“Những ngày thơ ấu” - cuốn hồi ký tự truyện đặc sắc
Sau khi viết tác phẩm đầu tay – tiểu
thuyết Bỉ vỏ (vào những năm 1935-1936) nhận Giải nhì của Giải thưởng Tự
lực văn đoàn năm 1937, một năm sau, năm 1938, Nguyên Hồng viết Những ngày
thơ ấu, khi ông tròn 20 tuổi đời.
Lúc đầu, năm 1939, tác phẩm được
trình làng bằng cách trích đăng trên tuần báo Ngày Nay của Tự lực văn
đoàn với lời giới thiệu của nhà văn Thạch Lam. Cây bút nổi
tiếng Thạch Lam đã đánh giá cao bút pháp đặc sắc của Những ngày thơ ấu ở
chỗ “nó là sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài trong những
lề lối khắc nghiệt của một gia đình sắp tàn.”
Năm 1940, Những ngày thơ ấu được
nhà xuất bản Đời nay của Tự lực văn đoàn in thành sách.
Có thể thấy Thạch Lam quả là người
có con mắt tinh đời, nhìn thấu cái thần của văn Nguyên Hồng trong buổi đầu phát
lộ.
Cũng trong những năm 1939-1940 đó,
trên báo Ngày Nay, Thạch Lam đã cho in những tiểu luận độc đáo về nghề
văn, về phê bình, tiếp nhận văn chương – một loại hình nghệ thuật của ngôn từ.
“Trong công việc, nhà phê bình phải
lưu ý hơn đến những tác phẩm đầu tiên của một nhà văn. Phải cúi mình xuống
những tác phẩm có biểu lộ một tâm hồn rung động, một ý chí sốt sắng. Tác phẩm
có thể vụng về, có thể non nớt, như tiếng chim mới biết kêu. Nhưng cốt nhất là
thấy ở đấy một vẻ sắc riêng, một âm điệu đặc biệt; cái già dặn của nét bút,
cách xếp đặt của cuốn truyện rồi về sau sẽ có.
Không thể nhầm được, và nhà phê bình
cũng không có quyền nhầm, trong đó thế nào cũng có cái gì cho ta đoán biết được
tài năng về sau này.
Không có gì cảm động hơn những bước
chân hãy còn chập chững của những người mới mẻ, bắt đầu đi vào các đường lối
trí thức và của tâm hồn”.
Trong một bài viết khác, khi bàn về
tiểu thuyết, Thạch Lam có nhận xét thẳng thắn về sự nghèo nàn, hời hợt, nông
nổi bề ngoài, thiếu sâu sắc, dồi dào của tiểu thuyết Việt Nam hồi bấy giờ, bởi
trong những tác phẩm tự sự đó, nhà văn đã như người đi nhầm đường, không biết
nhận ra, đi sâu khai thác cái của quý vô hạn là tâm hồn con người (tâm hồn tác
giả, tâm hồn nhân vật), diễn tả nó ra, phân tích kỹ lưỡng và nghệ thuật những
biểu hiện, thay đổi của tâm hồn trong đời sống phồn tạp của con người ta. Ông
nhấn mạnh, cái mà văn học ta thiếu lúc này là nhận ra địa vị quan trọng của
việc khám phá những bí mật của thế giới bên trong con người, bởi chỉ ở đây mới
cho thấy nhà văn – qua công cụ ngôn ngữ đặc thù – đã nhìn sâu sắc vào cái phần
không dễ thấy của con người, đồng thời cũng cho thấy bản lĩnh độc lập và tâm
hồn thanh cao của người viết.
Thạch Lam khẳng định: “Tài năng không phải ở cách xếp đặt các câu văn, xếp đặt cốt truyện cho có mạch lạc; cái thực tài của nhà văn nguồn gốc ở chính tâm hồn nhà văn; một nghệ sĩ phải có một tâm hồn phong phú, những tình cảm dồi dào. Nếu không, nghệ sĩ đó chỉ là thợ văn khéo mà thôi”. (Theo dòng, Nxb. Đời nay, 1941)
Thạch Lam khẳng định: “Tài năng không phải ở cách xếp đặt các câu văn, xếp đặt cốt truyện cho có mạch lạc; cái thực tài của nhà văn nguồn gốc ở chính tâm hồn nhà văn; một nghệ sĩ phải có một tâm hồn phong phú, những tình cảm dồi dào. Nếu không, nghệ sĩ đó chỉ là thợ văn khéo mà thôi”. (Theo dòng, Nxb. Đời nay, 1941)
Trở lại ý kiến của Thạch Lam về Những
ngày thơ ấu. Ở đây, không phải ngẫu nhiên mà Thạch Lam nhận ra cái mới của
cây bút trẻ Nguyên Hồng đem lại cho văn học ta hồi ấy, ở chỗ qua tác phẩm của
thể tài người thật việc thật này, nhà văn đã khắc họa thành thực, truyền cảm,
sâu sắc và thấm thía đến tột cùng cái thế giới tâm linh tiềm ẩn, tế vi, cô đơn
mà hướng thiện trong một cá thể con người trẻ tuổi, sớm phải dấn thân vào đời
trong sự bủa vây khắc nghiệt của bao lề thói cũ, cùng hoàn cảnh bế tắc, bi đát,
bị dồn đến chân tường của mình và các thành viên chủ chốt của gia đình.
Cuốn hồi ký – tự truyện này có số
trang không nhiều, chỉ tương đương với một truyện vừa dưới 100 trang in. Xuôi
theo dòng hồi ức có chọn lọc của nhân vật tôi – cậu bé Hồng, tức tác giả thời
niên thiếu – nhớ và kể lại tuần tự những chuyện đã xảy ra còn ám ảnh hằn sâu
vào tâm trí mình cho đến nay, kể từ lúc cậu ta chào đời đến năm học giữa chừng
bậc tiểu học, không may bị thầy dạy hiểu nhầm, đánh đập tàn nhẫn, dùng hình
phạt sỉ nhục nhân cách học trò, khiến cậu phẫn chí buộc phải bỏ học. Qua từng
trang, tác giả mở ra một bức tranh với những chi tiết cụ thể, sống động về xã
hội thành thị tỉnh lẻ ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, cơ cực, khốn khó và
tăm tối cùng các mối quan hệ gia đình, quan hệ xã hội bị chiết tỏa bởi những
thành kiến nặng nề, phản nhân văn. Nhưng xuyên suốt tác phẩm, qua 9 mẩu hồi ức
được đặt tên nhấn mạnh các khía cạnh của chủ đề tác phẩm, nhà văn đã rọi chiếu
ánh sáng vào những mẩu sự kiện, chi tiết, ý nghĩ, cảm xúc của con người từ cái
nhìn nghệ thuật của cái tôi tác giả là một cậu bé, giúp người đọc thâm nhập sâu
vào những ngõ ngách, những biểu hiện tế vi của tâm lý, tình cảm con người.
Bằng ngôn ngữ biểu cảm, tự nhiên và chân thật, tác giả đã ghi lại những ấn tượng mạnh mẽ, cảm xúc, cảm nghĩ phức hợp của một cậu bé lặng lẽ quan sát, xét đoán về những người thân trong gia đình mình (bà nội, bố, mẹ, người cô); về những người hàng xóm, láng giềng, những bạn bè thân quen; về thầy bạn trong trường lớp. Một thế giới thu nhỏ được nhìn nhận, bình giá qua đôi mắt mở to với những ấn tượng mỗi ngày một nhiều lên, sâu thêm rồi “làm tổ” trong lòng cậu bé ấy – một sinh linh nhỏ bé nhưng cả nghĩ, có phần già trước tuổi.
Bằng ngôn ngữ biểu cảm, tự nhiên và chân thật, tác giả đã ghi lại những ấn tượng mạnh mẽ, cảm xúc, cảm nghĩ phức hợp của một cậu bé lặng lẽ quan sát, xét đoán về những người thân trong gia đình mình (bà nội, bố, mẹ, người cô); về những người hàng xóm, láng giềng, những bạn bè thân quen; về thầy bạn trong trường lớp. Một thế giới thu nhỏ được nhìn nhận, bình giá qua đôi mắt mở to với những ấn tượng mỗi ngày một nhiều lên, sâu thêm rồi “làm tổ” trong lòng cậu bé ấy – một sinh linh nhỏ bé nhưng cả nghĩ, có phần già trước tuổi.
Trong những hồi ký về sau kể về đời
văn của mình, Nguyên Hồng có cho biết thời trẻ trai lúc còn đi học và trong
thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) ông có được tiếp xúc và đọc một
số tác phẩm của L.Tônxtôi, V.Hugô, M.Gorky, H.Barbusse… qua bản tiếng Pháp,
trong đó có tự truyện Thời thơ ấu của M.Gorky. Tôi nghĩ, chắc hẳn câu
chuyện về thời niên thiếu của cậu bé Aliosa và bút pháp tự sự của M.Gorky trong
tự truyện Thời thơ ấu hẳn đã ít nhiều ảnh hưởng đến tư duy nghệ thuật và
bút pháp của Nguyên Hồng, bởi số phận bất hạnh của Aliosa và cậu bé Hồng ít
nhiều có những nét gần gũi, bởi “tạng” văn của Nguyên Hồng có những điểm tương
đồng với M.Gorky.
Thế là, đã hơn 70 năm trôi qua, kể
từ ngày Những ngày thơ ấu được xuất bản.
Tác phẩm được tái bản nhiều lần, vẫn
không thôi xúc động người đọc các thế hệ, gây ám ảnh khôn nguôi về sự cơ cực,
tủi hổ của những số phận con người nhỏ bé trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng
8/1945; sự tha hóa đáng thương cảm của con người sống mòn mỏi trong vòng vây
của một xã hội cũ còn tồn tại nhiều tệ nạn xấu xa, sự bất công, vô nhân đạo.
Nhưng vượt lên trên tất cả là chí khí, ý thức tu tỉnh, hướng thiện, bảo trọng
nhân cách của một con người trẻ tuổi có học, biết nghĩ, biết vươn lên trong mưu
sinh, khốn khó.
Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tư tưởng và bút pháp nghệ thuật của tác phẩm đã khiến tác phẩm tồn tại bền vững qua thử thách của thời gian. Sức sống mạnh mẽ, giọng điệu thống thiết, đằm thắm, tình cảm tươi mới, trẻ trung, lúc nào cũng biểu hiện ở cường độ cao, mãnh liệt, cảnh sắc rực rỡ, âm thanh náo động… trong văn Nguyên Hồng luôn có sức thu hút người đọc. Giáo sư Phan Cự Đệ, một chuyên gia nghiên cứu về Nguyên Hồng đã kể lại: “Tôi nhớ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường trung học, một lần phải dịch ra Pháp văn một đoạn trong Những ngày thơ ấu, cái đoạn nói về tiếng kèn. Đã bao năm qua rồi mà tôi vẫn không thể quên được cái tiếng kèn náo nức, dồn dập, rung vang đó”. (“Lời giới thiệu” Tuyển tập Nguyên Hồng, tập I, Nxb. Văn học, 1985, tr.33).
Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tư tưởng và bút pháp nghệ thuật của tác phẩm đã khiến tác phẩm tồn tại bền vững qua thử thách của thời gian. Sức sống mạnh mẽ, giọng điệu thống thiết, đằm thắm, tình cảm tươi mới, trẻ trung, lúc nào cũng biểu hiện ở cường độ cao, mãnh liệt, cảnh sắc rực rỡ, âm thanh náo động… trong văn Nguyên Hồng luôn có sức thu hút người đọc. Giáo sư Phan Cự Đệ, một chuyên gia nghiên cứu về Nguyên Hồng đã kể lại: “Tôi nhớ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường trung học, một lần phải dịch ra Pháp văn một đoạn trong Những ngày thơ ấu, cái đoạn nói về tiếng kèn. Đã bao năm qua rồi mà tôi vẫn không thể quên được cái tiếng kèn náo nức, dồn dập, rung vang đó”. (“Lời giới thiệu” Tuyển tập Nguyên Hồng, tập I, Nxb. Văn học, 1985, tr.33).
Nếu như trong văn học thế giới,
người ta ghi nhận J.J.Rutxô với Những lời bộc bạch (1782-1789) mở đầu
cho thể tài tự truyện, thì trong văn học Việt Nam hiện đại, phải chăng chúng ta
cần ghi nhận Nguyên Hồng với Những ngày thơ ấu đã mở đầu cho thể tài hồi
ký – tự truyện.
Kế sau Nguyên Hồng, ở các thời kỳ,
giai đoạn tiếp nối của lịch sử văn học Việt
Nam hiện đại, đã liên tiếp xuất hiện những tác phẩm hồi ký – tự
truyện sáng giá khác với dung lượng và phạm vi bao quát ngày càng mở rộng, bút
pháp phong phú và độc đáo. Có thể kể đến: Sống nhờ (1942) của Mạnh Phú
Tư; Cai (1944) của Vũ Bằng; Bước đường viết
văn (1970) của Nguyên Hồng; Đời viết văn của tôi (1970) của Nguyễn
Công Hoan; Hồi ký (1985) của Đặng Thai Mai; Những năm tháng ấy (1987)
của Vũ Ngọc Phan; Cát bụi chân ai (1990) của Tô Hoài; Bóng ngày qua (1999)
của Quách Tấn; Nhớ lại một thời (2000) của Tố Hữu; Từ bến sông Thương
(2002) của Anh Thơ; Cô bé nhìn mưa (2006) của Đặng Thị Hạnh; Năm
tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (2009) của Ma Văn Kháng v.v…
Hồi ký – tự truyện về thời thơ ấu,
về đời văn và nghề văn của các nhà văn Việt Nam hiện đại, đã làm phong phú và
sâu sắc thêm bức tranh về đời sống xã hội – lịch sử, văn hóa – văn nghệ, chân
dung văn nghệ sĩ và con người Việt Nam đương thời qua thăng trầm của lịch sử
dân tộc. Nó bộc lộ một cách trung thực bản lĩnh nghệ sĩ, nhân cách văn hóa,
những suy nghĩ, trăn trở tâm huyết của các thế hệ văn nghệ sĩ trước những vấn
đề lớn, nhỏ của lịch sử đất nước, vận mệnh con người và đặc thù, riêng tư về
nghề nghiệp mà suốt đời họ theo đuổi, cống hiến. Qua hồi ký – tự truyện của các
nhà văn, người đọc thấy rõ hơn sự gắn bó máu thịt giữa văn và đời, giữa tác
phẩm và sự kinh lịch, nếm trải trên mỗi bước đi của từng đời văn, nghiệp văn.
“Văn tức là người”; “Phong cách tức
là người”.
Hồi ký – tự truyện của các nhà văn đã mở ra một cách nhìn tham chiếu cần thiết
để người đọc và công chúng rộng rãi chia sẻ một cách tường minh, nhân ái và thể
tất về những cái được và những điều bất cập của những người cầm bút, những kỹ
sư tâm hồn, những con người dấn thân nhưng luôn luôn tự nhắc mình tìm cách đi
đúng đường vì đang “vác trên vai mình của quý vô hạn là những gói bạc vàng của
tâm hồn con người”, như nhà văn bậc thầy Thạch Lam đã từng nói. (*) /(*) Tham luận tại Hội nghị khoa học, kỷ niệm
95 năm ngày sinh nhà văn Nguyên Hồng do Hội Liên hiệp VHNT Hải Phòng phối hợp
với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại TP. Hải Phòng, đầu tháng 11/2013. Nguồn:
Bản tác giả gửi Phê bình văn học. Copyright © 2012-2013
- PHÊ BÌNH VĂN HỌC
TÓM TẮT
TỪNG CHƯƠNG “NHỮNG NGÀY THƠ ẤU”
Thu
Nguyen Ngoc
CHƯƠNG I : Tiếng kèn ….
Nhân vật tôi ( Nguyên Hồng )
sinh ra trong một gia đình khá giả. Người cha làm cai ngục, người mẹ là con gái
trong một gia đình buôn bán nhỏ. Họ lấy nhau vì gia đình 2 bên cưỡng ép chứ
không thật lòng thương yêu nhau.
Tình cảm vợ chồng ngày càng nhạt nhẽo đến nỗi người vợ có tình ý với cai H.- một cai tù thổi kèn trắng trẻo thư sinh, mà người chồng vẫn không thèm ghen tuông để ý, mặc kệ tiếng đồn gần xa trong gia đình, họ hàng, kẻ thân thuộc nhờ vả, kể cả khi bé Quế được sinh ra . Bé Hồng tuy còn nhỏ nhưng đã phải tiếp xúc với những giọng điệu soi mói, hằn học của họ hàng bên nội. Trong tâm trí bé Hồng sự ngây thơ bị xói mòn hàng ngày theo tiếng kèn sáng chiều bằng đủ lời châm chọc ác ý .
Tình cảm vợ chồng ngày càng nhạt nhẽo đến nỗi người vợ có tình ý với cai H.- một cai tù thổi kèn trắng trẻo thư sinh, mà người chồng vẫn không thèm ghen tuông để ý, mặc kệ tiếng đồn gần xa trong gia đình, họ hàng, kẻ thân thuộc nhờ vả, kể cả khi bé Quế được sinh ra . Bé Hồng tuy còn nhỏ nhưng đã phải tiếp xúc với những giọng điệu soi mói, hằn học của họ hàng bên nội. Trong tâm trí bé Hồng sự ngây thơ bị xói mòn hàng ngày theo tiếng kèn sáng chiều bằng đủ lời châm chọc ác ý .
Người cha bé Hồng bỏ việc nhà nước,
mang bàn đèn về nghiện ngập, không màng đến chuyện nhà cửa, vợ con …. Dẫn đễn
phải bán nhà từ đường, chia chác tài sản. Rồi ông bỏ nhà ra đi, không căn dặn
bất cứ chuyện gì. Bò lại hai đứa con thương nhớ cha qua việc hàng ngày mơ màng
cưỡi hai mảnh vỏ rùa cha để lại đi tìm cha không thiết đến chuyện học hành. Bỏ
lại người vợ tủi phận, lặng im. Bỏ lại người mẹ cả cuộc đời bị áp chế với những
quan niệm thành kiến, sống luôm thuộm với những đứa con còn sót lại sau 13 kì
sinh nở, chỉ biết kêu rên khi gia đình chia rẽ và chỉ ngồi cầu chúa thương xót
chúng con trong tâm trạng ngày càng khô cứng tuyệt vọng khi đứa con trai duy
nhất bỏ đi
Nhà càng ngày càng túng thiếu, đã buộc phải bán lần bán hồi các tài sản
trong nhà để mua thuốc phiện cho cha bé Hồng và các thứ sinh hoạt trong nhà.
Một người cha và một người mẹ tính tình khác nhau, không hiểu biết, không yêu
nhau và gần như khinh miệt nhau, mà phải gần gũi nhau trước hai đứa con nhỏ
nhởn nhơ ăn chơi và một người mẹ già đã ngoài tám mươi tuổi,. Những đêm lạnh mà
dài để mà thao thức lo toan, bàn tán, vun đắp cho nhà cho cửa cho tuổi già, cho
con cái là những đêm một người thiếp đi trong khói thuốc phiện, một người thì
âm thầm trằn trọc. Người thứ nhất chán ngán như không còn biết sống. Người thứ
hai câm lặng chua xót, thấy sự sống trong tình thương yêu con vẫn lạnh lẽo,
thiếu thốn, và cả hai đều thấm thía thấy rằng sẽ dần chết, chết vì chán ghét
đau đớn...
Mẹ bé Hồng đã dắt em Quế bỏ đi xa
sau những tháng ngày cực nhọc mà vẫn không thể gánh nổi gánh bàn đèn. Bé Hồng
ăn cắp tiền mua thuốc phiện và hàng ngày lê la trên các con phố để đánh đáo ăn
tiền, và dần dần thành một tay đánh đáo sành sỏi. Vì thiếu thuốc, cha bé Hồng
đã bắt bé Hồng đưa tiền mua thuốc mặc kệ cái nhìn uất ức và khinh rẻ của đứa
con...
Sau khi bố mất, mẹ bé Hồng bỏ đi tha
hương cầu thực, để bé sống trong sự lạnh lùng, cay nghiệt của họ hàng. Một hôm,
người cô hỏi bé Hồng có muốn vào Thanh Hóa thăm mẹ không, bé toan trả lời có
nhưng chợt nghĩ đến giọng nói rất kịch và nụ cười xảo trá nên đành im lặng. Chú
bé Hồng biết rằng khi nhắc đến mẹ mình, bà cô chỉ muốn gieo rắc vào đầu chú
những hoài nghi để "khinh ghét, ruồng rẫy" mẹ. Khi đứa bé khốn khổ
sắp khóc, bà cô còn vỗ vai tươi cười: "Mẹ mày phát tài lắm, có như dạo
trước đâu". Những lời nói ấy không thể làm bé Hồng ghét mẹ, ngược lại chú
càng hiểu và cảm thông cho mẹ hơn. Chú bé căm phẫn những cổ tục đọa dày mẹ và
muốn "vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát mới thôi".
Đến ngày giỗ thầy, mẹ bé Hồng về đem nhiều quà bánh cho bé. Tan trường, khi
thoáng thấy bóng một người ngồi trên xe kéo trong giống mẹ, chú bé đã chạy theo
í ới gọi to. Người mẹ tươi cười ôm lấy con mình, cho chú ngồi vào lòng. Trên
đường về nhà, trong hơi ấm của mẹ, chú chẳng mảy may để ý đến những lời nói
thâm độc của bà cô...
Mẹ bé Hồng lại bỏ đi xa để buôn bán,
để lại hi vọng cho 2 đứa trẻ là sẽ về mua quà bánh, cho tiền chúng vào ngày
Noel. Hai đứa trẻ không ai quản, nhởn nhơ chơi đùa, Quế săn đón bạn học cũ xin
tiền tranh mua quà bánh, Hồng lang thang đầu đường xó chợ đánh đáo ăn tiền….
Vào ngày Noel, bé Hồng nhìn thấy sự
phân biệt của bọn Tây đầm, của những người dự lễ nên bỏ nhà thờ đi chơi
Và đám tang của cha bé Hồng vào ngày
rằm tháng tám chỉ có hai đứa bé theo sau là khóc thật sự
Nhật kí của
bé Hồng những ngày cơ cực, bị họ hàng khinh rẻ chèn ép, bị chửi mắng vì mẹ đĩ
theo giai, bị đối xử bất công, ăn uống thiếu thốn… khi bị buộc phải ở nhờ nhà
cô ruột
Xen vào đó là những giấc mơ hạnh
phúc, trong sáng : Hồng và em Quế chơi trò chơi hai nhà mạo hiểm với một cái rổ con đựng bỏng cốm, khoai lang, lạc
rang và bánh khảo. một rổ to đầy những vỏ hến, hộp thuốc phiện, ống sữa bò hạng
nhỏ, dao, thớt con và những đôi đũa bằng những que tăm, chúng chơi trò chơi
trong tình thân thiện , hi sinh. Và một giấc mơ của tuổi mới lớn : đi bên cạnh
một cô bé tên Thu, một cô bé học trò mảnh dẻ dịu dàng sau một tình huống làm
quen bất ngờ
Mẹ Hồng hỏi Hồng về việc đưa em bé
về. Thái độ của Hồngbật lên rất nhanh:
-Mợ không sợ ai hết! Mợ cứ đường hoàng đưa em về.
-Mợ không sợ ai hết! Mợ cứ đường hoàng đưa em về.
Không có
ai chăm sóc, bé Hồng lang thang ngoài đường và sa vào nghiện đánh đáo ăn tiền,
Hồng phát minh ra cách đánh đáo mới, kiếm được nhiều tiền xu với đồng xu cái mà
cậu cho rằng là đồng xu quý giá hơn bất kì kho tàng nào
CHƯƠNG VIII
: Sa ngã
Hồng ngày
càng sống du đãng hơn khi trong căn phòng nhỏ ở nhờ của cậu càng thiếu vắng
tình thương. Hồng đã biết trêu tức bà nội già khi bị chửi mắng, biết cách trả
đòn khi bị cô cạnh khóe người mẹ bỏ xứ ra đi … Hồng đã chung đụng với tụi trẻ
lêu lổng mất dạy. ăn cánh với các đứa gian ngoan, ngạo ngược, bóc lột những đứa
khờ khệch bằng các môn đáo, những đứa mà đời du đãng chưa dạy cho biết những
mánh khóe ranh mãnh. Trong tâm trí cậu chỉ là “ những đồng trinh la liệt trên
mặt dất, những quân bài dở dằn xuống vất lên và những tiếng tiền reo sang sảng
trong chiếc bát sắt và đĩa sắt. Được thua không cần tính toán gì cả. Phải lăn
vào mà chơi đã! Sáng sớm, giữa trưa, chiều, khuya... no, đói, bài học thuộc hay
không, bài làm chậm trễ đúng hay sai... bà tôi, nhà cửa, thầy giáo, giờ học,
cuộc thi hàng tháng, điểm đức dục... tôi không hề nghĩ đến. Tất cả hình ảnh ở
trước mắt tôi, và trong trí tưởng chỉ là ngoài đường, đám đáo, đám bạc và rạp
hát, rạp chiếu bóng...”
Hồng bị thầy
giáo đánh oan bởi một lầm lỗi không do cậu gây ra trước lớp. Bị phạt quỳ và bị
đối xử không công bằng, Hồng đã bỏ lớp ra ngoài sau những cố gắng chuộc lỗi
….























Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét