNG 5 -
L
ối nửa chiều, mặt trời ngả bóng xiên-xiên gió xô nhành lúc-lắc.
Khúc đường dựa theo mé sông cái, ngang châu-thành Mỹ-Tho, từ nhà giấy xe lửa sắp
lên, thiên-hạ lại qua dập-dìu. Trước khách-sạn có một gánh mì gõ lắc-cắc, dưới
gốc cây chị chè đậu rao hò-hơ, học-trò dắt nhau đi chơi, cười giỡn om-sòm, xe
kéo không có ai kêu, ngồi khoanh tay riết.
Ngoài sông thì tàu dắt ghe chạy ngang thổi xúp-lê vang-rân,
trong mé thì sống vập vào bực thạch phun bọt-bèo trắng nõn. Trên cầu tàu Lục-tỉnh
là chỗ chiều mát thiên-hạ hay ra đó đứng mà hứng gió, có một người trai trạc chừng
25-26 tuổi, đương đứng chống hai cánh chỏ trên lan-can cầu ngó lên mỏm Cù-lao Rồng.
Người trai nầy đội một cái nón trắng, song lâu ngày không đánh phấn nên màu coi
luốc-luốc; mình mặc một bộ đồ tây xám, song lâu ngày không giặt ủi nên ống quần
không có lằn còn tay áo thì đen thui; dưới chơn đi một đôi giầy da đen mũi trầy-trụa,
còn gót thì mòn hết nửa. Tuy là y-phục không được tinh khiết, cửa tay áo xười,
nón ru-băng rách, nhưng mà mặt mày sáng rỡ, da trắng, má bầu, cặp mắt tỏ như gương,
hàm răng trắng như ngọc. Anh ta chống tay mà ngó mông, thấy trên đầu cồn thuyền
buôn chạy vác củi sóng trương buồm, rồi lại nghe phía sau lưng xe lửa súp-lê rầm-rầm
rút chạy. Người đi chơi hễ gặp xe lửa chạy thì thường hay đứng lại mà coi, duy
có một mình anh ta đã đứng trên cầu gần đường xe lửa, mà lại đã nghe xe lửa
súp-lê vang-rân, song cứ đứng ngó mông qua sông không thèm day mặt lại.
Trời mát lần lần, hàng gáo trồng dựa theo mé sông áng bóng mặt
trời nên trên cầu lần lần hết nắng. Cách một hồi có năm sáu học-sanh dắt nhau
xuống cầu đứng mà chơi, nói chuyện rồi cãi lẫy om-sòm, mà người trai ấy cũng
không nhúc-nhích, dường như xác ở dương-trần còn hồn nương mây bạc. Cách một hồi
nữa, lại có (thiếu vài chữ)
Tế-Thế men men xuống cầu, bước nhẹ nhẹ, còn mắt (thiếu vài chữ).
Chừng Tế-Thế ra nhìn người ấy kỹ lưỡng rồi, miệng cười, chơn bước lại, vỗ vai
mà hỏi rằng: “Làm giống gì mà đứng đây?”
Người ấy giựt mình day lại thấy Tế-Thế ăn mặc đoan-trang, giầy
vàng, áo xám, mắt đeo kiếng che bụi, túi giắt khăn bìa ren, thì đứng nhìn trân
trân, làm bộ như không quen biết. Tế-Thế vói nắm tay mà dặc-dặc và nói rằng:
“Anh em bạn học với nhau, mà lại mới gặp hôm tháng trước, nay anh quên tôi rồi
hay sao?” Người ấy cười mà đáp rằng: “Làm sao mà đến nỗi quên được. Song tôi thấy
anh em bạn cũ có nhiều người hay quên tôi, gặp tôi họ hay ngó lơ, nên thà là để
anh đưa tay trước rồi tôi mới dám nắm chớ.”
Tế-Thế cười rồi xỏ tay vào cánh tay người ấy, cặp dắt đi và
nói rằng: “Hôm trước gặp anh mà mắc xe lửa gần chạy, nên không nói chuyện gì được
hết. Nay tôi qua bên anh tính ở chơi đến sáng mai mới về, vậy thôi hai anh em
mình đi lên nhà hàng uống rượu chơi. Anh em lâu gặp nhau, nay gặp được tôi mừng
quá. Đi, đi anh”. Tế-Thế kéo riết người ấy đi. Mấy học-sinh thấy một người y-phục
sang trọng mà niềm nở với một người y- phục lôi thôi thì lấy làm lạ, nên đứng
ngó trân hai người rồi cùng nhau mà cười ngất.
..................... Kỳ-Tâm, vốn là anh em bạn học của Tế-Thế,
người gốc Rạch-Giá, nay làm việc Trạng-sư tại Mỹ-Tho. Hôm qua Tế-Thế hứa với
Trường-Xuân sẽ qua Mỹ-Tho kiếm người gỡ rối dùm, ấy là ý muốn cậy người nầy.
Hai người dắt nhau đi ngang qua nhà giấy xe lửa. Tế-Thế mới
nói với Kỳ-Tâm rằng: “Để mình kiếm nhà hàng khách-trú mình uống rượu nói chuyện
chơi mới thong thả”. Hai người đi thẳng xuống vàm, rồi quẹo vô phía cầu quây. Gặp
nhà hàng khách-trú, Tế-Thế mời Kỳ-Tâm vào ngồi rồi hỏi rằng:
- Ý anh muốn dùng rượu chi?
- Mấy năm nay tôi không uống rượu gì hết. Vậy anh muốn dùng
thứ nào tùy thích, tôi ngồi không nói chuyện chơi cho anh vui cũng được mà.
- Được đâu nà! Anh phải uống chơi với tôi chớ. Uống đồ mạnh
quá sợ say, thôi để mình uống bi-công nhé. Bồi lấy 2 li bi-công. Trời nực quá,
bỏ nước đá cho nhiều nhiều nhé.
Bồi đem rượu ra rót hai người hai li. Tế-Thế mời Kỳ-Tâm uống;
Tế-Thế nói nói cười cười, có ý muốn chọc cho Kỳ-Tâm nói chuyện, mà Kỳ-Tâm thì
ngồi chiêm-nghiểm, cứ day mặt ra ngoài mé sông, bộ coi dường như lo tính việc
gì đó vậy. Tế-Thế nói rằng:
- Anh em học một lớp với mình hồi đó gần 40 người. Từ khi ra
trường đến nay tản lạc hết, mỗi người đều đi kiếm việc làm ăn, ít khi gặp nhau
như vầy.
- Bây giờ anh làm việc ở đâu?
- Tôi thì xin làm thầy-giáo liền; 4 năm nay ở Tân-An hoài, chớ
không đi đâu hết, anh quên hay sao? … Ờ, phải! Anh thôi trước nên không có thi.
Cha chả! Năm đó anh em thi đậu nhiều quá, chớ chi anh ở học ráng vài tháng nữa
thì chắc anh cũng đậu. Anh thôi uổng quá! Nầy, mà hồi đó lúc gần thi sao anh lại
thôi học như vậy anh?
- Tôi mắc việc nhà không thể học nữa được, nên tôi phải thôi.
- Uổng quá! Anh mắc việc gì ngặt lắm hay sao mà đến nỗi bỏ học
như đi vậy?
Kỳ-Tâm nghe hỏi ngồi thở ra không muốn trả lời, Tế-Thế liếc mắt
thì thấy bộ anh ta buồn-bực lắm. Kỳ-Tâm ngó ra ngoài đường thấy đờn-bà mang guốc
dắt con đi chơi, xe kéo kiếm khách kéo xe đi nghễu-nghến. Cách một hồi mới day
vô mà hỏi Tế-Thế rằng:
- Mấy năm nay anh làm thầy giáo khá hay không?
- Anh cũng biết làm thầy giáo mà khá nỗi gì. Tại tôi chưa có
vợ nên nhà cửa còn lôi thôi hoài.
- Té ra anh chưa có vợ hay sao?
- Chưa.
- May cho anh lắm a!
- Không có vợ mà may nỗi gì anh?
- Nếu anh cưới vợ, hễ cưới chỗ nghèo thì nó báo anh, còn cưới
chỗ giàu thì nó khi anh, bởi vậy không có vợ khỏi ai theo báo đời, mà cũng khỏi
ai khinh dễ, há không phải là may hay sao?
- Anh nói nghe kỳ cục quá!
- Thiệt chớ! Đời nầy thiên-hạ họ xấu lắm. Anh chưa được giàu
sang, mà anh cũng chưa gặp hoạn-nạn, bởi vậy anh chưa hiểu thế-thái nhơn-tình,
chớ tôi đã thấy đủ kiểu, đã nếm đủ mùi, nên bây giờ tôi ghét thiên-hạ lắm.
- Anh nói vậy sao phải! Ở đời có kẻ xấu người tốt, chớ mỗi
người đều bậy hết hay sao mà anh oán chung hết thiên-hạ. Trong mấy nhà nghèo
cũng hiếm người hiền đức, mà trong mấy nhà giàu cũng hiếm gái khôn-ngoan, nếu
mình cưới vợ thì mình chọn con nhà biết điều không cần gì giàu nghèo, thì có lẽ
mình cũng vui lòng được chớ.
- Hữ! Anh nói chuyện đời xưa hay sao chớ? Đời nầy ai là người
biết điều đâu anh chỉ thử coi?
- Bây giờ biết ai đâu mà chỉ. Mà điều thiếu gì người tử-tế,
chớ phải hết thảy thiên hạ đều bậy hết hay sao?
- Đó! Coi có quả như vậy hay không, hử? Anh nói thiếu gì người
biết điều, thiếu gì người tử-tế, mà biểu chỉ thử coi, anh lính-quýnh không biết
đâu mà chỉ. Có, có nhiều lắm chớ. Theo con mắt của tôi coi thì không có, mà
theo con mắt của thiên hạ, thì thiếu gì người tử-tế biết điều. Anh không biết
đâu mà chỉ, vậy thôi anh để tôi chỉ dùm cho. Anh chịu khó anh đi khắp mấy tỉnh
từ trong Nam-Kỳ ra cho tới Bắc-Kỳ anh coi thử coi có phải thiên-hạ hễ thấy ai
nhà cửa kinh-dinh, y-phục đàng-hoàng tước trọng quyền cao, ruộng nhiều vườn rộng,
thì họ cho là tử-tế biết điều, còn thấy ai quần áo lang-thang, cửa nhà xệch-xạc,
ăn không no bụng, ngủ không yên thân, thì họ cho là khốn-nạn gian-giảo. Ý của
thiên hạ như vậy đó. Anh nói thiếu gì người tử-tế, phải tử-tế là theo như lời
thiên hạ họ cho đó hay không?
- Không. Người tử-tế, thì tử-tế, chớ nào phải giàu sang mới tử-tế,
còn nghèo-hèn thì bậy-bạ hết thảy đâu.
- Anh nói chuyện đời xưa, hay là anh rút chuyện trong sách
anh nói nữa? Anh nói người tử-tế dầu giàu nghèo gì họ cũng cho là tử-tế phải
không? Đâu anh thấy ông nào giàu sang mà họ dám kêu là quân ăn cướp, đồ khốn-nạn
đâu, anh chỉ thử coi, mà vị tất hết thảy những tay giàu sang đều là bực hiền-nhơn
quân-tử hết. Tôi thường thấy, mà có lẽ anh cũng dư biết, thiếu gì người làm những
điều hung ác, dùng những chước nhuốc-nhơ mới trở nên giàu sang, mà hễ giàu sang
rồi thì thiên-hạ đã quên tội hung ác hoặc thói nhuốc nhơ của họ hết, mà lại còn
theo lạy dạ bợ đỡ họ nữa. Đời nầy khốn-nạn lắm! Tôi đã ghét, tôi không muốn nói
đến, tại anh hỏi dần-lân làm cho tôi nhớ tới tôi càng thêm giận.
- Tại sao mà anh nói nghe hơi chán đời dữ vậy anh?
- Phải, tôi chán đời lắm.
Kỳ-Tâm nói mấy lời rồi lại day mặt ra ngoài đường. Tế-Thế ngó
thấy anh ta có sắc giận nên chúm-chím cười mà hỏi rằng:
- Thế khi anh cực khổ lắm hay sao mà anh giận đời như vậy?
- Không. Tôi bây giờ thong thả lắm chớ. Tôi làm việc Trạng-sư
ăn lương mỗi tháng 30 đồng. Tôi ở đậu ăn cơm quán nhà người ta trên Cầu-cống mỗi
tháng hết 15 đồng, còn 15 đồng tôi xài chơi, có thiếu thốn chi đâu.
- Vậy mà sao anh còn giận đời?
- Anh muốn biết việc của tôi, vậy để tôi tỏ thiệt cho anh
nghe chơi. Hồi nhỏ tôi sung-sướng ít có đứa nào dám bì kịp. Cha mẹ giàu có: nhà
ngói có 3 tòa, ruộng có hơn một muôn công. Cha mẹ tôi sanh có một mình tôi, mà
huê-lợi mỗi năm góp đến 50 ngàn giạ lúa, bởi vậy tôi muốn tiền bạc bao nhiêu
cũng được hết. Lúc tôi đi học trên Sài Gòn trong rương tôi thường có năm bảy chục
hoặc một trăm đồng bạc luôn luôn.
- Phải, tôi nhớ: bọn học trò hồi đó có một mình anh xài-phí rộng
rãi hơn hết. Anh mặc quần hàng áo lụa luôn luôn. Mà anh đi giầy cũng mắc tiền
hơn hết nữa.
- Hồi đó tôi sung-sướng lắm, bởi vậy tôi đi học không lo chi
hết, chỉ lo học cho giỏi đặng khỏi thua chúng bạn mà thôi. Mà tôi học cũng
không phải cầu thầy bà gì, chỉ muốn học đặng mở rộng trí khôn hầu ngày sau cai
quản sự nghiệp của cha, cho khỏi mang tiếng nhà giàu u-mê. Tôi đi học đã
sung-sướng mà bãi trường về nhà lại còn vui vẻ hơn nữa. Anh nghĩ thử coi, mình
là là con ông Cả giàu lớn hơn hết trong tổng, ai mà không kiêng mình. Tôi đi
chơi tới đâu, họ niềm nỡ tới đó, tá-điền già trẻ gì hễ tôi kêu thì dạ hết thảy.
Không phải tôi có ý khoe với anh, chớ thiệt tôi không phải như họ, ỷ thế mà hiếp
đáp người ta; tôi gặp người già cả thì tôi kỉnh họ luôn luôn, tôi thấy ai nghèo
nàn thì tôi cho tiền bạc, bởi vậy trong làng họ kiêng tôi mà lại yêu tôi lắm.
Lúc tôi được 16, 17 tuổi thì nhà giàu ai có con gái cũng đều muốn gả cho tôi.
Ông thân tôi có một người anh em bạn tên là Thái-sanh-Tài, làm Phó-tổng cựu,
nhà giàu góp mỗi năm lối 20 ngàn giạ. Ổng muốn làm sui với ông thân tôi, mà tôi
không chịu, tôi xin để tôi học xong rồi tôi sẽ cưới vợ. Bữa nọ bãi trường tôi về,
đi dưới tàu tôi gặp bà Phó-tổng Tài với con gái bà là cô sáu Nhiễu đi Sài Gòn về.
Ông thân tôi muốn đi nói cô nọ cho tôi, mà tình cờ tôi gặp cô như vầy thì tôi
có ý mừng thầm, bởi vì có dịp mà tôi mới dọ tánh nết cô được. Tôi bước lại chào
bà Phó-tổng thì bà mừng rỡ hỏi thăm lăng-xăng còn cô sáu Nhiễu thấy tôi coi bộ
cũng vui nên không bợ-ngợ chi hết. Đến 11 giờ trưa, tàu ở Mỹ-Tho lên tới
Cái-Bè, cô Nhiễu dọn bánh thịt ra rồi bà Phó-tổng mời tôi ăn. Bà ép quá nên tôi
phải ngồi lại mà ăn với bà và cô sáu Nhiễu.
Kỳ-Tâm nói tới đó thì đèn khí bực cháy sáng lòa. Anh ta hớp một
hớp rượu thắm giọng rồi nói tiếp rằng: “Chẳng giấu chi anh, cô sáu Nhiễu thiệt
là đẹp. Cô văn nói nhỏ-nhoi, đi đứng đằm-thắm, da trắng tóc dài, môi-son, mầy
liễu, tay chơn dịu nhiễu, hình vóc thanh tao, bởi vậy tôi đã không chịu cưới vợ
gấp, mà thấy cô tôi động tình, nên tôi ngồi dưới tàu cứ suy nghĩ hoài, tính về
chuyến đó thưa với cha mẹ đi nói cô, rồi đợi hễ ra trường thì cưới liền. Tháng
đó nhằm tháng nước đổ, mà rủi lại gặp chiếc tàu chạy dở, nên mới tới kinh Lấp-Vò
thì trời đã tối mò. Tôi biểu dưới tàu nấu cơm dọn cho tôi với bà Phó-tổng và cô
sáu Nhiễu ăn. Tàu qua khỏi Long-Xuyên thì đã gần 10 giờ tối rồi. Bà Phó-tổng đi
đường bị nắng gió bà mệt nên bà nằm ngủ khò. Tôi thừa dịp ấy mới nói chuyện với
cô nọ, ban đầu còn nói chuyện dông dài, lần lần tôi mới tỏ thiệt tình ý của
tôi, rồi tôi hỏi cô rằng cha mẹ hai bên đã tính làm sui với nhau như vậy, mà cô
có vừa lòng hay chăng. Cô mắc cỡ nên day mặt khuất bóng đèn, song cô trả lời nhỏ
nhỏ rằng: “Nếu anh không chê em là đứa quê hèn, anh quyết giao duyên kết tóc với
em, thì em đâu dám phụ lòng anh, ví dầu may rủi thế nào em cũng nguyện đồng
sanh đồng tử”. Tôi nghe mấy lời ấy tôi cảm xúc trong lòng vô cùng, đến bây giờ
nhắc lại mà cái giọng của cô cũng còn như nghe văng-vẳng bên tai.”
Kỳ-Tâm chau mày thở ra rồi nói rằng: “Lòng đàn bà đổi dời,
không biết sao mà dò được. Tôi nghe lời cô hữu tình như vậy tôi cảm lắm, nên kỳ
bãi trường ấy tôi mới nói với ông thân tôi đi lễ hỏi, rồi đợi chừng nào học
xong rồi sẽ cưới. Lúc ấy tôi còn phải học tới 2 năm nữa mới thi lấy bằng tốt-nghiệp.
Hễ bãi trường tôi về qua thăm thì ông gia bà gia tôi niềm-nở, rồi lúc tựu trường
thì cho mỗi lần một trăm đồng bạc; cô sáu Nhiễu lại thêu khăn, may áo, biểu em
đem qua cho tôi nữa. Tôi thấy bên vợ tôi ở với tôi có tình như vậy, thì trong bụng
tôi mừng lắm, chắc là ngày sau trong gia-đình lấy làm hạnh-phúc lắm. Năm tôi học
rút đặng mà thi, thì tôi coi ý cha mẹ tôi không được vui như xưa. Tuy tôi mắc
đi học song tôi có nghe rằng mấy năm trước hoặc bị nước lụt, hoặc bị chuột phá,
hoặc bị lúa háp, nên ông thân tôi thất mùa luôn luôn. Mà nghe thì nghe như vậy
chớ trong bụng tôi chẳng có chút chi lo sợ. Chẳng dè còn vài tháng nữa tới hội
thi, tôi tiếp được một bức thơ của ông thân tôi nói rằng mấy năm thất mùa không
góp được huê-lợi, mà bạc lúa dùm cho tá-điền ăn cũng không thâu được, nợ mỗi
năm chồng lời thêm hoài, bây giờ không thể trả nổi, nên chà xả-trí (#1) đã kiện
mà phát-mại nhà cửa ruộng vườn hết rồi, và dạy tôi phải về cho mau mà tính việc
nhà. Tôi được thơ chẳng khác nào như sét đánh bên tai, rộn trí đau lòng, không
thế nào học nữa được; chẳng phải là tôi nghe hết của mà ngã lòng, tôi lo là lo
cho cha mẹ tôi thất chí buồn rầu rồi sanh bịnh hoạn mà thôi. Thiệt tôi lo chẳng
sai; tôi xin phép về thì nhà cửa đã bị chủ nợ tịch hết rồi, cha mẹ tôi đi ở đậu
với một người tá-điền cũ là Bảy Cự, mà cha tôi lại có bịnh nằm mê-man, hễ tỉnh
dậy thì khóc. Cha tôi thấy tôi thì khóc tấm-tức tấm-tưởi không nói chi được hết,
rồi trong đêm ấy bịnh trở mệt quá nên tắt hơi”.
Kỳ-Tâm thuật tới đó thì nhớ cha nên động lòng, hai hàng nước
mắt rưng rưng chảy. Tế-Thế làm mặt buồn mà nói rằng: “Nếu vậy thì việc nhà của
anh gian-nan quá; hèn chi gần thi mà anh thôi học. Vậy mà từ hồi đó cho đến bây
giờ tôi có hay đâu”. Kỳ-Tâm lau nước mắt rồi mới nói tiếp rằng: “Hoạn-nạn của
tôi còn nhiều nữa, chớ phải bao nhiêu đó mà thôi đâu anh. Ông thân tôi mất bà
thân tôi không còn một đồng. Tôi phải đi đến mấy nhà người thân thiết với ông
thân tôi mà năn-nỉ lạy-lục họ đặng mượn bạc vay tiền mà chôn cất. Ông Phó-tổng
Tài có qua điếu tang, song ông cúng 10 đồng bạc hương khói rồi về liền, đến bữa
táng ông không qua mà đưa. Tống táng ông thân tôi xong rồi thì bà thân tôi buồn
rầu nên sanh bịnh nữa. Vợ chồng Bảy Cự thuở nay nhờ làm ruộng của cha mẹ tôi mới
cất được nhà rường nhà cập, mà nay nó thấy tôi suy-sụp, coi ý vợ chồng nó không
biết thương. Tôi thấy nhơn tình như vậy tôi buồn nên đem bà thân tôi lên nhà
thương Rạch-Giá mà nằm, không thèm ở trong nhà nó nữa. Bà thân tôi đau gần 8
tháng, tôi quơ đầu nầy tạm đầu kia mà nuôi, nên mắc nợ cùng hết. Đến chừng bà
thân tôi từ trần, tôi chôn cất xong rồi, thì trong lưng còn có năm sáu đồng bạc,
mà số nợ tôi mắc người ta kể đến tám chín trăm. Tôi bơ-vơ không có nơi nương dựa,
mới tìm ông gia tôi đặng dọ thử coi ý ông tính cho tôi làm sao. Chẳng dè tôi đến
nhà thì hai ông bà lạt-lẽo lắm, ông chẳng nói chi đến việc hôn-nhơn nữa, mà ông
lại nói rằng tại ông thân tôi vụng tính nên mới tan cửa nát nhà, ông thân tôi
có mượn của ông hai ngàn đồng bạc, vậy chớ tôi tính làm sao mà trả lại cho ông.
Tôi chẳng biết nói sao được, túng thế phải hứa rằng để tôi kiếm phương làm ăn,
chừng nào có tiền thì tôi sẽ đem về mà trả. Tôi trở ra chợ xin làm ký-lục phụ
trong sở Thương-chánh mà nuôi miệng. Tuy ông gia bà gia tôi không nói tới việc
hôn nhơn nữa, nhưng mà tôi nhớ lời cô sáu Nhiễu nói với tôi dưới tàu rằng: “ví
dầu may rủi thế nào cô cũng nguyện đồng sanh tử” nên tôi không thối chí, chắc rằng
cô không nỡ quên lời. Chẳng dè cách mấy tháng tôi nghe thầy Phó-tổng đã gả cô
cho con một ông nhà giàu bên Cần-Thơ. Tuy nghe như vậy, song tôi tưởng ông gả
ép, chớ không phải tại cô phụ tôi. Tôi mới gởi cho cô một bức thơ dọ thử ý cô
thể nào. Tôi chờ hoài không thấy cô trả lời; cách ít tháng tôi thấy cô đi chợ,
tôi có ý muốn giáp mặt đặng coi cô nói làm sao, té ra cô thấy mặt tôi cô ngó rồi
làm lơ, dường như thuở nay không quen biết chi hết vậy. Nhơn tình! Nhơn tình khốn-nạn
lắm, anh thấy chưa hử? Đời nầy những người như vậy đó thiên-hạ họ tôn trọng, họ
khen là tử-tế, là biết điều, còn kẻ suy-sụp như tôi đây đều là quân bá-láp hết.
Khốn nạn lắm! Mà chẳng phải bên vợ tôi họ phụ tôi mà thôi, mấy người quen biết
theo bợ đỡ tôi hồi trước, chừng họ thấy tôi nghèo họ cũng khinh khi bỉ bạc tôi
nữa. Ối! Còn nói chi tới mấy người tôi thiếu nợ! Họ tưởng ông thân tôi bị khánh
tận, mà thế nào bà thân tôi cũng chắt-mót giấu tiền bạc được nhiều. Đã vậy mà họ
đương tử-tế đó không lẽ họ trở mặt liền cho được, nên họ mới cho tôi vay bạc.
Chừng bà thân tôi mất rồi họ theo đòi tôi ngày một; tôi không có tiền mà trả,
năn-nỉ hết sức họ cũng không nghe. Có một chủ kiện rồi bắt giam thân tôi hết mấy
tháng, té ra tôi cũng không có mà trả. Họ làm hết sức mà đòi không được, túng
thế họ mắng nhiếc mà trừ. Hễ thấy mặt tôi người thì mắng tôi là đồ ăn cướp, kẻ
thì kêu tôi là quân giựt đồ, tôi ăn cướp ai, tôi giựt đồ ai? Tôi mắc nợ họ tôi
không chối, tại tôi không có tiền nên tôi không trả được; đợi chừng nào có rồi
tôi sẽ trả chớ. Sao những người có tiền nhiều mà họ lại đem tiền bạc tới quì lạy
đặng dưng thêm nữa, còn tôi nghèo không tiền mà trả cho họ, họ làm bức tôi chi
dữ vậy? Thiên-hạ ở như vậy, tôi ghét không phải hay sao? Anh đừng có binh. Đời
nầy thiên-hạ xấu lắm. Người nào anh khen tử tế đó, thì họ càng bậy bạ nhiều hơn
người khác nữa, nói dùm cho anh biết”.
Tế-Thế mỉm cười, dòm thấy đồng hồ đã chỉ 7 giờ rưởi, mới đứng
dậy mời Kỳ-Tâm đi ăn cơm. Kỳ-Tâm dục-dặc không muốn đi. Tế-Thế nắm tay kéo riết
đi trở ra vàm rồi vào nhà hàng lớn mà ăn cơm với nhau.
Chú thích:
(1-) (tiếng Pháp) chetty
CHƯƠNG 6 -
T
răng rằm tỏ rạng, nước lớn tràn trề gió thổi mặt nước dợn dợn
như dùn da, trăng dọi dòng sông ánh lòa như chảy bạc. Tế-Thế với Kỳ-Tâm ăn cơm
rồi mới dắt nhau ra đứng tại vàm mà hóng mát. Ngoài sông ghe đi xuống quăng
chèo lạc-xạc, tàu chạy lên đèn chiếu đỏ xanh; trên bờ người đi qua nói chuyện
vui cười, xe chạy lại tránh nhau lộn-xộn. Tế-Thế đi kiếm Kỳ-Tâm là chủ ý muốn cậy
Kỳ-Tâm nhảy xuống ao bùn vũng nước mà vớt dùm Yến-Tuyết với Trường-Xuân hụp-lặn
chơi-vơi, chớ không phải anh em thương nhớ nhau nên tìm nhau mà trò chuyện. Gặp
Kỳ-Tâm thì anh ta mừng thầm, muốn nói phứt chuyện riêng của mình cho rồi, mà
chưa biết làm sao mà khởi đầu cho được. Chừng đứng tại vàm hóng mát anh ta lại
nghĩ trong trí rằng nếu mình nói mà Kỳ-Tâm chịu thì mình xúi ảnh đòi chừng 5
ngàn, rồi chia bớt cho mình một vài ngàn xài chơi. Trường-Xuân nói rộng quá, dại
gì mà không ăn. Tuy ảnh bà con với mình, song bạc nầy không phải bạc của anh
mình mà ngại, ảnh làm việc gì mà có tiền nhiều, nên nói rộng rãi như vậy, chắc
là bạc của bà Phủ, hoặc là bạc của ảnh ăn cắp của vợ ảnh. Mình chịu khó đi tính
dùm việc cho ảnh thì phải có lợi, chớ khốn gì ăn cơm nhà mà lo chuyện thiên-hạ.
Theo lời Kỳ-Tâm nói với mình hồi chiều, thì ảnh đương uất về đạo vợ chồng, mà lại
đương eo hẹp về việc tiền bạc nữa. Vậy nếu mình nói chắc là ảnh chịu; mà làm việc
Trạng-sư mình đem mối cho anh, đã có tiền lại được vợ, tự nhiên ảnh phải tính
tiền huê-hồng cho mình chớ. Cha chả! Mà anh nầy nói chuyện nghe hơi ảnh chán
tình đời quá, không biết ý ảnh thể nào.
Tế-Thế đứng ngẫm nghĩ muốn mở lời mà nói phứt cho rồi, song
day lại thấy có hai vợ chồng thầy thông nào đó không biết, dắt nhau lại gần đứng
mà chơi, làm cho anh ta nhột-nhạt nói ra không được. Anh ta thấy có 2 cái xe
kéo đương nghễu-nghến đi kiếm mối. Anh ta vỗ vai Kỳ-Tâm mà nói rằng: “Nầy anh,
đứng lâu mỏi chân quá. Vậy thôi hai anh em mình ngồi mỗi đứa một cái xe kéo đi
vô đường Trung-Lương mà thưởng trăng ngoạn cảnh chơi”. Kỳ-Tâm thấy Tế-Thế quyến-luyến
quá, không nỡ cáo từ, nên phải lên xe mà đi với Tế-Thế.
Qua khỏi Vĩnh-Tường rồi, Tế-Thế dạy xa-phu đi thủng-thẳng mà
hóng mát. Hai bên đường cau chuối trồng dầy mịt án bóng hằng-nga, làm cho đường
chỗ thì tỏ chỗ thì mờ, dường như ngày nơi đây đêm nơi đó. Mấy nhà ở dọc theo
mé, nhà thì thức rầm-rì nói chuyện, nhà thì ngủ lặng-lẽ quạnh-hiu. Một lát nghe
chó trong cửa sủa om-sòm, một hồi gặp người đi đường bộ coi hăm-hở. Qua khỏi một
cái cầu, thấy đường dài ngay bót, mà lại nhà ở trong xa, Tế-Thế mới dạy ngừng
xe lại rồi rủ Kỳ-Tâm leo xuống đi bộ chơi cho mát. Xa-phu ngồi dựa bên đường
hút thuốc, còn Kỳ-Tâm với Tế-Thế thì chắp tay sau đít thủng-thẳng đi chơi. Tế-Thế
vùng nói với Kỳ-Tâm rằng:
- Tôi nghe anh thuật việc nhà của anh, từ hồi chiều đến bây
giờ tôi buồn quá. Té ra mấy năm nay anh ngậm cay nuốt đắng, tán gia bại sản,
tình nhơn thì bội nghĩa, thân thuộc thì vong ân, vậy mà tôi có hay đâu. Phận
tôi đây tay làm hàm nhai, chớ không phải giàu có gì, bởi vậy không biết làm sao
mà giúp đỡ anh được.
- Anh có lòng thương tưởng đến tôi như vậy, thiệt tôi cám ơn
anh lắm. Song bây giờ tôi đã chán đời rồi, ý tôi chẳng còn muốn vinh-huê
phú-quí chi nữa, áo dơ quần rách tôi không biết hổ, ăn quán ngủ lều tôi cũng
không biết buồn. Thôi, phận tôi khốn-nạn thì tôi giữ phần khốn-nạn cho yên, còn
phần thiên-hạ cao sang thì để cho họ cao sang thì để cho họ cao sang theo họ.
Anh biết thương dùm thân tôi, nghĩ cũng là đủ rồi, chẳng cần phải lo giúp đỡ
chi nữa.
- Anh nói như vậy sao phải, anh em bè bạn hễ thương nhau thì
phải giúp nhau, chớ không giúp nhau mà gọi thương nhau nỗi gì. Nầy anh, tôi có
một việc kỳ lắm, muốn nói cho anh nghe chơi, mà bởi việc kỳ nên không biết anh
có vui lòng nghe hay không?
- Anh muốn nói việc chi thì cứ nói ngay ra, đừng ngại chi hết.
Thuở nay tôi đã từng thấy nhiều việc kỳ lắm, nên bây giờ việc gì tôi cũng coi
là việc thường chớ không có chi mà gọi là kỳ.
- Ờ, để tôi nói cho anh nghe. Bên Tân-An có một bà Phủ thuở
nay thiên-hạ kính trọng, không biết chừng nào.
- Hễ bà Phủ thì tự nhiên thiên-hạ kính trọng có lạ gì đâu.
- Ậy! Để thủng thẳng tôi nói cho anh nghe mà! Bà nhà cửa hẳn-hòi,
có ruộng có vườn, tuy không giàu lớn, song bà sung-sướng lắm. Bà không có con
trai, chỉ có đứa con gái, năm nay chừng 19, 20 tuổi, nhan sắc đẹp đẽ, cười nói
đoan trang, thuở nay đóng cửa kén chồng, bực giàu sang thì không nghe ai gấm-ghé,
còn bực tầm thường như mình đây thì cô không thèm ngó tới.
- Đời nầy hễ người tử-tế thì họ như vậy hết thảy. Họ là con
nhà giàu sang thì phải chọn con nhà giàu sang mà kết đôi kết bạn, chớ thứ quân
nghèo hèn như tôi, chúng nó biết gì mà đoái tưởng đến.
- Ờ, cô ta kén chồng quá cho nên bây giờ có chửa oan rồi anh.
- Có lạ gì đâu! Tuy anh chưa nói ra, mà tôi dám đoán trước rằng
cô nọ lấy đày-tớ, hay là lấy anh em bà con chi đó, chớ không ai đâu lạ.
- Anh giỏi quá! Thiệt, cô lấy người anh em bạn dì, người ấy
có vợ rồi, mà vợ lại giàu lớn lắm. Chẳng giấu chi anh, người đờn-ông ấy bà con
với tôi, thuở nay nhờ bên vợ mà nên, bây giờ lại đương tính tranh chức Cai-tổng
nữa. Việc nầy nếu dấy lậu ra vợ anh ta hay được thì chắc phá hoang hết, anh ta
hỏng làm Tổng, mà mẹ con bà Phủ cũng phải bỏ xứ mà đi, chớ xấu hổ quá ở sao được.
- Con nhà tử-tế bây giờ họ lấy trai có chửa oan thiếu gì. Có
ai chê cười chi nữa đâu mà sợ xấu hổ. Mà ví dầu có người nào ưa nhiều chuyện họ
soi bói đi nữa, thì họ cười lén, chớ giàu sang ai dám nói xấu mà sợ.
- Phải, mà sợ là sợ vợ anh kia hay được rồi đường công-danh của
anh trắc trở chớ.
- Thứ làm vậy mà công-danh gì?
- Đời nầy giàu sang là công-danh chớ sao nữa.
- Ờ, ờ, tôi quên … Bây giờ nếu muốn che miệng thiên-hạ thì kiếm
người nôm cô nọ, như người ta hay làm thường thì yên chớ khó gì.
- Phải, họ cũng tính như anh đó đa. Họ đương kiếm người nôm,
tốn hao bao nhiêu họ cũng không nệ; song họ cần kiếm người biết ăn biết nói, có
học khá khá, chớ nếu anh cu-li, xe kéo cưới con bà Phủ thì tự nhiên họ biết nó
nôm còn gì.
Kỳ-Tâm nghe nói miệng chúm-chím cười, Tế-Thế lặng thinh đi với
Kỳ-Tâm một hồi rồi đứng lại nói rằng:
- Nầy anh, anh thất vận mấy năm nay nghèo cực, ở không yên
thân, làm không đắc chí, tôi muốn anh làm xấu nhảy vô nôm phứt đặng lấy tiền
xài đỡ lúc nghèo nầy, anh nghĩ sao? Họ nói rộng lắm, mình muốn đòi mấy ngàn họ
cũng chịu hết. Đã vậy mà họ buộc hai điều nầy: thứ nhứt là nôm mà không được ăn
nằm với cô nọ, thứ nhì là hễ chừng nào họ muốn thôi thì mình phải thôi liền.
Tôi nghĩ mình chịu tiếng làm chồng đỡ dùm cho cô nọ, chớ không tình nghĩa gì, rồi
trong ít tháng cô nọ đẻ rồi, hoặc có lâu lắm là một vài năm mình thôi, việc làm
không khó gì, mà mình lấy mấy ngàn đồng bạc khỏe quá.
- Anh tính nghe coi phải lắm, mà sao anh không nôm?
- Tôi bà con với anh kia, làm như vậy khó coi nên tôi không nỡ.
Đã vậy mà anh bà con không lẽ tôi đòi tiền, thà là anh lạ anh kèo nài nhiều tiền
mới được.
- Thuở nay con nhà tử-tế có chửa oan, kiếm người nôm là sự
thường. Mà cái nầy lại buộc hai điều khác hơn người ta, nên nghe lạ quá.
- Tôi biết ý họ rồi, hai đàng thương nhau muốn ngày sau vầy
duyên với nhau nên mới buộc như vậy. Họ sợ là sợ bể tiếng trong lúc nầy nên lật
đật kiếm người nôm. Nếu anh mà chịu, thì chẳng những là anh muốn bao nhiêu tiền
cũng được hết, mà họ lại còn cám ơn anh lắm. Anh làm việc nầy đã có lợi mà lại
có ơn nữa; ấy là anh bảo bọc danh-giá dùm cho một cô gái thuộc nhà sang trọng
trong nước, mà anh cũng bồi đấp đường công-danh dùm cho một người bạn tân học đời
nay. Anh nghĩ thử coi có nên làm chăng?
Kỳ-Tâm thọc tay trong túi quần đi lên đi xuống mà suy nghĩ. Tế-Thế
thấy bộ-tịch như vậy thì trong bụng mừng thầm, song không nói chi nữa, cứ đi
theo để cho Kỳ-Tâm liệu định. Cách chừng 10 phút đồng-hồ Kỳ-Tâm đứng lại ngó Tế-Thế
mà nói rằng: “Như anh có gặp người đó thì nói với họ nếu họ cậy tôi nôm, thì
tôi sẵn lòng giúp dùm cho họ”. Tế-Thế nghe nói mừng rỡ vô cùng, song không muốn
lộ ý cho Kỳ-Tâm biết, nên vỗ vai Kỳ-Tâm mà nói hoãn đãi rằng:
- Chẳng giấu anh làm chi, người ấy cậy tôi đi kiếm người nôm.
Chẳng dè qua đây gặp anh, mà anh lại khứng giúp dùm thì thiệt là may mắn lắm. Vậy
anh đi liền với tôi qua Tân-An đặng tính việc cho gấp, hễ hai đàng tính chuyện
tiền bạc với nhau xong rồi, thì trong 10 bữa hoặc nửa tháng làm lễ cưới chớ
không nên trì hoãn. Mà trước khi anh giáp mặt với họ, tôi muốn hai anh em mình
bàn trước với nhau coi bây giờ phải đòi tiền bao nhiêu, đặng tôi liệu thế mà
nói với họ. Anh liệu thử coi phải đòi bao nhiêu?
- Không. Tôi làm dùm họ mà chơi, tôi không thèm ăn đồng nào hết.
Tế-Thế nghe nói chưng-hửng, nghĩ thầm nếu anh nầy không chịu
ăn tiền thì mình làm sao mà có huê-hồng, nên cãi lẽ rằng:
- Anh nói như vậy sao được. Họ sợ mang xấu nên họ cầu mình
gánh vác dùm cho họ. Đã vậy mà họ lại nói rộng lắm, dầu tốn hao mấy ngàn cũng
chịu hết. Mình phải thừa dịp nầy mà kiếm tiền chớ. Phận tôi làm thầy-giáo lương
hướng cũng rộng, nên tôi không cần cho lắm, chớ còn phận anh nghèo cực, anh làm
ơn gánh cái nhục dùm cho người ta; người ta sẵn lòng cho anh tiền nhiều, nếu
anh không đòi thì là uổng lắm.
- Anh chưa hiểu ý tôi. Anh tưởng tôi chịu nôm con bà Phủ nào
đó, là vì tôi ham tiền bạc nên mới chịu tiếng nhục mà nôm đó sao? Anh tưởng như
vậy thì anh lầm lắm. Tôi mà chịu nôm đây là vì tôi thấy đời nay những kẻ giàu
sang họ làm nhiều việc tồi-bại, nói ra nghe ghê-gớm lắm, mà nhờ họ có bạc có tiền,
có quyền thế lớn, họ vãi tiền bạc mà che mắt thiên-hạ, hoặc cậy thế thần mà bịt
miệng thế-gian, nên họ làm quấy hết sức mà họ cứ khoe mình là phải, rồi thiên-hạ
cũng áp nhau mà khen họ là người tử-tế. Còn bọn nghèo khổ như tôi đây, dầu chẳng
làm điều chi hết, họ cũng mắng chúng ta là “quân khốn-nạn” dầu chúng ta có làm
phải cho mấy, thiên-hạ cũng không ai khen. Đã vậy mà lại có nhiều người làm mặt
thông-thạo, khinh-bỉ chúng ta, mắng chúng ta là bọn vô-ích của xã-hội. Bấy lâu
nay tôi oán nhơn-tình thế-thái lắm, trông có dịp mà chỉ cho họ thấy rõ-ràng rằng
kẻ giàu sang thường hay làm quấy hơn người nghèo hèn, mà lại bọn nghèo hèn chẳng
phải là “quân khốn-nạn” hết thảy đâu, mà còn nhiều lúc làm lợi ích cho xã-hội lắm.
Nay có việc nầy tôi mới ra gánh vác đặng cho nhà giàu sang họ biết tôi chơi, chớ
phải tôi ham tiền hay sao mà biểu phải thừa dịp đòi tiền cho nhiều.
CHƯƠNG 7 -
T
ế-Thế lắc đầu rùn vai mà nghĩ thầm rằng: thằng cha nầy kỳ
quá, anh Trường-Xuân có việc, còn nó thì nghèo cực, mình muốn giúp hết cho hai
đàng, anh kia khỏi mang tiếng xấu, mà nó lại có tiền xây-xài, nên mình mới đem
mối. Té ra nó điên quá, chịu nôm dùm mà không ăn tiền. Thôi, nó muốn như vậy
thì mình cứ tùy ý nó, chớ phận mình có cần gì, hễ thành sự rồi bề nào anh Trường-Xuân
cũng phải đền ơn cho mình, mà nếu ảnh khỏi tốn hao thì chắc ảnh đền ơn trọng lắm,
có hại chi mà lo. Tế-Thế nghĩ thầm như vậy rồi nói với Kỳ-Tâm rằng: “Tưởng là
anh đòi nhiều tiền thì còn phải so đi so lại, chớ nếu anh làm dùm, không chịu
ăn đồng nào hết, thì họ mừng lắm, có điều chi trắc trở nữa đâu. Chuyến xe lửa
khuya nầy tôi phải về mà dạy học, vậy thôi luôn dịp nầy anh đi với tôi qua
Tân-An mà tính liền cho rồi. Họ căn dặn tôi phải tính dùm cho mau. Nếu anh chịu
theo tôi mà đi thì chắc họ cám ơn anh lắm”.
Kỳ-Tâm nói rằng: “Tôi cô thân mà không có nhà cửa chi hết;
còn làm việc thì tôi làm đặng coi đời chơi, chớ tôi không cần gì. Anh muốn tôi
đi liền với anh cũng đặng”.
Hai người lên xe trở về chợ Mỹ-Tho, Tế-Thế ghé khách-sạn mướn
một căn phòng, còn Kỳ-Tâm lại nhà anh em bạn làm một sở với mình cậy xin phép
dùm với Trạng-sư, rồi về chỗ ở đậu mà nói cho chủ nhà hay rằng mình có việc phải
đi xa ít ngày, đặng ở nhà khỏi chờ đợi. Gần 11 giờ Kỳ-Tâm trở lại khách-sạn mà
ngủ với Tế-Thế rồi chuyến xe lửa khuya dắt nhau qua Tân-An.
Ngồi trên xe lửa Kỳ-Tâm biểu Tế-Thế phải thuật rõ cho anh ta
coi bà Phủ nhà cửa ở đâu, cô gái có chửa oan tên gì, và người tình của cô ấy là
ai, Tế-Thế dụ-dự không muốn nói. Kỳ-Tâm nói rằng: “Đã muốn khỏi xấu nên cậy tôi
nôm, mà còn giấu diếm với tôi nữa thì tôi nôm sao cho đặng”. Tế-Thế bất đắc dĩ
phải thuật hết đầu đuôi cho Kỳ-Tâm rõ, Kỳ-Tâm nghe rõ thì cười mà nói rằng: “Cô
nọ cũng là người tử-tế, ai dám cười chê mà sợ dữ vậy?”.
Về tới Tân-An Tế-Thế dắt Kỳ-Tâm về nhà, rồi biểu ở nhà mà nghỉ
đặng cho anh ta đi dạy-học. Đến trưa tan học, Tế-Thế về, anh em ăn cơm với
nhau, Tế-Thế nói rằng Trường-Xuân có hứa bữa nay qua, vậy chẳng sớm thì tối, nội
ngày nay sao cũng gặp mặt với Trường-Xuân được. Vì đêm trước hai người thức
khuya nói chuyện, rồi lại dậy sớm đi xe lửa nữa, nên hai người đều mỏi mệt, ăn
cơm rồi nằm ngủ liền.
Kỳ-Tâm ngủ được chừng nửa giờ đồng hồ, bỗng nghe tiếng người
nói chuyện, giựt mình thức dậy ngóc đầu mà dòm thì thấy Tế-Thế đương ngồi nói
chuyện nho nhỏ với một người khách đầu bịt khăn đen, mình mặc áo sa-ten, chơn
đi giầy vàng, tiếc vì người ấy ngồi day lưng nên không thấy mặt được. Tế-Thế liếc
mắt thấy Kỳ-Tâm thức, vùng hỏi lớn rằng: “Anh thức sao anh?” Kỳ-Tâm lồm-cồm ngồi
dậy. Người khách day mặt lại ngó Kỳ-Tâm rồi ngó chỗ khác. Tế-Thế đưa tay chỉ
người khách và ngó Kỳ-Tâm mà nói rằng: “Anh tôi đây là Lê-Trường-Xuân, làm Hội-đồng
địa-hạt ở Bến-Tranh”. Rồi ngó Trường-Xuân mà rằng: “Thầy đây là Lý-kỳ-Tâm, anh
em bạn học của tôi, làm việc Tòa bên Mỹ-Tho”.
Kỳ-Tâm với Trường-Xuân đứng dậy bắt tay chào nhau, rồi Trường-Xuân
mới mời Kỳ-Tâm ngồi. Tế-Thế kêu đứa ở nấu ăn tên là thằng Sung mà biểu đi ra chợ
chơi, chừng 2 giờ chiều sẽ về. Kỳ-Tâm ngồi cứ ngó Trường-Xuân hoài, còn Trường-Xuân
thì nhột-nhạt, muốn nói chuyện mà kiếm không ra chuyện. Tế-Thế muốn làm cho hai
người hết bợ-ngợ nên tằng-hắng rồi nói với Trường-Xuân rằng:
- Chuyện anh cậy tôi đó hôm qua tôi đi chơi bên Mỹ-Tho tôi gặp
thầy đây tôi nói chuyện lại thì thầy chịu giúp dùm cho anh, mà không đòi tiền bạc
chi hết. Vậy anh tính coi bây giờ phải làm sao?”
Trường-Xuân mắc cỡ, tay cầm gói thuốc cứ trở qua trở lại, mắt
thì chăm-chỉ ngó gói thuốc, không biết nói sao đặng. Kỳ-Tâm ngó ngay Trường-Xuân
mà nói rằng:
- Té ra thầy đây là người tính cậy tôi làm ơn bảo bọc dùm
danh giá cho con bà Phủ đó há? Thưa thầy, hồi hôm tôi đã có nói cho thầy giáo
hiểu rõ ý tôi rồi. Tôi chịu làm việc nầy là tôi muốn giúp hai đàng mà chơi đó
thôi, chớ không phải phải tôi tính ăn tiền bạc chi đâu. Tôi không đòi ăn đồng
nào hết. Thầy giáo có nói rằng ý thầy muốn giao hai điều: thứ nhứt là tôi đi cưới
con bà Phủ mà không được phép ăn nằm với cô ấy, thứ nhì là hễ chừng nào thầy biểu
thôi thì phải thôi; phải thầy buộc như vậy hay không?
Trường-Xuân gật đầu nói rằng:
- Phải. Nếu thầy mà sẵn lòng làm dùm việc ấy cho xong tôi cám
ơn thầy lắm. Mà thầy phải lấy chút đỉnh tiền bạc, chớ thầy không nhận tiền thì
tôi ái ngại quá.
Kỳ-Tâm cười gằn mà đáp rằng:
- Thầy đừng ngại chi hết. Nếu tôi lấy tiền thì còn gì
danh-giá của tôi. Thầy là người giàu sang, thầy muốn giữ danh-giá của thầy cho
trong sạch, tôi tuy nghèo hèn, song tôi cũng biết trọng danh-giá của tôi vậy chớ,
có lẽ nào tôi vì đồng tiền rồi đem danh-giá của tôi mà chôn dưới bùn đặng thế
cho thầy hay sao. Thầy đừng nói tới chuyện tiền bạc nữa. Thầy buộc tôi 2 điều,
tôi xin phép thầy tôi cũng giao với thầy hai điều: thứ nhứt là ngày tôi đến coi
con bà Phủ, bề nào cũng phải làm bộ đi coi rồi mới cưới chớ phải không?
- Phải.
- À, điều thứ nhứt là ngày tôi đến coi và ngày tôi đi cưới,
cô ấy thấy mặt tôi không được phép khóc; điều thứ hai thầy phải nói thiệt cho
tôi biết rõ tâm-sự của thầy và cô nọ mới đặng.
Trường-Xuân ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng:
- Thầy buộc điều thứ nhứt không hại gì, có lẽ tôi dặn cô hai
đừng khóc được. Còn điều thứ nhì thì ngặt quá, bởi vì việc riêng của tôi mà tỏ
thiệt cho thầy nghe thì kỳ lắm.
- Thầy dụ-dự thì đủ cho tôi biết thầy tính việc nầy ý thầy vụng
lắm. Tôi xin hỏi thầy một lời nầy: thầy có tư tình với con bà Phủ, nay cô nọ lỡ
có nghén rồi, thầy cậy tôi làm bộ đi cưới chi vậy? Có phải là thầy muốn thiên hạ
đừng biết việc quấy của thầy với cô nọ, thầy muốn cho họ tưởng là cô nọ còn tử-tế
luôn luôn, nên tôi đi nói mà cưới, chừng đẻ thì đặt chuyện nói cô đẻ thiếu
tháng, đặng giữ-gìn danh-giá của cô nọ cho tròn, phải vậy hay không?
- Phải. Tôi tính cậy thầy đi cưới là có ý muốn cho thiên-hạ đừng
nghi việc chi hết.
- Á! Nếu muốn cho thiên-hạ đừng nghi thì tuy bề trong tôi giả
đi cưới mặc dầu, mà bề ngoài tôi phải làm như chồng thiệt của cô, thì người ta
mới tin, chớ muốn che miệng thiên-hạ, mà cử-chỉ của tôi ai dòm vô cũng đều biết
giả hết thảy, thì sự xấu của cô nọ càng lộ cho người ta thấy nhiều hơn nữa, còn
tôi làm ơn không ích lợi chi mà cũng bị mang xấu chung với thầy và cô nọ. Bây
giờ muốn cho tôi cư xử giống như chồng thiệt của cô nọ đặng cho người ngoài khỏi
nghi thì tự nhiên phải tỏ cho tôi biết rõ nguồn cơn mới được chớ; nếu thầy giấu
với tôi nữa, tôi không hiểu chi hết, thì tôi biết sao mà giúp cho hết lòng đặng.
Tế-Thế nghe Kỳ-Tâm nói thì gật đầu khen phải và nói rằng:
- Thầy nói nghe phải quá, ảnh rối trí nên tính không được kỹ.
Tuy đối với bà con mình thì làm giả, mà đối với thiên-hạ thì phải làm như thiệt
vậy mới được chớ. Anh cứ nói thiệt hết cho thầy hiểu, đặng thầy giúp hết lòng
dùm cho, thầy đã chịu giúp cho anh rồi, mà thầy còn cười anh hay sao mà anh sợ.
- Trường-Xuân thấy vậy mới nói rằng:
- Thôi, thầy muốn hỏi điều chi thầy hỏi đi.
Kỳ-Tâm vấn thuốc hút rồi hỏi rằng:
- Tôi thiệt hết tình với thầy. Xin thầy cũng ở thiệt với tôi,
thì việc mới xong đặng. Thầy có bà con với cô nọ hay không?
- Bà con.
- Bà con xa hay là gần?
- Bà Phủ đó là dì ruột của tôi.
- Ờ, tại bà con gần quá, thầy với cô nọ lân-la với nhau thường
nên mới gây cuộc gió trăng được phải không? Mà hai người tư tình với nhau đây tại
thầy hay tại cô nọ gây trước?
- Thầy hỏi tới việc đó thì kỳ quá. Thầy làm như tra án vậy
sao đặng.
- Tôi đã giao với thầy phải nói thiệt hết cho tôi nghe. Thầy
không muốn nói, thầy lại biểu tôi hỏi thì phải hỏi chớ. Thầy lấy bà con có chửa
rồi thầy sợ xấu, thầy cậy tôi nôm dùm, mà thầy còn muốn giấu với tôi nữa thì
thôi, thầy kiếm ai thầy kiếm, tôi không thèm giúp cho thầy đâu.
Trường-Xuân giận đỏ mặt, mà sợ chống cự thì bại sự, nên dằn
lòng mà nói rằng:
- Thôi thầy đừng phiền, thầy muốn hỏi thì hỏi đi. Việc nầy tại
tôi gây ra bởi vì cô nọ còn nhỏ dại, nghe lời tôi dụ-dỗ, nên mới hư như vậy.
- Phải. Dầu thầy không nói tôi cũng biết tại thầy. Mà bây giờ
việc đổ bể rồi, vậy chớ tình thầy với cô nọ còn yêu mến nhau như xưa, hay là
hai người biết lỗi, quyết ăn-năn chừa cải, không còn dám tính việc quấy nữa?
- Tôi với cô nọ đều là bọn đa tình. Cái khối tình của hai đứa
tôi dầu xuống dạ-đài cũng chưa tan được. Chúng tôi đã nguyện đồng sanh đồng tử
với nhau, dầu kiếp nầy chẳng đặng vầy duyên thì kiếp sau ắt tái sanh đặng
sum-hiệp.
- Thầy nói tiếng “đa tình” đó, tôi e không đặng nhằm nghĩa
cho lắm. Có lẽ là “đa tình dục” thì phải, bởi vì nếu thầy với cô nọ thiệt là
khách “đa tình” thì dầu lửa lòng có lừng lẫy cho lắm đi nữa cũng không đến nỗi
làm quấy như vậy; mà ví như có lầm lỡ đi rồi, thì phải vì tình mà chết với tình
mới phải, chớ có đâu yêu nhau mà lại làm nhục cho nhau, mà gọi rằng “đa tình?”
- Hai đứa tôi yêu nhau, lửa lòng lừng lẫy dằn không được thì
là “đa tình” chớ gì. Vậy chớ theo thầy thì thế nào mới gọi là “đa tình?”
- Không lẽ tôi đây dám dạy thầy, nhưng mà theo ý tôi thì
khác, “đa tình” chẳng hề làm như thầy với cô nọ đâu.
- Vậy chớ làm sao?
- Người mà nuôi cái tình cao-thượng, hễ gặp người tâm-đầu
ý-hiệp, đồng khí đồng tình, thấy mặt mà bâng-khuâng, vắng tin sầu não, thì tự
nhiên phải lo liệu đặng trăm năm kết tóc, cá nước phỉ nguyền. Ví như vì căn
duyên trắc trở, hay là vì danh nghĩa buộc ràng, phải ôm lòng sầu, kẻ than bên bắc,
người khóc bên nam, nếu phải chết thì chết cũng vui, thà chết mà tình được cao,
hơn là sống mà tình thêm khổ. Chớ xưng là khách “đa tình” mà gặp ai yêu nấy,
nay tương-tư người nầy, mai thề thốt với người khác, không kể gì là danh, không
biết đâu là nghĩa, miễn phỉ cái tình dục của mình cho được thì thôi, những người
nuôi cái tình thấp-thỏi như vậy không được phép xưng là khách “đa tình” đặng.
Trường-Xuân nghe Kỳ-Tâm luận chữ tình dông dài không hiểu chi
hết, ý muốn tính phứt việc của mình cho rồi, nên tay gãi cổ, miệng nói rằng:
- Thôi, việc đời không hơi nào mà luận, để sau rảnh-rang rồi
mình sẽ cãi nhau chơi. Bây giờ thầy chịu cưới con em tôi, vậy thì phải tính với
nhau coi chừng nào đi nói, rồi bữa nào cưới.
- Khoan. Để cho tôi hỏi thêm ít lời nữa. Thầy nói thầy với cô
nọ còn đương yêu nhau lắm phải không?
- Ừ.
- Nếu vậy thì dầu tôi cưới rồi, thì thầy cũng cứ qua lại hoài
hay sao?
- Chớ sao.
- Việc ấy tại ý thầy, không can-hệ đến tôi. Nhưng mà tôi nghĩ
nếu tôi xưng với thiên-hạ rằng tôi là chồng cô nọ, mà thầy còn làm như vậy hoài
thì tôi bắt-buộc rầy-rà mới phải, chớ lặng thinh thì thiên-hạ cười chê tôi chịu
sao đặng.
- Dầu tôi có qua lại thì cũng núp lén, chớ dám để cho ai biết
mà thầy ngại.
- Quân ăn trộm rình mò ban đêm mà người ta còn hay thay, huống
chi gian-dâm làm sao mà giấu người ta cho đặng.
- Việc ấy thầy để tôi lo. Nếu tôi dại tôi để dấy lậu ra thì
tôi mang xấu, không can chi đến thầy mà sợ.
- Ủa! Tôi là chồng cô nọ, tôi cũng mang xấu vậy chớ. Thôi,
tôi giao với thầy như vầy; thầy làm sao tự ý thầy, mà hễ thầy sơ thất để chúng
hay thì tôi đi, chớ tôi không ở nữa đa.
- Được, thầy giao như vậy được lắm. Thầy còn giao điều nào nữa
hay là thôi?
- Hết rồi. Xin thầy cho tôi hỏi lại cho chắc một điều nầy:
tôi phải hết lòng mà gạt thiên-hạ đặng cho họ đừng nghi phải không?
- Phải.
- Vậy thì xin thầy định coi ngày nào tôi đi nói rồi ngày nào
cưới. Tôi xin tỏ trước cho thầy rằng tôi không có cha mẹ bà con nào hết, bởi vậy
cưới hỏi gì cũng một mình tôi mà thôi, chớ không ai đi họ.
- Không hại gì, tôi cậy người ta đi dùm cho cũng đặng.
Tế-Thế nãy giờ ngồi nghe hai đàng tính với nhau, không thèm
nói chi hết, đến chừng thấy bàn tới việc cưới hỏi mới xen vô mà nói rằng :
- Bây giờ phải cậy người làm mai-dong đặng dắt đến nhà làm bộ
coi rồi mới nói mà cưới chớ?
Trường-Xuân đáp rằng:
- Bây giờ biết ai đâu mà cậy làm mai … Thôi, em chịu phiền
làm mai-dong dùm chút nhé.
Tế-Thế gật đầu nói:
- Làm thì làm. Nầy, mà thầy đây không có áo quần mới, vậy anh
phải đưa liền cho thầy, đặt một cái khăn đen, may một cặp áo lót, một cái quần
nhiễu, mua một đôi giầy mới, và ít bộ đồ mát, chớ đi nói con bà Phủ mà
y-phục lang-thang thì coi sao đặng.
Trường-Xuân gặt đầu nói rằng:
- Phải. Phải lắm, việc đó để rồi qua liệu, em đừng lo.
Đồng hồ gõ 2 giờ. Tế-Thế lật đật thay áo đặng đi dạy học, Trường-Xuân
thấy Tế-Thế vô buồng liền chạy theo, rồi vỗ vai và cười mà nói rằng:
- Nầy em, may quá há? Thằng cha coi bộ kỳ-cục, mà văn nói
nghe thông. Qua tưởng phải tốn đến năm bảy ngàn, nên qua đã ăn cắp tiền giấu sẵn
rồi, té ra nó nói như vậy thì mình khỏi tốn hao gì hết.
Tế-Thế làm mặt nghiêm chỉnh mà đáp rằng:
- Có nhờ tôi đánh đạo lắm, nên thầy mới chịu đó. Việc nầy hễ
xong rồi anh đừng quên ơn tôi đa.
Trường-Xuân cười mà đáp rằng:
- Em lo-lắng dùm cho qua, làm sao mà qua dám quên ơn.
Trường-Xuân liền mở bớp-phơi lấy ra một xấp giấy bạc đưa cho
Tế-Thế và nói rằng:
- Nầy, em lấy tiền nầy rồi làm ơn mua sắm áo quần, giầy vớ
dùm cho thầy ấy nhé.
- Anh đưa bao nhiêu đây?
- Năm chục.
- Trời ơi! Năm chục mà mua sao cho đủ. Một cặp áo lót bây giờ
hết hai mươi lăm ba chục đồng rồi.
- Vậy chớ phải đưa bao nhiêu mới đủ?
- Tại ý anh chớ ai biết đâu mà nói. Song tôi nghĩ người ta
không thèm đòi tiền thì mình phải sắm áo quần coi cho được. Chớ người ta tử-tế
mà mình bỏn sẻn thì kỳ quá.
Trường-Xuân nghe nói như vậy mới lấy thêm 50 nữa mà đưa cho Tế-Thế.
Rồi hai người dắt nhau đi ra ngoài trước, bàn tính với Kỳ-Tâm, để Trường-Xuân
ghé nhà nói trước cho bà Phủ hay, rồi bữa nào, áo quần may xong rồi, thì Tế-Thế
dắt Kỳ-Tâm đến coi mắt cô hai Tuyết. Hễ đi coi xong rồi thì định ngày cưới liền,
đặng trong một tháng cho rồi, Trường-Xuân lại hứa rằng anh ta sẽ qua thường thường
đặng mà sắp đặt mọi việc cho an bài.
Tế-Thế đặt may áo quần và mua khăn, giầy hết 60 đồng. Chừng
các việc xong rồi anh ta vô nhà bà Phủ mà xin cho Kỳ-Tâm đến coi. Bởi Trường-Xuân
đã có nói trước rồi, nên bà Phủ niềm-nỡ, định qua ngày sau cho Kỳ-Tâm đến nhà.
Đêm ấy bà Phủ nói cho Yến-Tuyết biết trước rằng ngày mai sẽ có chồng đến coi và
dặn phải ăn mặc cho gọn ghẽ, nhứt là đừng có khóc lóc, bởi vì Kỳ-Tâm giao điều ấy
gắt lắm. Yến-Tuyết nghe nói chồng đi coi thì hổ-thẹn nên ngồi khóc hoài. Bà Phủ
dứt bẩn lắm, cô ta sợ mẹ buồn, nên cực chẳng đã phải vưng lời, bởi vậy qua ngày
sau Tế-Thế dắt Kỳ-Tâm vô coi thì Yến-Tuyết bước ra chào hỏi như thường, chẳng
khóc mà cũng chẳng buồn chi hết. Kỳ-Tâm ăn mặc đàng-hoàng ngồi coi nghiêm chỉnh
lắm, cứ ngó bà Phủ rồi chúm-chím cười hoài; đến nỗi Yến-Tuyết ra chào anh ta
cũng không thèm liếc mắt.
Bà Phủ ngồi nói chuyện với Tế-Thế một hồi rồi hỏi Kỳ-Tâm rằng:
- Tôi nghe thầy giáo nói thầy mồ-côi thì tôi thương quá, vậy
bây giờ thầy làm việc ở đâu?
- Thưa, tôi làm bên Mỹ.
- Thầy làm việc mà khá hay không?
- Thưa, làm đủ ăn vậy thôi, chớ có đâu mà khá đặng.
- Ờ, đời nầy vật gì cũng mắc hết thảy, mấy thầy làm việc lãnh
lương bị tiền nhà, tiền chợ rút hết. Tôi coi bây giờ buôn bán hoặc là làm ruộng
có lẽ khá hơn.
- Dạ, tôi cũng biết như vậy, ngặt vì buôn bán phải có vốn,
làm ruộng phải có đất, phận tôi nghèo-nàn côi-cút, vốn không có, mà ruộng cũng
không, bởi vậy tôi mới ra cầm cây viết kiếm ăn, chớ có phải tôi ham làm việc đó
đâu.
- Chẳng giấu thầy làm gì. Tôi có một chút con gái tôi cưng nó
lắm. Tôi thấy mấy người có học thì tôi thương, ngặt mấy ổng hễ có chữ trong
mình thì cứ làm thầy thông thầy ký, rồi nay xách đi xứ nầy, mai dời đi xứ khác
hoài, nếu gả con cho mấy ổng thì hơi nào mà thăm con. Bởi tôi sợ như vậy nên
tôi mới tính bắt rể, đặng vợ chồng nó ở hủ-hỉ với tôi cho vui.
Kỳ-Tâm nghe nói thì cười mà không trả lời. Tế-Thế mới tiếp mà
nói rằng:
- Thưa bà, bà tính như vậy thì phải lắm chớ, Bà có một mình
cô hai, mà ruộng vườn có, còn thiếu vật gì nữa đâu. Nếu bà gả cô hai cho nhà
giàu thì tự nhiên cô phải theo chồng. Chi bằng bà kiếm người côi-cúc mà gả đặng
họ ở đây trước là nuôi-dưỡng bà trong cơn ấm lạnh, sau nữa họ coi vườn coi ruộng
cho bà khỏi nhọc lòng.
Bà Phủ nghe Tế-Thế mở hơi bà thích lắm. Tế-Thế với Kỳ-Tâm ngồi
chơi hơn một giờ rồi mới từ giã mà về. Chiều bữa ấy Trường-Xuân qua rồi dắt Tế-Thế
trở vô nhà bà Phủ mà định ngày cưới, Tế-Thế chịu lãnh cậy bốn Thầy-giáo đi họ
dùm, còn mâm trầu thì để cho đàng gái xây, chàng rể với họ đi tới hiệp tại nhà
bà Phủ rồi chiều đãi tiệc chớ không rước dâu.
Các việc sắp đặt xong rồi, chừng về dọc đường Tế-Thế mới nói
với Trường-Xuân rằng:
- Nầy anh, anh phải đưa vài ba trăm đồng bạc đặng tôi lo đám
cưới mới được chớ. Tuy là họ đàng trai mình khỏi đãi ăn, hễ gom lại nhà tôi rồi
đi luôn vô nhà bà Phủ, nhưng mà tôi phải lo mướn xe cộ đi rước người ta, chừng
về nhà cũng phải sắm rượu trà mà đãi người ta chớ, lẽ nào để họ ngồi nói chuyện
dã hay sao.
Trường-Xuân tuy biết Tế-Thế muốn kiếm chuyện mà đòi tiền, bởi
vì rước họ chừng năm bảy cái xe, về đãi chừng hai ba ve rượu mà tốn hao gì tới
vài ba trăm, song nghĩ lúc nầy mình đang cần anh ta giúp dùm đặng xong việc, nếu
mình bỏn-sẻn sợ anh ta giận bỏ xuội rồi bại hoại việc lớn đi, nên mở bớp-phơi lấy
200 đồng bạc đưa cho Tế-Thế, chớ không dám cãi lẽ nữa.
Sáng bữa sau bà Phủ đương ngồi mà tính coi đám cưới phải mời
ai, phải đặt cỗ Quảng-đông hay là nấu đồ Việt-nam mà đãi, phải may thêm cho con
áo gì quần gì, có nên sắm mùng mền hay không, bỗng thấy ba cái xe kéo ngừng
ngay trước nhà, rồi cô ba Hương bước vô, lại có dắt theo một người đàn-bà chừng
45 tuổi, tuy ăn mặc tầm thường, mà bộ-tịch phong lưu lắm, với một người trạc chừng
22, 23 tuổi, mặt mầy trắng trẻo, đi đứng khoan-thai, y-phục đoan-trang, nón trắng,
giầy vàng, quần tích-so, áo nỉ xám. Bà Phủ bước ra chào hỏi rồi mời hết vô nhà.
Cô ba Hương hỏi thăm lăng-xăng, người đàn bà đi theo đó thì
ngồi ăn trầu không nói chi hết, còn thầy nọ thì chăm-bẳm ngó bà Phủ, lâu lâu lại
liếc ngó vào cửa buồng một cái. Bà Phủ hỏi cô ba Hương rằng:
- Cô đây cũng ở trên Sài Gòn hay là ở đâu?
- Chị Hội-đồng đây ở trên Chợ Lớn.
- Cô xuống dưới nầy chơi hay là đi có việc chi?
- Người đàn-bà ấy nghe bà Phủ hỏi như vậy thì đáp rằng:
- Bẩm bà, thuở nay tôi không biết Tân-An. Cô ba cô rủ đi
chơi, tôi nhơn lúc nầy rảnh-rang, lại có thằng nhỏ tôi đi học ngoài Hà-nội, có
bịnh nó xin phép về một tháng, nên tôi dắt nó đi xuống dưới nầy một lần cho biết.
Chợ Tân-An buồn quá! Buôn bán coi cũng lôi thôi.
Cô ba Hương đứng dậy quào bà Phủ rồi bước vô cửa buồng. Bà Phủ
hội ý đi theo. Hai người ra đứng tại cửa sau rồi cô ba Hương mới nói nhỏ với bà
Phủ rằng:
- Nầy chị, cô đó là vợ Hội-đồng Bạch ở trên Chợ Lớn. Còn thầy
đó là con đầu lòng của cô đa. Thầy học trường Cao-đẳng Sư-phạm ngoài Hà-nội,
còn có một năm nữa thì thi lấy bằng-cấp đi làm Đốc-học. Thầy Hội-đồng có bà con
với tôi, nhà giàu có lớn, mà có phước nên sanh con học giỏi nữa. Tôi thấy thầy
em đó nhu-mì, mà lại bộ xứng với con hai ở đây quá, nên tôi lãnh làm mai, tôi dắt
xuống đây đặng coi nó đó đa. Vậy chị biểu con hai nó sửa-soạn rồi ra chào người
ta đặng cho họ thấy nó một chút. Con hai đi đâu mà nãy giờ tôi không thấy nó vậy
chị?
Bà Phủ đáp rằng:
- Nó ể mình nên nằm trong buồng.
Cô ba Hương biểu kêu nó dậy thay áo quần, mau đi ra chào
khách đặng người ta đi về cho kịp xe. Bà Phủ đứng ngơ-ngẩn không biết sao mà
nói được. Cô ba Hương thấy như vậy lại đốc thêm rằng:
- Chị đừng có lo mà. Hễ cho thầy coi mắt một chút rồi về tôi
đốc riết thầy thì thầy chịu, chớ không khó gì đâu.
Bà Phủ đứng dụ-dự một hồi rồi coi bộ suy nghĩ lung lắm. Cô ba
Hương thúc riết bà mới nói rằng:
- Cho coi không được đâu cô à!
- Sao vậy?
- Tôi đã hứa gả nó rồi.
- Gả cho ai ở đâu? Sao tôi không hay?
- Tôi gả nó cho một thầy thông làm việc bên Mỹ.
- Con của ai ở đâu vậy?
- Con của một ông Cả ở dưới Rạch-Giá.
- Thầy đó làm việc gì?
- Làm việc Tòa.
- Hứ, bất nhơn dữ không! Chị gả hồi nào đó vậy?
- Từ xưa đến rày; còn ít ngày nữa cưới đa.
- Sao hôm gần Tết, chi đi Sài Gòn ghé thăm tôi, tôi không
nghe chị nói?
- Ờ, lúc đó chưa gả. Ăn Tết rồi tôi mới gả.
- Chị báo hại, làm tôi đi thất công!
- Cô có lòng thương cháu, thiệt tôi cám ơn quá. Ngặt tôi gả rồi,
biết liệu sao được bây giờ.
Cô ba Hương đứng ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi rằng:
- Chỗ nầy người ta đã giàu mà lại học giỏi. Chị không chịu,
thiệt là uổng lắm. Hễ chị gả thì chừng một năm nữa con hai nó được làm bà Đốc,
sang trọng biết chừng nào. Nầy chị, không biết chị kiếm thế hồi chỗ đó đặng gả
chỗ nầy được hay không chị? Mình nói con nhỏ nó chê xa nên không ưng, họ đi của
bao nhiêu mình trả đủ lại cho họ, có hại chi đâu mà họ rầy. Mà con mình nó
không chịu, ai ép nó cho đặng. Phải đa chị. Tính coi xong lắm. Chị coi thằng nhỏ
nầy tướng-mạo coi được quá phải không?
Bà Phủ đứng suy nghĩ hoài. Cách một hồi bà lắc đầu thở ra mà
đáp rằng:
- Không được đâu cô. Tôi hứa gả đã định ngày cưới rồi, bây giờ
hồi sao được. Thiệt tôi cũng tiếc lắm. Mà trời khiến thầy nầy không có duyên nợ
với con hai tôi, nên thầy mới đến trễ, vậy thì mình không nên cãi trời.
Cô ba Hương làm mặt buồn rồi bỏ đi ra nhà trước. Cô ngồi nói
chuyện lơ-là với bà Phủ chừng nửa giờ đồng hồ rồi từ giã dắt cô Hội-đồng Bạch với
thầy nọ lên xe mà về. Bà Phủ đưa khách ra khỏi cửa rồi trở vô nằm dàu-dàu,
trong trí thầm nghĩ nếu con mình nó đừng có hư, thì mình gả chỗ nầy xứng đáng
biết chừng nào.
Người ta đã giàu, mà con người ta ăn học đã gần thành thân rồi,
sui đã xứng sui, mà rể lại đáng rể, nghĩ thiệt tức biết chừng nào. Đã biết bây
giờ mình biểu đàng kia lui hết thì không khó gì, ngặt con mình nó như vậy mình
đâu dám gả chỗ nầy. Ứ hự! Không biết tại sao mà vô phước lắm vậy!
Định ngày cưới rồi, thì Trường-Xuân cứ nói gạt vợ rằng đi viếng
các làng đặng cậy Hương-chức tới ngày tuyển cử họ bỏ thăm cử mình, rồi lén qua
Tân-An hoài. Lần nào qua cũng ghé nhà bà Phủ, có ý muốn giáp mặt Yến-Tuyết đặng
dặn-dò ít lời, mà Yến-Tuyết hễ thấy Trường-Xuân thì rút vô buồng, không chịu
cho Trường-Xuân thấy mặt.
Bà Phủ biểu Trường-Xuân phải rao trong nhựt-trình đặng cho Lục-Châu
hay sự bà gả con lấy chồng, làm như vậy cho rỡ ràng, lại sau khỏi người ta dị-nghị.
Trường-Xuân vưng lời ghé cậy Tế-Thế làm dùm việc đó và cậy viết luôn một bài
đích-cua đặng bữa tiệc đám cưới mà đọc nữa. Tế-Thế đòi thêm 50 đồng. Trường-Xuân
đưa liền, không dám cãi.
Còn chừng một tuần nữa tới ngày cưới, thì thấy ba tờ nhựt-báo
ở Sài Gòn có đăng hỉ-tin như vầy:
“Bổn-quán mới tiếp được hồng-thiệp báo tin rằng thầy Lý-kỳ-Tâm,
Thông-ngôn tại Mỹ-tho, là trưởng-tử của ông Lý-kỳ-Thành, nguyên Hương-cả ở Rạch-giá,
sẽ kết duyên cùng cô Phan-yến-Tuyết là ái-nữ của bà Phủ Phan-hữu-Tiền ở Tân-An.
“Ngày hiệp cẩn định là ngày 31 Avril 192..
“Bổn-quán cầu chúc cho Lý-Phan hai họ hảo-hiệp trăm năm, cầm-sắt
hòa hai, miêng miêng qua điệp.”
Bà Phủ mượn Trường-Xuân gởi thiệp mời bà con xa gần cùng những
người quen hết thảy. Bà lại dọn-dẹp nhà cửa đàng-hoàng, mượn thêm ghế bàn đặng
có chỗ hai họ ngồi cho đủ.
Kỳ-Tâm thấy nhựt-trình báo tin đám cưới thì trong bụng lo thầm,
sợ chủ nợ hay mình cưới con gái bà Phủ áp lại đòi tiền thì biết lấy chi mà trả.
Xưa nay mình nghèo nên họ chửi mắng mà trừ, chớ ngày nay mình cưới vợ giàu sang
chi cho khỏi họ đòi, nếu mình không trả chắc họ làm nhục mình, mà hễ mình bị nhục
thì mẹ con bà Phủ cũng không tốt gì đó. Kỳ-Tâm tỏ việc cho Tế-Thế nghe. Tế-Thế
chạy vô nói lại với bà Phủ thì bà Phủ buồn thầm, song việc đã đến nước nầy bà
không còn dụ-dự nữa được, nên bà nói rằng: “Không hại gì, nếu họ không nghĩ họ
đến đây họ đòi thì tôi ra tiền mà trả cho họ, không sao đâu mà sợ. Tuy vậy xin
thầy giáo làm ơn nói với thầy, nợ chừng năm bảy trăm thì tôi trả được, chớ nhiều
quá tôi lo không kham”.
Tế-Thế về nói lại với Kỳ-Tâm thì Kỳ-Tâm cười mà nói rằng:
“Trong ý bà Phủ tưởng tôi bày chuyện mà giựt tiền của bà hay sao? Nếu tôi có
như vậy thì hôm nọ tôi đòi đôi ba ngàn, cần gì mà phải mưu sự cho nhọc trí. Xin
anh nói dùm lại cho bà biết rằng tôi lo trước đó là lo giữ dùm danh-giá cho bà,
chớ phận tôi thì tôi không cần gì đâu. Như họ có đòi nợ, bà không trả cũng được,
còn nếu bà có trả thì bà giữ giấy tờ đặng sau bà đòi lại tôi, không thiệt hại
gì bà đó mà bà lo.”
CHƯƠNG 8 -
B
ữa cưới, Kỳ-Tâm mặc áo rộng, bưng quả, ngồi xe đi với Tế-Thế
và bốn thầy giáo mà vô nhà bà Phủ. Trong nhà bà Phủ chưng dọn rực-hỡ, khách khứa
đông giầy-giầy, có thầy Cai-tổng Tường và vợ chồng Trường-Xuân đủ mặt. Kỳ-Tâm
làm lễ từ đường và lạy mẹ vợ cùng bà con thân tộc rồi mới ra áo rộng mà đãi
khách.
Mấy năm nay Kỳ-Tâm nghèo nàn không thèm sửa-soạn y-phục, nên
coi lam-lũ không bằng ai. Nay mặc áo lót, đi giầy mới, bịt khăn đen, bận quần
nhiễu, bộ tướng khôi ngô, mặt mầy sáng rỡ, coi thiệt là đẹp trai lắm, bởi vậy
bà con họ hàng ai thấy cũng khen thầm. Trường-Xuân thấy khách uống rượu khai vị
rồi, hối dọn bàn mà đặt tiệc. Khách ngồi dự tiệc kể hơn 30 người, Trường-Xuân với
Kỳ-Tâm cũng ngồi chung với khách.
Mãn tiệc rồi, chừng uống rượu sam-banh Tế-Thế mới đứng dậy đọc
một bài đích-cua (#1) như vầy:
“Các ông,
“Tôi là người tài sơ học siển lại chưa từng quen đứng nói
chuyện giữa tiệc đông người, lẽ thì tôi phải ngậm miệng ngồi nghe, chớ không
nên đến cửa lỗ bang mà múa búa. Nhưng mà hôm nay chúng ta đến dự tiệc nầy là tiệc
bày ra đăng vui mừng cuộc thành hôn của Lý-Phan hai họ, lại tôi với tân-lang là
thầy thông Kỳ-Tâm đây, vốn là bạn đồng song, vậy tôi xin các ông vui lòng cho
phép tôi thỏ thẻ mà tỏ đôi lời, trước là chung vui cùng bà lớn, sau nữa chúc mừng
cho đôi bạn mới.
“Dạ thưa, sách có câu rằng: “Minh-quân lương-tể tao phùng dị,
tài-tử giai-nhân tế ngộ nan”. Cô hai là con bà lớn đây, sắc tài tột chúng, mà lại
công dung ngôn hạnh vẹn toàn, lúc cô còn ấu-thơ đi học thì thầy bạn thảy đều
yêu, mấy năm nay cô về ở nhà thì ngày đêm lo nuôi dưỡng mẹ già, hôm sớm cứ bạn
bè cùng kim chỉ. Cô có sắc mà lại có tài, có đức lại có hạnh, có nhơn mà lại có
hiếu, người dường ấy há chẳng phải là giai-nhân hay sao?
“Còn thầy tân-lang, tuy lúc thầy học gần tốt-nghiệp, rủi
gia-đình tao biến, khiến cho thầy trắc trở bước thang mây, nhưng mà thầy là người
độ lượng lớn, chí khí cao, bởi vậy giữa phong ba thầy bền chí vững lòng, tánh
đinh sắt càng trui nướng càng thêm cứng chắc, người dường ấy há chẳng phải là bực
tài-tử hay sao?
“Cổ nhơn đã nói: “Tài-tử gai-nhân tế ngộ nan” hôm nay thầy
thông là tài-tử, cô hai là giai-nhơn, mà bà Nguyệt lại se dây, ông Tơ lại xô bước,
khiến cho nam bắc vầy-đoàn, phụng-loan kết cánh, ấy là một dịp rất may-mắn cho
Lý-Phan hai họ biết chừng nào. Vậy xin các ông cho phép tôi thay mặt lương bằng
quí tộc hai bên mà cầu chúc cho vợ chồng mới trăm năm đầm-ấm gia-đình, rồi trổ
sanh những con rồng cháu phụng”.
Tế-Thế đọc dứt lời thì cả tiệc đều vỗ tay lốp-bốp. Bà Phủ ngồi
cỗ với khách đàn-bà bên bộ ván ngang đó, nghe bài đích-cua của Tế-Thế thì bà mừng
hết sức, mà chừng thấy khách vỗ tay khen ngợi bà lại càng phơi phới trong lòng,
nên bà đã không biết hổ thầm, mà lại còn cười ngỏn-ngoẻn nữa. Ai nấy đều ngó
chàng rể, có ý trông trả lời đặng coi tướng- mạo như vậy mà văn nói thể nào. Kỳ-Tâm
nghe Tế-Thế khen ngợi Yến-Tuyết thì trong bụng tức cười thầm, nghĩ vì nhơn tình
ấm lạnh vô thường, người giàu sang dầu có hư cho mấy đi nữa thiên-hạ cũng khen,
còn người nghèo hèn dầu khôn khéo cho mấy đi nữa thiên-hạ cũng chê là dại. Ban
đầu anh ta khinh-bỉ Tế-Thế là đồ dua bợ, nhưng mà anh ta nghĩ lại rằng mình đã
hứa lỡ lãnh làm giả dối với người ta, chớ làm trái sao được. Thuở nay mình giữ
lòng thanh bạch thì giữ luôn đi, ai biểu chịu làm giả dối mà bây giờ lại dục-dặc.
Mà bây giờ trả lời mình phải nói thế nào? Thuở nay mình biết thiên-hạ bậy-bạ
nên mình xa lánh thế tục thì phải quá, sao lại nhảy vô vòng làm gì cho khó dễ
như vầy, Kỳ-Tâm ngồi ngẫm nghĩ muốn nín luôn, ngặt khách dự tiệc họ ngó quá anh
ta nhột-nhạt nên bất đắc dĩ phải đứng dậy nói như vầy:
“Các ông có lòng huệ cố đến chung vui cùng nhạc-mẫu tôi, mà
các ông lại còn là phái thầy giáo là bạn đồng-song của tôi của tôi đứng thay mặt
cho các ông mà xưng tụng tài chí của tôi nữa, thì tôi lấy làm cảm nghĩa vô
cùng. Lẽ thì tôi phải tỏ ít lời trước là tạ các ông, sau nữa bày tâm-để các ông
trông đợi. Nhưng tôi hổ phận tôi tri ý không hiệp thói đời, mà tài tình cũng chẳng
bằng chúng bạn, dầu tôi có tỏ ra sợ chẳng đáng làm vui cho các ông. Vậy tôi ngửa
xin các ông miễn chấp để tôi khuyên mời các ông uống cạn li rượu nầy mà mừng
cho nhạc-mẫu tôi …..”
Kỳ-Tâm nói tới đó rồi ngập ngừng, ai nấy tưởng là còn nói nữa,
chẳng dè anh ta cúi đầu rồi ngồi xuống nên khách chưng-hửng hết một chút rồi mới
vỗ tay.
Tiệc mãn, khách cáo từ mà về lần lần, đến tối thầy Cai Tường
với vợ chồng Trường-Xuân cũng về. Tôi-tớ trong nhà dọn-dẹp xong rồi hết, chừng
đóng cửa đi ngủ thì bà Phủ kêu con mà nói lớn rằng: “Hai ơi, sao con không dũ
mùng đặng thằng hai nó ngủ? Ngày nay bị khách-khứa nó mệt, dọn-dẹp cho nó nghỉ
cho sớm. Bà Phủ nói như vậy đặng cho tôi tớ trong nhà nghe, song Yến-Tuyết thì
cứ ở trong buồng, còn Kỳ-Tâm thì nằm ngoài ván trước, không ai thấy mặt ai hết.
Cách vài ngày bà Phủ tiếp được một bức thơ của cô ba Hương
nói như vầy:
Sài Gòn, le 1er Avril 192...
“Kính gởi lời thăm chị Phủ và cầu chúc cho cháu được vạn sự
như ý.
“Tôi có tiếp đặng thiệp của chị mời đám cưới cho cháu, nhân
vì tôi bận việc nhà không đến mà chung vui với chị được, thiệt tôi lỗi với chị
nhiều lắm. Vậy xin chị rộng lòng miễn chấp.
“Tôi có hỏi thăm thì người ta nói chị gả cháu cho chỗ đó thuộc
nhà giàu có sang trọng hơn con thầy Hội-đồng Bạch tôi dắt xuống hôm nọ bội phần,
được vậy thì tôi cũng mừng dùm cho chị và tôi cầu chúc con hai có con cho mau đặng
chị có cháu ngoại mà bồng ẵm.
Nay kính thơ
Madame Ba Hương
Bà Phủ được bức thơ của cô ba Hương, bà đọc đi đọc lại hoài,
không biết cô nọ nói như vậy là thiệt tình, hay là cô đã thấu rõ việc riêng của
Yến-Tuyết nên kiếm lời khéo khôn mà bao-biếm. Bà ăn ngủ không được, cứ nằm tính
mưu nầy kế nọ đặng mà bịt miệng thế-gian, bà muốn đi lo cho Kỳ-Tâm vô làm việc
nhà nước đặng cho thiên-hạ khỏi khinh dễ, ngặt hễ Kỳ-Tâm đi làm việc thì phải dắt
vợ theo, còn như có để vợ ở nhà thì lâu lâu nó phải đến thăm một lần, mà Yến-Tuyết
không chịu thấy mặt chồng thì làm sao cho được.
Kỳ-Tâm cưới vợ chừng nửa tháng thì Trường-Xuân đắc cử được
làm Cai-tổng. Anh ta qua thăm bà Phủ trước là báo tin lành cho dì hay, sau nữa
dọ coi Kỳ-Tâm với Yến-Tuyết cư xử với nhau thể nào. Bà Phủ thuật chuyện Yến-Tuyết
không chịu thấy mặt Kỳ-Tâm, ngủ riêng mà ăn cũng riêng, thì Trường-Xuân mừng thầm,
chắc rằng Yến-Tuyết vì thương tưởng mình nên không chịu thất tiết với người
khác. Bà Phủ lại trao bức thơ của cô ba Hương cho Trường-Xuân xem rồi nói rằng:
“Hỗm nay dì được bức thơ ấy thì dì buồn lắm. Dì chắc là cô ba Hương biết việc của
mình nên cô nhạo-báng, vậy cháu phải tính coi có kế chi mà làm cho Kỳ-Tâm có chỗ
ăn chỗ làm đặng họ đừng khinh-bỉ, thì dì mới yên tâm được”.
Trường-Xuân ngồi suy nghĩ một hồi rồi tính với bà Phủ để anh
ta xuất một muôn đồng bạc vốn và kêu anh em hùn thêm một muôn đồng nữa đặng lập
một tiệm mua lúa tại chợ Tân-An rồi để cho Kỳ-Tâm đứng làm Tổng-lý, làm như vậy
bà Phủ khỏi bị người ta chê cười kiếm rể nghèo, còn Kỳ-Tâm khỏi đi xa, mà mắc ở
ngoài tiệm nên không gần gũi Yến-Tuyết đặng. Bà Phủ nghe tính như vậy thì bà lấy
làm vui lòng, nên khuyên Trường-Xuân phải lo tán thành việc ấy cho mau.
Trường-Xuân lâu nay giấu vợ để dành tiền riêng được 5 ngàn đồng,
anh ta đi qua Mỹ-Tho vay thêm 5 ngàn nữa và rủ anh em hùn thêm 10 ngàn cộng là
2 muôn, mới mướn 5 căn phố tại Tân-An mà làm tiệm lúa rồi để cho Kỳ-Tâm đứng
làm Tổng-lý.
Từ ngày Kỳ-Tâm ra coi tiệm lúa thì mắc lo buôn bán nên ít hay
về nhà bà Phủ. Tuy vậy mà hễ bữa nào anh ta về thăm thì làm như chàng rể thiệt,
rầy thằng Quới sao không coi sửa chuồng bồ câu, hỏi chín Hữu sao không lo hái
trầu, anh ta khoát nạt om-sòm, dọn đầu nầy, dẹp chỗ nọ, duy có một điều là
không thèm thấy mặt Yến-Tuyết.
Có một ngày kia, Yến-Tuyết đương ngồi lặt rau dưới nhà bếp. Kỳ-Tâm
thấy thằng Quới đương leo bẻ dừa, anh ta mới lần ra đứng coi. Anh ta liếc thấy
Yến-Tuyết liền day mặt chỗ khác không thèm ngó. Yến-Tuyết thấy anh ta thì hổ-thẹn
nên cũng lật-đật đi lại dựa vách mà núp. Nhà bếp đóng vách ván nên trống trải, ở
trong dòm mấy lỗ thì thấy ở ngoài tỏ rõ lắm. Yến-Tuyết đứng trong lén dòm ra
thì thấy Kỳ-Tâm bộ đứng đàng-hoàng, mặt mầy nghiêm chánh chớ không phải
lau-chau vút-vắt như Trường-Xuân vậy. Cô ta dòm rồi hổ ngươi muốn day mặt chỗ
khác, mà hễ day chỗ khác rồi lại muốn day trở lại dòm nữa, bỡi vậy cô ta núp mà
dòm cho đến chừng Kỳ-Tâm trở vô nhà cô mới thôi.
Đêm ấy cô ta so sánh Kỳ-Tâm với Trường-Xuân, cô ta suy nghĩ Kỳ-Tâm
tuy nghèo mà tướng mạo như vậy thì hơn Trường-Xuân bội phần. Rồi cô ta lại nghĩ
rằng nếu Trường-Xuân là đồ chạ, thì thằng cha nầy cũng chẳng nên thân gì, bởi
vì nếu nó là người biết liêm-sỉ, trọng phẩm-giá lại có lẽ nào nó chịu lãnh vai
tuồng nhơ nhuốc như vầy. Ối! Thứ đàn-ông thời nay kẻ vì danh người vì lợi, họ
có biết danh-giá là gì mà suy nghĩ cho thất công. Nay mình biết tâm tánh của họ
thì đã trễ rồi, nghĩ thiệt tức quá.
Bữa nọ trong nhà có đám kỵ cơm cho quan Phủ. Bà Phủ biểu Kỳ-Tâm
gởi thơ mời Trường-Xuân và dặn mời luôn Tế-Thế nữa. Yến-Tuyết một là vì nghe có
tiếng Trường-Xuân thì giận, hai là vì sợ thấy mặt Kỳ-Tâm thì hổ ngươi, nên rút ở
dưới nhà bếp phụ với chị chín Hữu nấu nướng, không chịu lên nhà trên. Đến chừng
cúng, Trường-Xuân hỏi sao Yến-Tuyết không ra lạy, thì bà Phủ nói rằng: “Con đó
nó có nghén, nó mắc cỡ nên không chịu ra”. Trường-Xuân nói tự nhiên rằng: “Chà!
Mau có dữ há? Nếu vậy thì nội năm nay dì có cháu ngoại rồi”. Kỳ-Tâm thấy Trường-Xuân
nói hẳn-hòi, không bợ-ngợ chút nào hết thì trong bụng ghét lắm, song anh ta đã
nhàm thấy thế tình giả-dối nên ngồi chúm-chím cười, không lộ mòi ghét ra cho ai
biết.
Cúng rồi dọn cỗ trên bàn, Kỳ-Tâm, Trường-Xuân với Tế-Thế ngồi
lại ăn uống. Trường-Xuân uống vài li cỏ-nhác, thì ngà-ngà nói chuyện om-sòm, nhứt
là anh khoe khoang về sự mình mới đắc cử Cai-tổng lắm. Tế-Thế nói hùa theo rằng:
- Tôi nghe anh đắc cử thì tôi không mừng chi hết, bởi vì tôi
đã biết trước có ai mà dành với anh cho đang. Anh đã học giỏi mà lại giàu có
hơn người ta hết, như anh vậy làm Cai-tổng mới xứng đáng, chớ họ lôi-thôi quá
làm tổng làm téo gì.
- Ý tôi muốn làm chức gì nữa kìa, chớ làm Tổng mà sang trọng
bao nhiêu. Ngặt ông gia tôi muốn như vậy, tôi phải chiều theo ông, chớ tôi có
ham làm mà chi đâu.
- Anh được rồi anh nói như vậy, chớ đời nầy có chức nào mà
sang trọng hơn chức Cai-tổng. Mình làm chức Tổng có lương bổng, mà khỏi bị đổi.
Mình lại gần-gũi với dân hơn các ông Quận hết thảy, nghĩ coi có phải là sướng
hay không?
- Chú mầy tưởng tôi ham tiền người ta nên ra tranh chức Tổng
đây hay sao? Tôi làm đặng vị chơi vậy chớ phải tôi cố ăn tiền bạc ai đâu.
- Anh nói vậy mà nếu dân nó đem tiền lo cho anh, anh lấy
không nè?
- Không phải tôi nói tôi giữ thanh liêm, họ đem tiền họ cho,
mình dại gì mà không lấy.
Kỳ-Tâm ngồi lặng thinh mà nghe, trong trí thầm tính không
thèm cãi lẽ chi hết, bởi vì chí hướng của hai người nay không giống mình, nếu
nói cho ra lẽ thì phải mích lòng, chớ không ích gì, bởi ví dầu mình nói phải
cho mấy họ cũng không thèm nghe, song anh ta nghe Trường-Xuân nói nhiều tiếng
trái tai quá, dằn không được, nên buông đũa mà nói rằng:
- Những lời hai anh nghị luận nãy giờ, nếu đem ra mà thuật lại
cho thiên-hạ nghe thì ai cũng đều khen phải. Bởi vì chỗ chủ hướng của người đời
nay đều vậy hết thảy. Thiệt tôi không dám nói, hai anh nói sái, nhưng mà theo ý
riêng của tôi thì ngươi đời nay họ hiểu nghĩa hai tiếng sang trọng lầm không biết
chừng nào. Tôi hỏi thử hai anh vậy chớ sang là gì?
- Được người ta kính trọng thì là sang chớ gì.
- Phải. Nhưng mà muốn cho người ta kính trọng thì phải làm
sao?
- Phải làm quan lớn, phải có tiền nhiều thì người ta kính trọng
chớ sao.
- Tệ lắm! Tệ lắm! Vậy mà thuở nay tôi tưởng người nhân từ đức
hạnh, người có chí lớn trí sâu thì thiên-hạ kính trọng chớ!
Kỳ-Tâm nói tới đó rồi rùn vai lắc đầu không thèm nói nữa.
Cách một hồi anh ta lại hỏi Trường-Xuân rằng:
- Hồi nãy anh nói rằng: “họ đem tiền họ cho, mình dại gì mà
không lấy.” Anh là người giàu lớn, mà anh lại làm chức Cai-tổng, nghĩa là dân mấy
làng trong tổng đều phải ở dưới quyền của anh hết thảy, anh thiếu tiền ăn hay
sao mà họ đem họ cho anh còn lấy nữa? Lại anh hạ mình thò tay mà lấy tiền của kẻ
bề dưới là kẻ ngu dại nghèo hèn hơn anh, vậy anh không hổ hay sao?
- Nói như dượng vậy thì ai thèm làm làng làm tổng. Trời đã biểu
hễ kẻ dại nuôi người khôn, nó có việc đến cầu lạy mình mà dưng tiền thì mình lấy
có hại gì. Nếu mình làm bộ thanh liêm, nó cho người khác ăn cũng vậy.
- Trời ơi! Vậy mà thuở nay tôi tưởng người khôn dạy kẻ dạy,
người trên giúp kẻ dưới nữa chớ!
Kỳ-Tâm chắc lưỡi lắc đầu rồi đứng dậy bỏ đi ra ngoài sân. Yến-Tuyết
nằm trong phòng lóng tai nghe Kỳ-Tâm cãi lẽ với Trường-Xuân thì cô ta tức cười
thầm, tức rằng mình không có thể chạy ra mà phân phải quấy được.
Một ngày khác Trường-Xuân qua thăm dì, tình cờ lại gặp Kỳ-Tâm
ở ngoài tiệm cũng về đó. Bà Phủ nghĩ nhờ Trường-Xuân lo liệu nên việc nhà yên-ổn,
chẳng còn chi cho bà mang tiếng chê cười, lại cũng nhờ Kỳ-Tâm thiệt tình nên
chuyện giả dối mà không ai biết hết, bởi vậy bà thấy có đủ mặt hai người thì bà
vui mừng, bèn hối chín Hữu nấu cơm, sai thằng Quới mua rượu đem về dọn cho hai
người ăn uống, Kỳ-Tâm thì cứ giữ tánh tình nghiêm-nghị, làm cho người ta không
kiêu, buôn bán có lời nhiều mà không ỷ, còn Trường-Xuân mỗi lần qua đều không
thấy được mặt Yến-Tuyết, bởi vậy dàu-dàu, gương mặt coi chẳng được vui. Chừng
hai người ngồi ăn cơm uống rượu nói chuyện với nhau. Trường-Xuân muốn khoe mình
học giỏi, nên nói với Kỳ-Tâm rằng:
- Học-trò đời nay lôi-thôi quá, không chịu cố tâm mà học đặng
thi lấy bằng tốt-nghiệp với người ta, để lo chơi bời hoài, rồi thì đứa học nửa
chừng bỏ ra trường, đứa thì đi thi nhào hỏng chưng hỏng cẳng.
- Anh trách học-trò không lo học thì là phải lắm. Đã biết
trong đám học-sanh có đứa, như tôi đây vì gia-đình tao biến nên phải trở bước
giữa đường, lại cũng có đứa siêng học lung, song bị vận hội chẳng may nên thi
không đậu. Tuy vậy mà phần đông tại ham chơi mà bỏ học, tại không lo nên thi rớt,
bởi vậy lời anh mới trách đó thì đáng, chớ không phải là trách oan. Nhưng mà
anh lại nói sao không ráng học đặng thi lấy cho đặng cái bằng tốt-nghiệp như
người ta, nghe ra dường như người ta học, chủ hướng thi cốt lấy cho đặng cái bằng
tốt-nghiệp, chớ không phải học cốt tu tánh lập thân, nói như vậy tôi e không đặng
chánh đáng cho lắm.
- Tánh dượng nó sao kỳ quá! Tôi nói việc gì cũng cãi lẽ hết
thảy. Đi học thì phải ráng mà lấy cho đặng cái bằng tốt-nghiệp, chớ thứ đồ đi học
cả đời mà không có một tấm giấy lộn thì ai coi ra gì.
- Cái bằng tốt-nghiệp có phù phép làm cho mình sang trọng lắm
hay sao mà anh biểu mỗi người phải có mới được?
- Vậy chớ dượng không biết hay sao? Đời nay muốn vào giúp việc
cho nhà nước, bất luận là sở nào, đều phải có bằng tốt-nghiệp mới được. Nếu học
mà không có bằng tốt-nghiệp thì đi làm việc ngoài bậy bạ, chớ làm việc chi nên
thân.
- Ạ! Bây giờ tôi mới hiểu ý anh. Té ra học là cốt cho có bằng
tốt-nghiệp đặng kiếm ăn. Tôi xin lỗi với anh, để tôi nói việc của tôi cho anh
rõ. Không biết hồi anh đi học chủ-hướng của anh thể nào, chớ phận tôi đây hồi
tôi đi học thì tôi quyết mở trí cho rộng, rèn lòng cho ngay, học tài cho hay, tập
tánh cho cứng, nghĩa là hun đúc cho đủ tài liệu để mà xung đột với đời, nếu may
thi lấy đặng bằng tốt-nghiệp cũng tốt, dầu rủi thi rớt cũng không cần, chớ
không phải tôi đi học mà chủ-hướng thấp thỏi quá như vậy đâu. Trời ơi! Đi học
phải cốt lấy cho đặng bằng tốt-nghiệp đặng làm thầy! Hễ làm thầy thì phải cốt
kiếm cho được một con vợ giàu; như lật-đật quá không chờ chỗ giàu đặng, phải cưới
vợ nghèo, thì phải cốt gạt gẫm trợn-trạc những kẻ quê mùa dốt nát mà lấy tiền đặng
làm giàu cho mau. Mà hễ có tiền nhiều rồi thì phải cốt lên làm ông cho được. Ai
mà trong nhà nhiều tiền, thiên-hạ kêu ông thì mới thiệt là sang trọng. Ứ hự! Chủ-hướng
của người mình hay quá mà xưa nay tôi không biết, cứ lo gìn lòng thanh bạch, tập
chí chánh kiêng nên trong túi không có tiền, đi ra họ khinh dễ hoài, thiệt tôi
làm bậy quá.
Trường-Xuân muốn cãi nữa; song thấy Kỳ-Tâm có sắc giận, sợ
cãi sanh rầy rồi mích lòng, nên anh ta cười gượng mà nói rằng:
- Tánh ý dượng kỳ quá, không giống tánh ai hết.
Yến-Tuyết ngồi trong buồng nghe hết những lời nghị luận của
hai người, làm cho đêm ấy cô nằm suy nghĩ hoài, ngủ không được.
Chú thích:
(1-) (tiếng Pháp) discours
CHƯƠNG 9 -
B
óng quang âm thấm thoát, mới hè lúc trước, mà hôm nay đà đến
tiết Trung-thu. Kỳ-Tâm đứng coi tiệm lúa, đã lanh lợi mà lại siêng năng, mới
làm mấy tháng mà tính phỏng ra thì có lời gần 4 ngàn đồng bạc. Trường-Xuân với
mấy người hùn ai cũng đều khen ngợi, nhưng mà không ai nói tới số tiền lương bổng,
cứ biểu ráng mà làm, hễ có lời thì họ sẽ liệu mà thưởng công.
Bước qua đầu tháng chín, bà Phủ tính Yến-Tuyết đã gần tới
ngày khai hoa rồi. Bà nghĩ chồng cưới cô mới có sáu tháng, nếu cô khai hoa
trong lúc tháng 9 tháng 10, hoặc tháng 11 cũng đều bị người ta dị nghị. Bà mới
lập kế rước thầy thuốc đến coi mạch, trước mặt thầy thuốc thì bà xin hốt thuốc
an thai, mà chừng thầy thuốc về rồi thì bà nói với tôi tớ trong nhà, hoặc với
người lân cận rằng thầy thuốc coi mạch cho Yến-Tuyết nói thai cô nóng lắm, nên
sợ khai hoa gấp trong lúc đầu tháng 10. Thiệt quả cuối tháng 9 thì Yến-Tuyết
lâm bồn, sanh đặng một đứa con trai tóc đen trạy, cân nặng hơn ba kí-lô rưỡi,
mà bà Phủ than trời trách đất, bà nói rằng thằng nhỏ sanh thiếu tháng nên yếu lắm.
Lối xóm ai đến thăm bà cũng nói mẹ con nó ngủ, nên không ai thấy mặt thằng nhỏ
được.
Lúc Yến-Tuyết lâm bồn, thì Kỳ-Tâm mắc đi Chợ-lớn bán lúa,
không có ở nhà. Chừng Kỳ-Tâm về tiệm nghe nói thì lật-đật chạy vô nhà hỏi thăm
lăng-xăng, đặng cho thiên-hạ khỏi nói nhiều chuyện. Bà Phủ thấy anh ta thì làm
bộ mừng rỡ mà nói rằng:
- Nó chuyển bụng có một mình tao ở nhà tao sợ quá. Hôm trước
ông thầy coi mạch nói thiệt là nhằm. Ông nói thai nó yếu, sợ phải đẻ thiếu
tháng, thiệt quả mới có 7 tháng. Thằng nhỏ yếu một chút, mà coi bộ dễ nuôi,
không hại gì. Cha chả! Nó giống mầy tợ như khuôn đúc.
Kỳ-Tâm thấy bà Phủ ngồi nói tự nhiên chẳng chút nào bợ ngợ,
thì tức cười thầm, nên nói giễu lại rằng:
- Tôi không phải thầy thuốc mà tôi cũng biết thế nào vợ tôi
cũng phải đẻ thiếu tháng. Còn con tôi nó giống tôi chỗ nào đó má há?
Kỳ-Tâm thì nói chơi, mà bà Phủ tưởng anh ta nhạo báng nên mắc
cỡ lặng thinh không đáp lại.
Kỳ-Tâm vừa muốn trở ra tiệm thì thấy xe hơi ngừng ngoài cửa rồi
Trường-Xuân bước vô hỏi rằng:
- Nghe nói con hai nó đẻ con trai phải không dì? May quá há?
Bà Phủ gặt đầu chớ không nói chi hết. Trường-Xuân cậy bà Phủ
vào bồng thằng nhỏ ra cho anh ta xem. Kỳ-Tâm thấy có chín Hữu vô ra và có thằng
Quới đương rót nước lấy thuốc lộn-xộn, sợ Trường-Xuân vô ý nói ló mòi tôi tớ
trong nhà nó nghi, nên anh ta cản không cho bồng ra, nói rằng thằng nhỏ yếu lắm,
không nên bồng ra ngoài gió. Trường-Xuân nài-nỉ hoài, túng thế bà Phủ phải vô
mà bồng, chẳng dè vô buồng Yến-Tuyết không chịu cho bồng.
Trường-Xuân ngồi nhim-nhỉm không được vui. Bà Phủ mới hỏi bây
giờ đi khai sanh phải đặt tên gì. Kỳ-Tâm biểu đặt tên Lý-kỳ-Phùng. Trường-Xuân
lại cãi, biểu phải đặt là Lý-trường-Phùng. Kỳ-Tâm giận nên nói rằng:
- Vậy thôi thì anh đặt nó là Lê-trường-Phùng luôn thể, chớ để
họ Lý mà làm gì. Chuyện mình tính giấu mà bây giờ anh muốn làm cho thiên-hạ biết
hay sao?
Trường-Xuân xụ mặt muốn gây với Kỳ-Tâm, bà Phủ thấy vậy mới
nói rằng: - Chuyện không đáng gì mà hai anh em bây cãi lẽ cho thất công. Thôi,
con của nó đẻ, vậy để tao vô hỏi nó coi nó định đặt tên gì tự ý nó.
Bà Phủ vô buồng hỏi Yến-Tuyết thì Yến-Tuyết biểu phải đặt tên
là Lý-kỳ-Phùng. Bà Phủ bước ra nói lại thì Trường-Xuân giận đỏ mặt, cáo từ đi về
liền.
Cách chưa đầy một tháng Trường-Xuân lẽo-đẽo qua nữa. Qua ngồi
hút chưa tàn điếu thuốc lại thấy Kỳ-Tâm ở ngoài tiệm lơn-tơn đi vô.
- Nầy anh, tôi mới làm đặng một việc lợi lớn quá.
Trường-Xuân nhìn thấy Kỳ-Tâm thì không được vui, nên Kỳ-Tâm
nói như vậy mà anh ta không thèm hỏi coi việc gì, lại day qua hỏi bà Phủ rằng:
- Hổm nay con hai nó mướn vú cho thằng nhỏ bú hay nó cho bú?
Bà Phủ đáp rằng:
- Nó cho bú. Có vợ thằng Thiền ở một bên đây, sữa nó tốt quá,
nếu mướn nó nuôi cũng được.
Trường-Xuân hỏi rằng:
- Nếu có vú sẵn như vậy, sao không mướn người ta cho bú? Dì hỏi
mà mướn đi, họ nuôi một năm chừng năm sáu chục đồng, tốn hao bao nhiêu đó mà sợ,
để cho bú cực nhọc chịu sao nổi.
Kỳ-Tâm ngồi nghe Trường-Xuân biểu như vậy mới xen vô mà nói rằng:
- Tôi tưởng đàn bà có con thì cho nó bú tốt hơn là mướn vú.
Trừ ra có bịnh hoạn, sữa không được tốt, thì mướn vú hoặc cho uống sữa bò chẳng
nói làm chi, chớ nếu mình sữa nhiều và tốt thì cần gì phải mướn vú. Trong việc
nuôi con có ai bằng mẹ được. Mình sanh con, cho nó bú, dỗ nó ngủ, bồng nó chơi,
tập nó đi, gần gũi nó luôn luôn, nó mới trìu-mến rồi gây cái tình thân-ái cho ngày
sau, chớ nếu mình ỷ có tiền mướn người nuôi, thì sợ e nó theo tánh tình người
vú, mà không gây đặng cái tình mẫu-tử nữa.
Trường-Xuân nghe Kỳ-Tâm nói như vậy thì giận nên quạu mặt mà
nói rằng:
- Tôi tính việc gì dượng cũng đều ngăn trở hết thảy. Chuyện không
can hệ đến dượng mà dượng cãi chi vậy?
Kỳ-Tâm cười và nói rằng:
- Tôi lấy chánh lý nói nghe chơi đó thôi, chớ ai làm sao thì
làm, can cập gì đến tôi mà tôi cãi.
Kỳ-Tâm nói tới đó, liếc thấy thằng Quới đương lấp ló nơi cửa
buồng, anh ta sợ ló mòi, nên nói tiếp mà nói lớn rằng:
- Tuy nói như vậy, song mướn vú hay là cho bú đều tại ý vợ
tôi, chớ nào phải má tôi hay là tôi mướn mà đặng sao.
Bà Phủ liền nói rằng:
- Ờ, thằng hai nó nói đó phải lắm đa. Thôi, để tao hỏi nó lại
coi nó chịu mướn vú hay không.
Bà đứng dậy đi vô buồng một hồi rồi trở ra nói rằng:
- Con nó nói con nó đẻ thì nó nuôi, nó không chịu ai nuôi hết.
Kỳ-Tâm nghe nói thì chúm-chím cười, còn Trường-Xuân giận cành
hông, giục đứng dậy chắp tay sau đít đi qua đi lại, giầy khua dưới gạch nghe lốp-bốp.
Trường-Xuân ra về bộ coi giận lắm, giận Kỳ-Tâm sao cứ theo
can dự việc của Yến-Tuyết hoài, giận Yến-Tuyết sao mỗi việc đều vừa theo ý Kỳ-Tâm
không chịu nghe lời mình, đặt tên con nói theo Kỳ-Tâm, mà mướn vú cũng làm theo
ý với Kỳ-Tâm, rồi anh ta giận luôn tới bà Phủ, nói sao bà Phủ cưng trọng Kỳ-Tâm,
kêu Kỳ-Tâm bằng “thằng hai” nghe ngọt xớt. Anh ta giận rồi lại nghi rằng “hay
là hai đứa nầy nó gạt mình, nói với mình rằng cưới giả, mà rồi chúng nó làm vợ
chồng thiệt”. Trường-Xuân nghĩ tới đó thì trong bụng hầm hầm, tính thầm rằng nếu
có vậy thì mình đuổi Kỳ-Tâm đi liền, mà trước khi đuổi nó mình phải làm cho nó
khốn hại cho nó biết mình.
Năm ấy lúc gần Tết mỗi ngày lúa lên giá thêm hoài, bởi vậy Kỳ-Tâm
lớp thì mắc đi chịu giá rồi đặt bạc cọc cho điền chủ, lớp mắc đi Chợlớn bán
lúa, công việc dồn-dập không có một giờ nào rảnh, lối rằm tháng giêng, 3 chiếc
chài chở lúa đã lên gần tới Chợlớn rồi, nên anh ta phải đi xe-lửa lên theo mà
cân cho nhà máy. Anh ta mua giấy hạng nhì, xe bên Mỹ-Tho qua vừa mới ngừng, anh
ta lật-đật bước lên xe thì thấy có cô sáu Nhiễu là con gái của ông Phó tổng Tài
ngồi trong xe. Anh ta dụ-dự muốn qua xe khác mà ngồi, song anh ta nghĩ rằng người
ta ở bạc với tình với mình thì người ta hổ ngươi, chớ mình có việc gì mà lánh mặt.
Nghĩ như vậy nên Kỳ-Tâm bước lên xe dở nón mà chào rồi ngồi ngay mặt cô sáu Nhiễu.
Trong cái xe ấy có cô sáu Nhiễu với một ông tóc bạc hoa râm, chớ không có ai nữa
hết mà hai người ngồi cách nhau xa nên Kỳ-Tâm chắc là không quen biết nhau. Anh
ta liếc coi thì thấy cô sáu Nhiễu mặc áo màu thiết quần hàng trắng, tay mặt đeo
một chiếc đồng chạm mắt tre, tay trái đeo một chiếc vàng, hai tay đều quấn hột,
còn cổ thì đeo ba sợi dây chuyền, tuy cách mặt nhau đã bốn, năm năm và cô đã có
chồng lâu rồi, nhưng mà tướng mạo không đổi cho mấy.
Cô sáu Nhiễu thấy Kỳ-Tâm ăn mặc sạch sẽ tướng-mạo đàng-hoàng
thì cũng cứ theo ngó hoài, chừng xe lửa chạy qua khỏi cầu Tân-An rồi cô mới hỏi
rằng:
- Xin lỗi thầy, không biết thầy có phải con bác cả ở dưới Rạch-Giá
hay không?
Kỳ-Tâm cười và đáp rằng:
- Thưa phải; chẳng hay cô ở đâu mà biết tôi?
Cô sáu Nhiễu cũng cười mà nói rằng:
- Thưa, tôi gốc cũng ở Rạch-Giá.
Kỳ-Tâm thấy cô ta dạn dĩ đến thế, thì tức cười thầm trong bụng,
không muốn hỏi-han chi nữa, nên mở gói nhựt-trình ra rồi ngồi chống tay trên
khuôn cửa mà đọc. Sáu Nhiễu ý muốn nói chuyện nữa, song cô thấy Kỳ-Tâm day mặt
chỗ khác, còn ông đi chung xe thì ngó trân trân, làm cô mắc cỡ, nên cô dỡ quả
xách lấy trầu ra ăn, không hỏi chi nữa hết.
Xe lên tới Bến-Lức, ông tóc bạc hoa rầm đó xách dù đi xuống,
làm cho trong xe còn có Kỳ-Tâm với cô sáu Nhiễu mà thôi. Xe vừa rút chạy, cô
sáu Nhiễu vùng hỏi rằng:
- Thiệt thầy quên tôi hay sao?
Kỳ-Tâm liền buông tờ nhựt-trình rồi ngó cô ta mà đáp rằng:
- Tôi nhớ cô lắm chớ! Dầu một ngàn năm nữa tôi cũng chưa quên
được.
- Thầy nhớ tôi sao hồi nãy thầy hỏi tôi ở đâu?
- Tôi làm bộ không biết cô, là vì tôi không muốn biết cô làm
chi nữa.
- Sao vậy?
- Cô hỏi câu đó tôi không biết sao mà trả lời. Vì khi trước rủi
tôi biết cô nên mấy năm nay tôi não-nề lung quá, nếu bây giờ mà tôi biết nữa
thì ….., khó quá.
- Thầy nói sao đó? Tôi nghe không rõ?
- Thôi, chuyện cũ nhắc lại không vui gì. Xin cô giả quên tôi
luôn cho yên.
- À! Tôi hiểu rồi. Bây giờ thầy cưới đặng con bà Phủ, thầy
giàu sang không muốn nhìn biết đến những người quen thuở trước nữa chi?
Kỳ-Tâm nghe nói trớ trêu như vậy thì giận đỏ mặt, nên day mặt
ngó ngoài cửa mà đáp rằng:
- Thuở nay thiên-hạ bạc tôi, chớ nào tôi có bạc ai đâu mà cô
nói vậy?
- Ai bạc thầy, chớ tôi có bạc thầy đâu.
- Xin lỗi cô, cô không bạc tôi, mà sao mấy lời cô nói dưới
tàu rồi cô quên hết đi?
- Những lời tôi nói với thầy, tôi nhớ hoài chớ nào tôi có quên
đâu.
- Cô không quên mà sao nhà tôi suy-sụp rồi cô lại bỏ tôi mà
ưng chỗ khác?
- Việc vợ chồng là tại cha mẹ định tôi đâu dám cãi.
- Tại cha mẹ cô thì cô cũng phải nói cho tôi biết, chớ sao
tôi nghe cô ưng chỗ khác tôi lật-đật viết cho cô một bức thơ, cô không thèm trả
lời, rồi sau cô đi chợ gặp tôi cô lại làm lơ là vậy?
- Tôi có được thơ từ chi của thầy đâu, còn tôi đi chợ gặp thầy
hồi nào?
Kỳ-Tâm ngồi thở ra không thèm trả lời. Cô sáu Nhiễu cũng ngồi
lặng thinh một hồi rồi nói rằng:
- Tôi nghe lời cha mẹ ưng chỗ nầy, mấy năm nay tôi buồn quá.
Bên chồng tôi thiệt là giàu, ngặt chồng tôi nó kỳ lắm, không lo làm làng tổng với
người ta, cứ theo mèo đàng chó điếm, xài tiền phá của hoài, nói không đặng.
Cô sáu Nhiễu liếc thấy Kỳ-Tâm cứ đọc nhựt-trình, không thèm
nghe, thì cô mắc cỡ nên không nói nữa. Chừng xe lên tới Phú-Lâm cô mới hỏi rằng:
- Thầy đi Sài Gòn có việc chi hay là đi chơi?
- Tôi đi Chợlớn bán lúa.
- Rồi thầy ra Sài Gòn hay không?
- Có lẽ khi cũng ra.
- Thầy ra Sài Gòn ở nhà hàng hay là ở đâu?
- Chưa biết chắc.
- Lần nào tôi đi Sài Gòn tôi cũng ở nhà hàng Nam-Việt. Chuyến
nầy lên tôi cũng ở đó nữa. Ở chỗ nào quen thì có dễ một chút, chớ đi một mình
mà ở chỗ lạ tôi sợ quá.
Xe tới Chợlớn vừa ngừng, thì Kỳ-Tâm đứng dậy dỡ nón chào cô nọ
rồi xuống xe đi tuốt. Cô dòm theo thì thấy anh ta ra khỏi nhà giấy rồi lên xe
kéo mà đi, không thèm ngó lại.
Kỳ-Tâm biểu xa-phu chạy ra Bình-Tây, ngồi trên xe nhớ đến cô
sáu Nhiễu thì chán ngán tình đời, chẳng hiểu người lòng dạ thế nào mà trước bạc
tình sau chẳng biết hổ ngươi; nếu rủi gặp nhau thì phải trốn tránh mới phải, mà
ví dầu không trốn đặng thì cũng phải làm lơ giả bộ không biết, chớ đâu lại bươi
chuyện cũ ra mà nói. Bụng người đời khó lường thay! Việc xấu hổ mà họ lấy làm
vinh diệu, lẽ gian tà mà họ công nhận thẳng ngay. Đã phụ người rồi, mà gặp người
còn lại trách người, đã có chồng rồi, mà gặp người mình phụ trước lại đem chỗ xấu
của chồng ra mà nói, rồi lại chỉ chỗ mình trú-ngụ cho trai biết nữa, coi có
ghê-gớm hay không?
Kỳ-Tâm nhớ các điều ấy, vùng cười ra tiếng làm cho xa-phu
không hiểu việc chi nên ngoái đầu lại mà ngó. Kỳ-Tâm nói thầm trong trí rằng:
“Nhơn tình ấm lạnh, thế thái bạc đen, không biết sao mà nói cho hết được. Ôi
thôi! Mình cũng ráng chống mắt coi đời chơi, thử coi thiên-hạ họ quấy phải thế
nào, rồi trở về già mình ghi chép làm một quyển “Thế tục thiệt biên” đặng trẻ
em lúc buồn chúng nó xem chơi cho tiêu khiển.”
Ở đời người quấy hay muốn làm mặt phải, ấy là thường tình,
nghỉ chẳng lạ chi. Có một điều nầy rất kỳ, là nhiều người coi ơn-nghĩa nhẹ như
lông, khi có việc cần dùng thì khẩn cầu lòn cúi, đến chừng xong việc rồi thì chẳng
niệm nghĩa cảm ơn, mà lại còn lấy nghĩa làm thù, lấy ơn làm oán.
Trường-Xuân đang bối-rối, sợ việc quấy của mình lậu ra
thiên-hạ chê cười, rồi vợ rầy rà làm cho đường công danh hỏng hết, thì chiều
lòn Kỳ-Tâm, đến đỗi Kỳ-Tâm nói nhiều lời rất nhục-nhã mà anh ta cũng làm lơ như
người ngu không hiểu chi hết. Đến chừng anh ta đặng làm Tổng rồi và nghĩ phận Yến-Tuyết
cũng đã yên ổn, thì anh ta lần lần muốn quên ơn tế độ của Kỳ-Tâm. Từ ngày Yến-Tuyết
lâm bồn cho đến sau, cái lòng bội nghĩa của Trường-Xuân lại càng hiện rõ hơn nữa.
Anh ta nhớ từ lúc đặt tên cho đến lúc mướn vú, Yến-Tuyết cứ làm theo ý của Kỳ-Tâm
hoài, thì trong lòng sanh nghi, mà nhứt là Yến-Tuyết trốn tránh không chịu cho
anh ta thấy mặt, nên anh ta lại càng nghi nhiều hơn nữa. Mỗi lần qua Tân-An gặp
mặt Kỳ-Tâm thì anh ta không vui, kiếm chuyện gây với Kỳ-Tâm hoài, ý muốn cấm
không cho Kỳ-Tâm đến nhà bà Phủ nữa, song không biết lấy cớ chi mà cấm được.
Anh ta mới tính kiếm cớ đuổi Kỳ-Tâm, mà nếu đuổi không được thì làm cho Kỳ-Tâm
phải mang hại.
Kỳ-Tâm tuy nhỏ tuổi, song mùi đời nếm đủ, từng quen thú sang
giàu, từng vùi thân gió bụi, đã thấy nhơn-tình ấm-lạnh, đã biết thế-tục ngọt
cay, có lý nào gần Trường-Xuân mà không hiểu ý anh ta, để đến nỗi bị anh ta thù
oán. Nhưng vì bụng Kỳ-Tâm không phải là bụng một người tầm thường. Anh ta vẫn
chịu tiếng làm chồng Yến-Tuyết là cứu dùm chút danh-giá cho người chớ không ích
cho mình, còn đứng làm tổng-lý tiệm lúa thì cũng làm giàu thêm cho họ, chớ mình
không có lợi chi, song anh ta cố ý làm hoài, ấy là vì anh ta muốn thử coi
thiên-hạ cư xử với mình ra thể nào cho biết.
Con của Yến-Tuyết là Kỳ-Phùng đã được 6 tháng rồi. Ngày nọ
Trường-Xuân qua thăm bà Phủ cứ nài-nỉ Yến-Tuyết phải bồng thằng nhỏ ra ngoài
cho mình xem. Yến-Tuyết không chịu ra, mà cũng không cho bồng Kỳ-Phùng ra. Trường-Xuân
giận quá dằn không đặng nên nói rằng:
- À, nếu muốn như vậy thì để tôi làm cho mà coi.
Nói rồi liền đứng dậy bỏ đi ra chợ Tân-An, Trường-Xuân đi thẳng
tiệm lúa không thấy Kỳ-Tâm, hỏi bạn thì chúng nó nói Kỳ-Tâm đi dưới Tầm-Vu mua
lúa. Trường-Xuân lục sổ sách hết ra mà xem, dò từ số, cộng từ hàng, xét từ tờ,
xem từ hồi 11 giờ cho đến 2 giờ chiều mới rồi. Trường-Xuân vừa muốn ra về, bỗng
thấy Kỳ-Tâm đi Tầm Vu về, xe đang ngừng ngoài cửa.
Trường-Xuân đứng lại; Kỳ-Tâm bước vô mừng rỡ hỏi rằng:
- Anh qua bao giờ đó, anh ba?
Trường-Xuân không thèm đáp câu hỏi ấy, lại nói rằng:
- Tôi muốn nói chuyện riêng với dượng song ở đây bất tiện, vậy
thì về trong nhà dì Phủ đặng tôi nói một chút.
Kỳ-Tâm không hiểu có việc gì, nên đội nón đi liền. Hai người
đi đọc đường không nói chuyện gì hết. Vô tới nhà, Trường-Xuân nói với bà Phủ rằng:
- Thưa dì, cháu có chuyện kín muốn tỏ với thầy hai đây. Vậy xin dì làm ơn biểu
mấy đứa ở đi xóm đặng cháu nói chuyện cho dễ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét