Cho ngày 30 tháng 4 - Chuyện bây giờ mới kể
Mấy mười năm xa cách mẹ và em gái, mình đã luôn nhớ và nghĩ về họ với biết bao yêu thương đằm thắm. Tưởng gặp lại nhau, sẽ là những ngày đoàn tụ ấm áp, đầy tình yêu thương. Anh đã về, mọi việc diễn ra đúng như ao ước. Mấy mẹ con ôm nhau mà khóc. Nhưng ở với mẹ chỉ đầm ấm trọn ngày thứ nhất. Sang ngày thứ hai đã thấy khó chịu.
Thời gian là cỗ máy mài vô tình và tàn nhẫn đối với ký ức cá
nhân. Trong biển thông tin hỗn loạn và nhiều kênh hôm nay, ký ức lại càng gặp
nhiều thách thức thường trực và dữ dội. Một cách cổ sơ và thủ công cưỡng chống
lại sự bào mòn vô tình và tàn nhẫn ấy là tìm dịp nhắc lại, thường xuyên nhắc lạị.
Trong dịp tháng 4 này, là người còn lại của đội hình đông đảo
những người lính làm văn nghệ đồng hành cùng các Binh, Sư đoàn ào ạt lao về
phương Nam mùa Xuân 1975, giờ nhìn lại, một số rất nhiều những con người tài
hoa dạo ấy đã thành người thiên cổ, chỉ muốn nhắc lại một vài chuyện không mới,
nhưng còn ít người biết.
Sau tết Ất Mão, Văn nghệ Quân đội được mật lệnh cử các nhà
văn xuống các đơn vị, chuẩn bị cho tình hình mới.Từ nhiều năm, mỗi nhà văn đã
có những đơn vị thân quen như gia đình, họ từng đi về trong nhiều chiến dịch lớn:
Hồ Phương & Hữu Mai, Nguyên Ngọc & Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu &
Xuân Thiều, Thu Bồn & Phạm Ngọc Cảnh, Nam Hà & Xuân Sách, Mai Ngữ, Hải
Hồ, Ngô Văn Phú, Văn Thảo Nguyên, Vương Trí Nhàn, Lê Thành Nghị… Cầm trịch ở
nhà chỉ còn Chủ nhiệm Vũ Cao và phó là nhà văn Từ Bích Hoàng. Nhà thơ Thanh Tịnh
những ngày này trầm lặng trong tâm trạng khá nặng nề.
Cuộc hội ngộ lịch sử đầu tiên là cuối tháng 3, khi thành phố
Huế vừa được giải phóng. Theo trực thăng bay dọc Quốc lộ 1, chúng tôi chứng kiến
quang cảnh hào hùng của những đoàn quân đi trên nhiều phương tiện khác nhau như
dòng nước chảy một chiều về hướng Nam. Cùng chuyến bay là Hồ Phương, Phạm Ngọc
Cảnh, nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, Nguyễn Hồng Duệ. Những người theo các đơn vị có
mặt sớm hơn là Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,…
Cả đội hình theo các đơn vị vượt đèo Hải Vân còn đầy dấu tích
các trận chiến đấu, và quân tư trang vất ngổn ngang, để vào Đà Nẳng vừa được giải
phóng. Nguyên Ngọc là người được gặp lại bà mẹ và gia đình sớm nhất. Bữa tiệc
đúng nghĩa đầu tiên là được tổ chức ở nhà mẹ nhà văn, cũng là lần đầu tiên, các
nhà văn miền Bắc biết mùi vị đặc biệt, tuyệt vời của món Mì Quảng. Cũng ở đây,
có cuộc hội ngộ của Văn nghệ Quân đội với các bạn văn của Quân khu V do Nguyễn
Chí Trung làm thủ lĩnh (nhà văn Nguyên Ngọc đã được điều ra Bắc từ cuối 1974,
Thu Bồn đưa vợ con ra từ 1969): Phan Tứ, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Bảo, Nguyễn Trí
Huân, Nguyễn Khắc Phục, Thái Bá Lợi, Trần Vũ Mai, Cao Duy Thảo, Ngô Thế Oanh,
Ngân Vịnh, Thanh Quế, Vũ Thị Hồng…
Những năm trước, Khu V đã có mấy văn nghệ sĩ hy sinh: Dương
Thị Xuân Quý ( 8.3.1969 – vợ Bùi Minh Quốc), Chu Cẩm Phong – Trần Tiến
1.5.1971), Phương Thảo. Nguyễn Mỹ, Nguyễn Hồng, Hà Xuân Phong… Trung Trung Đỉnh
bấy giờ đang ở với đơn vị bộ đội địa phương trong rừng Tây Nguyên, phải sau giải
phóng cả tháng mới biết tin để tìm về.
Đạo quân văn nghệ đông đảo bám xe các cánh quân hầu hết đã có
mặt ở thành phố Sài Gòn trong ngày 30.4. Hợp lưu ở đây còn có cánh Văn nghệ
Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam, gồm những Nguyễn Trọng Oánh, Thanh Giang, Võ
Trần Nhã, Triệu Bôn, Văn Lê, Trần Mạnh Hảo, Trần Ninh Hồ, Nguyễn Ngọc Mộc, Phạm
Đình Trọng… Ngoài ra còn một lực lượng đông dảo các văn nghệ sĩ dân sự và thuộc
các quân binh chủng như Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo,…
các đơn vị ở Trung ương Cục Miền Nam.
Trong ngày vui lớn của dân tộc, các nhà văn quê miền Nam gặp
lại gia đình, người thân, vẫn không quên những đồng đội không trở về. Nhà văn
Nguyên Ngọc giữ lời hứa với người bạn cùng trở lại chiến trường hơn 12 năm trước,
đi tìm cháu Nguyễn Trang Thu, người con gái của nhà văn Nguyễn Ngọc Tấn- Nguyễn
Thi với chị Bình Trang, sinh 1954, ngày nhà văn lên tàu tập kết, bấy giờ đang ở
với bà ngoại. Rồi Trang Thu đã gặp lại người mẹ từ miền Bắc trở về. Nhưng cuộc
đoàn tụ hình như không êm đềm như ao ước. Nhiều chuyện buồn liên tục xảy ra
trong gia đình nhà văn Liệt sĩ- Anh hùng.
Có một lần, nhà văn Thanh Giang đã mời bà Thành Thị Du, mẹ
nhà văn từ Nam Định vào Sài Gòn. Nhưng chuyến xích lô đưa người mẹ ôm bó hoa đi
theo những con phố mà bà nghĩ là in dấu chân cuối cùng của con trai, nhưng hoa
héo mà không biết đặt ở đâu. Cho đến nay, nơi hy sinh của nhà văn vẫn không xác
định được. Nấm mộ trong nghĩa trang Liệt sĩ là mộ gió, ghi ngày hy sinh
24.4.1968, cùng ngày với Lê Anh Xuân – Ca Lê Hiến! Gia đình nhỏ của Nguyễn Thi
– bút danh lấy tên người con trai này- nhiều năm vẫn tồn tại trong khó khăn, và
không bao giờ đoàn tụ được với những người thân.
Trở lại những cuộc hội ngộ nhờ ngày 30.4 năm ấy. Sau những
phút giây bàng hoàng, ngây ngất như trong mơ, một giấc mơ dài của hàng mấy chục
năm xa cách, là một hiện thực trần thế, với biết bao hệ lụy phải đối diện, và cần
ngay cách xử lý. Thời gian xa cách quá lâu, hoàn cảnh sống quá khác. Những người
mẹ, người con, người vợ bao năm vì người ra đi mà bị truy bức, o ép, thậm chí
tù đày, tra tấn, không phải ai cũng giử được kiên trung. Giờ người đó trong phe
chiến thắng trở về, với hai bàn tay trắng, vài bộ áo quần cũ trong ba lô. Nếu
chẳng may có vài bà con từng làm việc cho phía bên kia, cũng không thể có cách
gì cứu đỡ. Nhìn nhau, gặp lại, cay đắng trong bất lực. Rõ ràng, chỉ riêng tình
cảm là không thể níu giữ, khi trong xa cách đã hy vọng và tin tưởng, mọi khó
khăn vật chất trong cuộc sống sẽ được giải quyết ngay khi người chiến thắng trở
về.
Sau niềm vui ngày tái ngộ, cả hai phía, bỗng bàng hoàng nhận
ra, một điều gì đó thật thiêng liêng, đã giúp họ vượt lên mọi nghịch cảnh chiến
tranh vừa cất cánh bay biến khỏi cuộc sống hiện thực. Cũng trong tâm thế đó mà
có hàng vạn đôi lứa chứng kiến những cái chết khác nhau của những tình
yêu ngỡ rất lý tưởng, mà lỗi không phải tại một bên.
Thanh Tịnh là nhà thơ tiền chiến duy nhất suốt phần đời còn lại
chung thủy với màu áo lính, 30 năm “Ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân”,
năm 1946, từ Huế về họp Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, do Chủ tịch Hồ
Chí Minh triệu tập, rồi ở lại, lên Việt Bắc tham gia kháng chiến,về hưu với
quân hàm Đại tá. Ngày ấy ra đi để lại người vợ trẻ và hai người con, có đủ trai
gái. Nhưng từ mấy năm trước, đã biết, để bảo vệ con, bà đã tái giá với một sĩ
quan VNCH. Phảng phất dư âm, bài thơ Mòn mỏi từng được in trong Thi
nhân Việt Nam: Ngựa hồng đã đến bên hiên/ Chị ơi, trên ngựa chiếc yên vắng
người. Hai người con phải mấy năm sau mới gặp lại. Nhà thơ lại trở về Hà Nội
sống cho đến cuối đời.
Nhà văn Nguyễn Khải đã tìm gặp được người cha với gia đình bà
vợ cả đã di cư từ 1954. Bóng dáng cuộc gặp, theo lối viết bám rất sát chuyện thực,
được thể hiện trong vở kịch Cách mạng được đoàn kịch Điện ảnh và Kịch
nói Quân đội dàn dựng. Nhưng thay vì được hàn gắn, nhiều nhân vật thấy bóng
dáng mình trong kịch lại thấy mặc cảm nặng nề hơn. Khoảng cách trong gia đình
không dễ khỏa lấp. Nguyên Ngọc, Thu Bồn có mẹ già, nhưng là những người lính tại
ngũ, với nhiều nhiệm vụ tiểu phỉ Phun rô, tham gia sản xuất ở Tây Nguyên, Quảng
Nam, chiến đấu ở hai đầu biên giới, nên cũng không có điều kiện gần gũi, săn
sóc những bậc sinh thành, đã một đời chờ đợi.
Mối tình đẹp được gìn giữ và nhiều người bồi đắp trong chiến
tranh của Thu Bồn và nữ bác sĩ Đỗ Thị Thanh Thu, với kết quả là hai người con
trai có vóc dáng thật đẹp đã dần nguội lạnh, hai con trai nhiễm chất độc da
cam, Hà Thảo Nguyên phải bẻ gập chân tay bó bột để khỏi dị tật ngay khi sinh
trong rừng, cũng chính Bác sĩ ấy đã chăm sóc cho cháu những phút cuối 16 năm
sau ở Bệnh viện Trung ương Quân đội. Hà Băng Ngàn sinh ở Làng Ho – Quảng Bình
1969, cũng bị tâm thần phân liệt, không có khả năng lao động.
Nhà thơ Thu Bồn có thêm hai lần chung sống dài ngày với hai
người nữa,các chi đều đã có con riêng, nhưng không dám (hay không thể) có con.
Người thứ hai, là một nhà thơ, có đăng ký. Nhưng khi đi học nước ngoài, chị đã
chủ động chia tay.
Sau thời gian ở khu chung cư số 6 Đặng Thái Thân, quận 5
không chịu được sự chật chội, máu hoang dã sống dậy, Thu Bồn đã thanh lý, cộng
thêm sự giúp sức của bạn bè, mua và tự tay xây một khu nhà đẹp ở Khu du lịch suối
Lồ Ồ. Người thứ ba chung sống là một diễn viên cải lương, mang theo con về ở
chung. Nhiều năm, đây là một địa chỉ văn hóa, được nhiều văn nghệ sĩ yêu thích.
Nhưng một thời gian sau khi nhà thơ mất, khu nhà với gần 4.000m2 đất ngay khu
du lịch đã được thanh lý, mà người con trai còn lại duy nhất là Hà Băng Ngàn
không hề được biết. Đến nay, quê nhà muốn xây dựng một Trung tâm lưu niệm của
nhà thơ được Giải thưởng Hồ Chí Minh (2017), cũng chưa liên hệ được để biết những
di vật của Nhà thơ có còn không.
Trong tập Dĩ vãng phía trước (2012), tôi có
ghi lại lời kể của nhà văn Nguyên Ngọc, nhân chứng hiếm hoi còn lại của thế hệ
chống Pháp, năm nay vào tuổi 90, chuyện của một nhà điêu khắc, bạn ông, nhưng
mang tâm trạng của không chỉ một người: Cậu ấy là nghệ sĩ thôi, chẳng chính trị
gì đâu, nhưng nói nghe thật đau: Mấy mười năm xa cách mẹ và em gái, mình đã
luôn nhớ và nghĩ về họ với biết bao yêu thương đằm thắm. Tưởng gặp lại nhau, sẽ
là những ngày đoàn tụ ấm áp, đầy tình yêu thương. Anh đã về, mọi việc diễn ra
đúng như ao ước.
Mấy mẹ con ôm nhau mà khóc. Nhưng ở với mẹ chỉ đầm ấm trọn
ngày thứ nhất. Sang ngày thứ hai đã thấy khó chịu. Có những điều trái ý nhau.
Chẳng hạn, bà cụ không thể chịu được, khi con trai đã có tuổi mà ra đường mặc bộ
áo quần cháo lòng, không được là kỹ. Và quan trọng hơn, bà không thể hình dung
được đứa con được học hành tử tế, mấy chục năm đi làm cách mạng, giờ về chỉ là
anh cán bộ không chức, không quyền, không quân lính. Mà bà cụ là cơ sở của ta đấy.
Cô em gái cũng thất vọng về ông anh. Họ quen đánh giá con người bằng chức vụ, của
cải. Cả hai, người nghệ sĩ là anh đều không có. Có một sự vỡ mộng thật sự về
nhau. Mà đau đớn là Mẹ và em, cũng như hàng triệu người thân ở lại miền Nam, chịu
đựng tù tội, truy bức, chờ đợi và hy vọng như thế là phải, là quá bình thường.
Sự đoàn tụ thực tế là như thế đó.
Ngày chiến thắng, niềm vui chung là lớn lao, nhưng ngay những
người còn được trở về cũng có niềm đau, không nói nên lời. Đã có lúc, anh nghĩ
giá như trong mấy mươi năm chia cách, Mẹ và Em có mệnh hệ nào, ngày về, không
được gặp, hẳn mình sẽ đau đớn vô cùng. Nhưng đó là nỗi đau có thể gào khóc thật
to mà không xấu hổ; không nói chính trị đâu, niềm đau ấy có thể chen cảm
giác tự hào, vì họ đã hy sinh cho ngày thống nhất. Nhưng đằng này, người thân
thì gặp, nhưng đã trở nên xa lạ. Mẹ mình như đã được thay bằng một người khác.
Nhiều lần tôi tự hỏi: Có phải đay là người mẹ xưa của mình không? Và em gái nữa?
Có lẽ không phải. Nhưng dứt khoát được như thế đã là may. Không, mà vẫn phải. Một
gia đình, còn thế, nói gì cả quốc gia.
Trong hồi ký Đường trần của nhà báo Trần Tố Nga,
người nổi tiếng vì là nạn nhân chất độc da cam nhờ mấy mươi năm nay là công dân
nước Pháp, nên khi hàng triệu nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam đã chịu thua
trong mấy lần khởi kiện các công ty hóa chất Mỹ, thì riêng chị, với sự trợ giúp
pháp lý của nước Pháp, và mấy luật sư tự nguyện, đã mấy lần buộc một số công ty
hóa chất Mỹ phải cử luật sư tham gia đối chất. Cuốn Đường trần cũng
như cuốn sách viết bằng tiếng Pháp trước đó được xuất bản với mục đích có tiền
theo đuổi vụ kiện.
Qua hồi ký, người đọc được biết cuộc đời một học sinh miền
Nam được tập kết ra Bắc, học xong Đại học, tự nguyện trở về Miền Nam tham gia
chiến đấu. Do nhiệm vụ yêu cầu, dầu học khoa Hóa, Đại học Tổng hợp Hà Nội, chị
trở thành nhà báo chiến trường. Lấy chồng, sinh con, cũng như một số đồng đội,
có gia đình trong vùng Việt nam Cộng hòa kiểm soát, gửi con về cho Bà ngoại
nuôi. Mà không phải chỉ nuôi con cho một cháu. Chị bị bắt, sinh con trong tù,
Bà ngoại cũng vào thăm nuôi. Bởi gia đình Bà có nhiều con cháu tham gia phía
kháng chiến. Con gái Bà – tức mẹ của Trần Tố Nga là Chủ tịch Hội Phụ nữ Giải
phóng, mất tích trong một trận càn lớn. Cha chị đã mất trong kháng chiến chống
Pháp. Vậy mà ngày Giải phóng trở về, các cơ sở làm ăn chỉ để thăm nuôi con cháu
tù tội đều bị tịch thu, cải tạo. Cả một đàn con cháu trở về, để giữ vững lập
trường, đã không ai đứng ra bảo vệ được.
Cay đắng hơn, sau mấy mươi năm chịu đựng nghi ngờ, Mẹ và cha
Trần Tố Nga mới được xác minh là hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Không tìm thấy
sự bình yên sau nhiều năm tận tụy và luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được
giao- có thời là Hiệu trưởng trường Marie Curie – Trần Tố Nga đã định cư và lập
lại gia đình mới ở Pháp. Việt Nam, vẫn là chốn đi về, và làm nhiều việc thiện
cho những người Việt còn nghèo khổ. Đâu phải chỉ người phía bên kia mới phải
tìm nơi định cư ở nước ngoài.
Vấn đề thống nhất sẽ còn nhiều khó khăn là vì thế. Một cái gì
thật là của Việt Nam, thật là của văn học, mà sao những người viết cứ né tránh
mãi!.
30/4/2022
Ngô Thảo
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét