Tagore, những giá trị phục hưng
văn học và xác tín về tình
yêu
Độc giả Việt Nam từng đã được làm quen với các tác phẩm
của Rabindranath Tagore từ những năm 60-90 của thế kỉ trước, qua các dịch giả
Cao Huy Đỉnh, Đào Xuân Quý, Lưu Đức Trung ở các tỉnh phía Bắc, cùng Đỗ Khánh
Hoan, Phạm Hồng Dung, Phạm Bích Thủy và Nhật Chiêu ở các tỉnh phía Nam…
Sự nghiệp R.Tagore quá đồ sộ: Ông bắt đầu có bài được in trên
báo ngay từ năm mới mười ba tuổi, kéo dài liên tục đến khi ông mất (tuổi tám
mươi). Ông là tác giả của 50 tập thơ viết bằng tiếng Bengal và các tập thơ tự dịch
ra tiếng Anh, 42 vở kịch, 12 tiểu thuyết, hàng chục tập truyện ngắn, hàng chục
vở kịch, chưa kể hàng chục tập cảo luận, biên khảo, bút kí, hồi kí và một loạt
các bài hát, các bức họa, các tập thư từ trao đổi khác nữa, v.v… Vì vậy, phần
đã được dịch ra tiếng Việt tuy cũng đã là khá đa dạng, phong phú, nhưng hãy còn
hết sức ít ỏi, thiếu vắng.
Chân dung nghệ thuật của Tagore, một nhân vật khổng lồ, – xứng
đáng được coi là đứng ngang tầm với Leonardo da Vinci (1) của Ý, đối với sự
Phục hưng văn hóa Ấn Độ, chữ dùng của học giả người Nhật Tatsuo Morimoto(2).
Nhưng quả thực đối với chúng ta, lại là hết sức đáng tiếc,
khi chúng ta mới chỉ có điều kiện hình dung ra rất khiêm tốn, vỏn vẹn qua một số
tập thơ của Tagore được dịch hoặc trích dịch như: Lời dâng (Gitanjali), Trăng
non, Người làm vườn, Tặng vật, Bầy chim lạc…, thêm vài tập tiểu thuyết và truyện
ngắn được dịch nữa như: Đắm thuyền, Nàng Binodini, Mây và mặt trời…
Đó là nỗi tiếc nuối mà chúng ta rất nên gấp gáp nỗ lực khắc
phục.
Vì vậy, thật sự đáng vui mừng khi những năm gần đây, nhà thơ
– dịch giả Bùi Xuân, với tấm lòng say mê và khát vọng khám phá các tài sản tinh
thần vô giá hãy còn tiềm ẩn phía trước ta của R. Tagore, đã lần lượt cho ra mắt
độc giả Việt Nam một loạt các bản dịch mới của thiên tài văn học Ấn Độ này,
cũng là tác giả châu Á đầu tiên được Giải thưởng Nobel về Văn học vào năm 1913.
Ông là người đã đưa các giá trị tinh thần cao quý của phương Đông hội nhập được
vào các giá trị tinh thần của phương Tây và được công nhận rộng rãi ở đó, mà
nói như cố Thủ tướng Ấn Độ J.Neru(3), thì Tagore đã biết làm “hơn bất cứ người Ấn
Độ nào khác, để góp phần đạt tới sự hài hòa cho các lí tưởng đẹp đẽ của cả Đông
và Tây”. Thậm chí, một nhà thơ nổi tiếng của Thụy Điển là Per Hallström(4) còn
đánh giá Tagore cao hơn nữa, khi ông nói: “Không có một nhà thơ nào khác ở cả
châu Âu, kể từ khi Goethe(5) qua đời vào năm 1832, có thể cùng sánh được với
Tagore về nhân cách cao quý, về sự vĩ đại tự nhiên và cả về sự thanh tĩnh hài
hòa đến thế!”. Vậy là tầm vóc Tagore từ phương Đông đã được đưa lên ngang tầm
cao văn hóa phương Tây và hòa vào tầm vóc của cả nền văn minh nhân loại.
Tập Những bài thơ (Poems) được dịch giả Bùi Xuân giới
thiệu trọn vẹn hôm nay đã được xuất bản lần đầu bằng tiếng Anh vào tháng 2 năm
1942, sáu tháng sau khi R.Tagore từ trần, gồm các bài thơ được R. Tagore viết rải
rác từ năm 1886 đến năm 1941. Các bài thơ này đều do tác giả tự dịch từ tiếng
Bengal sang tiếng Anh, một số lớn các bài chưa hề được đăng trên các báo hoặc
in vào bất cứ tập sách nào trước đó. Vì thế, cũng có thể coi đây như một tập
thơ di cảo của tác giả.
Trong tập thơ này, R.Tagore vẫn duy trì và phát huy được thế
mạnh trong năng lực suy tư và lí giải nhiều vấn đề tinh tế của đời sống tâm
linh và đời sống xã hội, cũng như trong tình yêu, tình yêu đắm say của đôi lứa
và cả lòng yêu đời sâu thẳm từ bản ngã. Đôi khi, ông cũng còn đề cập đến các
khía cạnh thời sự khác nữa trong thời mình sống, như ở bài số 38, viết trong những
ngày sôi nổi của phong trào Swadeshi(6) ở Bengal năm 1905, với tinh thần
bài trừ đồ ngoại, cổ vũ khuyến khích hàng nội hóa của Ấn Độ. Hoặc bài số 46, viết
để chào mừng Đại hội Đảng Quốc đại Ấn Độ họp ở Calcutta năm 1917, mà ông còn trực
tiếp đến đọc trước Đại hội. Hay bài số 102, viết nhằm tố cáo bọn phát xít
Mussolini(7) (Ý) bất thần tiến hành xâm lược Ethiopia năm 1935(8), làm dấy
lên phong trào phản đối, lên án mạnh mẽ trên toàn thế giới. Thật bất ngờ đối với
chúng ta, là một nhà thơ lớn, một triết gia, tưởng chừng luôn quen thuộc với
các suy tư huyền bí, gần với chất tâm linh và tín ngưỡng như Tagore, lại dám dấn
thân, gắn mình vào cuộc sống đời thường giản dị đến thế! Tuy nhiên, chúng ta lại
cũng sẽ không còn thấy bất ngờ nữa, khi nghe những lời tâm nguyện chân thành,
những đòi hỏi vươn lên làm chủ số phận, đầy ắp ý chí khao khát tự do, ở bài thơ
số 103 trong tập, có thể coi như tuyên ngôn của một nhà cách mạng dân tộc dân
chủ đích thực:
… “Đừng ru tôi vào những
giấc mơ uể oải;
Hãy giũ bỏ tôi khỏi sự luồn cúi
trong bụi đất này,
Ra khỏi gông cùm xiềng xích
tâm trí, đã biến
cuộc đời chúng tôi thành vô ích;
Ra khỏi sự phi lí đè bẹp số phận
chúng tôi dưới bàn chân hỗn độn
của lũ độc tài;
Hãy xua tan nỗi tủi nhục lâu đời này
và nâng cao đầu chúng tôi
hướng vào bầu trời vô biên,
vào ánh sáng hào phóng
vào bầu không khí tự do”.
Bản chất Tagore là như vậy: một nhân cách lớn có tầm suy tưởng
vươn cao trên đầu thời đại mình, có ý thức quyết liệt giải phóng con người
mình, rất gần với tư tưởng cách mạng dân tộc dân chủ, chứ không hề chịu lặng lẽ
ngụp lặn trong các khuynh hướng tôn giáo và triết lí duy tâm siêu hình hay nhập
thân vào các ý niệm tượng trưng thần bí, để bị động rơi vào tâm trạng bi quan,
cô độc, thiển cận và hoài cổ, như một số trí thức Ấn Độ đương thời. Chính vì thế,
ông đã trở thành chiếc đầu tàu tạo nên cuộc Phục hưng văn hóa Ấn Độ(9), kéo dài
gần bốn chục năm.
Ở một bình diện khác, trong bản chất con người Tagore lại
tràn đầy tình yêu: Lòng yêu đời, yêu con người và đặc biệt là tình yêu đôi lứa,
đắm say, trung hậu, nồng nàn. Hình tượng người phụ nữ trong thơ ông thật đẹp đẽ
và cao sang, có khi như một dấu hỏi đánh đố, đầy huyền bí, đầy ẩn dụ, có khi lại
là một nỗi giãi bày hồn nhiên, vừa duyên dáng, quyến rũ, vừa dễ cảm thông, chia
sẻ. Trong tập thơ này có đến gần 1/3 số bài là thơ tình, tập trung vào từng
nhóm, từ bài thứ 2 đến bài 20, từ bài 68 đến bài 74 và từ bài 90 đến bài 118.
Có lúc, trong cơn hứng khởi, nhà thơ dồn dập muốn quy tụ hết thảy mọi thứ chỉ để
tập trung vào tình yêu:
…“Tất cả niềm vui, nỗi buồn,
mong mỏi của trái tim,
Tất cả kỉ niệm của những
khoảnh khắc ngây ngất,
Tất cả lời bài hát tình yêu của
các nhà thơ ở mọi thời đại
Đến từ khắp nơi
Và quy tụ trong tình yêu duy nhất
dưới chân em”.
(Bài 6)
Và hình như, đậm đà hơn tất cả, những câu thơ tinh diệu và si
mê nhất của Tagore vẫn là thơ tình, một trong vài ba thế mạnh đã làm ông trở
nên bất tử. Không hề ngẫu nhiên, khi ta thấy ông đã từng viết những dòng sau
trong tập Lời dâng: “Tôi đã sống trong Tình Yêu chứ không phải trong Thời Gian.
Khi thần linh hỏi tôi: “Các bài ca của ngươi có tồn tại mãi không?”, tôi sẽ
nói: “Tôi không biết, nhưng tôi biết rằng chỉ khi tôi hát, tôi mới cảm thấy
mình bất tử!”.
Tagore là như vậy đó! Bên cạnh rất nhiều tâm huyết cách tân
thi ca và tiến hành cuộc Phục Hưng văn hóa lớn lao, thì xác tín về Tình Yêu
vĩnh cửu cũng là một nét đặc trưng không thể thiếu, đã làm nên phong vị thơ độc
đáo của Tagore.
Chú thích:
1. Leonardo da Vinci (1452- 1519) là thiên tài toàn năng người
Ý, thành công trên nhiều lĩnh vực: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc, y học,
phát minh khoa học và triết học tự nhiên. (Các chú thích trong tập thơ này là của
người dịch).
2. Tatsuo Morimoto (1928 – 2016) là nhà sử học Nhật Bản, tác
giả của nhiều công trình nghiên cứu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật nổi tiếng
như: Fonctions du rire dans le théâtre français contemporain: Études à
travers André Roussin, Jean Anouilh, Eugène Ionesco et René de Obaldia (Chức
năng của tiếng cười sân khấu Pháp đương đại: Nghiên cứu qua André Roussin, Jean
Anouilh, Eugène Ionesco và René de Obaldia), NXB Librairie A.G.Nizet, 1984.
3. Jawaharlal Nehru (1889 – 1964) là nhà hoạt động chính trị
và thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ (1947 – 1964). Ông là thân sinh của cố thủ
tướng Ấn Độ Indira Gandhi.
4. Per Hallström (1866 – 1960) là nhà thơ, nhà viết truyện ngắn,
viết kịch nổi tiếng người Thụy Điển. Từ năm 1922 đến năm 1946, ông là Chủ tịch Ủy
ban Nobel của Viện hàn lâm Thụy Điển về giải Nobel Văn học.
5. Johann Wolfgang von Goethe (1749 – 1832) là đại thi hào
người Đức, một trong những vĩ nhân văn chương của thế giới.
6. Swadeshi là từ kết hợp của hai từ tiếng Phạn:
swa (của mình) và desh (quốc gia). Swadeshi có nghĩa là “của nước
mình”. Phong trào Swadeshi (1905 – 1911) là phong trào yêu nước thành công nhất
ở Bengal (Ấn Độ) trong những năm đầu thế kỉ XX; châm ngòi từ việc chính quyền
thực dân Anh thực hiện chính sách phân chia Bengal ra làm hai vùng: nửa phía
Tây thuộc về người theo đạo Hindu và nửa phía Đông là của người theo đạo Hồi.
Phong trào đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân Ấn Độ tẩy chay hàng ngoại và dùng hàng nội
do Ấn Độ sản xuất.
7 Benito Amilcare Andrea Mossolini (1883 –1945) là thủ tướng
thứ 27 của Ý (1922 –1945), lãnh tụ của phát xít Ý.
8 Ngày 3 tháng 10 năm 1935, Mussolini đã đưa quân tấn công,
xâm lược Ethiopia. Cuộc chiến giữa Ý – Ethiopia diễn ra từ đó cho đến năm 1939
(lịch sử gọi đây là cuộc chiến tranh Ý – Ethiopia lần hai) và kéo dài cho đến
năm 1941, khi phát xít Ý bị đánh bại ở Đông Phi.
9. Thời kì Phục hưng văn hóa Ấn Độ manh nha từ cuối thế kỉ
XIX và phát triển mạnh mẽ vào các thập niên đầu thế kỉ XX. Mục đích chính của
phong trào này là bảo vệ, phục hưng văn hóa Ấn Độ và hòa hợp văn hóa Đông –
Tây. Theo Jawaharlal Nehru, Rabindranath Tagore là “Ngôi sao sáng của Ấn Độ phục
hưng”.
8/6/2022
Bằng Việt
Nguồn: Văn Nghệ số 21/2022
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét