Từ điển cười bằng thơ: Cõi lạ của Phạm Thiên Thư
Vừa qua, Trung tâm
Sách và Kỷ lục Việt Nam đã trao kỷ lục về người đầu tiên viết Từ điển cười bằng
thơ cho nhà thơ Phạm Thiên Thư. Đây là cuốn sách ông viết gần một nửa cuộc đời,
với 5.000 ngữ nghĩa vui để “cười mà đẩy tâm bệnh”.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư
Phạm Thiên Thư-vị ẩn tu trong tập trường thi
Động hoa vàng có khuôn mặt cười, miệng rồng, mũi lân. Ông nói cười hồn nhiên
như một cọng cỏ. Nếu gặp ông giữa đường, hẳn ta sẽ nhăn trán: “Tác giả của Động
hoa vàng, của Đoạn trường vô thanh?”.
Nhưng lạ thế. Ông bảo cuộc đời ông như sống một
cõi nào đó, không cho bản thân ông. Tất cả đều tươi, đều sinh sôi từ tâm hồn
đến ngoại hình và không quan trọng bất cứ điều gì kể cả những lúc đau khổ nhất.
Chưa bao giờ ông lên kế hoạch làm việc trước, có khi chỉ sau một cơn mơ hay một
điều gì thú vị, ngồi viết một mạch...
Vậy đấy. Mười bài Đạo ca mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ
nhạc, ông chỉ viết trong 2 ngày. Tập trường thi Động hoa vàng cũng chỉ 7 ngày
liền động bút. “Quái” hơn, sau vài đêm, một bài thơ “bát quái” ông đã đọc ra
được 50.000 câu...
Từ điển cười
Nhưng cuốn Từ điển cười (tên Hán tự là Tiếu liệu
pháp), lại là “ngoại lệ”. Gần như, đó là sự nhặt nhạnh từ trí não những khái
niệm cụ thể trong một kiểu tư duy vô thức, được diễn đạt bằng ngôn ngữ rất dân
dã. Ông như người chăm chú lại giữa những lúc hồn nhiên, theo một chuỗi thời
gian gần nửa đời người để tập trung được cuốn từ điển độc đáo có một không hai
trong lịch sử Việt Nam này.
Mới chỉ dừng lại ở A-B-C mà đã ngót nghét nghìn
trang, mỗi một khái niệm được diễn đạt bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Những
khái niệm qua tư duy của Phạm Thiên Thư khá dí dỏm, đọc cứ phải lăn ra mà cười,
có cái cười... vỡ bụng, nhưng cũng có cái cười ra nước mắt...
Cười không chỉ ở cách lý giải, mà cười ngay cả
cái ngoại diễn của một khái niệm. Ví dụ, trong các kiểu chửi, ông đưa ra những
loại chửi thoạt nghe đã phải tò mò: chửi quang minh chính đại, chửi... mẹ đĩ,
chửi ngọng nghịu, chửi ong óng... và một kiểu chửi nữa có lẽ chỉ người Việt Nam mới
có- chửi hoài niệm:
“Sư bố thằng kia lên gối bà
Nghe lời con đĩ đánh bà nha
Xưa mày bám cứng dai như đỉa
Biết thế thừa... để chó tha”.
Đọc hết cuốn từ điển, cái để cười nữa là: tác
giả moi đâu ra mà lắm khái niệm thế. Cái nào cũng được lý giải một cách thấu
đáo theo lối tư duy hài hước quen thuộc như những vần thơ trào phúng của văn
học dân gian Việt Nam. Tính riêng các khái niệm “chửi” cũng đến con số
180, “chết” có 200 kiểu chết, “cười” có 200 kiểu cười, “chó” cũng đến hơn 60
loại và kiểu chó...
Thực ra cuốn từ điển này, ông viết ra nó, ban
đầu cũng chỉ có ý định khuấy động một lối tư duy ngôn ngữ trong chính bản thân
mình, cười để đẩy những tâm bệnh trong mình. Nhưng những năm gần đây, giới trẻ
Việt Nam đang rơi vào tình trạng “thiếu” ngôn ngữ, không chỉ trong giao tiếp
thông thường mà còn cả trong văn chương nữa, nên ông hy vọng tác phẩm của ông
sẽ khuấy động một chút nhỏ thôi, ngôn ngữ trong cuộc đời...
Đâu chỉ một kỷ lục...
Một con người hồn nhiên như tiền kiếp ấy, lại là
một nhà thơ với những “kỷ lục” đáng giật mình. Từ điển cười thực ra chỉ là một
trong những kỷ lục của cuộc đời ông. Nếu tính sơ sơ, ông còn 4 kỷ lục nữa chưa
mấy ai biết tới.
Một tác phẩm song song với Từ điển cười về thời
gian sáng tác nhưng khối lượng thì đồ sộ hơn, đó là cuốn Từ điển châm ngôn.
Cuốn sách sẽ ra mắt bạn đọc thời gian tới và hứa hẹn sẽ lạ nhất Việt Nam.
Thế là bên cạnh nụ cười chắt lọc trong đời, nhà thơ họ Phạm dành những 50.000
khái niệm lời hay ý đẹp...
Nhà thơ 68 tuổi này đang “đội trên đầu” 20.000
câu thơ lục bát của chính mình. Có người cho rằng Nguyễn Du đã ghi vào sổ kỷ
lục Việt Nam hơn 3.000 câu lục bát của Truyện Kiều, nhưng thực tế nhìn vào con
số trên thì kỷ lục của cụ Nguyễn Tiên Điền đã bị... phá!
Nhắc đến cụ Nguyễn Du lại nhớ đến một... kỷ lục
nữa của “hậu thế” Phạm Thiên Thư-ông là người viết tiếp hậu Truyện Kiều. Truyện
Kiều của Nguyễn Du là Đoạn trường tân thanh thì phần viết tiếp của Phạm Thiên
Thư là Đoạn trường vô thanh, với số lượng nhiều hơn của bậc tiền nhân 20 câu...
Đây là trường hợp duy nhất của văn học Việt Nam, sau 200 năm có người mạnh
dạn viết tiếp Truyện Kiều.
Và hẳn, cụ Thanh Tâm Tài Nhân khó mà trách được
bậc hậu duệ của cụ Nguyễn Du nữa về vay mượn cốt truyện, khi mà nàng Kiều trong
Đoạn trường vô thanh là “Việt 100%” và cái cốt truyện cũng hấp dẫn đâu có thua
kém gì Kim Vân Kiều theo sự đánh giá của một số nhà phê bình văn học nổi tiếng!
Điều này, cũng có lẽ là độc nhất Việt Nam,
khi 7 bộ kinh Phật giáo đã được chuyển thành thơ với một lối ngôn ngữ thuần
Việt. Nội dung, đương nhiên vẫn là kinh Phật nhưng những địa danh trong kinh
Phật đã được đổi thành những địa danh của Việt Nam. Phạm Thiên Thư-người
chuyển đổi - chỉ có một suy nghĩ rất giản dị: Muốn người Việt thấm kinh Phật
theo kiểu của người Việt. Và không riêng gì cứ phải mặc áo cà sa, những nông
dân lam lũ bình dị cũng có thể có được kinh thư trong chính mình...
Mấy độ hoa vàng...
Nhà thơ Phạm Thiên Thư tên thật là Phạm Kim
Long, sinh năm 1940, trong một gia đình bố mẹ làm nghề bốc thuốc nhưng thích
thơ văn. Tuổi thơ của ông khá êm đềm. Những điều đó chỉ cho ông được những tiền
đề thuận lợi, nhưng để một tài thơ bật hẳn lên thì phải là từ năm 1958, sau một
biến động của cuộc đời...
Chuyện là ông có nhóm bạn thơ họa Hồ Quý Ly, tụ
tập đàn đúm thơ phú đêm ngày. Thấy đám văn nghệ sĩ này cứ “ương ương dở dở”,
cảnh sát chế độ Sài Gòn cũ đã vây bắt. Ông phải ẩn tu vào một ngôi chùa. Đi tu,
thực ra với ông không hẳn là tìm một chốn nương náu, mà ông ngộ ra một điều,
ông đã tự tìm cho mình một cõi riêng, một kiểu tu hành riêng...
Ông viết Động hoa vàng những ngày đầu ngấm giáo
lý nhà Phật, như đánh dấu mình vào một cõi của chính mình trong thi đàn. Dĩ
nhiên, Động hoa vàng chưa hẳn là tác phẩm xuất sắc nhất trong đời viết của Phạm
Thiên Thư nhưng nó đã làm nên một “thương hiệu” của Phạm Thiên Thư. Những câu
thơ đẩy cái đạo đời bềnh bồng trên cõi Phật, làm hiện hữu cái cuộc đời đáng
sống trên cái mênh mang bao la của phù vân hư ảo:
“Đợi nhau tàn cuộc hoa này
Tìm trang lệ ố hàng thơ
Chữ xưa quyên giục bây giờ chim đi...”.
Nhiều người đã hiểu sai, cho rằng Phạm Thiên Thư
đi tu mà lòng vẫn hướng về cõi tục. Ông chỉ cười: “Tôi tu theo cách của mình,
tu để sống cuộc đời của mình, nuôi dưỡng lối tư duy và trí tuệ của mình”. Quả
thực là từ cõi Phật, ông đã làm được những điều đáng nể: thi hóa kinh Phật,
sáng tác những thi phẩm hay và đẹp thuộc diện hiếm hoi trong văn học Việt Nam.
Gần đây, có người đã tìm lại được nguyên mẫu của
bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị (nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc), hiện đang sống tại Mỹ,
đó là bà Hoàng Thị Ngọ. Với những thông tin cần thiết về nhân vật đó, ông khẳng
định đúng là nguyên mẫu của hơn 40 năm trước.
Nhưng chỉ có điều, “nguyên mẫu” cho rằng cái anh
nhà thơ năm xưa ngày nào cũng “theo Ngọ về” trên con đường bụi đỏ đã yêu cô một
cách đơn phương và vì không lấy được cô để rồi phải vào chùa ẩn tu, thì đó là
điều... không chính xác.
Hoàng Thị Ngọ chỉ là một nhân vật thơ, thoáng
qua như một nỗi nhớ để nâng tứ thơ lên. “Tôi chưa từng mê mẩn một ai để đến mức
đau khổ. Cái hay nhất của đời tôi là đã đẩy được những khổ đau khi nó ngấp nghé
đến xa xa sau những bước chân mình...”. Và cái thực tế là, hình ảnh Ngọ đi qua
những câu thơ pha lê ấy, chỉ để gợi lên một nỗi dâu bể của bụi bặm cuộc đời,
trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt.
Với 126.000 câu thơ và nhiều công trình nghiên
cứu, thi sĩ Phạm Thiên Thư đã để lại cho đời một nét duyên trong một cõi lạ của
thi mệnh, độc đáo nhưng rất Việt. Một điều rất lạ, tất cả những tác phẩm ấy,
ông đều viết bằng tư duy vô thức.
(Theo NLĐ)
Tuổi
Trẻ Cười
|
Thứ Tư, 29/06/2005
“Từ điển Cười” của Phạm Thiên Thư
TTC - Phạm Thiên Thư -
nhà thơ của tình yêu - với “Ngày xưa Hoàng Thị”, “Động hoa vàng”, “Đoạn
trường vô thanh” thời trai trẻ; khi về... già bỗng dưng lại soạn tập thơ “Từ
điển Cười” từ A đến Z. Xin giới thiệu một chùm thơ ngắn, định nghĩa về
những nụ cười của ông...
Cười hề
Cuộc đời đánh giá chưa
đúng mức
Nghề cười - văn học ít bút mực
Hài, hề - đánh giá hơi tầm thường
Viết pho thơ cười - cho cân sức.
Cười Hồ Xuân Hương
Chị vượt đèo Ba, vượt
với ai (*)
Ba chân cùng tới - mệt lăn nhoài
Người đè bẹp chị ra tờ giấy
“Sư đáo nơi neo” - chị cũng hay.
Cười
Cười - Khi nhếch
mép
phát ra tiếng
Thể chảy nước mắt, thể xiểng liểng
Cười là giải tỏa mọi khổ đau
Cười mỉa - xé tim ra từng miểng.
Cười anh
Hai Cù Nèo
Anh lộn hay sao - Dụng cái “nèo”!
Hòng ghìm chân cọp, trói chân heo
Hay cù mông khỉ, rung cây chín
Anh lộn hay sao - Dụng cái nèo?
Cười khanh khách
Trẻ con bị cù - cười
khanh khách
Cụ già bị cù - cười khành khạch
Nghĩa là cái cười do tay cù
Nhưng ngoáy vào tim - giẫy đành đạch!
Cười một mình
Nụ cười khi viết Từ
điển Cười
Méo mó nhìn chung - viết riễu chơi
Ai có nhìn qua - hẳn thắc mắc
Cha này không mát, cũng hâm hơi!
Cười mình
Cười mình là thứ cười
đạt nhất
Cứ tưởng mình ngon mới đánh vật
Con tạo chế ra làm đồ chơi
Hà cớ trăm năm phải tất bật.
Cười Tú Xương
Phong kiến, thực dân -
bị cụ chọc
Tây rành chữ Nôm - nó mà đọc
Nó lần từng cái xương cụ ra
Không biết cụ cười, hay cụ khóc?
Cười Tú Mỡ
Bút hiệu Tú Mỡ - hẳn
ngài béo
Đời tức thơ ngài - tất muốn xẻo
Ngài khôn giấu nhẹm cái chuôi gân
Nó túm xẻo ngay - là ngài “nghẻo”.
Cười Yên Đỗ
Đỗ đến Tam Nguyên -
còn léng phéng
Ôm gái mười lăm - ngồi đánh chén
“Bạch phát, hồng nhan” - ái ngại gì
Qua mặt Lang Sa - không nó “phẻng”!
Cười dzãn thần kinh
Cười kiểu chi - đều
cùng thoải mái
Nhẹ mình - giúp người thắng trở ngại
Mình vui, đời vui - bớt thuốc thang
Tiếc chi nụ cười - không giải đại.
Cười bợ đỡ
Cười thụt đầu lại
trước mặt chủ
Người cười “hướng thượng”
thường mập ú
Nhưng khi “hướng hạ” -
Khẽ nhếch môi
Ưỡn ngực lạnh lùng như mắt cú.
Cười Ba Giai
Ba Giai, Tú Xuất - Tổ
sư tiếu
Mang chính đời mình ra chế riễu
Hơn hẳn “Sạc-lô” - ở phim trường
Bữa nhậu - kiếng ông vài củ kiệu.
Cười Ba Phi
Cười kiểu phịa chuyện
nhất Ba Phi
Có lẽ tôn lên Tổ thứ nhì
Chuyện tiếu hiền lành như cục đất
Đôi khi đăng đắng chất khoai mì.
Cười Bút Tre
Cười kiểu văn học tính
tập thể
Thành một “tiếu phong” đầy khí thế
Chữ nghĩa bỏ dấu ghép thành thơ
Bỏ bồ ông mang - nặng “hỏ hẹ”
(bỏ mẹ)!
Cười châm chọc
Kiểu cười của tay rành
châm kíu
Phóng đúng yếu huyệt - môi hơi bĩu
Đối phương uất khí - tức lồng lên
Hoặc đổ kềnh ra - chuyển cấp cứu.
Cười cô Tú
(Quán Mắc Cỡ)
Uyên bác như cô hẳn ế chồng
Hay là dân đực chán làm ông
Thấy bên tòa soạn - đống cỏ dại
Thiếu vệ sinh đời - đổ mất công.
(*): “Một đèo, một
đèo, lại một đèo” -Thơ Hồ Xuân Hương.
|














Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét